gì? Và cách
thức tu tập “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM
ƯU” như thế
nào? Thầy đã dạy
các con rồi. Các con còn nhớ không?
“Quán” nghĩa
là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận.
“Nhiếp phục”
nghĩa là thu phục làm cho phục tùng; làm cho đầu hàng; làm cho không còn
chướng ngại pháp và ác pháp nữa; làm cho không còn phá phách; làm cho không còn
đau khổ; làm cho không còn phiền não; làm cho không còn giận hờn
tham, sân, si, mạn, nghi
nữa.
“Tham ưu”
nghĩa là tham muốn và phiền não, nghĩa chung là những chướng ngại pháp.
Có hiểu
nghĩa rõ ràng
như vậy, các
con mới tu tập
đúng pháp thì sự chứng đạt chân
lí mới nhanh chóng
và dễ dàng.
Các con đang hiểu sai
pháp nên tu hành
không đúng. Tu Tứ Niệm Xứ mà cứ
tu tập Tứ Chánh Cần như trên đã
nói, chỉ còn
năm tháng nữa
mà tu sai
làm sao chứng đạo. Hãy mau mau sửa lại
sự tu tập cho đúng, kẻo phí thời giờ vô ích.
Tu tập
như vậy làm
sao chánh pháp của Phật thường còn? Tu mà không chịu khó
quan sát xem xét những
giới luật mình
đang thọ và
giữ gìn
(Mười Giới Đức
Thánh Sa Di),
có vi phạm giới
nào không? Giới
luật là đời sống
phạm hạnh của
người tu, là
pháp ly dục ly ác pháp,
thế mà các
con không giữ gìn
cho trọn vẹn, luôn luôn
vi phạm giới luật,
để trở thành người
phá giới, nhất
là giới hạnh độc cư. Giới hạnh độc cư là giới phòng hộ sáu căn:
mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Các con
không giữ gìn nó thì làm sao tâm ly dục ly ác
pháp cho được; tu mà không giới
luật thì không xả
tâm chỉ biết ức
chế tâm và
còn để tâm
rong ruổi chạy theo dục
lạc ở đời;
theo tình cảm của cuộc sống
người này với người kia; theo các ác pháp dùng lời nói li gián, để chia rẽ, để
ganh ghét, để thù hận với nhau,
thì còn nghĩa lý
gì là tu
hành nữa. Phải không các con?
Tu mà nói
chuyện người này
đúng, người kia sai; tu mà còn so
bì hơn thua với nhau từng chút, từng ly;
tu mà đi
rình ngó người này tu
như thế này, người kia tu như thế
kia, thì làm sao chứng đạo được
các con? Nhìn
thấy sự tu tập của các con mà Thầy rất buồn lòng. Buồn
là nghĩ đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người
làm sao có người
dựng lại được,
khi các con tu tập
như vậy. Tâm Thầy lại
còn xót xa hơn, khi nghĩ đến hạnh
phúc của loài người
trên hành
tinh này quá mỏng
manh, nhất là loài người không bao giờ có được hạnh phúc
ấy. Hiện giờ các
con là những người
đại diện cho mọi
người mà hiểu lầm và
tu hành sai
pháp như vậy. Rồi
đây làm sao có
người thay thế Thầy dựng lại Chánh pháp của Phật? Thầy
đã già rồi, đừng ỷ lại vào Thầy. Phật sống đến 80 tuổi. Ông A Nan sống 120 tuổi,
nhưng có người còn bảo Ông A Nan già lú lẫn...
Ôi! Chúng
sanh ít phước, làm sao thọ hưởng được nền đạo đức ấy. Các con là những người đại
diện cho muôn người, vạn triệu người trên hành tinh này như trên đã nói
mà tu tập như
vậy thì còn hy vọng gì nữa
các con! Thầy sẽ ra đi
vĩnh viễn và
mãi mãi các
con sẽ mất Thầy.
Còn năm
tháng nữa, chứng
nào tật nấy làm
sao các con bỏ được
tâm bỉ thử
đây! Làm sao sống được đạo đức
làm người sống
không làm khổ mình, khổ người. Tu
hành mà các con luôn thấy lỗi người không thấy lỗi mình thì đạo đức
gì đây! Nhìn
các con tu hành
lòng Thầy đau xót như ai cắt ruột.
Các con có
biết không? Còn năm tháng nữa, tu như vậy làm
sao chứng đạo được
các con?
Một lần nữa,
nếu không có người chứng đạo, Thầy sẽ ra
đi! Và
đi! Đi mãi!!!
Nếu còn duyên Thầy sẽ ẩn bóng viết
xong bộ sách “ĐẠO ĐỨC LÀM NGƯỜI”,
rồi vĩnh biệt
các con. Các con ở lại mà sống với
cuộc đời đầy ác pháp, đầy nước mắt và đau khổ. Chừng đó các con có nhớ Thầy, thì hãy
nhớ giới luật
và Tứ Niệm Xứ.
Giới luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ là thầy của các con; là ngọn đuốc soi đường
cho các con đi; là chỗ nương tựa vững chắc cho đời tu hành của các con. Các
con nhớ kỹ lời dạy
này, đừng bao giờ quên hỡi các con?
Thấy pháp
hành các con
áp dụng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ ràng, do đó khi
thực hành vào pháp xả tâm trên Tứ Niệm Xứ thì lại ức chế
tâm, tu như vậy không
đúng theo lời Thầy
dạy. Do không
hiểu đúng lời Thầy dạy nên các
con tu hành thấy khó khăn và
vất vả, thật đáng thương. Biết
làm sao bây giờ đây, sự hiểu biết của các con có giới hạn, nên lời nói và sự cố
gắng của Thầy để diễn đạt cho các con hiểu,
nhưng sự hiểu của các
con còn hạn cuộc trong
không gian và thời gian của ý thức. Vì thế,
các con chỉ hiểu ở mức độ đó,
không thể nào hiểu
hơn được nữa,
nên cũng đành
chịu thôi vậy.
Ở đây, chỗ các con đã hiểu sai về Phật
pháp, nhất là về sự chứng đạo của Phật
giáo. Cho nên, hiện giờ
quý sư, quý thầy,
quý ni và quý cư sĩ đang tu theo
Phật giáo đều nghĩ rằng:
‚chứng đạo
là chứng một cái gì cao siêu, huyền bí
và vĩ
đại ghê gớm lắm‛. Hiểu
như vậy là hiểu sai Phật giáo. Phật giáo là nền đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai,
mà mọi người lại
hiểu Phật giáo
là một tôn giáo
thần quyền, là một loại
thiền định siêu đẳng, là một thế giới
ngoài thế giới của loài
người, nên kinh sách
phát triển Bắc
tông cũng như
kinh sách Nam tông đều hướng dẫn tu tập ức chế tâm và còn nghĩ rằng: con người cần phải
nhờ vào oai lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ và còn phải
tu tập nhiều đời nhiều kiếp. Nhất là còn phải tạo nhiều phước
báu hữu lậu
như: bố thí,
cúng dường xây dựng
chùa, tháp, đúc
chuông, tạc tượng Phật và làm từ
thiện v.v.. Nhưng thật sự không phải vậy.
Kinh sách Phật giáo Nguyên thủy đức Phật đã
khẳng định trong bài chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển.
Sau buổi thuyết pháp
đó, năm anh em
Kiều Trần Như đều chứng pháp nhãn thanh
tịnh và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.
‚Nghe xong
bài thuyết
pháp này và một bài thứ hai có đầu đề ‚Anttalakkhana sutta‛, bàn về thuyết vô
ngã (không có cái Ta), năm vị tu sĩ ở
vườn Lộc Uyển
được giác ngộ
và không bao lâu trở thành A La Hán‛ (Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni
do HT Minh Châu biên soạn trang
29).
Đọc đoạn
kinh này xong
chúng ta biết rằng Phật giáo không phải là pháp môn
khó tu tập như thiền Yoga và
thiền Tông Trung
Hoa. Đối với Phật giáo chỉ cần hiểu đúng và sống đúng là chứng quả A La
Hán.
Danh từ
chứng đạo đã
khiến cho mọi người
hiểu nó qua trí tưởng
tượng nhiều hơn, nên
chứng đạo là chứng cái gì
cao siêu và phi thường vượt ngoài tầm tay con người. Vì
thế, người ta thấy
nó quá khó
khăn vô cùng.
Tư tưởng thấy quá khó khăn cũng là một điều cản trở rất lớn trên bước đường
tu tập chứng đạo.
Như đoạn
kinh trên đã nói:
năm anh em Kiều Trần Như nghe xong pháp và chứng quả
A La Hán
đâu có khó
khăn gì! Vì thế,
chúng ta nên xét kỹ lại các pháp
đang tu tập, nhất là pháp môn Tứ Niệm Xứ thì sự chứng đạo đâu có khó khăn gì.
Phải không các con?
Nhưng vì mọi người
đã hiểu lầm lạc. Họ đâu biết rằng: ‚Chứng đạo chỉ là sống với
một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động. Cho nên, chứng đạo
không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là một cái tâm
bình thường như mọi người, nhưng không
có chướng ngại pháp nào làm
cho tâm người ấy bị dao động‛.
Chứng đạo
không có nghĩa là chứng thần thông,
phép lực cao cường,
hô phong, hoán võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ,
biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người v.v.. mà chứng đạo chỉ là
tâm bất động
trước các ác pháp và các cảm thọ.
Chứng đạo
chỉ là sống
với tâm thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng
như lúc nào không bị kèm chế, không
bị bắt buộc
phải tu tập như thế
này, phải làm
như thế kia. Trong sự
chứng đạo chỉ có một điều
quan trọng nhất, đó là phải sống đúng
giới luật như
trong bộ sách Văn
Hoá Phật Giáo
Truyền Thống tập I
đã dạy. Chúng ta phải quyết
tâm buông xả đời
sống nhân quả
đang hiện có
trong thân tâm của chúng ta.
Mục đích tu
hành của chúng ta là làm chủ bốn nỗi đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh
và chết, nhưng muốn làm chủ sanh, già, bệnh
và chết thì chúng
ta phải hiểu
cho rõ ràng: Cái gì
làm cho chúng ta bị sanh, bị
già, bị bệnh và bị chết. Muốn biết rõ được điều này chúng ta
hãy vào kinh Trung
Bộ tập I, tạng kinh Việt Nam,
trang 364, đọc
Kinh Thánh Cầu mà đức Phật
đã dạy: ‚Này
các Tỳ kheo, có
hai sự tầm cầu
này: Thánh cầu
và phi Thánh cầu. Chư Tỳ kheo, và
thế nào là phi Thánh cầu? Ở
đây này các Tỳ kheo,
có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm
cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu
cái bị chết,
tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu
cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các
Tỳ kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam,
đầy tớ nữ
là bị sanh;
dê và cừu là bị sanh;
gà và heo là
bị sanh; voi, bò,
ngựa đực, ngựa
cái là bị
sanh; vàng bạc là bị sanh.
Này các Tỳ
kheo, những chấp thủ ấy bị
sanh, và người ấy lại nắm
giữ, tham đắm, mê say
chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh.
Và này
các Tỳ kheo,
cái gì theo các Người gọi
là bị già?
Này các Tỳ
kheo, vợ con là bị
già; đầy tớ
nam, đầy tớ nữ là bị
già; dê
và cừu là bị già;
gà và heo
là bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa
cái là bị già; vàng bạc là bị già.
Này các Tỳ
kheo, những chấp thủ ấy bị già, và người ấy lại nắm giữ,
tham đắm, mê
say chúng, tự mình bị già lại tầm cầu cái bị già.
Và này
các Tỳ kheo,
cái gì theo các Người gọi là
bị bệnh? Này các Tỳ kheo,
vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy
tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi,
bò, ngựa đực,
ngựa cái là bị
bệnh; vàng bạc
là bị bệnh.
Này các Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ,
tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tầm cầu cái bị
bệnh.
Và này các Tỳ
kheo, cái gì theo các Người gọi là bị chết?
Này các Tỳ
kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy
tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết;
gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị chết;
vàng bạc
là bị chết.
Này các Tỳ
kheo, những chấp thủ ấy bị chết, và người ấy lại nắm giữ,
tham đắm, mê
say chúng, tự mình bị chết lại tầm cầu cái bị chết.
Và này các Tỳ
kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sầu?
Này các Tỳ
kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ
nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu;
gà và heo là
bị sầu; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sầu; vàng bạc
là bị sầu.
Này các Tỳ
kheo, những chấp thủ ấy bị sầu, và người ấy lại nắm giữ,
tham đắm, mê
say chúng, tự mình bị sầu lại tầm cầu cái bị sầu.
Và này các Tỳ
kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỳ kheo, vợ con là
bị ô nhiễm;
đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm;
gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng bạc là
bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo,
những chấp thủ ấy
bị ô nhiễm,
và người ấy lại nắm giữ,
tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm
lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu‛.
Đọc đoạn
kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng cái
bị sanh, bị già, bị
bệnh và bị chết, đó là
sanh y, tức
là những vật chất, những người
thân. Những vật chất và những người thân
xung quanh chúng
ta gọi chung
là các pháp mà
chúng ta lầm tưởng những
pháp đó đang phục vụ đời sống của mình
và mang lại hạnh
phúc, nhưng khi những
vật chất đó
càng nhiều hơn thì sự khổ
đau cũng nhiều hơn. Những vật
chất đó càng nhiều thì chính
chúng ta là những người nô lệ cho những vật chất đó, đang bị chúng sai bảo
và dẫn dắt chúng ta vào cảnh giới ưu bi,
sầu khổ, bệnh, chết
như trong kinh Thánh Cầu đã dạy ở
trên và kinh
Thập Nhị Nhân Duyên đã dạy dưới đây: ‚Có duyên sanh thì ắt
phải có duyên
ưu bi, sầu khổ
và bệnh,
chết‛, và như vậy hai
bài kinh đã dạy không sai khác.
Muốn thoát
ra khỏi bốn sự đau khổ này chúng ta hãy đọc tiếp kinh Thánh Cầu để được đức Phật chỉ đường: ‚Và này các Tỳ kheo,
thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỳ
kheo, có người tự
mình bị sanh, sau khi biết
rõ sự nguy hại của bị
sanh, tìm cầu cái vô
sanh, vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ
sự
nguy hại của bị
già, tìm cầu cái
không già, vô thượng
an ổn khỏi
các khổ ách, Niết
bàn; tự mình bị
bệnh, sau khi biết rõ sự
nguy hại của
bị bệnh, tìm cầu cái không
bệnh sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết,
sau khi biết rõ sự
nguy hại của bị chết,
tìm cầu cái bất tử, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị
sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình
bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết bàn. Này
các Tỳ kheo, như vậy gọi là Thánh cầu‛.
Sau khi đọc
đoạn kinh trên đây, các con có biết cách thức tu tập xả ly và từ bỏ cái bị
sanh, bị già, bị bệnh, bị chết, bị sầu và bị ô nhiễm
chưa? Nếu không biết cách thức tu tập xả ly từ bỏ sanh,
già, bệnh, chết...
thì các con sẽ lầm lạc vào chỗ tu tập ức chế thân tâm, có thể
dẫn đến chỗ rối loạn thần
kinh như trên
Thầy đã
dạy.
Các con phải
biết, tu hành theo Phật giáo là một sự sống bình thường, chứ lý đâu lại diệt
hết ý thức
phân biệt vọng niệm thiện pháp của mình.
Cho nên, có vọng tưởng hay không
vọng tưởng đều là ý thức bình thường của mỗi con người, nhưng người tu hành sống
đời đạo đức không làm khổ
mình, khổ người
thì không chấp nhận
những vọng tưởng
có tính bị sanh, bị
già, bị bệnh
và bị chết.
Vì thế, khi có
các vọng tưởng đó thì dùng đúng pháp của Phật đã dạy để xả ly, để từ bỏ,
để đoạn diệt, không nên để nó lưu lại trong tâm
dù một phút, một giây, phải đuổi đi một cách quyết liệt, một cách dũng cảm, một
cách gan dạ; phải đầy đủ nghị lực
chiến đấu với những vọng tưởng và các cảm thọ đó. Tất cả những
vọng tưởng đó
là ác pháp,
là cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Cho nên, chúng ta đều phải
ngăn và diệt cho tận gốc cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết này. Tu hành
chỉ có làm một việc như vậy thôi, chứ có tu tập gì nhiều đâu!
Còn những vọng
tưởng không sanh, không già, không bệnh,
không chết thì để nó tự
nhiên, có gì mà phải ngăn diệt nó. Nó là ý thức của chúng ta, nó đâu phải là
chướng ngại pháp. Vậy mà các
con hễ thấy niệm
là diệt, là tìm
mọi cách
ức chế cho đừng
có niệm như
Pháp Bảo Đàn Kinh dạy: ‚Chẳng niệm thiện
niệm
ác bản lai
diện mục hiện tiền‛. Như kinh Di Đà dạy:
‚...Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên
trì danh hiệu A Di Đà Phật...‛.
Như kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm‛ Đó là phương pháp tu hành của Đại Thừa và Thiền tông ức chế ý
thức tối đa khiến cho người tu hành rơi vào thiền tưởng. Do rơi vào thiền tưởng
mới tưởng con người có Phật tánh; mới tưởng có thế giới Cực Lạc, Thiên Đường;
do rơi vào thiền tưởng nên không biết đường đi đến cứu cánh, giải thoát hoàn
toàn. Vì thế, họ phải tự an ủi cuộc đời tu hành của mình bằng cách phải tu tập
nhiều đời, nhiều kiếp.
Các con
hãy lắng nghe
đức Phật dạy:
‚Thế nên,
các Tỳ kheo không
nên phóng dật. Ta chính nhờ không buông lung (phóng dật)
mà thành Chánh
Giác, vô lượng điều
lành đều nhờ
không buông lung (phóng dật) mà
có được. Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của đức
Như Lai‛. (Kinh Du Hành
trang 207
Trường A Hàm
tập I thuộc tạng kinh Việt Nam).
Các con có
nghe rõ lời dạy này
chưa? Lời đức Phật dạy
quá rõ ràng:
tâm không phóng dật tức là tâm không buông lung, hai chữ
buông lung xác định
nghĩa rất cụ thể: tâm
không
buông lung là
tâm không chạy theo dục lạc và các pháp thế gian, chứ không phải tâm không niệm. Các
con nên phân
biệt cho rõ:
Tâm không buông lung
có nghĩa là
ý thức không khởi
niệm ham muốn cái
này cái kia, còn tâm không niệm
có nghĩa là
ý thức không
khởi niệm vọng tưởng. Ý thức không khởi niệm là pháp môn của ngoại
đạo, còn Phật giáo ý thức
không phóng dật, không buông lung chạy theo pháp trần,
nhưng các niệm
thiện vẫn còn.
Vì thế đức Phật dạy: ‚Vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có
được‛. Cho nên, tâm không
phóng dật, nhưng
các pháp lành từ nơi tâm không
phóng dật mà sanh ra. Đọc câu kinh này chúng ta thấy người tu hành có hết vọng
tưởng không?
Tại sao tu
hành chúng ta lại hiểu
là phải diệt hết vọng tưởng?
Diệt hết vọng
tưởng để trở thành
cây, đá thì còn
ý nghĩa gì là
sự giải thoát?
Tu là để làm
chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ, chứ đâu phải tu
là làm cho chúng
ta trở thành người
ngu ngu, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn như
người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn ai, nói nói, cười cười một mình.
Tu là đem lại
cho chúng ta một tâm hồn hân hoan vui vẻ, đoan trang, chánh trực, không liếc xéo,
liếc ngang, không
nói xấu, nói lỗi
người khác, không
li gián người này với người
kia.
Tu là
đi đứng khoan
thai, nhẹ nhàng, thoải mái, chứ đâu phải đi cúi đầu, khom lưng, bước thấp bước
cao.
Tu là tỉnh giác,
nhưng tỉnh giác
đâu có nghĩa là chỉ có biết cảm nhận bước
đi và hơi thở ra, hơi thở vào mà thôi. Tỉnh giác là
tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh
chúng ta một cách đúng với chánh pháp.
Nếu các con hiểu
đúng nghĩa như vậy thì sự tu tập
đâu có sai pháp và chứng đạo đâu có khó khăn mệt nhọc gì.
Cho nên, nói
tu tập là nói theo tôn giáo, nhưng nói theo tôn giáo thì người ta lại hiểu tu tập là ngồi thiền,
niệm Phật, trì chú,
tụng kinh, bắt ấn, cầu siêu, cầu an, lạy lễ hồng danh Phật để
sám hối cho tiêu
tai, giải tội
v.v.. Tu tập nói
theo đời sống
bình thường của
con người là sửa sai những điều làm khổ mình, khổ người; sửa sai những hành động làm ác; sửa
sai những điều bị ô nhiễm nghiện ngập; sửa sai những lời
nói ác, lời
nói dối, lời
nói li gián
khiến cho mọi
người mất đoàn kết bất hòa; sửa sai những ý nghĩ ác, những ý nghĩ làm hại người.
Vì sửa sai để
trở thành con người tốt, con người
có đạo đức.
Cho nên, tu theo
Phật giáo chỉ có sửa sai
tâm tính của mình,
vì thế đức Phật
dạy: ‚Ngăn ác
diệt ác pháp,
sanh thiện tăng trưởng thiện pháp‛ hoặc ‚Các pháp ác không nên làm, nên
làm các pháp thiện‛ hoặc ‚Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người‛. Những
lời dạy trên
đây của đức Phật
là những
lời dạy để sửa
sai những thói
hư tật xấu của mình;
để mình trở
thành người tốt; người có đạo đức; người không còn thói
hư tật xấu nữa; người sống luôn luôn không làm khổ mình, khổ người.
Người chứng
đạo rồi cũng giống như người bình thường
nhưng lại phi thường vì sanh, già, bệnh
và chết không
sai khiến thân
tâm họ được, còn
người chưa chứng
đạo thì bị sanh, già, bệnh và chết tác động vào thân tâm
khiến cho thân tâm bất
an thường bệnh tật, phiền não, khổ đau, sợ hãi, lo lắng, thương
ghét, giận hờn v.v..
Một lần nữa người
chứng đạo và người
bình thường chỉ
khác nhau là ở chỗ
tâm bất
động trước
các ác pháp và các cảm thọ. Người sống bình thường chỉ cần biết đâu là con đường
thiện và
đâu là con đường
ác và không
sống theo con đường ác, chỉ sống theo con đường thiện. Người biết sống
được như vậy là người chứng đạo. Cho
nên, chứng đạo
đâu có khó khăn gì. Phải không các con?
Tu đâu có
nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường; tu là ngăn và diệt những hành động
làm khổ mình, khổ người.
Sau hai
tháng tu hành xả tâm trên Tứ Niệm Xứ, trên gương mặt của quý sư, quý thầy,
quý cô
và quý cư sĩ
nam, nữ sao không
hân hoan, sao không thoải mái, dễ chịu, trông có vẻ khắc khổ lắm vậy.
Cho nên, các
con cần phải xác định cho rõ ràng: Tu chứng là chứng cái gì?
Như trên
đã nói, đâu phải tu hết vọng tưởng
là chứng đạo
như Thiền Tông
dạy:
‚Chẳng niệm
thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Tu hết vọng tưởng để làm gì các con?
Nó không có giải thoát bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết được, hết niệm để chạy
theo dục tưởng hỷ lạc.
Đâu phải tỉnh
giác
là chứng đạo? Tỉnh
giác chỉ
là giai đoạn đầu mới
tu tập tỉnh
thức để phá tâm si mê, mờ mịt, vì vô minh, vì hôn trầm, thùy miên, vô
ký, ngoan không.
Đâu phải tu
có thần thông là chứng đạo? Thần thông chỉ là một trò ảo thuật của tưởng thức để
lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin.
Tu đâu phải ngồi
thiền nhiều là chứng
đạo? Ngồi thiền nhiều nhập định tưởng. Định tưởng là một loại
thiền định vô sắc do tưởng uẩn tạo ra. Tu mà nhập vào thiền tưởng
để làm gì? Có ích lợi
gì cho mình, cho người. Xưa đức Phật
nhập vào các định
tưởng: Không Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, khi tu xong
Ngài ném bỏ
như ném bỏ chiếc giày rách. Có đúng như vậy không các con?
Chứng đạo là
chứng ở trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Khi ý thức muốn sai bảo
thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.
Chứng đạo là
chứng một đạo lực có Bốn Thần Túc để thực hiện
Tam Minh, làm chủ
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.
Cho nên, trước
khi chưa chứng đạo, những người muốn tu
tập chứng đạo phải biết rõ trên đường đi đến chứng đạo. Và còn phải
biết rõ sự chứng đạo lợi ích cho mình cho người như thế nào? Nếu
chưa hiểu biết rõ sự lợi
ích như trên đã nói thì đừng nên tu tập, vì có tu tập cũng chẳng lợi ích
gì cho ai cả, còn phí sức, phí tiền của vô ích.
Đường đi đến
chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập thì không
bao giờ chứng đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tỉnh
giác, nếu thiếu tỉnh giác thì không tu tập được. Vậy tỉnh giác như thế nào?
Khi tâm ham muốn một điều gì thì
biết ngay tâm ham muốn điều
đó, đó là
tâm tỉnh giác. Khi biết tâm tỉnh
giác được như vậy thì ý thức bảo: ‚Tâm
không được ham
muốn, ham muốn đó
là ác pháp,
là pháp khổ đau‛. Ý
thức lệnh bảo
như vậy thì tâm
chấm dứt ham muốn.
Khi tâm đang
sân giận, ý thức bảo: ‚Tâm phải chấm dứt ngay sân giận, sân giận là pháp ác,
là pháp đau khổ‛,
khi tác ý như vậy là tâm không còn sân giận.
Khi
thân già
yếu, ý thức bảo: ‚Thân
vô thường, nhưng không
được yếu đuối
run rẩy phải quắc
thước‛, khi tác ý như
vậy thì thân lần lần không
còn yếu đuối
và run rẩy, luôn luôn quắc thước.
Khi thân
bị bệnh, ý thức bảo:
‚Thân phải mạnh khỏe,
tất cả bệnh tật đều phải
lui ra khỏi thân‛. Lệnh của ý thức như vậy
thì bệnh lần lần lui ra sạch.
Khi
thân sắp
chết, thở không
được thì ý thức bảo: ‚Thân phải
thở lại bình thường, không được chết‛.
Ý thức lệnh
như vậy thì thân mạnh khoẻ và thở lại bình thường.
Khi
thân đang mạnh
khoẻ bình thường mà muốn chết, muốn bỏ thân này thì ý
thức ra lệnh: ‚Hơi thở phải tịnh chỉ, từ bỏ
thân tứ đại này‛.
Lệnh như vậy
thì hơi thở lần lần
ngưng hoạt động,
tâm nhập vào chỗ bất động
Tứ Thiền Thiên và xuất Tứ Thiền Thiên nhập vào
trạng thái thanh
thản, an lạc,
vô sự của Niết Bàn. Lúc bấy giờ tứ đại tan rã.
Trên đây là
năng lực của những người tu chứng đạo, ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều
khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên, người tu
chứng đạo làm
chủ sự sống
chết,
không có khó
khăn, không có mệt nhọc. Do làm chủ sự sống chết tự tại như vậy, nên mọi người
ai cũng
quyết tâm tu cho
bằng được, nhưng
lại tu sai, rơi vào chỗ ức chế tâm.
Theo Phật
giáo tu chứng đạo không có khó khăn,
nhưng vì không
hiểu biết rõ
ràng pháp tu hành
nên trở thành
khó khăn như
trên đã
nói.
Tu khó sao đức
Phật tu tập chỉ có 49 ngày chứng đạo? Tu
khó sao Thầy tu
có sáu tháng rưỡi
chứng đạo? Tu khó sao năm
anh em Kiều Trần Như nghe
bài pháp Tứ Diệu Đế
và bài pháp vô
ngã liền chứng pháp nhãn thanh
tịnh và tu tập không bao lâu chứng quả A La Hán.
Phật pháp
đâu phải khó
tu, chỉ vì
chúng ta nhận lầm pháp hành nên tu sai. Cho nên, muốn tu tập theo Phật
giáo thì những gì cần thông hiểu phải thông hiểu cho rõ ràng (giác ngộ) về
các pháp hành
và nhận ra cho được trạng thái chân lý, đó là điều cần
thiết mà mọi người tu hành nên lưu ý. Vì thế, đức Phật dạy:
‚Nên thân cận thiện
hữu tri thức‛. Nhờ có
thân cận
thiện hữu tri thức
chúng ta mới hiểu
rõ các
pháp hành và
chân lý. Khi hiểu
rõ các pháp hành
là chúng ta biết cách
thức sống để hộ
trì chân lý. Sống để hộ trì
chân lý
thì đâu
có cái gì để
tu. Không có cái gì để tu thì có cái gì khó. Phải không các con?
Nói tu tập
là nói theo tôn giáo, chứ Phật giáo
nói tu tập
là nói sống
không làm khổ mình,
khổ người. Sống
không làm khổ
mình, khổ người là hộ trì và
giữ gìn bảo vệ chân
lý. Người nào biết sống hộ trì
và giữ
gìn bảo vệ chân
lý là không
hiểu sai Phật
pháp. Còn ngược lại
tu khác, sống
khác là không
hiểu Phật pháp, nên
tu tập gần chết mà
không chứng đạo. Người
hiểu đúng chỉ cần sống
biết xả các chướng ngại pháp là chứng đạo.
Trong thời đức
Phật còn tại thế, khi người ta nghe Phật thuyết pháp xong là chứng pháp nhãn
thanh tịnh. Chứng pháp nhãn thanh tịnh rồi từ đó họ biết cách sống, luôn luôn xả
những chướng ngại pháp để giữ gìn và bảo vệ chân lý, nhờ đó chẳng bao lâu họ chứng
đạo.
Dưới đây Thầy
sẽ trích dẫn ra những đoạn kinh Phật thuyết
mà người nghe
xong liền chứng các quả A La Hán.
PHỤ LỤC 1
ĐỨC PHẬT
THÍCH CA VỀ THĂM GIA ĐÌNH
‚Thân phụ đức Phật,
vua Suddhodana (Tịnh Phạn) bây giờ đã già yếu, nghe
tin đức Phật đã
thành đạo và đang
thuyết pháp ở
thành Rajagaha (Vương Xá).
Vua rất nóng
lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả Rajagaha
(Vương Xá), thỉnh
cầu đức Phật
trở về thăm cố
đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua đến Vương Xá, được nghe Phật thuyết
pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo
và chứng
quả A La Hán. Vị sứ giả thứ 10
là Kaludàyi, vốn
là người bạn
thân của đức Phật,
lúc Ngài còn
là Thái tử.
Ông này đến Vương Xá, nghe Phật
thuyết pháp cũng xin xuất gia và không
bao lâu chứng quả A La Hán như chín vị sứ
giả trước. Kaludàyi không quên
chuyển tới đức Phật lời
phụ vương mời đức Phật về thăm gia
đình. Đức Phật nhận lời, lên đường cùng với
đông đảo đệ tử‛. (Lịch
Sử Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, trang 35 do HT
Minh Châu biên soạn).
Đọc đoạn
kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng chỉ cần nghe Phật thuyết giảng xong là
các vị quan trong triều vua liền bỏ xuống hết danh, lợi, cha mẹ, gia đình, vợ con, của cải, tài sản, quan chức v.v.. để
được theo Phật xin xuất gia. Chứng tỏ giáo pháp của Phật rất thực tế về đời sống
con người, nói về khổ và nguyên nhân sinh
ra khổ của kiếp
người, đó là một sự thật
không còn ai phủ nhận được, đúng là 100/100, nên khi nghe
Phật thuyết pháp
xong thì các quan liền buông xuống
hết, theo Phật tu hành và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.
Trên đây
là các quan chứ
không phải là tu
sĩ Bà La Môn
đã có tu. Vậy khi nghe pháp và chứng
đạo chỉ có một thời
gian rất ngắn. Như
vậy pháp Phật
tu hành đâu
có khó khăn gì. Phải không các con?
Chỉ một
bài kinh này cũng đủ xác định:
Chứng đạo đâu phải khó khăn và thời gian chứng
đạo đâu có
lâu dài. Có
đúng như vậy không các con?
û õ Â Ï
PHỤ LỤC II
ĐỨC PHẬT VÀ
PHỤ VƯƠNG SUDDHODANA
‚Đức Phật
và các đệ tử của
Ngài được vua Tịnh Phạn, quần thần và dân chúng đón tiếp long trọng. Được
nghe đức Phật thuyết pháp. Vua chứng
ngay Sơ quả (Tu Đà
Hoàn). Khi nghe bài
thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng
quả Thánh thứ hai (Tư Đà Hàm),
còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả. Lần thứ
ba đức Phật giảng kinh Dhammapala Jataka cho
vua cha và vua
cha chứng Thánh
quả thứ ba (A Na Hàm). Sách kể rằng: sau này trên giường bệnh
vua cha được đức Phật về
thăm và giảng pháp, Lần nghe pháp cuối cùng
này, vua chứng
quả A La
Hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc
thú giải thoát, vua qua đời
vào năm đức Phật tròn
40 tuổi‛. (Lịch Sử Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, trang
36 do
HT Minh Châu biên soạn).
Đọc đoạn
kinh trên đây chúng ta thấy một người già như vua Tịnh Phạn khi nghe Phật thuyết pháp
xong sống biết buông
xả ly dục ly
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
ác pháp
liền chứng Sơ Quả; khi nghe bài pháp thứ hai liền chứng Nhị Quả; khi
nghe bài pháp thứ ba liền chứng Tam Quả và lần nghe pháp cuối cũng đức Vua liền
chứng quả A La Hán và nhập Niết Bàn.
Như vậy Phật
pháp đâu phải khó
tu. Tu khó là do các con chịu
ảnh hưởng của Đại thừa và Thiền
Tông, cứ lo tu tập ức chế ý thức cho hết
vọng tưởng, nên
tu khó và tu
mãi chẳng đi đến đâu.
Thấy người
xưa buông xả quá dễ dàng, còn ngày
nay Thầy khô cổ giảng
dạy sách tấn khích
lệ các con buông xả:
‚Buông xuống
đi! Hãy buông
xuống
đi!
Chớ giữ làm
chi có ích gì?
Thở ra chẳng
lại còn chi nữa.
Vạn sự vô
thường buông xuống đi!‛
Các con không dám
buông xả nên từ năm
này đến
năm khác tu cứ giậm
chân tại chỗ. Nhất là các con lại hiều sai sự chứng đạo
của Phật, nên có gắng ức chế tâm cho hết vọng tưởng như trên đã nói. Thành ra tu tập cho tới bây giờ
mà chưa có người
nào chứng quả A
La Hán. Quả A
La Hán, tu tập đâu
có khó khăn
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
như các đoạn
kinh trên đã dạy. Thầy sẽ chứng minh
thêm một phụ bản nữa để các con thấy sự chứng đạo của đạo Phật không có khó
khăn.
PHỤ LỤC III
ĐỨC PHẬT VÀ RAHULA
(LA HỈU LA)
‚Rahula (Hán
dịch La Hầu La) là người con trai độc nhất của đức Phật, khi đức Phật còn là
Thái tử. Lần đầu tiên đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành
đạo, Rahula lên 7 tuổi, được mẹ và dì
Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahula được
chấp nhận vào
tăng đoàn, và được
đức Phật giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ.
Một trong những
bài kinh nổi tiếng, đức Phật đích
thân giảng cho La
Hầu La sau khi La Hầu La
xuất gia, là kinh Ambalatthika Rahulovada sutta, trong đó đức
Phật nhấn mạnh tầm quan
trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi
ý niệm, lời
nói và hành
vi bất thiện, bất chánh.
Nhờ luyện
tập pháp tu định niệm
hơi thở, theo lời chỉ dẫn của đức Phật, và sau khi
nghe giảng kinh
Cula Rahulovada,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Ngài La hầu La
chứng quả A
La Hán. Ngài qua đời trước Phật
và Xá Lợi Phất. Trong ‚Trưởng Lão
Tăng Kệ‛, sau
khi Ngài chứng quả A La Hán, Ngài có
bài kệ
như sau:
Nhờ ta được
đầy đủ Hai đức tính tốt đẹp Được bạn có trí gọi La Hầu La may mắn Ta là con đức
Phật
Ta lại được
pháp nhãn Các lậu hoặc đoạn tận Không còn có tái sanh Ba minh ta đạt được Thấy
được giới bất tử‛
Đối với
La Hầu La qua
đoạn kinh trên
chúng ta thấy La Hầu La
có nghe pháp, có tu
tập, rồi có chứng đạo, nhưng chứng đạo cũng không có khó khăn, thời gian cũng
không lâu.
Như vậy,
trong thời đức Phật người nào được
nghe Phật thuyết
pháp rồi quyết
tâm từ bỏ ly dục
ly ác pháp và cuối cùng
người nào cũng chứng
quả A La
Hán hết, chỉ
có những
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
người nghe
pháp rồi bỏ qua
không chấp nhận và
không thiết tha xả bỏ
tham, sân, si, mạn,
nghi thì không bao giờ chứng đạo được.
Muốn tu chứng đạo mà
đời không dám bỏ thì tu
làm sao chứng được.
Trong bộ sách Văn Hóa Phật Giáo
Truyền Thống tập II Phật dạy:
‚Cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa, sống không
nhà cửa, không gia đình‛. Đây là những giới luật đầu tiên cho người mới xuất
gia theo Phật giáo. Người mới xuất gia
là người phải
buông xả sạch đời sống thế
gian. Cho nên,
những người nghe pháp
xong liền xin Phật
xuất gia thì không bao lâu
họ sẽ chứng
quả A la Hán, chính là do họ buông xả sạch đời sống thế
tục.
Mười vị sứ
giả của vua Tịnh Phạn sai đến mời Phật về
thăm cố đô,
nhưng khi gặp Phật nghe pháp liền xin xuất gia theo Phật tu
hành không cần đến danh lợi, tiền của, vật chất, gia đình, vợ con, quan cao chức lớn. Có xả tâm như vậy
mới có chứng quả A La Hán một cách dễ dàng và chỉ trong một thời gian ngắn mà
thôi.
Để kết
luận những lời tâm
huyết này Thầy xin nhắc các
con, hãy nên lưu
ý pháp tu Tứ Niệm Xứ ‚Trên thân quán thân để nhiếp
phục tham ưu;
trên thọ quán
thọ...; trên tâm quán
tâm...; trên pháp
quán pháp để
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
nhiếp phục
tham ưu‛. Bài kinh dạy như vậy
nhưng rất nhiều
người hiểu sai
thành thử chia pháp môn Tứ Niệm Xứ
thành ra bốn pháp
tu tập. Cho nên, có trường thiền chuyên tu QUÁN THÂN;
có trường thiền
chuyên tu QUÁN
THỌ; có trường thiền
chuyên tu
QUÁN TÂM; có trường
thiện chuyên tu
QUÁN PHÁP. Đây là
một cái
sai của các
nhà học giả
tu hành chưa tới nơi mà dám chia pháp môn Tứ Niệm Xứ,
rồi đem dạy người tu tập thật là tội nghiệp.
Pháp môn Tứ Niệm Xứ là
pháp môn xả mọi
chướng ngại trên
thân tâm, cho nên
nó mới được gọi là nhiếp phục tham ưu. Nhưng khi quán thân là đã có quán
tâm, quán thọ và quán pháp.
Khi ngồi tu
Tứ Niệm Xứ là không tu gì cả, chỉ ngồi chơi như người vô sự. Người vô sự thì
tâm họ
ở đâu? Đã vô sự thì ý
thức quán thân nó, chứ nó ở đâu?
Quán thân
không có nghĩa
là nó đang tư duy suy nghĩ, quán ở đây
có nghĩa là
nó tỉnh giác cảm nhận toàn
thân tức là
nó đang quan sát thân.
Cho nên, thân nó
có chướng ngại
gì thì nó liền biết;
tâm nó có chướng ngại
gì thì nó liền biết;
thọ nó có chướng ngại
gì thì nó liền biết;
pháp có chướng
ngại gì thì nó
liền
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
biết. Nhờ biết
đó mà nó dùng pháp như lý tác ý đuổi
đi các chướng
ngại ra khỏi bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Khi các chướng ngại ra
khỏi thân, thọ, tâm,
pháp thì ý thức
lúc biết thân, lúc biết thọ, lúc biết tâm, lúc biết
pháp. Khi nó đang quán như vậy thì các con đừng tác ý khởi niệm, nếu
khởi niệm là
tâm các con
đang phóng dật. Mục đích tu tập của
TỨ NIỆM XỨ là tâm
không phóng dật.
Chỉ khi nào trên
thân, thọ, tâm và pháp có chướng
ngại pháp thì mới tác
ý xả, còn không chướng ngại thì không tác ý. Các con đừng hiểu lầm xả từng
niệm trong tâm, đó là các con tu sai pháp.
Các con
nên lưu ý
cách thức QUÁN TỨ
NIỆM XỨ,
nếu không lưu
ý các con sẽ
quán sai thành ra
quán ức chế
tâm, chứ không
phải quán Tứ Niệm Xứ.
Pháp môn
này đức Phật
tu tập 49 ngày
đêm là chứng đạo. Thầy sáu tháng rưỡi chứng đạo. Ông
Châu Lợi Bàn Đặc cũng
do tu tập pháp môn này mà chứng đạo. Vì thế, trước
khi nhập Niết Bàn đức Phật
đã di chúc lại cho người
đời sau: ‚Hãy lấy giới
luật và giáo pháp của Ta làm Thầy, đừng lấy ai làm
thầy; làm ngọn đuốc soi đường, làm chỗ nương tựa vững chắc‛.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Còn năm
tháng nữa chúc
các con chứng quả A La
Hán để không
phụ lòng Thầy
mong
đợi.
Thân thương
chào các con
Kính ghi, Thầy của các con
--------
HẾT TẬP VII
Ø À Ù Ä Ä
MỤC LỤC
Lời nói đầu
.......................................................... 5
Định niệm
hơi thở............................................ 27
Thiền xả tâm
.................................................... 42
Cận tử nghiệp
................................................... 48
Tiếp dẫn về
Cực Lạc ........................................ 53
Khi tắt thở
mà còn sân hận ............................ 58
Ý thức
................................................................ 61
Tâm linh
........................................................... 63
Mạc na thức
và A lại da thức .......................... 65
Tu sai hay
tu đúng ........................................... 68
Ý thức phân
biệt và tỉnh giác ......................... 70
Định niệm
hơi thở câu hữu pháp hướng tâm . 73
Ngồi thiền
nhập định ...................................... 76
Tiếng kêu cứu
giữa biển khơi .......................... 79
Thời khóa tu
..................................................... 85
Đề tài thiền
quán ............................................. 88
Đừng mất hi
vọng............................................. 89
Tự tại ra
đi........................................................ 91
Pháp hướng
tâm ............................................... 95
û õ Â Ï
Trọng nam
khinh nữ ........................................ 98
Nén tâm
hương ............................................... 103
Đếm một ngàn
hơi thở ................................... 108
Vọng tưởng
xen vào ........................................ 110
Chọn pháp dễ
tu ............................................. 112
Xả tâm
............................................................. 115
Tùy thuận
........................................................ 116
Hội họp
............................................................ 120
Dẫn tâm vào
đạo ............................................ 128
Làm chùa, tô
tượng, đúc chuông .................... 132
Yểu tử có được
tái sanh không?..................... 136
Nhân quả
xinh đẹp ......................................... 139
Hối lộ Phật......................................................
142
Cúng dường
trai tăng ..................................... 146
Thông
minh..................................................... 148
Trùng trong
lông sư tử ................................... 152
Cúng dường
đúng chánh pháp ....................... 157
Hủy hoại cơ
thể hoặc một phần cơ thể cúng dường chư Phật cầu vô thượng pháp .............
162
Mời ông bà
đã chết về ăn tết ........................ 180
Cầu xin phúc
lộc ............................................. 184
Kinh sách
phát triển...................................... 188
Hình ảnh Quan thế âm bồ tát ......................
190
Ba hồn bảy
vía, ba hồn chín vía ................... 192
Kinh cầu kỳ
và điệp phái .............................. 197
Tuần thất
........................................................ 204
Xóc thẻ
............................................................ 210
Tượng Phật
quá nhiều.................................... 213
Nếu con người
không ăn thịt chúng sanh thì sẽ tràn ngập trái đất ..........................................
219
Sát nhân thì
nhân oán, sát vật thì hóa kiếp làm chúng sanh của chúng
............................ 222
Làm kiếp con
mèo là sắp đến con người ...... 225
Chết giờ tốt,
giờ xấu ...................................... 232
Giờ hạ huyệt
................................................... 237
Không thắp
hương khi cúng giỗ.................... 241
Sáu nẻo luân
hồi............................................. 247
Đức Phật Di
Lặc ............................................. 251
Tu hành
tránh pháp ức chế tâm ................... 256
Lời nói phải
đi đôi với việc làm .................... 258
Tâm thanh tịnh
.............................................. 264
Đã học giới
luật mà còn phạm ...................... 266
Ăn của đàn
na thí chủ mà không tu ............. 268
Thân kiến là
gì? ............................................. 270
û õ Â Ï
Xem ngày tốt
xấu ........................................... 273
Độ siêu
thoát................................................... 277
Aên mặn nói
ngay, ăn chay nói dối ................ 281
Đi dép da, mặc
áo lông thú............................ 286
Sinh nhật thầy
trụ trì .................................... 288
Cúng dường bố
thí đúng chánh pháp............ 290
Lên đồng nhập
cốt.......................................... 294
Aên thịt
chúng sanh ........................................ 301
Tụng kinh giỏi,
thông giáo lý ........................ 304
Tâm danh và
bỏn xẻn .................................... 307
Thờ phụng,
đi lễ, cúng chùa .......................... 310
Học trò bạc
nghĩa ........................................... 313
Tu sĩ làm
con nuôi, em nuôi .......................... 315
Tội tử hình
...................................................... 316
Thuê du
côn..................................................... 320
Ngồi mát ăn
bát vàng .................................... 321
Bon ăn mày đội
lốt tu sĩ Phật giáo ............... 324
Giải hạn...........................................................
330
Bà La Môn
...................................................... 333
Cúng kem
........................................................ 336
Làm lễ nhập
nhà mới..................................... 338
Ø À Ù Ä Ä
Triệu linh
tiếp linh ........................................ 340
Nghe pháp
không được trang điểm .............. 342
Linh hồn báo
mộng ........................................ 344
Tạo điều kiện
cho người chết ........................ 346
Chúc thọ
.......................................................... 348
Sống chẳng
cho ăn, chết làm văn tế ruồi..... 349
Chiếm đoạt
chùa............................................. 355
Thầy tụng........................................................
357
Tứ chúng
......................................................... 359
“Chết” là sự
nối tiếp của luật nhân quả vô thường
............................................................. 361
Ăn thịt
chúng sanh vì sức khỏe .................... 365
Ông
táo............................................................ 368
Mời người chết
về ăn Tết .............................. 371
Những lời
tâm huyết của trưởng lão Thích
Thông Lạc
....................................................... 374
Phụ lục I: Đức
Phật Thích Ca về thăm gia đình
.........................................................................
399
Phụ lục II:
Đức Phật và phụ vương Suddhodana
.........................................................................
401
Phụ lục III:
Đức Phật và La Hầu La ............. 404
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!