VĂN HÓA
PHẬT GIÁO
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT
TẬP III
GIỚI LUẬT
Giới luật
như chiếc chìa khóa để mở
cửa thiền
định, người tu sĩ cũng như
người cư
sĩ tu tập thiền định mà không
giữ gìn
giới luật thì không bao giờ bước
vào cửa
thiền định được. Thiền định của
Phật giáo
chỉ dành cho những người giới
luật nghiêm
chỉnh. Xin các bạn lưu ý!
-4-Lời nói
đầu
Đường Về
Xứ Phật tập 3 ra đời
sẽ chỉ
thẳng cho quý vị biết rất rõ về thế
giới siêu
hình mà từ xưa cho đến ngày nay,
con người
trên hành tinh này từ Đông sang
Tây, từ Nam
chí Bắc và tất cả các tôn
giáo khác
có mặt trên hành tinh này, ngoại
trừ Phật
giáo ra, đều chấp nhận có thế giới
siêu hình.
Thế giới siêu hình có thật haykhông? Xin thưa quý bạn hãy đọc Đường
Về Xứ
Phật tập ba thì sẽ rõ.
Về vấn đề
giải quyết thế giới siêu hình
là một
vấn đề nan giải của loài người, vì từ
xưa cho đến
ngày nay, nhất là khoa học hiện
đại đang
truy tìm để xác chứng có hay là
không có,
nhưng các nhà khoa học hiện giờ
đều điên
đầu với những hiện tượng siêu hình
mà không
thể lý giải chứng minh bằng khoa
học được.
Chúng tôi
là những hành giả của đạo
Phật, lấy
giới luật và giáo pháp của đức
Phật làm
hành trang và vũ khí để tiến bước
vào tâm
linh của mình, nói cách khác cho dễ
hiểu hơn
là chúng tôi dùng giới luật và giáo
pháp của
đức Phật điều khiển và khai mở
thân ngũ
uẩn. Khi khai mở thân ngũ uẩn tứclà khai mở bộ óc của con người,
khai mở bộ
óc của con
người tức là khám phá thế giới
linh hồn
của người chết.
Thưa quý
vị, thân ngũ uẩn là một bộ
máy rất
tinh vi mà tất cả các nhà khoa học
trên thế
giới đều phải chấp nhận. Vì khoa
học chưa
có thể sáng tạo ra con người thật
con người
được, nhất là về phần tâm linh.
Khoa học
hiện đại đã phát minh ra bộ
máy vi
tính tuyệt vời làm việc đa năng,
nhưng sánh
với bộ máy thân ngũ uẩn của con
người thì
nó còn kém quá xa, vì máy vi tính
không có
phần tình cảm thương, yêu, ghét,
giận, hờn,
phiền não, khổ đau v.v.. Nếu
khoa học
chịu khó không ngừng tiến triển thì
chắc chắn
bộ máy vi tính sẽ thay thế não bộ
của con
người để khám phá bộ não của conngười, thì chừng đó thế giới linh
hồ n của
người chết
mới lý giải và minh chứng được
sự thật
thế giới siêu hình là không có.
Ngày xưa,
ông Galilé bảo rằng quả
đất tròn,
thì Giáo Hội La Mã cho rằng
ông nói
sai, vì Thiên Chúa bảo rằng quả
đất vuông,
cho nên ông bị kết tội tử hình.
Ngày nay
khoa học đã xác minh đúng là
quả đất
tròn thì mọi người ai cũng đều
thương tiếc
ông. (Nhưng có thuyết cho rằng
ông Galilé
bảo trái đất đi quanh mặt trời
ngược lại
kinh thánh Thiên Chúa cho rằng
Mặt trời
đi quanh trái đất).
Cách đây
2545 năm, có một người Ấn
Độ tên là
Sĩ Đạt Ta (đức Phật) bảo
rằng: “Thế
giới siêu hình không có,
nó chỉ là
một thế giới tưởng (tưởngtri) mà thôi”. Cho đến ngày nay người ta
cũng vẫn
không tin lời nói này.
Khi đức
Phật tu tập xong và cảm
nhận bộ
máy thân ngũ uẩn thật là vi diệu
và tuyệt
vời, Ngài đã điều khiển nó bắt
gặp các
tần số âm thanh, sắc tướng và tất
cả những
hành động của những sự việc đã
qua của
những người chết còn lưu lại trong
không gian.
Bất kỳ thời gian quá khứ nào
Ngài cũng
bắt gặp lại được dễ dàng,
những danh
từ trong thời Ngài được gọi,
đó là
“Túc Mạng Minh”.
Những hình
ảnh, âm thanh và những
hành động
đã qua của con người còn giữ lại
trong không
gian này bất kỳ nơi đâu, khi
điều khiển
thân ngũ uẩn, nó đều bắt gặp các
tần số
hình ảnh và âm thanh một cách dễdàng, danh từ trong thời Đức Phật
gọi đó
là “ Thiên
Nhãn Minh”.
Khi Đức
Phật tu xong, Ngài truy
tìm con
người từ đâu sanh ra? Với chiếc
máy thân
ngũ uẩn Ngài đã điều khiển và
tìm thấy
được nguyên nhân sanh ra con người
đó là
“nghiệp lực nhân quả" mà danh từ
trong thời
Đức Phật gọi là “Lậu Tận
Minh”.
Sau khi
chứng đạt chân lí xong Ngài
dùng bộ
máy thân ngũ uẩn truy tìm linh hồn
con người
tái sanh nơi đâu? Nhưng Ngài
không bắt
gặp linh hồn mà lại bắt gặp
nghiệp lực
nhân quả tái sanh luân hồi. Do
đó trong
bài kinh Pháp Môn Căn Bản
Ngài quả
quyết xác định thế giới siêu hình
và hữu
hình không có thật, chỉ là tưởng tricủa con người dựng lên. Do sự
dựng lên và
chấp chặt
mà loài người phải chịu khổ đau
từ đời
này sang đời khác; do sự dựng lên và
chấp chặt
con người đã đánh mất đạo đức
làm người.
Vì con người tin và nghĩ rằng:
“Trong cuộc
sống hiện hữu của họ còn có
thế giới
vô hình ngự trị, gia hộ bảo bọc cho
họ” (Dù
cho tạo tội như núi cả. Diệu pháp
Liên Hoa
tụng mấy hàng). Vì tư tưởng
dựa lưng
vào Thần Thánh biến dần họ trở
thành
những ác thú và còn hơn thế nữa , họ
là những
ác quỷ. Hiện nay có một số người
dựa lưng
vào thế giới siêu hình khủng bố,
giết hại
người vô tội thật đáng thương.
Vì thế,
Đức Phật nói sáu cõi luân hồi
tức là
nói sáu đẳng cấp sống của muôn loài
vạn vật
trên hành tinh này, trong đó có conngười, vì con người được xem như
một loài
động vật.
Nói đến
cõi Trời tức là nói đến hành
động thiện
của con người, chứ không phải nói
đến thế
giới siêu hình, vì thế Đức Phật nói:
“Ta đến
cõi Phạm Thiên như duỗi cánh
tay”. Lời
nói này chúng ta phải hiểu đó là
một trạng
thái, một từ trường thiện hay ác,
dục hay vô
dục.
Bởi vậy,
Niết Bàn là một chân lý có
thật, vì
thế trong Tứ Thánh Đế, Diệt Đế
là Niết
Bàn, Niết Bàn là một trạng
thái tâm
diệt dục, chứ không có cõi giới
Niết Bàn
như các nhà Đại Thừa tưởng,
vẽ ra và
dựng lên nhiều cõi như: Nhị chủng
Niết Bàn,
Tứ Chủng Niết Bàn, Ngũ
chủng Niết
Bàn, v.v.. - Nhị Chủng Niết Bàn gồm có:
1- Hữu dư
Niết Bàn
2- Vô dư
Niết Bàn
- Tứ Chủng
Niết Bàn gồm có:
1- Bản lai
tự tính thanh tịnh Niết
Bàn.
2- Hữu dư y
Niết Bàn.
3- Vô dư y
Niết Bàn.
4- Vô trụ
xứ Niết Bàn.
- Ngũ
Chủng Niết Bàn gồm có:
1- Cõi dục
giới là nơi chứng quả mà
mến mộ là
Niết Bàn phàm phu thứ nhất.
2- Mến mộ
tính vô ái của Sơ Thiền
là Niết
Bàn phàm phu thứ hai.
3- Mến mộ
tâm vô khổ Nhị Thiền là
Niết Bàn
phàm phu thứ ba. 4- Mến mộ sự cực duyệt của Tam
Thiền là
Niết Bàn phàm phu thứ tư.
5- Mến mộ
sự khổ lạc đều quên của
Tứ Thiền
là Niết Bàn phàm phu thứ
năm.
Bởi vậy
mùi vị giải thoát chỉ có một,
chứ không
hai, nó cũng giống như nước biển
chỉ duy
nhất có một mùi vị mặn mà thôi ,
nhưng các
Tổ sau này bày vẽ và chia chẻ
Niết Bàn
ra nhiều loại để lừa đảo mọi
người rằng
mình cũng chứng trong những
trạng thái
Niết Bàn.
Làm sao
bốn trạng thái Bốn Thiền
là bốn
Niết Bàn được, trong khi kinh sách
Phật đã
xác định rõ ràng: “Bốn trạng thái
Tứ Thánh
Định là bốn trạng thái cõi
Trời” như:
1- Sơ Thiền Thiên
2- Nhị
Thiền Thiên
3- Tam
Thiền Thiên
4- Tứ
Thiền Thiên
Thật sự
các nhà học giả phát triển có
nhiều ý
thâm độc ác để đánh lừa Phật tử
bằng nhiều
cảnh giới Niết Bàn để biến
dần trạng
thái Niết Bàn thành cõi giới
siêu hình
Niết Bàn.
Trong kinh
Duy Ma Cật, khi Thiên
nữ rải hoa
tán thán pháp môn bất nhị thì
hàng Bồ
Tát như: Ngài Văn Thù, Phổ
Hiền, Thế
Chí, Quan Âm thì hoa không
dính, còn
ngược lại hàng Thanh Văn như:
Ngài Xá
Lợi Phất, Mục Kiền Liên,
Phú Lâu Na,
Ca Chiên Diên, A Na
Luật đều
bị hoa dính đầy áo, đó là mộtviệc làm của các Tổ soạn viết kinh
sách
phát triển
với thâm ý hạ bệ các vị đại đệ tử
của đức
Phật, để làm sống lại thế giới siêu
hình mà
đã bị đức Phật bóp chết từ khi
đạo Phật
có mặt trên hành tinh này.
Các vị
đại đệ tử của Phật là một
chứng cứ
trạng thái Niết Bàn hiện tại
trong cuộc
sống hằng ngày và đến khi nhập
diệt trạng
thái đó vẫn không sai khác.
Vì có một
chứng cứ cụ thể như vậy cho
nên thế
giới siêu hình bị diệt mất, thế giới
siêu hình
bị diệt mất thì các tôn giáo trên
hành tinh
này không còn đất đứng, có nghĩa
là không
còn lừa đảo ai được nữa.
Hiểu biết
rất rõ điều này nên các giáo
sĩ Bà La
Môn thừa nước đục thả câu, tức
là thừa
lúc Phật giáo không có người tuchứng, nên soạn viết kinh sách lồng
vào giáo
pháp của
Phật để biến tu sĩ Phật giáo
thành các
tu sĩ Bà La Môn mà không hay
biết, các
tu sĩ này cứ ngỡ tưởng mình là tu sĩ
Phật giáo.
Chúng tôi nói đến đây quý vị cứ
suy ngẫm
có đúng vậy không? Nếu đúng
thì quý
vị tin, còn không thì quý vị xem như
đây là
chúng tôi chưa từng nói những lời
này.
Người ta
hạ bệ các vị đại đệ tử của
đức Phật
bằng nhiều cách, trên đây là một
cách trong
kinh Duy Ma Cật và các kinh
khác còn
rất nhiều.
Như quý vị
đã biết, giới luật của
Phật là
dạy sống trong những hành động
đạo đức
làm Người, làm Thánh. Ánh
sáng đạo
đức của Phật giáo như ánh hàoquang khiến cho người đời đều tôn kính
và
quý trọng.
Vì thế,
đức Phật dạy: “Này các Tỳ
kheo, nếu
các Thầy giữ gìn giới luật
nghiêm túc
thì hàng cư sĩ Phật tử sẽ
trải tóc
cho các Thầy đi trên đó”.
Thời nào
cũng vậy con người ai cũng quý
trọng và
tôn kính đạo đức, chỉ có những tu sĩ
phạm giới,
phá giới sống bừa bãi, ăn uống
ngủ nghỉ
phi thời, thường có những hành
động vô
đạo đức, nên mới lý luận phá giới
luật của
Phật, nhất là dựa vào những lời
thêm bớt
của các Tổ trong kinh sác h, lấy cớ
là Phật
thuyết để mặc tình theo đó sống
phóng dật
chạy theo dục, thọ hưởng lạc thế
gian mà
các nhà học giả gọi đó là hợp thời. Giới luật của Phật khiến cho
hàng
bạch y (cư
sĩ) quá kính trọng. Vì thế, các
giáo sĩ
Bà La Môn ganh tị, muốn diệt
giới luật
của Phật, nên khi đức Phật tịch
thì họ
lồng thêm vào những lời di chúc của
đức Phật
bằng câu kinh rất phi lý: “Này
Ananda từ
nay trở đi cho phép các
Tỳ kheo
tùy nghi bỏ các giới nhỏ
nhặt” .
Lời dạy này thật là phi lý, giới
luật của
Phật là những hành động đạo đức
giải thoát
cho mình cho người, thì có giới
luật nhỏ
nhặt nào phải bỏ, chỉ có những tu
sĩ phóng
dật chạy theo dục lạc thế gian,
tham ăn tham
ngủ mới dựa vào những lời di
chúc giả
mạo của Bà La Môn mà ngang
nhiên sống
phạm giới phá giới luật. Người tu sĩ cũng như cư sĩ đệ tử của
Phật sống
mà không giới luật hay nói cách
khác là
khi thọ giới luật mà luôn lúc nào
cũng sống
phạm giới, phá giới thì làm đệ tử
của Phật
làm gì ? Thà là đừng quy y Tam
Bảo, đừng
xuất gia, đã quy y Tam Bảo và
xuất gia
mà giới luật vi phạm thì thử hỏi
quý vị
còn tu pháp môn gì của đạo Phật mà
gọi là
đạo Phật?
Như đức
Phật đã dạy: “Giới luật
là trí
tuệ, trí tuệ là giới luật” , đó
là đức
Phật nói đạo đức không làm khổ
mình, khổ
người. Ngài dạy tiếp: “Ta nói
giới luật
là nói tâm ly dục ly ác
pháp, Ta
nói tâm ly dục ly ác
pháp, đó
là Ta nói thiền định”. Cho
nên, “Ta
nói giới luật là nói tâmkhông phóng dật, Ta nói tâm không
phóng dật
đó là Ta nói Niết Bàn”.
Do đó,
trước giờ phút lâm chung đức Phật
di chúc:
“Ta thành Chánh giác là nhờ
tâm không phóng
dật”. Như vậy, đức
Phật thành
đạo không phải là do giới luật
hay sao?
Vậy mà tu theo đạo Phật , giới
luật không
nghiêm túc thì tu theo để làm gì?
Có ích
lợi gì? Có giải thoát gì đâu?
Giới luật
là một pháp môn sống đúng,
tu tập
đúng là con người có đạo đức, có trí
tuệ, có
thiền định và có sự giải thoát ngay
liền như
những lời trên đức Phật đã xác
định.
Nhìn lại
sự tu tập của quý vị, quý vị
có thấy
mình tu hành đúng hay không?
Đúng sao
quý vị không nếm được mùi giảithoát? Mùi vị giải thoát của đạo
Phật
như thế
nào?
Sống không
làm khổ mình, khổ người
là giải
thoát; sống ly dục ly ác pháp là giải
thoát;
sống tâm không phóng dật là giải
thoát.
Những sự giải thoát trên đây không
phải do
giới luật mà có hay sao?
Thế mà
thời nay người ta tu hành chỉ
biết
Thiền, Mật, Tịnh mà không biết giới
luật thì
tu hành như vậy không thể nào đúng
đạo Phật
được. Người tu hành có giới luật
là người
có đạo đức, người có đạo đức thì
không chấp
nhận thế giới siêu hình, vì thế
giới siêu
hình là thế giới phi đạo đức. Nếu
tất cả
tín đồ của Phật giáo đều sống đúng
đạo đức
thì có cần gì phải cầu khẩn, phảicúng tế những ông Thần, ông Thánh
tưởng
tượng đó.
Người đệ
tử của Phật sống đúng giới
luật thì
còn ai lừa đảo họ được, vì giới luật
là trí
tuệ “Giới luật ở đâu trí tuệ ở đó”, chỉ
vì tín đồ
Phật Giáo sống không đúng giới
luật, do
sống không đúng giới luật nên ngu
si không
trí tuệ, mê muội bị ngoại đạo lừa
đảo. Đến
giờ này họ còn chưa thức tỉnh,
chưa biết
đâu là nẻo chánh nẻo tà, luôn luôn
không thấy
Thầy Tổ của họ sống không
đúng giới
luật, sống không trí tuệ, đang
sống trong
cảnh giới mơ hồ ảo tưởng (bùa
chú thần
thông, Phật tánh ảo tưởng, Cực
Lạc Thiên
Đường mơ hồ).
Tập 3
Đường Về Xứ Phật ,Thầy sẽ
cố gắng
làm sáng tỏ để mọi người hiểu biếtrằng thế giới siêu hình không
có, tuy rằng
Thầy đã
nhiều lần giải thích, nhưng có một
số người
quá cố chấp (kiến chấp theo kiểu tà
kiến kinh
sách phát triển) theo ngôn ngữ
kinh sách
phát triển mà không hiểu ý Phật .
Những gì
chúng tôi nói ở đây là một
sự cố
gắng làm sáng tỏ mọi vấn đề để đem
lại sự
lợi ích và giúp cho mọi người thoát
khổ, sống
một đời sống đạo đức không làm
khổ mình,
khổ người. Đạo Phật đến với
mọi người
là như thế, một sự an vui hạnh
phúc thực
tế và cụ thể không có mơ hồ, trừu
tượng, ảo
giác chút nào cả.
Bước thứ
nhất chúng ta đã đạt được,
thì bước
thứ hai đâu có khó khăn gì. Đức
Phật đã
nói: “Khi tâm định tỉnh, nhu
nhuyễn dễ
sử dụng thì nhập định không cókhó khăn, không mệt nhọc, không có phí
sức”.
Ở đây tâm
định tỉnh và nhu nhuyễn như
thế nào?
Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn là tâm
ly dục ly
ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là
tâm sống
đúng giới luật nghiêm túc, không
hề vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Nhờ
giới luật
nghiêm túc không phạm nên nhập
định không
có khó khăn, không có mệt nhọc,
không có
phí sức, chứ không như các pháp
môn khác,
tu tập thiền định mãi mà chẳng
nhập được
thiền định gì cả chỉ rơi vào trạng
thái tưởng
mà thôi. Cuối cùng thì chẳng có
làm chủ
sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt
luân hồi
được.
Nếu cuộc
đời tu hành mà sống không
đúng giới
luật thì đừng đi tu, dù đi tu cũngchẳng ích lợi gì, chỉ phí uổng
một đời mà
thôi.
Đi tu mà
phá giới, phạm giới, bẻ vụn
giới là
những người diệt Phật giáo, phá nền
đạo đức
của Phật giáo, những người có tội
lớn với
nhân loại. Ngày mai lịch sử sẽ ghi
và kết án
những người phá hoại nền đạo đức
này.
Những gì
trong tập sách này, chúng
tôi đã nói
ra có gì còn sơ sót, không vừa ý
xin quý vị
vui lòng suy ngẫm lại và sẵn lòng
bỏ qua cho,
chúng tôi rất biết ơn.
Kính ghi
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc
Ngày 20
tháng 3 năm 2001PHÁP HƯỚNG TÂM
Câu hỏi
của Huệ Ân
Hỏi:Kínhthưa
Thầy, theo lời cô Út
Diệu Quang
đã dạy con, phải dùng pháp hướng
tịnh chỉ
thân bệnh, con đã nghe lời và tin ở cô.
Khi đau
nhức bất cứ chỗ nào trong thân con
đều hướng
tâm ám thị một hai lần làm cơn đau
giảm thấy
rõ ràng và hết đau. Con thấy pháp
hướng tâm
cô Út Diệu Quang dạy rất hay và
xin Thầy
chỉ dạy thêm cho con được rõ?
Đáp: Pháp
môn Phật dạy, pháp nào cũng
đều có
hiệu quả tốt, nhưng do ở lòng tin và sự
siêng năng
tập luyện chuyên cần là thấy kết
quả, cho
nên trong kinh thường dạy: “Pháp là
cụ thể
thiết thực không có thời gian”. Nếu đặt
trọn lòng
tin ở pháp đó mà nỗ lực tu tập thì có
kết quả
thấy được ngay liền. Và kết quả đó là
giúp cho
các con có lòng tin không lay chuyển,
người tu
tập không kết quả lòng tin lần lần
biến mất,
mà hễ lòng tin biến mất thì tâm thối
chuyển, tâm
thối chuyển thì dễ bị lọt vào tà
pháp, dễ
bị người khác lừa đảo. Vì thế, trong kinh sách của đạo Phật, khi
bắt đầu
thực hành thì đức Phật thường nhắc
nhở “Tín
lực” là trên hết. Tín lực là lòng tin
mạnh mẽ
để người tu sẽ đạt được đạo, người
không có
lòng tin thì tu chẳng kết quả tốt.
Trong Ngũ
Lực, Tín lực là pháp tu hàng đầu,
nếu không
đặt trọn lòng tin ở giáo pháp của
Phật thì
sự tu hành trở thành vô ích chẳng có
kết quả
gì, có lòng tin thì mới cố gắng tu tập,
không có
lòng tin thì tu cho có hình thức, chứ
không có
kết quả nữa.
Ví dụ: Như
hiện giờ quý Thầy nương theo
Thầy tu
hành, trong khi đó tâm quý Thầy khởi
nghi về
Thầy một điều gì như: “Thầy dạy như
vậy không
biết Thầy có tu chứng hay không?
Sao không
thấy Thầy thể hiện thần thông? Sao
không thấy
Thầy ngồi thiền nhập định một hai
tháng cho
mình xem, hoặc tịnh chỉ hơi thở để
mình tin
thiền định đó có đúng như kinh đã
dạy không
???”
Khi đã có
tâm nghi như vậy, dù quý Thầy
có ở đây
nỗ lực tu hành cũng không có kết quả
gì. Tại
sao vậy?
Tại vì
mục đích tu hành của quý thầy
không phải
cầu giải thoát mà cầu thần thông, cầu thiền định, cầu được sanh về
Cực Lạc,
Thiên Đàng,
Niết Bàn.
Như Đức Phật
đã xác định: “Mục đích
của Đạo Ta
không phải chỗ giới luật,
không phải
chỗ thiền định, không phải
chỗ trí
tuệ, không phải chỗ thần thông
v.v.. mà
chỗ bất động tâm”.
Khi chúng
ta tu hành theo Đạo Phật mà
không xác
định đúng vị trí và mục đích của đạo
Phật thì
chúng ta tu tập sẽ rơi vào ngoại đạo.
Người ta
thường mong muốn một vị Thầy phải
thị hiện
thần thông phép lạ thì người ta mới tu
hành theo,
bằng ngược lại ngườ i ta bỏ đi. Vì
thế, đức
Phật đã trả lời cho một vị Tỳ Kheo:
“Ta có bao
giờ bảo ngươi theo Ta tu hành
thì Ta thể
hiện thần thông cho ngươi xem
chăng? Các
ngươi có tu hành thì các ngươi
được giải
thoát, còn không tu hành thì các
người phải
chịu khổ đau, chứ có lợi ích gì
cho Ta mà
Ta phải dụ dỗ các ngươi bằng
thần
thông”. Lấy thần thông dụ dỗ các ngươi
tu hành là
dẫn dắt các ngươi đi vào tà đạo; lấy
thần thông
dụ dỗ các ngươi tu hành là tạo tâ m
tham đắm
của các ngươi càng to lớn và nhiều
hơn, như
vậy là đã đi sai đường của Phật giáo
rồi. Người
nào đến với Thầy mà tâm không
tha thiết
tu tập cầu giải thoát, mà chỉ biết tu
tập cầu
thần thông thì người ấy sẽ không sống
chung với
Thầy lâu dài. Tại sao vậy?
Tại vì
Thầy đến với đạo Phật là đến với
sự cầu tu
tập cho được tâm bất động trước các
ác pháp
và các cảm thọ.
Tại vì
Thầy đến với đạo Phật là cầu tu tập
sống được
một đời sống không làm khổ mình,
khổ người,
chứ không phải đến với đạo Phật
cầu cơm ăn
áo mặc hoặc danh lợi chùa to Phật
lớn.
Tại vì
Thầy đến với đạo Phật là cầu tu tập
cho được
một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô
sự, chứ
không phải cầu thiền định, thần thông
và trí
tuệ siêu việt.
Vì thế,
lòng tin nơi đạo Phật là tin nơi
đạo đức
nhân bản của Phật, chúng Thánh Tăng
và Thánh
Ni. Và tin nơi giáo pháp dạy toàn
thiện của
đức Phật. Do lòng tin ấy mà sự tu tập
của chúng
ta có kết quả ngay liền như con đã
trình bày
trên.
Quý Thầy
nghi ngờ vị Thầy dạy mình tu
tập, thì
lòng tin của quý Thầy đã bị đánh mất
rồi. Lòng
tin mất là tu không có kết quả. Chỉ vìmục đích và hướng tu của quý
Thầy nhắm vào
thần thông,
chứ không phải mục đích và hướng
tu vào sự
giải thoát, cũng như các cô bên nữ khi
còn lòng
tin và kính trọng nơi cô Diệu Quang,
lúc các cô
bị cô Út Diệu Quang đập thì tâm các
con dễ
buông xả, dễ thanh thản, an lạc hơn,
thấy tâm
mình giải thoát rõ ràng. Còn khi mất
niềm tin
và không còn kính trọng cô Út Diệu
Quang nữa
thì lúc bị cô đập thì các cô và các
con dễ bị
tức giận và đau khổ, rồi sanh ra thù
hận, ghét
cay ghét đắng. Vì thế, lấy kinh
nghiệm tu
hành nơi bản thân của mình thì
thấu rõ.
“Lòng tin
là quan trọng đệ nhất trên
bước đường
tu hành”, thiếu lòng tin thì dù
pháp có
mầu nhiệm cũng thành dở phải không
hỡi các
con?
Tại sao
cũng một pháp môn hướng tâm
như lý tác
ý, mà có người tu có kết quả tốt, mà
lại có
người tu không kết quả, đó là như thế
nào? Có
hai nguyên nhân:
1- Người
nghe pháp môn như lý tác ý mà
có lòng
tin rất sâu, tin không gì lay chuyển
được lòng
họ, đó là trường hợp của con, trường
hợp này
là vì đời trước con có tu pháp như lý
tác ý rồi
nên đã có một thời gian huân nó, bâygiờ tu tập trở lại, và vì vậy
mà nó có hiệu quả
ngay tức
thời.
2- Người
nghe pháp môn như lý tác ý,
cũng tin
mà tin chưa sâu, cũng tập tu, nhưng
tập tu lấy
lệ, tu tập không có bền chí, không có
cố gắng,
không có ráng sức, không có quyết chí,
không có
gan dạ liều sống chết với pháp môn
này nên
không có hiệu quả. Vả lại kiếp trước
không có
huân tu, chỉ có hiện tại trong kiếp
này mà
thôi.
Người tu
sĩ và người cư sĩ muốn ly dục ly
ác pháp,
để tâm mình được an vui, thanh thản
và vô sự,
thì phải đặt trọn lòng tin ở người
Thiện hữu
tri thức thân cận, nếu không đặt
trọn niềm
tin ấy, người tu sĩ và người cư sĩ tu
hành khó
có kết quả. Các con cứ thử nghĩ, nếu
không tin
người hướng dẫn mình, mà cứ tu
hành theo
người đó thì có kết quả gì? Mất công
sức và
mất thì giờ vô ích.
Người
Thiện hữu tri thức thân cận, họ
luôn để ý
đến mình, biết mình tu sai, tu đúng
để chỉ
bảo thêm, vì hàng ngày họ tiếp duyên
với mình, họ
đều có gợi ý thử thách, để xem
mình tu
đến đâu, mà tìm cách chỉ dạy buông xả
cho hết tâm
phiền não, đau khổ. Mình không
đặt niềm
tin ở họ, thì mình tu không giải thoátvà phải chịu lấy mọi sự đau
khổ, chứ đâu phải
mình tu đem
lại ích lợi cho họ, mình tu tập
đúng thì
có giải thoát mình nhờ, còn tu sai
mình phải
gánh chịu hậu quả, chứ người hướng
dẫn có
lợi ích chỗ nào đâu?
Con đã đặt
trọn lòng tin ở cô Út nên tu
tập có
hiệu quả rất cụ thể. Con cũng có nhân
duyên với
cô Út, ngay từ khi cô Út dạy đâu con
tu đó, đó
là do lòng tin chân thật không còn
nghi ngờ.
Cũng như gần đây, cô Út dạy con tu
tập hơi
thở, tùy theo mức, con thấy thân con
được an
lạc và tâm con buông xả không còn lo
lắng cho
mấy đứa con nhiều nữa.
Ở đây, Hải
Tâm (Mười) cũng có lòng tin ở
cô Út, nó
xả tâm rất tốt, theo cô Út dạy về
Định Niệm
Hơi Thở, nghe theo lời dạy của cô
Út, nó
không tăng thời gian, vì thế, sức tỉnh
thức cao
dễ điều khiển pháp hướng tâm đi sâu
vào định
tỉnh xả tâm mà không bị tưởng ma,
có nghĩa
tỉnh thức trong niệm thiện ác, nhờ đó
mà tâm có
ly dục và ly ác pháp nên không bị
tưởng ma
quấy phá.
Tuy ở đây,
Hải Tâm chưa xả sạch hoàn
toàn nhưng
về xả tâm và hơi thở nó đã tu có
đúng cách,
nếu nó tiếp tục cố gắng tu tập và
gìn giữ
giới luật nghiêm chỉnh nhất là hạnhăn, hạnh ngủ, hạnh độc cư thì sẽ
tốt hơn nhiều.
Tu tập như
vậy không mất thời giờ mà kết quả
giải thoát
sẽ không còn lâu nữa. Nhưng phải
nhớ kỹ,
càng tu cao thì ma chướng càng nhiều,
càng tu cao
thì sự đổ vỡ càng dễ dàng, nên phải
đề phòng
cẩn thận, nhất là hạnh độc cư phòng
hộ sáu
căn.
Qua những
câu hỏi đạo của Hải Tâm
chứng tỏ
nó đã biết cách tu đúng theo sự hướng
dẫn của cô
Út Diệu Quang và rút ra được nhiều
kinh nghiệm
bản thân xả tâm của mình, nhưng
phải lưu ý
điều này, sự xả tâm phải được xả tận
cùng, xả
cho đến khi nào tâm không còn phóng
dật thì
mới có an ổn được, nếu tâm còn phóng
dật thì
nên đề cao cảnh giác, chứ đừng lơi lỏng
mà hỏng
chân, thất bại và có thể bỏ cuộc , cuối
cùng không
còn tu tập được gì cả.
Vì chính
không xả tâm tham, sân, si được
thì bị ức
chế tâm và ức chế tâm thì rất khổ
đau, nên
phải tu tập đi đến tận cùng con đường
giải
thoát, đừng tu tập bỏ lỡ giữa đường.
Trên bước
đường tu tập theo đạo Phật ,
mỗi hành
giả đều phải có những kinh nghiệm
riêng tư,
rút ra từ bản thân trau dồi rèn luyện
thân tâm
của mình, nhờ đó mới có thể đi đếnkết quả giải thoát hoàn toàn
làm chủ sanh, già,
bệnh,
chết.
Con hãy cố
gắng thực hành cho đúng lời
dạy của
Thầy và thường trao đổi thưa hỏi pháp
tu thì
thời gian còn lại của đời con không quá
trễ. Các
con của con cũng đã tự lo lấy đời sống
tu hành
của nó. Con đừng bận tâm luôn luôn
tập tu
định vô lậu để đoạn trừ tất cả ái kiết sử,
thì con
mới đạt được sự làm chủ sanh, già,
bệnh, chết
và chấm dứt luân hồi.
Con đừng
bận tâm lo cho các cháu, hiện
giờ chúng
nó đang theo Thầy tu tập , Thầy xem
chúng nó
như những đứa con thân thương của
mình, Thầy
không bao giờ bỏ chúng nó, con
hãy yên tâm
mà lo tu hành cho đến ngày chết
mà vẫn
giữ tâm bất động trước các ác pháp và
các cảm
thọ. Nhờ đó, luôn luôn con cảm thấy
tâm hồn
mình thanh thản, an lạc và vô sự. Đó
là trạng
thái mà chư Phật sau khi bỏ thân này
đều ở nơi
đó. Nếu con giữ được tâm ấy, khi chết
con sẽ gặp
chư Phật và Thầy.
Con hãy
nghe lời Thầy dạy mà cố gắng
đẩy lui
các chướng ngại pháp trên thân, thọ,
tâm, pháp
của con thì tâm con sẽ thành tựu
tâm thanh
thản, an lạc và vô sự. Chỉ cần hai
mươi bốn
tiếng đồng hồ, tâm con đạt đượctrạng thái như vậy là con đã tu xong
rồi, đó là
tâm con đã
chứng đạt chân lí, tâm con sẽ
không còn
phóng dật. Con hãy nghe đức Phật
nhắc nhở
chúng ta trong lời dạy cuối cùng trước
khi nhập
Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác
là nhờ tâm
không phóng dật”, con hãy ghi
khắc và
nhớ mãi câu này đừng quên con ạ!
Thầy chúc
con thành công trên đường về xứ
Phật.
THÚ CHƠI HOA
KIỂNG
Câu hỏi
của Từ Hạnh
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Tánh con ưa
thích chơi
hoa kiểng, biết đó là sai nhưng sao
con không
dừng được? Thưa Thầy có phải tại
con thiếu
nghị lực không?
Đáp: Đúng
vậy, biết việc làm đó sai mà
không bỏ
được là thiếu nghị lực.
Người
nghiện rượu biết rượu là chất độc,
làm hại
đến cơ thể, sanh ra bệnh tật nhưng
không bỏ
được là người thiếu nghị lực, thiếu sức
kiên trì,
bền chí và nhất là vô minh không trítuệ minh mẫn. Nếu nói một cách
thẳng thắn
hơn, đó là
người ngu si, biết khổ đau mà không
chịu bỏ
để chịu khổ đau, đó là người ngu dại số
một.
Một người
bỏ hết cuộc đời đi tu theo đạo
Phật mà
không bỏ được chuyện nhỏ nhặt như
vậy thì đi
tu theo đạo Phật chẳng có ích lợi gì
cả, cũng
như chúng ta đi tu theo đạo Phật biết
tham, sân,
si là ác pháp là khổ đau mà không
chịu bỏ
cứ ôm ấp trong lòng, để mang cái địa
ngục khổ
đau đó mãi mãi. Biết độc cư là bí
quyết tu
thiền định mà cứ đi nói chuyện với
người này
và đến nói chuyện với người khác,
không chịu
bỏ đó là người không có nghị lực,
người không
có nghị lực làm gì tu thiền định
được, làm
gì đi theo con của đường giải thoát
của Phật
giáo được. Biết nói chuyện là sanh ra
nhiều
chuyện, nhiều chuyện thì sanh ra phiền
toái,
phiền toái thì sanh ra nhiều đau khổ. Và
như vậy tu
theo đạo Phật mà không bỏ được
những lỗi
lầm sai trái thì có ích lợi gì cho mình
thà đừng
đi tu còn hơn.
Những
người thích nói chuyện là những
người không
xứng đáng là đệ tử của Phật, ngoài
đời người
ưa đem chuyện người này nói cho
người khác
biết hoặc đem chuyện người khác
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!