Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT- TẬP 1-5

lại nổi lên ầm ầm, phiền não đau khổ vẫn còn,
tu mãi tu hoài mà sao không hết được?
Ngồi Thiền 7, 8 tiếng đồng hồ cho đến 11,
12 tiếng đều được, nhưng ngồi 1, 2 ngày thì lại
không được.
Tại sao vậy?
Tại vì, không có pháp hành và tu tập
không đúng pháp, nên kết quả không có, tu tập
dậm chân tại chỗ, nhưng đã lỡ tu, lỡ dạy người
khác, bây giờ biết ăn làm sao, nói làm sao? Đó
là những Thầy lớn, nói ra thì mất danh mất
lợi, nói ra khó nói quá, tiến thối lưỡng nan,
thôi mặc kệ tới đâu hay tới đó, cứ nhắm mắt
làm liều, còn các Thầy nhỏ thì đã lỡ rồi, ra đời
thì sợ người ta chê cười, mà tu thì chẳng đến
đâu, cứ dối gạt Phật tử mà sống bằng cách
thuyết giảng, nay kinh này mai kinh khác, như
trao đổi thực phẩm để người ta dễ ăn dễ nuốt,
thường dùng những lối lý luận mơ hồ trừu
tượng bằng những pháp huyền, pháp thoại ở
đầu môi chót lưỡi, loanh quanh nghĩa lý nhai
lại của các Tổ xưa có bấy nhiêu, cứ lặp đi lặp
lại, thêm mắm dậm muối làm có vẻ mới mẻ để
lừa đảo người, cho nên có người bảo: ‚Coi
chừng bị lưỡi lừa của ông ta”.
Những ai đã gõ cửa đúng của đạo Phật, thì
ngay đó, có sự giải thoát liền, chiêm nghiệm
được sự giải thoát đó, một cách cụ thể.
Vả lại, khi bước chân vào đạo Phật chúng
ta thấy sự tu tập rất cụ thể, giải thoát rõ ràng
không có mơ hồ, vì pháp thiện và pháp ác, ai
cũng có thể dễ nhận ra. Nói như vậy, có nghĩa
là những người nào đã học xong đạo đức nhân
quả thì mới dễ nhận ra pháp ác và pháp thiện.
Tu hành của đạo Phật tức là sống, sống thiện
là giải thoát, sống ác là đau khổ.
Đổi nghề nghiệp ác làm nghề nghiệp
thiện, nếu biết tư duy quán xét ngay liền có
một tâm hồn yên vui, an lạc không những một
mình mà cả gia đình. Nhất là, những người
biết thiểu dục tri túc thì sự yên vui hạnh phúc
lại càng gia tăng gấp bội.
Những ai đã tin sâu nhân quả và đã học
được đạo đức nhân bản – nhân quả thì sẽ
chứng nghiệm phước báo rất rõ ràng, dù người
đó không cầu mong điều gì, cứ hân hoan sung
sướng làm việc thiện thì luật nhân quả sẽ đem
phước báo đến cho họ và họ luôn luôn hưởng
trọn đầy hạnh phúc của cuộc sống. Đối với
những người này ác pháp đến với họ như nước
đổ trên lá khoai môn.

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
ĐẠO VÀ ĐỜI
Muốnthành tựu được lòng tin tịnh
tính sâu sắc, quý vị phải suy nghĩ cho kỹ và so
sánh giữa cuộc sống “Đời” và cuộc sống “Đạo”.
Đời có cuộc sống theo Đời, Đạo có cuộc sống
theo Đạo.
Sự sống theo Đạo là đi ngượ c lại sự sống
theo Đời, Đạo thì buông xả ra, Đời thì ôm lấy
vào, cho nên quý vị đừng tưởng cuộc sống Đời
và cuộc sống Đạo giống nhau.
Không! Hoàn toàn không! Không giống
nhau một chút nào cả. Người tu sĩ đạo Phật có
cuộc sống như thế gian, nghĩa là có vợ, có con,
sống chạy theo danh lợi, ăn ngủ phi thời, là
những người cư sĩ trọc đầu, chứ không phải là
một vị Tỳ kheo xuất gia đệ tử của đức Phật, họ
diệt Phật giáo chết cũng giống như trùng trong
lông sư tử sẽ diệt sư tử.
Người tu sĩ Phật giáo sống như người thế
gian ăn ngủ phi thời, không buông xả vật chất,
tâm dễ dính mắc sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Ngũ triền cái luôn luôn che mờ trí tuệ
họ, Thất kiết sử thường trói buộc như dây xích
sắt khiến họ khó vẫy vùng, nên họ đã trở
thành Ma Ba Tuần.
Vì thế, làm sao sống đúng Phạm hạnh, ly
dục ly ác pháp được? Làm sao nhập Tứ Thánh
Định, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi
được? Làm sao nhập Định Vô Lậu xả tâm diệt
ngã chấm dứt khổ đau? Làm sao nhập Định
Bất Động Tâm sống thanh thản, an lạc và vô
sự?
Nếu một người tu sĩ mà còn có lối sống
như thế gian thì không thể nào tu hành theo
đạo Phật được, đó là những kẻ mượn chiếc áo
Phật giáo tìm miếng cơm để sống, sống như
vậy là sống một cách hèn hạ, chỉ biết lừa đảo
tín đồ mê muội để sống bằng mồ hôi nước mắt
của người khác, thật là đáng khinh bỉ.
Có người lầm hiểu đạo Phật cho rằng, chỉ
cần biết được pháp môn tu tập, chớ không phải
do sự sống đúng Phạm hạnh. Hiểu như vậy là
hiểu sai, hiểu như vậy có nghĩa là sự sống và sự
tu tập là hai lối khác nhau: niệm Phật , tụng
kinh, bái sám, niệm chú, ngồi Thiền trước điện
Phật có ăn nhập gì vào cuộc sống đâu? Đó là,
cái hiểu về tu hành nông cạn, của những người
tâm còn tham đắm quá nhiều vật chất, đời
không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm.
Đạo Phật vốn tu nghĩa là sống, sống biết
sửa sai, sửa quấy những lỗi lầm, biết ngăn chặn
không làm những điều ác, biết xa lìa mọi cám
dỗ vật chất thế gian, biết tiết độ trong ăn uống
ngủ nghỉ. Biết thiểu dục tri túc đối với đời
sống, biết phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân,
ý của mình, biết giữ chánh niệm để tâm được
thanh thản, an lạc và vô sự.
Lấy cuộc sống Đạo của những bậc chân tu
đem so sánh với cuộc sống người thế gian, bên
nào khổ, bên nào thoát khổ.
Khi đã so sánh như vậy, ta mới thấy đời
sống con người thật khổ, khổ như thật, đời
sống xuất gia tu hành phóng khoáng như hư
không, không gì trói buộc được, không gì làm
động đến tâm họ được.
Khi đã thấu rõ cả hai cuộc sống ta mới
quyết định chọn một trong hai con đường này.
Nếu không so sánh, không thể thấu rõ, mà vội
vàng chọn lấy con đường tu thì e rằng chúng ta
nông nổi, bồng bột, đến chừng vào Đạo đã trở
thành một tu sĩ thì chừng đó tiến thối lưỡng
nan.
Đời sống Đạo rất khó, không phải dễ như
mọi người lầm tưởng. Rồi đây, cuộc sống Đạo
chẳng ra Đạo, Đời chẳng ra Đời, chết cũng dở,
sống cũng dở.
Lấy cuộc sống của mọi người mà suy ngẫm
cuộc sống của mình. Đời sống trong gia đình
đầy rẫy những triền phược, biết bao dây mơ rễ
má trói buộc, biết bao nhiêu vật chất cám dỗ và
lôi cuốn vào đường tội ác. Đường đời đầy dẫy ô
nhiễm và uế trược, biết bao chông gai và hố
thẳm của ác pháp đang chờ đón, càng suy
ngẫm chúng ta mới thấy rằng, đời sống con
người sinh ra là để khổ, khổ thật.
Chúng ta mới lớn lên chưa lập gia đình,
đời còn tươi đẹp giống như một giấc mơ, ăn rồi
đi học, chẳng lo nghĩ gì hết, đói no có cha mẹ
lo, đến khi lớn lên một chút, biết ham muốn,
biết xài tiền, biết ăn chơi vui đùa, chớ chưa biết
khổ là gì nên thường rủ rê bạn bè uống rượu, cờ
bạc rồi đánh nhau, hoặc đua xe gắn máy, gây
tai nạn giao thông, gãy chân, gãy tay, có khi
mất mạng. Bây giờ, mới thấy khổ nhưng cái
khổ đó có thấm vào đâu.
Đến khi lập gia đình, chừng đó mới thấy
cái khổ của đời sống con người: vợ con, tiền
bạc, nhà cửa và những vật dụng tiêu thụ hàng
ngày.
Khi cha mẹ còn sống, có thiếu hụt cái gì
thì ông bà giúp đỡ cho, đến khi cha mẹ mất,
chẳng còn ai giúp đỡ, tự mình phải lo lấy cuộc
sống của mình, trên vai chất gánh nặng phải lo
toan đủ thứ, thế mà vợ con đâu biết, nên đâu
phải lúc nào cũng ngọt ngào với mình, vợ con
cũng phải có những tư tưởng riêng, lối sống ưa
thích riêng do những đặc trưng riêng biệt,
mình cũng vậy. Cho nên, sống với nhau đâu
phải lúc nào cũng hợp nhau được.
Do sự khác biệt đó, nên trong nhà thường
có sự lục đục, rầy rà trái ý nhau, làm cho tâm
mình bất toại nguyện, phiền não, chớ đâu phải
sung sướng gì. Nếu không nhẫn nhục, tùy
thuận với nhau thì gia đình là một địa ngục tại
trần gian, càng tư duy suy nghĩ, ta càng thấy
đời sống khổ đau, quá khổ, không có gì là hạnh
phúc nhưng nó lại trói buộc chặt hơn bất cứ
một thứ gì. Chẳng hạn, đang sống chung với
nhau có một người chết, thử hỏi những người
còn sống có buồn khổ không? Chắc chắn, không
ai là không đau khổ. Hai vợ chồng ngồi trong
mâm cơm vừa ăn vừa nói chuyện hàng xóm, rốt
cuộc gây gổ nhau thì thử hỏi có vui sướng gì
không? Thấy thế, đời sống có vui sướng gì? Hai
vợ chồng sống chung với nhau không tiền
không bạc, vợ thì ham muốn cái này cái kia, do
đó vợ chồng cãi cọ hờn giận nhau, thế mới biết
đời khổ, khổ mọi điều, nhưng ở đời người ta
đâu biết, đâu thấy cái khổ đó, người ta chỉ thấy
cái ảo ảnh bề ngoài tưởng là hạnh phúc như đôi
vợ chồng trẻ ngồi trên chiếc xe hơi bóng loáng,
hoặc trên chiếc xe Honda, hình ảnh này thật là
hạnh phúc nhưng lòng dạ họ đang khổ nào ai
biết. Một người nghèo nói: “Tôi nghèo không có
cơm ăn áo mặc, tôi quá khổ”, nhưng người giàu
có lại nói: “Tôi có tiền có bạc, tôi lại còn khổ
hơn nữa, tôi ngủ không yên sợ trộm cắp”. Đó là,
mọi thứ khổ đau ưu não của cuộc đời.
Ở gần nhau con gà, con vịt, con chó, con
heo qua lại đã xảy ra những trận gây gổ, làm
náo loạn cả xóm làng, con cái chơi giỡn với
nhau, vì bênh con đã xảy ra chuyện lớn, kẻ đi
tù, người nằm nhà thương, còn hai gia đình thì
hận nhau mãi, chuyện nhỏ mọn lặt vặt đó, đã
khiến cho đời người bất an, bất toại nguyện.
Nhìn lại, đời sống xuất gia phóng khoáng
như hư không, không có một vật gì trói buộc,
không có một hoàn cảnh nào làm dao động
tâm, tâm hồn rộng lớn như đất trời, bao dung
tất cả mọi thứ, dơ xấu bất tịnh cũng chẳng
buồn, tốt đẹp quý báu như vàng bạc ngọc ngà
cũng chẳng mừng vui.
Bởi vậy, thật khó cho những người còn
sống ở trong gia đình không thể thực hiện sống
theo pháp hạnh đầy đủ hoàn toàn, trắng bạch
như vỏ ốc của những người xuất gia.
Đem so sánh giữa hai đời sống thế gian và
xuất thế gian. Đời sống thế gian suốt đời nô lệ
cho vật chất, đời sống xuất thế gian hoàn toàn
cởi bỏ ách nô lệ vật chất, vì thế nên không còn
một vật gì hết, chỉ còn ba y một bát, tối ngủ
yên giấc, không sợ trộm cắp gì cả, khôn g sợ hư
hao gì hết, bởi vì còn có gì nữa đâu mà hư hao,
nhà cửa cũng không, gia đình cũng không, lấy
gì mà sợ vợ đói, con khát. Cuộc sống người xuất
gia là như vậy nên tâm hồn an vui thanh thản
và hoàn toàn hạnh phúc, tâ m hồn trong trắng
như vỏ ốc, không có vật gì làm hoen ố, ác pháp
không làm dao động được tâm.
Họ sống độc cư, độc bộ, độc hành nhưng
lại biết hòa mình trong mọi cuộc sống của
người khác bằng đức nhẫn nhục, tùy thuận,
bằng lòng.
Từ chiếc áo của người cư sĩ chúng ta đem
so sánh với chiếc áo của người xuất gia, ta
nhận xét, người cư sĩ tu theo đạo Phật hoàn
toàn khó giải thoát như người xuất gia, chỉ giải
quyết được cuộc sống bằng Thiện pháp và
không thể thực hiện được sự làm chủ sống chết
bằng Thiền định.
Khi quán triệt cuộc sống Đời và Đạo, ta
mới thấu rõ người tu sĩ đạo Phật không thể
sống theo dục lạc thế gian, không thể sống có
vật chất tài sản được, phải xa lìa viễn ly tất cả,
buông bỏ xuống hết, không chùa to tháp lớn,
không ti-vi, tủ lạnh, không xe hơi, xe cúp,
không điện thoại di động v.v.. sống đời thiểu
dục tri túc, ba y một bát, hằng ngày sống một
bữa ăn, không ăn uống lặt vặt phi thời, đi khất
thực nuôi thân, chẳng thân chẳng sơ với ai,
chẳng tiền chẳng bạc, chẳng danh chẳng lợi, ai
hỏi Đạo thì chỉ thẳng, chẳng nói, chẳng dạy
điều mê tín gạt người.
Vì thế, cuộc sống Đời và cuộc sống Đạo
không thể giống nhau được, giống nhau thì
không phải Đạo.
Ở đây, trong tu viện có tu sĩ và cũng có cư
sĩ, nam có, nữ có nhưng sự cân nhắc tu hành
quả thật chỉ có buông bỏ mà quý vị chưa hoàn
toàn buông bỏ sạch. Chúng tôi biết rất rõ quý
vị nghe chúng tôi giảng để hiểu biết, chớ sự
thật tu hành để giải thoát cảnh trần lao đau
khổ thì quý vị không đủ ý chí cương quyết và
khả năng hành trì được. Người có quyết tâm đi
tìm sự giải thoát thì phải gan dạ, gọt bỏ râu
tóc, mặc y áo xấu xa, cắt đứt dây mơ rễ má
tình cảm với gia đình, cha mẹ, anh em, chị em
ruột thịt, vợ con và người thân quyến thuộc, lại
còn phải bỏ tất cả tài sản của cải châu báu
vàng bạc. Có đoạn dứt được như vậy, thì con
đường Thiền định của đạo Phật mới tu tập
được, có tu tập được Thiền định (Tứ Thánh
Hiện Tại An Lạc Trú Định) thì mới làm chủ
được sự sống chết, mới tịnh chỉ được các hành
trong thân. Sự tu hành này, nó không đơn giản
mà phải tu tập hết sức. Các Thầy phải tự suy
nghĩ, các hành đang hoạt động trong thân của
chúng ta như: tim đập, gan, phèo, phổi, thần
kinh đang hoạt động không ngừng nghỉ, hơi
thở đang ra vô tự động, da đang bài tiết. Tất
cả, những sinh hoạt này đang tạo ra một sức
sống cho thân mạng chúng ta. Thế mà, tu tập
Bốn Thánh Định chúng ta điều khiển làm cho
nó ngưng hoạt động, thì đây không phải là một
việc dễ làm, nếu tâm của chúng ta chưa thanh
tịnh, chưa ly dục ly ác pháp, còn thương, còn
ghét, còn giận, còn hờn, còn tham muốn vật
này vật khác, chưa đoạn lìa tình cảm thế gian
thì chắc chắn quý Thầy không thể thực hiện
được, không thể làm chuyện vĩ đại này được.
Giáo lý của đức Phật đã vạch ra con đường
tu hành rất rõ ràng, lấy nhân quả làm nòng cốt
đối tượng cho sự tu tập, vì thế thay đổi nghề
nghiệp ác là hành động đầu tiên trau dồi thân
tâm thiện (Chánh Nghiệp) kế đến, chúng ta
lần lượt tu tập những hạnh bố thí cúng dường,
để xả bỏ lòng ích kỷ hẹp hòi, để xa lìa lòng
ham muốn nhiều của mình và hàng ngày còn
trau dồi đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng
trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh, mọi sự
việc. Chính những sự tu tập này, đã mang đến
cho quý vị và gia đình một sự an vui hạnh phúc
tuyệt vời.
Người cư sĩ chỉ cần tu tập bấy nhiêu đây,
cũng đủ đem lại một cuộc sống an lành hạnh
phúc mà hầu hết mọi người trên thế gian này
đều mơ ước, chỉ có những người chưa biết an
phận thì con đường tu tập này không phù hợp.
Nếu không có đạo Phật chỉ đường vạch lối
giải thoát cho loài người thì loài người đi tìm
hạnh phúc trong ảo tưởng, đó chỉ là một giấc
mơ đẹp mà thôi.
Ở đây, chúng tôi xin lưu ý các bạn: Đời và
Đạo không thể đi chung nhau một đường, mà
hai nẻo rõ ràng. Đời là đau khổ, Đạo là giải
thoát; Đời thì ôm vào tất cả, Đạo thì buông ra
chẳng còn một vật. Vì thế, mà các bạn quan sát
biết rõ người tu đúng và người tu sai, người nào
tu theo đúng chánh pháp của đạo Phật; người
nào tu sai lạc vào tà pháp của ngọai đạo, thì
các bạn không còn lầm người. Đó là, Đạo và
Đời đã xác định rõ như vậy.

DỨT BỎ NHỮNG GÌ CẦN DỨT BỎ VƯỢT THỐT  CUỘC SỐNG THẾ GIAN
Trong kinh Phật dạy: ‚Cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống
không nhà cửa”. Đây là, giai đoạn thứ II trên
đường tu tập của đạo Phật. Người cư sĩ muốn
tiến tới giai đoạn này thì phải thấu hiểu rõ đời
sống xuất gia, liệu mình có thể sống được như
vậy hay không? Đời sống xuất gia cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà sa là một giới hành thứ nhất
trong bộ “Giới Đức Thánh Tăng và Thánh Ni”.
Cho nên, muốn trở thành một vị Thánh Tăng
và Thánh Ni thì phải có một hình tướng của
một bậc Thánh, nhờ hình tướng ấy khiến cho
vua chúa và những người có quyền thế nhìn
thấy đều phải cúi đầu đảnh lễ. Hiện giờ, Tăng
Ni không được mọi người tôn trọng cung kính
là vì sống không đúng Phạm hạnh, thường vi
phạm các giới luật, sống không có oai nghi tế
hạnh của một bậc Thánh.
Qua lời dạy trong đoạn kinh này: “Cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa”. Đây là, lời dạy dứt bỏ
cuộc sống thế tục để cắt các duyên bên ngoài,
không trang điểm làm đẹp, phải làm cho mình
xấu xí, ăn mặc thì không được chải chuốt, mặc
phải bằng những vải thô xấu, hình ảnh bên
ngoài phải phá và dẹp bỏ cái đẹp đẽ của trần
gian khiến cho mọi người không còn để ý đến
mình thì mới dễ dàng tu hành. Trong cuốn
“Góp Nhặt Cát Đá” có câu chuyện, một cô
thiếu nữ rất đẹp đến xin với một vị Thiền sư tu
hành. Vị Thiền sư bảo: “Cô tu không được”. Cô
ta ngạc nhiên hỏi lại vị Thiền sư: “Tại sao con
tu không được? Xin Thiền sư chỉ dạy cho”.
Vị Thiền sư đáp: “Tại cô quá đẹp”.
Nghe xong cô trở về nhà tìm cách phá hủy
sắc đẹp của mình. Sau khi vết thương trên mặt
đã lành, để lại một vết thẹo khiến cho gương
mặt cô giống như ác quỷ. Bấy giờ, cô trở lại gặp
vị Thiền sư.
Vừa trông thấy mặt, vị Thiền sư đã nhận
ra cô và chấp nhận cho cô ở tu. Câu chuyện
trên đây, là câu chuyện của Thiền Đông Độ,
nhưng Thiền Đông Độ vẫn còn không chấp
nhận sắc đẹp huống là đạo Phật chân chánh.
Phải không các bạn?
Câu kinh kế dạy: ‚Từ bỏ tài sản, của
cải, nhà cửa, sự nghiệp‛, đây là lời dạy
buông xả vật chất thế gian không còn một thứ
gì ngoài ba y một bát, để tâm trí không còn lo
lắng, hối tiếc, sợ hư hao, sợ mất mát, lửa cháy,
nước trôi, trộm, cướp, người khác tranh giành
v.v..
Cũng bài kinh đó, câu cuối cùng dạy:
‚Sống không gia đình‛ nghĩa là đoạn dứt
tình cảm cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt, vợ
con, bè bạn, người thân quyến thuộc v.v..
Khi hiểu rõ từng đoạn kinh này, đức Phật
đã chỉ dạy rất rõ ràng, người cư sĩ quyết tâm đi
theo con đường giải thoát của đạo Phật thì bắt
đầu chuyển mình qua cuộc sống mới, cuộc sống
Đạo. Đoạn kinh này, tuy ngắn nhưng ta thấy
sự chỉ dạy của đức Phật rất rõ ràng, đây là một
sự thay đổi vĩ đại của cuộc sống đời người, có
thể chia làm ba trường hợp như sau:
1- Người đi tu mà còn trang điểm làm đẹp,
làm dáng là không thể nào theo đạo Phật tu
hành đến nơi đến chốn được.
2- Người đi tu mà không dứt bỏ tài sản,
của cải, vật chất, vàng, bạc của báu thì không
thể nào theo đạo Phật tu hành đến nơi đến
chốn được.
3- Người đi tu mà không dứt bỏ tình cảm,
không cắt đứt lòng luyến ái đối với những
người thân thì không thể nào theo đạo Phật tu
hành đến nơi đến chốn được.
Cái khó của người đi tu theo đạo Phật đầu
tiên là ở trong ba trường hợp này: nếu dứt một
còn hai thì đi tu cũng vô ích, nếu dứt hai còn
một thì tu cũng chẳng có kết quả gì, chỉ khi
nào dứt trọn vẹn ba trường hợp này thì xuất
gia tu hành mới đạt được kết quả giải thoát,
còn không dứt được ba trường hợp này thì quý
vị có tu hành xuất gia cũng chỉ làm một người
cư sĩ trọc đầu mà thôi, chứ không thể thành tu
sĩ được.
Xét qua ba trường hợp này, trước tiên
chúng ta muốn tu tập cầu giải thoát thì phải bỏ
trang điểm, bỏ làm dáng, làm đẹp, tập ăn mặc
vải thật xấu, kế đến tập bố thí, xả bỏ của cải
tài sản, buông xả cho thật sạch, đừng nghĩ
rằng để dành cất chùa, cất am cho thật đẹp, độ
người tu, điều này là tâm luận thế gian qua ngỏ
tôn giáo, đó là bị tâm mình lừa gạt. Tu để cứu
mình thoát khổ cảnh trầm luân, chưa cứu mình
được mà lo cứu người đó là si mê dại dột. Đừng
vội làm thầy Trời, Người mà sự tu hành của
mình chỉ là số không, đừng bắt chước các nhà
Đại Thừa làm Bồ Tát độ chúng sanh, coi chừng
cả mình và chúng sanh đều xuống địa ngục cả
đám. Đó cũng là, tâm danh lợi khéo che đậy
mà thôi.
Ta phải xả bỏ hết của cải như ông Bàng
Long Uẩn, đem tài sản của cải châu báu đổ
xuống sông mà không tiếc rẻ chút nào cả. Khi
xả bỏ được tài sản của cải châu báu vàng bạc,
ta phải giải quyết tình cảm như thế nào để
không còn bị trói buộc nhớ thương, đối với

những người thân thương.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!