sanh không
có một chút
lòng yêu thương
thì thế gian này còn nhiều khổ đau nữa...
Với tấm lòng
yêu thương sự sống của con người, trước cảnh đại dịch cúm gia cầm Minh Hoàng có
ý muốn nhờ trí tuệ Tam minh của Thầy để soi
sáng giúp các nhà khoa học chứng minh nhân quả bằng khoa học để
mọi người không còn làm điều ác nữa; để mọi người thoát khỏi cảnh chết thương
đau; để mọi người sống được bình an, hạnh phúc.
Với lòng
yêu thương sự sống của
con người, trước cái chết dịch cúm gia cầm Minh Hoàng không biết làm
sao hơn, đành phải kêu gọi Thầy
thị hiện thần
thông giáo hóa,
chỉ rõ cho loài người những tai hại
của những hành động ác của
mình. Minh Hoàng
một con người với lòng
hiếu sinh ấy thật đáng
cho mọi người kính mến và yêu
thương.
Thầy cảm
thông được lòng yêu thương mọi người của Minh
Hoàng. Thầy không
dùng trí tuệ Tam Minh và thần
thông giáo hoá, vì đó là ngoài vấn đề chủ trương đạo đức của Phật giáo,
nên Thầy
dùng tri kiến của một
người đã vượt qua nhân quả. Thầy viết thư này gửi đến
mọi người để những ai có đủ duyên được đọc, nhờ đó mới có đủ lòng tin nhân quả
thì mới sống đúng
đạo đức
không làm khổ
mình, không làm khổ
người và không làm khổ tất cả chúng sanh.
Trước thảm cảnh
cái chết la liệt của con người đã xảy ra
trên hành tinh này
theo qui luật của nhân quả thiện
ác. Thầy tha thiết kêu gọi mọi người hãy hướng về đức Phật, một ân nhân của
loài người, Ngài đã để lại cho loài người
một chương trình giáo dục
đào tạo đạo đức
nhân bản –
nhân quả, để
giúp cho con người vượt lên nhân quả sống toàn thiện.
Đức Phật
ra đời, sau khi tu hành
chứng đạt chân lí, Ngài
thấy qui luật
nhân quả đang điều
hành vũ trụ một cách
trật tự, công bằng.
Đó là
một sự thật
nhưng con người
quá vô minh không thấy, không hiểu
biết, nên lầm lạc đi trong vòng qui luật khổ đau này. Muốn con người thoát
khổ, ra khỏi qui luật này,
nên lời nói pháp đầu tiên của đức
Phật, đã xác định chân lí Tứ Diệu Đế. Chân lí Tứ Diệu Đế là một sự thật chỉ thẳng
kiếp làm người là khổ, là nguyên
nhân sinh khổ,
là trạng thái hết khổ, là
chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ
mình, không làm khổ người
và không làm khổ tất cả chúng
sanh. Đó là một
bài pháp giúp
cho mọi người hiểu biết về nhân
quả. Có hiểu
biết về nhân quả thì mới biết
hành động nào thiện, hành động nào ác. Biết hành động nào thiện, hành động
nào ác thì mới
chuyển hóa được nhân
quả. Chuyển hóa được nhân
quả là vượt ra khỏi qui luật nhân quả
tức là làm chủ nhân quả nghiệp báo. Tất cả những hành động này là một sự thật không có gì mơ hồ, ảo tưởng.
Kính thưa các bạn! Con người vì vô minh không thấy,
không biết nguyên nhân sinh ra muôn vàn sự
khổ đau chính là
lòng ham muốn của các bạn.
Do lòng ham muốn mà con
người mới có những hành động thiện ác. Có những hành động thiện ác thì phải nhận
lấy những quả khổ vui của những hành động đó. Đấy là vô minh không
hiểu, không biết
mà các bạn đi
theo qui luật của nhân quả. Các bạn có biết không?
Biết rõ như vậy
nên đức Phật dạy
chúng ta: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” hoặc
“Ngăn ác diệt
ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”. Nhưng muốn
không làm điều ác, luôn luôn làm điều thiện hoặc luôn luôn ngăn ác diệt ác
pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp thì phải tham dự tu học tám lớp “ĐẠO ĐẾ” tức là
“BÁT CHÁNH ĐẠO” theo đúng chương trình giáo dục đào tạo
ba cấp
“GIỚI,
ĐỊNH, TUỆ” của
Phật giáo. Khi tốt
nghiệp xong ba cấp tu học ấy, các bạn sẽ trở thành một con người có đạo đức đầy
đủ sống không làm khổ mình,
không làm khổ người
và không làm khổ tất cả chúng sanh. Và như vậy thế gian này trở thành Thiên đàng, Cực
lạc, thì dịch cúm gia cầm và
thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, hỏa hoạn, thủy tai làm
sao còn nữa. Phải không các bạn?
Trong thư
con hỏi: “Với đôi mắt nhân quả của Thầy, xin Thầy chỉ rõ làm thế nào có thể ngăn chặn đại
dịch này, cứu giúp hằng triệu người
trên thế giới.
Con tin rằng nếu loài người nhận
thức về qui luật nhân quả ấy một cách
khoa học, họ sẽ
giảm rất nhiều
các hành động
ác của mình”.
Muốn cứu
giúp mọi người thoát khỏi làn sóng đại dịch
cúm gia cầm và những thiên tai, lũ lụt, động đất, sóng thần, bão tố
v.v.. thì chỉ có mọi người phải thông hiểu nhân quả. Chính thông hiểu
nhân quả, nên mọi người
phải tự cứu mình bằng
cách ngưng bàn tay ác độc giết hại
chúng sanh, ngưng
sự sống ác độc nhẫn tâm
đối với sự sống của
các loài vật
khác và ngưng ăn thịt chúng sanh
tức là phải sống theo
sự hướng dẫn
của ĐẠO ĐỨC
NHÂN BẢN –
NHÂN QUẢ.
Thứ nhất là
họ phải sống “Chánh tri kiến”. Vậy sống
Chánh tri kiến như thế nào? Sống Chánh tri kiến là phải thấy đúng mọi
hoàn cảnh, mọi sự việc, mọi đối tượng thường xảy ra đều thấy đúng là nhân quả
thiện ác.
Thứ hai
là phải sống
“Chánh tư duy”. Vậy sống Chánh tư
duy như thế nào? Sống Chánh tư duy tức là sống suy tư mọi hoàn cảnh, mọi sự việc,
mọi đối tượng đều phải tư duy, suy nghĩ nó là nhân quả thiện ác.
Thứ ba
là họ phải
sống “Chánh ngữ”. Vậy sống Chánh ngữ như thế nào? Sống
Chánh ngữ tức là sống dùng lời nói
thiện không được nói lời nói ác,
nói lời nói không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai.
Thứ tư là
họ phải sống
“Chánh nghiệp”. Vậy sống Chánh
nghiệp như thế nào? Sống Chánh nghiệp tức
là sống không làm sáu nghề nghiệp ác,
thường dùng những
hành động không làm khổ
mình, không làm khổ
người và không làm khổ cả hai.
Thứ năm là họ
phải sống “Chánh mạng”.
Vậy sống
Chánh mạng như
thế nào? Sống
Chánh mạng tức là sống không làm khổ mình,
không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Sống không
nuôi dưỡng thân mạng bằng
máu thịt chúng sanh, bằng sự đau khổ của loài vật khác, của người khác.
Thứ sáu
là họ phải
sống “Chánh tinh tấn”.
Vậy sống Chánh
tinh tấn như thế
nào? Sống Chánh tinh tấn
tức là sống
siêng năng tinh cần hằng ngày từng
phút từng giây không làm khổ mình,
không làm khổ người
và không làm khổ cả hai tức là
ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện pháp.
Thứ bảy là họ
phải sống “Chánh niệm”. Vậy sống Chánh
niệm như thế
nào? Sống Chánh niệm tức là sống giữ
gìn tâm thanh thản,
an lạc và
vô sự. Tất cả những
chướng ngại pháp tác động vào thân tâm họ đều được đẩy lui bằng pháp
Như lý tác
ý trên Tứ Niệm
Xứ
Thứ tám là họ
phải sống “Chánh định”. Vậy sống Chánh
định như thế
nào? Sống Chánh định tức là sống
bất động tâm trước các pháp ác và các cảm thọ.
Kính thưa các
bạn! Với đôi mắt của người chứng đạt
chân lí thì nhìn thấy
nhân quả là thật, nó giống như xem chỉ trong lòng bàn
tay của mình vậy. Còn các bạn với đôi mắt
bị hạn chế không gian
và thời gian
nên không thể thấy rõ như vậy. Vì thế, Thầy phải dùng
nhân quả thảo mộc để chỉ cho các bạn nhận
thấy cụ thể rõ ràng
nhân quả là một sự
thật chứ không phải tưởng tượng.
Tin hay không tin đó là quyền
của các bạn,
nhưng Thầy biết rằng
các bạn đang bị luật nhân quả
điều khiển, nói cách khác các bạn là những người
nô lệ của nhân
quả. Nếu các bạn
không chịu cởi bỏ ách nô lệ thì muôn đời ngàn kiếp phải làm
thân nô lệ cho nhân quả mãi mãi.
Cuối cùng
Thầy có lời
thăm con được mạnh khỏe an khương.
Kính thư
Thầy của con
KINH
DUY MA CẬT
Câu hỏi của
Tuệ Hạnh, một Phật tử TPHCM
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Kinh Duy Ma Cật ca ngợi
pháp môn Bất
Tư Nghì giải
thoát. Chẳng hay pháp môn đó cao thâm như thế nào mà người
trí nghe thì phát tâm
vô thượng Bồ Đề, Bồ Tát nghe thì hân hoan tiếp nhận,
còn hàng Thanh Văn nghe thì không hiểu
rõ khóc rống lên “khóc
cho vang động
cả 3000 cõi đại
thiên thế giới”?
(trích ý mục 4
kinh Duy Ma Cật trang 153).
Đáp: Pháp
môn Bất Tư
Nghì là một pháp môn tưởng của Đại Thừa, do các Tổ
tu tập thiền sai pháp, lạc vào thiền tưởng, nên tuệ tưởng phát triển, từ đó các
Tổ triển khai tưởng tuệ. Vì thế,
các pháp tưởng
được thành lập trong
kinh sách Đại Thừa.
Trong những pháp tưởng đó có pháp môn Bất Tư Nghì.
Khi đạt được
tưởng giải này
các Tổ thấy sự
hiểu biết của
mình hơn cả Phật, nên
dùng các pháp tưởng ấy bài
bác chánh pháp của đức Phật bằng cách lý luận siêu tưởng để
diệt Phật giáo. Cho nên,
Kinh Duy Ma Cật
là một tác
phẩm trong những tác phẩm của Đại Thừa, ra đời
là nhằm mục đích thực hiện ý đồ thâm độc để
diệt giáo lý của
của Phật giáo. Đây các bạn lắng nghe ông Duy Ma Cật giới thiệu pháp
môn Bất Tư Nghì:
1- Kinh Duy
Ma Cật dạy: “Thiền giả không dính mắc
Tam Giới và
thân tâm vẫn sinh hoạt mới là ngồi
thiền”.
Lời dạy
này đúng là lời dạy
không nghĩ bàn được, vì đó là tưởng
giải ra bất tư nghì nên vô nghĩa khiến cho ý thức không suy nghĩ được (vô phân
biệt). Có thể
nói lời dạy
này vô lý. Vậy Tam giới các bạn có hiểu biết nghĩa của
nó là gì không?
Theo
các nhà
Đại Thừa hiểu Tam giới là ba cõi giới (cảnh giới). Sự hiểu như vậy là hiểu theo tưởng giải. Hiểu ba cõi
giới là hiểu
ba cõi ảo tưởng các bạn ạ!
Cho nên,
kinh sách Nguyên Thủy
Phật dạy Tam giới nghĩa lý
như thật không mơ hồ ảo
tưởng: “Tam giới tức là ba
trạng thái trong thân tâm của con
người”. Ba trạng thái trong thân tâm của con người gồm
có:
1- Dục giới
2- Sắc giới
3- Vô
sắc giới
- Dục
giới chỉ cho trạng
thái ham muốn của con người.
- Sắc giới chỉ trạng thái của cơ thể con người.
- Vô sắc giới chỉ cho trạng thái tưởng của con
người.
- Ba cõi
tức là ba trạng thái của một
con người. Ba trạng thái
trong một con người, nên con người thường luân chuyển sống
trong ba trạng thái này,
không lìa rời
nhau, không xa nhau nửa bước, lúc thì ở trạng thái này,
lúc thì ở trạng thái kia, cho nên kinh dạy: “Luân hồi trong ba cõi”.
Bởi kinh Duy
Ma Cật dạy câu trên đây không bao giờ thực hành được. Không bao giờ thực hành
được là vì một con người mà không ở trong
Tam Giới thì ở
đâu? Sinh ra làm
người thì lúc nào cũng ở trong
Tam Giới. Ở
trong Tam Giới thường sinh hoạt mà nói rằng không dính mắc
là không đúng.
Chữ dính mắc của
Duy Ma Cật dùng ở đây không đúng nghĩa. Tại sao vậy?
Chữ dính mắc phải
được thay thế bằng
chữ: “Ác
pháp không tác động”. Vì thế, câu
này phải được viết lại: “Thiền giả sống trong Tam Giới thân tâm vẫn sinh hoạt bình
thường mà dục
và ác pháp
không tác động”. Cho
nên, ba trạng thái
này bảo rằng con
người không dính
mắc là không
đúng nghĩa. Vì ba trạng
thái này là ba
trạng thái của một
con người, chứ không
phải ba trạng thái là ba
cõi như các nhà Đại Thừa hiểu. Đức Phật đã
xác định: “Không
có cõi giới
siêu hình thật mà các cõi
giới siêu hình chỉ
là cõi tưởng (tưởng
tri chứ không phải
liễu
tri)”.
Lời dạy
trong kinh Duy Ma Cật nghĩa lý không rõ ràng, chứng tỏ ông Duy Ma Cật tưởng giải
theo nghĩa lý của kinh sách Đại Thừa, chứ chẳng có gì mới mẻ cả. Đó là một loại
thiền tưởng của ngoại đạo. Phật giáo Nguyên Thủy không có những loại
thiền này. Cho
nên, lời nói của
ông Duy Ma Cật không
có giá trị tu
hành làm
chủ sanh, già, bệnh,
chết, chỉ là lời
nói suông mà
thôi, dạy mà
không có pháp hành:
“Thiền giả không
dính mắc Tam Giới
và thân tâm vẫn sinh
hoạt mới là ngồi thiền”.
2-
Duy Ma Cật dạy: “Sinh
hoạt trong bốn oai
nghi như bình
nhật mà không rời Diệt Tận Định”.
Kính thưa các bạn! Duy Ma Cật hiểu Diệt Tận
Định như thế
nào mà dám bảo: “Sinh hoạt trong bốn oai nghi như bình nhật mà không rời Diệt Tận Định”.
Cư sĩ Duy Ma Cật
dám nói câu
này chính là cư sĩ đã lộ sự
vô minh của
mình cho người khác biết,
giống như người
vạch lưng cho xem thẹo. Vậy Diệt Tận Định nghĩa là gì?
Diệt Tận Định
là một loại thiền định bất động cả thân lẫn tâm.
Vì thiền này diệt các cảm thọ và các tưởng như vậy thân ngồi bất
động. Thân ngồi bất động
thì làm sao sinh hoạt trong bốn
oai nghi được. Phải không các bạn? Có lẽ ông Duy Ma Cật không hiểu thiền Diệt Thọ Tưởng Tận Định
là gì?
Nên đã nói theo
kiểu tưởng giải của mình để gọi
là pháp môn Bất Tư
Nghì. Như vậy
pháp môn Bất Tư
Nghì chỉ là lời nói “xạo”,
nói dối, nói như mình hay nhưng kỳ thực
là lời nói xảo ngôn, nói lừa đảo lường gạt người.
Như vậy ở đời
ai nói một việc gì vô lý là pháp môn Bất Tư Nghì hết sao!? Chỉ có những người vô minh mới ca
ngợi những lý luận ảo tưởng đó. Người
có minh thì không
bao giờ chấp nhận. Cho nên, 62 luận
thuyết của ngoại đạo Bà La Môn thời bấy giờ đức Phật không chấp nhận và đã bác
sạch những lý luận đó. Những lý luận của Bà La Môn là những lý luận tưởng.
Những gì
ông Duy Ma Cật đã dạy trong kinh Duy Ma chỉ là nhai lại bã mía của
kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông chẳng có gì mới mẻ cả.
3- Duy Ma Cật dạy: “Làm
mọi việc như kẻ
phàm phu mà
không sao lãng
đạo pháp”. Lời dạy
như vậy có
đúng không thưa các bạn?
Lời dạy như
vậy chỉ là những lời dạy cho những người bị bệnh tưởng, những kẻ đồng
bóng, chứ những
người bình thường
thì không ai tin lời dạy này, vì làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không sao lãng đạo
pháp thì chẳng có ai làm được. Lời dạy này không thể sống và
tu tập được. Lời dạy này không thể sống và tu tập được là pháp môn Bất Tư
Nghì ư! Vậy thì pháp môn Bất Tư Nghì
của ông Duy Ma Cật để làm gì? Có
ích lợi gì cho đời? Nói để tranh hơn thua cao thấp với những người
khác ư!?: “Đây
là
pháp môn
không thể nghì bàn không có pháp nào cao hơn được”. Pháp môn như vậy chỉ là lời nói lừa đảo người
khác mà thôi. Ai cũng ca ngợi kinh Duy Ma
Cật nhưng có
ai tu tập được như kinh Duy Ma Cật
dạy chưa? Kinh Duy Ma Cật là kinh vọng ngữ, kinh nói không đúng
sư thật. Trong khi kinh sách
Phật giáo dạy những gì đều đúng
như thật nên giáo pháp của Phật được gọi là
Chân lý. Cho
nên, bài pháp đầu tiên của Đức Phật
gọi là Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế tức là bốn sự thật của loài người. Phật không
lừa đảo con người,
từ bỏ sự
giàu sang danh lợi, còn Tổ chuyên
lừa đảo người khác để cất chùa to Phật lớn làm giàu
trên mồ hôi nước mắt của người Phật tử.
Như các bạn
đã biết Phật pháp là phải lìa tâm dâm dục,
thế mà
sống trong tâm dâm dục lại
không lìa Phật
pháp. Lời dạy như
vậy các bạn cứ suy ngẫm có đúng
không? Hay ông Duy Ma Cật là một người trí óc bất ổn. Phải không các bạn?
4- Duy Ma Cật
dạy: “Tâm không cột vào trong cũng không tản mạn ra ngoài mới là ngồi thiền”.
Câu này ông
Duy Ma cật dạy
đúng nghĩa theo Phật giáo Nguyên Thủy. Khi tâm
không phóng dật
thì tâm không cột
vào
trong và cũng không tản mạn ra ngoài như vậy
câu này đâu phải là pháp môn Bất Tư Nghì.
Vì lời dạy này còn nghĩ bàn được,
phải không các bạn? Còn
nghĩ bàn được
thì đâu được gọi là
pháp môn
Bất Tư Nghì.
Như vậy rõ
ràng lời dạy của ông
Duy Ma Cật không
nhất quán, tự nó
mâu thuẩn với
nhau. Có đúng
không các
bạn?
Như vậy, bộ kinh Duy Ma Cật chỉ
là một bộ kinh góp nhặt cát sạn của
Đại Thừa mà bài bác vàng bạc châu báu của Phật giáo Nguyên Thủy thì làm sao bài
bác được, chỉ có những người lọt vào tưởng tuệ nên mới chấp nhận những pháp
môn ảo tưởng
đó, chứ người có
trí hiểu biết một
chút thì không
bao giờ chấp nhận.
Xem bộ kinh Duy
Ma Cật như một bộ môn tiểu luận lừa đảo.
Các bạn nên
đọc lại lời dạy này: “Tâm không cột vào
trong cũng không tản mạn
ra ngoài mới là ngồi thiền”.
Câu này mang đầy
đủ ý nghĩa
giải thoát của đức Phật,
khi Ngài thành Chánh
giác đã tuyên
bố như sau: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không
phóng dật”.
5- Duy Ma Cật
dạy: “Trước bao nhiêu tà
kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu
chuyện mê
tín hoang đường mà tâm không lay động,
không bị mê hoặc cám dỗ xiêu lòng vững tâm trong 37 phẩm trợ đạo…”
Câu này dạy đúng
có ý nghĩa
suy tư đầy đủ của
tâm bất động
thiền định như vậy
câu này đâu phải là pháp môn bất tư nghì. Phải không các bạn. Câu
này có ý
nghĩa tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ.
6- Duy
Ma Cật dạy:
“Không khởi tâm đoạn
trừ phiền não
mà vẫn có Niết Bàn mới là ngồi thiền”. Bản chất con người là
phiền não, đó là chân lý thứ nhất (Khổ đế) mà đức Phật đã xác định. Đoạn trừ
phiền não là chân lý thứ tư (Đạo đế), nếu không đoạn trừ phiền não
thì làm sao có Niết
Bàn. Còn Niết Bàn là chân lý thứ ba (Diệt đế). Cho nên
câu: “Không khởi tâm đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết Bàn mới là ngồi thiền”.
Nếu ai đã học về bốn chân lý của Phật giáo thì đọc câu này các bạn sẽ
có cảm nhận về ông
Duy Ma Cật là người kiến giải chứ
chưa có thực hành tu tập. Vì thế, ông chưa hiểu Niết Bàn của Phật giáo, ông chỉ
hiểu Niết Bàn của ngoại đạo. Niết Bàn của ngoại đạo là một cảnh giới siêu hình.
Niết Bàn có nghĩa là không có phiền não không
phiền não tức là Niết Bàn. Cho nên, câu nói
của ông Duy Ma
Cật dường như Niết Bàn và phiền não là hai. Ý của Ông nói cứ để
phiền não bình thường, không cần đoạn trừ phiền não mà vẫn
có Niết Bàn.
Xin lập lại
câu nói của Ông: “Không khởi tâm đoạn trừ phiền não
mà vẫn
có Niết Bàn”.
Vì thế, ông
Duy Ma Cật cho Niết
Bàn là một cảnh giới siêu hình ở
đâu chứ không phải chỗ tâm không phiền não.
Hiểu như ông
Niết Bàn là một cảnh giới của chư Phật, chứ không phải là một trạng thái của
tâm con người.
Các bạn lắng
nghe chân lí thứ ba của Phật giáo
là một trạng
thái tâm con người
không còn tham, sân, si. Không còn tham, sân, si mới gọi là diệt đế. Diệt
tức là diệt hết sự đau khổ phiền não.
Hiểu Phật
giáo như ông
Duy Ma Cật là
hiểu Phật giáo theo nghĩa của Bà La Môn, hiểu theo nghĩa của thế giới siêu
hình.
VƠ SỞ ĐẮC
Câu hỏi của Tuệ Hạnh
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Trưởng giả
Duy
Ma Cật dạy Mục
Kiền Liên: “Luận đến chỗ cứu kính của vấn đề thuyết
pháp thì người nói không nói
gì hết, không phô bày gì hết. Người nghe không nghe gì hết và không
được có một sở đắc
nào. Ví như ảo thuật
sư làm ra người ảo, người ảo lại nói
chuyện ảo. Phải xác lập ý thức kiên định như thế rồi mới thuyết
pháp…; phải biết căn tánh chúng
sanh lợi hay độn...; phải lấy tâm đại
bi mà
khen ngợi Đại thừa”. Con thấy Duy
Ma Cật lý luận lòng vòng cuối cùng
cũng trở về lối thuyết
pháp vô ngôn của Đại
thừa cũng giống
như chuyện đức Phật
niêm hoa
ngài Đại Ca Diếp
vi tiếu trên đại
linh sơn, nối tiếp chánh
pháp của Phật. Thầy có
thể giảng giải
cho hàng sơ học như
chúng con hiểu phần nào về lối
thuyết pháp không nói không nghe này được không Thầy?
Đáp: Lối thuyết pháp không lời có ai còn lạ gì Thiền
Tông Trung Hoa:
“Bất lập văn
tự
Giáo ngoại
biệt truyền.
Chỉ thẳng tâm người.
Kiến tánh
thành Phật”
Có ai còn lạ
gì Lão Trang:
“Đạo khả đạo
phi thường đạo.
Danh giả
danh phi thường
danh”.
Phải không
các bạn?
Duy Ma Cật là một nhà
nghiên cứu tập họp
những tư tưởng
của Phật, Lão,
Nho và Bà La
Môn thành lập một giáo
lý Tối Thượng thừa.
Cho nên, câu chuyện
niêm hoa trên núi Linh Thú,
Tổ Ca Diếp mỉm cười… là khởi đầu cho những
trang giả sử 33
vị Tổ
Sư thiền Ấn Độ và
Trung Hoa, với mục đích
là quét sạch Phật giáo Nguyên thủy ra khỏi tư tưởng
tín đồ. Vì thế, Bồ Đề Đạt Ma dạy: “giáo ngoại biệt truyền, bất
lập văn tự,
chỉ thẳng tâm người,
kiến tánh thành
Phật”. Đó là
ý đồ diệt Phật giáo đã hiện
nguyên hình trong kinh Bất Tư Nghì mà nhân vật chính là ông Duy Ma Cật. Kinh
sách Thiền Tông đều mang tư tưởng Lão
Trang. Tư tưởng
này xuất phát
nơi đất nước Trung
Hoa. Vì thế mới tưởng
tri sinh
ra
1700 công án
trên giáo pháp thiền để thay thế
kinh sách
Nam Tông, chứ
không phải kinh sách Bắc Tông, để chỉ thẳng tâm người,
kiến tánh thành Phật.
Đó là lối dạy để diệt ý thức
“vô phân
biệt” làm cho ý thức tê liệt “Chẳng
niệm thiện niệm
ác”. Các thiền sư tưởng giải “Chẳng
niệm thiện niệm
ác” là thành Phật, là giải thoát nơi đó, là hết
tham, sân, si, nhưng sự thật đó chỉ là một ảo tưởng
Phật tánh. Đức Phật đâu
có dạy kỳ lạ
như vậy, đâu
có dạy tu để làm Phật, đâu có dạy tu để nhập thiền định;
đâu có
dạy tu để có Tam
Minh, lục thông;
đâu có dạy tu ngồi thiền ba bốn tiếng đồng hồ; đâu có dạy
tu để cầu
vãng sanh Cực Lạc Tây Phương;
đâu có dạy
tu tập để nhập vào cảnh
giới Niết Bàn;
đâu có dạy tu
để lại nhục
thân, xá lợi; đâu có dạy cúng bái tụng niệm cầu siêu, cầu an, cầu
tài, cầu lợi, cầu cho biết
ngày, biết giờ chết; đâu có dạy
lạy lễ hồng danh sám hối để tiêu tai, giải nạn, để được phước báu
nhân thiên và để ngồi thiền hết vọng tưởng. Chính giáo pháp của đức Phật chỉ dạy
tu tập
để làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Đó là mục đích chân chánh của đạo Phật giúp cho loài người thoát khổ, chứ không phải
đạo Phật ra đời để hướng dẫn cho mọi người tu tập để thành Phật,
để thành Thánh.
Thiền Tông
và Đại Thừa đã hiểu sai mục đích của đạo Phật
nên mới lừa đảo người khác bằng những lời nói “Vô sở đắc”,
nếu có ai nói tu có chứng,
có đắc là gạt ngang
“chẳng có
chứng đắc gì cả”.
Cho nên, ông Duy Ma Cật chỉ lập lại những ý nghĩ tư tưởng
vô phân biệt: “Luận đến chỗ cứu cánh của vấn đề thuyết pháp thì
người nói không
nói gì hết, không phô bày gì hết, người nghe không
nghe gì hết và không được có một sở đắc nào”.
Thiền tông
đã truyền thừa bắt đầu tại
nước Trung Hoa khởi
xướng từ Bồ Đề Đạt Ma
và phát triển
rộ nở từ Lục Tổ
Huệ Năng. Nhưng loại thiền này là thiền miệng, thiền la, thiền
hét, thiền đánh, thiền thoi và luôn luôn vấn
đáp công án
nghe thật kêu,
nhưng thực chất tu hành không có
giải thoát, chỉ rơi vào thiền tưởng ngôi
lim dim như thi ma
người chết, họ cứ tưởng đó là “Phật tánh”.
Biết bao
nhiêu người bỏ công sức tu hành, cuối cùng cũng chẳng ra gì chỉ an trú trong một
trạng thái tưởng không niệm. Cho nên thiền sư Thường Chiếu bảo: “Đó là bọn đại
bịp”.
Trước khi tịch
tổ Pháp Loa bệnh đau rên:
- Hừ! Hừ!!!
Thấy thế Huyền
Quang hỏi:
- Sao Hòa Thượng rên?
- Gió thổi qua khe trúc
Tu hành
không làm chủ bệnh nên
khéo trả lời che đậy
“Gió thổi qua khe trúc”, câu trả lời thật là tuyệt vời bưng bít.
Thiền tông
đã truyền thừa được sáu đời tại Trung Hoa từ Bồ Đề Đạt Ma đến Lục Tổ Huệ
Năng và
từ đây Thiền
Tông phát triển
theo kiểu biến dạng
thành Tịnh Độ
Tông, vì tu thiền
không kết quả.
Do đó, Tổ Thiền Tông Tuệ
Viễn thành lập
Liên Trì Thư
Xã sớ giải kinh Tịnh Độ. Đó
là một hiện
tượng báo động cho biết
Thiền Tông tu
hành chẳng đến đâu
nên mới
sinh ra pháp
môn Tịnh Độ.
Thiền tông phát triển
đến thiền công
án và tham thoại
đầu là con đường
thiền chấm dứt,
không còn phương thế nào phát triển hơn nữa được.
Khi phát
triển đến mức độ không
còn phát triển được nữa thì lại sinh ra một hệ phái khác: Tịnh
Độ Tông, Mật
Tông, Pháp Hoa Tông. Tất cả các hệ phái này đều là con
đẻ của Thiền Tông. Cho nên,
kinh sách Đại Thừa là kinh sách phát triển theo
kiến giải, tưởng giải của
giáo pháp Bà La Môn Ấn Độ, của Thiền Tông Trung Hoa. Các Tổ Sư Thiền Tông Trung Hoa rất khôn
khéo, vì biết
chắc tín đồ không tin ở
họ nên soạn
kinh, viết sách đều
gán cho Phật thuyết. Đó là có ý đồ
lừa đảo Phật tử bằng cách dùng thuật
ngữ “Thiền giáo
đồng
hành”, có nghĩa là lấy giáo tức là lời dạy của
Phật làm
niềm tin cho thiền. Khi Bồ
Đề Đạt Ma sang Trung Hoa đã
tuyên bố: “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Chỉ thẳng
tên người. Kiến tánh thành Phật”.
Vì thế,
Bồ Đề Đạt Ma
diện kiến vua Lương
Võ Đế. Nhà
vua hỏi: “- Ai đang ở trước mặt Ta”.
Bồ Đề Đạt Ma
trả lời: “Không biết” nên bị vua Lương Võ Đế sai
lính hầu đánh
gãy răng, và thả
Ông ra, cấm không
cho truyền tà đạo (đạo không đúng đạo Phật),
từ đó Bồ Đề Đạt Ma lên núi nhập thất, mai danh ẩn tích 9
năm. Người ta gọi ông là ông Bà La Môn ngồi nhìn vách đá chín năm.
“Diện bích cửu
niệm
Đấng ngộ Bồ
Đề. Dữ Chân Bồ Tát
Tề thành
chánh giác”.
Cho nên,
kinh Duy Ma Cật chỉ là một lập luận Phật tánh của Thiền
Tông Trung Hoa, chứ không có gì mới mẻ cả.
PHỤ LỤC
KHI NÓI, VIẾT
PHÂI BÌNH TÂM SUY NGHĨ CHO KỸ
Bài viết của
Diệu Quang
Hằng ngày, tôi
thường mở hộp thư
trên
mạng để đọc
thư các bạn bốn phương gửi về tu viện Chơn Như.
Hôm nay,
tôi nhận được
nhiều lá thư gửi
vào hộp
thư của chúng
tôi nói về Thầy Thông
Lạc.
Sau khi đọc
những bài viết về Thầy Thông Lạc của bạn
Ng. H.4 trên
trang thư viện
Hoa Sen, tôi có đến
trình và thưa hỏi Thầy Thông Lạc, có nên trả lời những bài viết này
không?
Thầy Thông Lạc
bảo: “Phải im lặng như Thánh, chúng ta
tu tập theo
Phật giáo là để
cầu giải
thoát, chứ không
phải để tranh luận
hơn thua, phải
trái, đúng sai với ai cả. Nơi đâu
4 Xin
phép cư sĩ Nguyễn
Hòa cho tôi được
xem cư sĩ là một người bạn, để
cùng nhau trao đổi những sự hiểu biết về
Thầy Thông Lạc,
những gì bạn
chưa hiểu biết, tôi giúp bạn hiểu biết. Mong bạn vui lòng
nhé!
có dựng lại
chánh pháp của Phật, tu
hành có giải thoát thì nơi đó chúng ta nên theo mà học hỏi và tu
tập, còn nơi đâu có
lý luận hơn thua thì nên tránh
xa”.
Lời Thầy
Thông Lạc khuyên
như vậy, nhưng tâm chúng tôi tu hành
chưa tới đâu nên nghĩ đến nhiều
người khác, nghĩ đến bạn
Ng. H. Khi họ đọc những bài viết của bạn Ng. H thì họ hiểu
Phật giáo một cách lệch lạc (hiểu theo kiểu xưa nay của
kinh sách phát triển). Nếu những bài viết của bạn Ng. H đưa lên trang thư viện
Hoa Sen mà không được chỉnh đốn, làm sáng tỏ lại thì rất tội nghiệp cho bạn Ng.
H, vì bạn ấy không thấy được cái sai; cái cố chấp của bạn, mà còn
có một
số bạn bè hùa theo, a dua với những lập luận nhai lại
bã mía của bạn.
Những lập luận
a dua nhai lại bã mía của bạn đã làm
cho bạn không còn
sáng suốt thấy sự
vô minh của bạn nữa,
do đó bạn sinh
ngã mạn cho mình là am tường,
thông suốt Phật pháp. Bằng chứng
bạn ấy đã bỏ nhiều
thì giờ để bình luận
những lời tựa của bộ
sách Đường Về Xứ Phật theo
những kiến giải,
tưởng giải của các vị Tổ sư.
Trong khi đó, tâm bạn ấy sống chưa ly dục ly ác pháp ở giai đoạn của
người cư sĩ giữ
gìn 5 giới, thì còn
nói chi đến tâm bạn ấy bất động trước các ác pháp và
các cảm thọ; thì còn nói chi đến bạn ấy nhập được Tứ Thánh
Định. Cho nên, bạn ấy
chưa thực hiện được Tam
Minh; chưa làm chủ được sự
sống chết; chưa chấm dứt được sự tái sanh luân hồi; chưa biết
khi chết bạn ấy sẽ đi về đâu. Nhất là một điều dễ làm mà bạn ấy còn
chưa biết, chưa làm được, đó là một
ngày sống đúng Phạm hạnh như Phật, như chúng Thánh Tăng như ngày Thọ Bát
Quan Trai đúng chánh pháp. Thế mà, những
bài viết của bạn ấy
đưa lên trang Thư Viện Hoa Sen để
chứng tỏ cho mọi người trên thế giới biết bạn là người am tường, thông hiểu
Phật Pháp, nhưng
cái thông hiểu của bạn giống như con chim nói tiếng người,
có nghĩa là bạn
chưa làm được những
gì bạn đã nói. Vậy mà bạn luận cái sai, cái đúng về
sách Thầy Thông Lạc thì tôi e rằng bạn là người háo danh và
nông nổi, bạn
không biết lượng
sức mình chẳng khác
gì người mù rờ voi,
người đứng dưới chân
núi mà nói
chuyện trên đỉnh núi.
Nếu bạn muốn
luận về sách Thầy Thông Lạc thì bạn phải sống đúng Phạm hạnh của Phật, tâm phải ly dục
ly bất thiện pháp,
lúc nào cũng ở
trong trạng thái bất động
tâm và
phải nhập cho được
Tứ Thánh Định và
thực hiện Tam Minh
thì chừng đó bạn mới đủ khả
năng luận về bộ sách Đường Về Xứ Phật của Thầy Thông Lạc.
Bạn đâu biết
rằng rất nhiều tín đồ Phật giáo hiện giờ đang chịu ảnh hưởng tinh thần bệnh hoạn
mê tín, kiến chấp
lý luận ảo tưởng
và bệnh rối loạn thần kinh của Phật giáo phát triển; những người bệnh này nhiều
lắm bạn ạ! Cho nên, những bậc tu hành chân chánh như Thầy Thông Lạc gióng lên
tiếng chuông cảnh tỉnh, để mọi người
tự cứu lấy mình,
chứ không còn có
cách nào, hay
người nào khác
tháo gỡ cho họ thoát khỏi những bệnh
hoạn này. Trong khi đó những bài viết của bạn đưa
lên trên trang Thư Viện Hoa Sen
luận về sách Thầy Thông Lạc thì cũng
giống như những người
đã bị nọc của loài rắn độc mà lại được tiếp thêm chất nọc độc nữa. Và từ
đó về sau bệnh nọc độc kiến chấp ảo tưởng
mê tín của kinh
sách phát triển càng trầm
trọng hơn và
không thể nào còn
có thuốc nào
cứu trị được.
Thật đáng thương vậy!
Những lối
lý luận của bạn Ng. H
là lối lý luận
vay mượn của những nhà học giả Phật
giáo xưa và nay, cứ dựa
theo lối mòn
đó, dò
dẫm lại, chứ bạn Ng.
H. không có sự nghiên cứu
kỹ về kinh
sách Phật giáo
Nguyên Thủy. Do đo,ù bạn ấy không
có sự hiểu
biết của riêng bạn, vì thế cái hiểu
biết này của bạn về Phật giáo mà tôi bảo thụ động bước theo lối mòn của người
khác. Những bài viết của bạn dễ đưa dắt những
người chưa hiểu biết về Phật
giáo vào thế giới mê tín ảo tưởng
của kinh sách phát triển, trừu tượng của Thiền Đông Độ, nhất là những người
không có thì giờ
nghiên cứu kinh sách
Phật giáo Nguyên
Thủy, vì thế họ dễ bị ảnh hưởng
tà kiến của những loại
kinh sách phát triển này.
Thưa các bạn!
Nếu trong tất cả những bài viết của bạn
Ng. H nói về bộ sách của Thầy Thông Lạc, các bạn hãy chọn một bài nào, một đoạn
nào, dù bất cứ ở chỗ nào trong những
bài viết ấy đưa ra, thì tôi sẽ chỉ cái sai của bạn Ng. H cho các bạn xem, chỉ
vì “mọi điểm của những bài viết” của bạn Ng.
H không có điểm nào luận đúng, nói đúng về Phật giáo, về Thầy
Thông Lạc cả,
toàn là luận
sai, vì bạn ấy quá xem thường kinh sách Phật giáo Nguyên Thủy.
Ở đây tôi không chọn bài nào, đoạn nào cả
mà chỉ ngay bài đầu, đoạn đầu rất ngắn của bạn ấy để vạch ra cho các bạn xem
bài viết của bạn ấy đã có rất
nhiều cái sai với Phật
giáo, vừa theo lịch sử, vừa
theo giáo pháp,
vừa theo giới luật. Không
có bộ môn
nào của Phật
giáo mà bạn Ng.
H luận đúng cả. Nếu chịu khó luận hết những
bài viết của bạn Ng. H,
thì sẽ cho thấy cái sai của bạn ấy
vô số kể bên cạnh còn có tội phỉ báng kẻ chân tu.
1- Theo lập luận của bạn Ng. H cho Thầy Thông lạc viết không
đúng lịch sử Phật giáo mà chỉ do suy đoán của riêng Thầy: “Điều
trên ghi không đúng theo lịch sử Phật Giáo, hoặc là chỉ do suy
đoán riêng của Thầy Thông
Lạc”. Theo sự nghiên
cứu của chúng
tôi và qua lời dạy
của Thầy Thông
Lạc, thì nên căn cứ
vào tuổi thọ của ông A Nan để tìm ra Phật
giáo Nguyên Thủy nguyên
gốc tồn tại
được bao nhiêu năm trên thế gian
này.
Ai cũng biết
ông A Nan đến với đạo Phật vào
khoảng 20 tuổi 5(tuổi tỳ
kheo) cho đến khi thị tịch là 120 tuổi. Ông là người đệ tử thị tịch
cuối cùng của
đức Phật. Ông A Nan còn sống là
5 Có
thuyết cho rằng tuổi
ông A Nan bằng tuổi
Phật, thuyết này không đúng, vì một ông già 80 tuổi phục vụ hầu hạ cho
một ông
già 80 (Phật)
(Lúc sắp Niết
bàn Phật đau lưng, ông A nan trải tăng già lê cho Phật nằm hoặc đi xuống
suối lấy nước cho Phật uống).
người đại diện
cho Phật giáo Nguyên Thủy và cũng là người giữ gìn mạng mạch của Phật giáo
chánh tông. Ông A Nan mất là Phật giáo chân chánh mất. Tại sao vậy?
Vì hiện tượng
báo cho biết Phật giáo mất, mất trước khi ông A Nan tịch, là do tu sĩ Phật
giáo bấy giờ hiểu
sai lời Phật dạy, tu học theo kiến giải tà kiến của một số Thầy Tổ của
họ.
Trong những
năm cuối đời,
chính ông A Nan đích thân chỉnh đốn lại những điều sai
đó, mà các tu sĩ bấy giờ
đều không nghe. Nên ông tự
than phiền và cho
rằng: “Chúng sanh đời
sau không còn đủ duyên với chánh pháp của Phật”. Để chứng
minh điều này, tôi xin ghi
lại một đoạn sử về ông A
Nan trong bộ Thập Đại Đệ Tử Sử Chuyện:
“Đến năm
tôi già tròn đủ 120 tuổi, một hôm
nọ trên đường
đi nghe một thầy Tỳ
Kheo tụng một bài kệ
“Nếu người sống
trăm tuổi, Không thấy thủy lão hạc Chẳng bằng sống một ngày Mà thấy được hạc ấy”
Ông A
Nan nghe qua bài kệ tụng bị
sai lầm một cách tệ hại,
thật là râu
ông nọ cắm cằm bà kia, Tôn giả bèn lập tức cải chính. Bài kệ phải tụng như thế này:
“Nếu người sống
trăm tuổi Không hiểu pháp sanh diệt Chẳng
bằng sống một ngày Mà được hiểu rõ ràng”
Tỳ kheo kia
nghe ông Anan dạy
xong, trở về thưa lại với sư phụ, chẳng
dè sư phụ nổi sùng nói rằng:
- Ông đừng
nghe ông A Nan nói bậy, năm nay ông A Nan
đã già cả,
lú lẩn rồi,
Ta dạy ông không sai đâu.
Thầy tỳ kheo
trở lại đem lời sư phụ nói lại với ông A Nan.
Tôn giả A
Nan định đi tìm ông ta để hỏi:
- Tại sao lại
nói những lời ngu si như vậy? Nhưng suy
đi nghĩ lại, con người đã thốt ra lời ấy có nói chưa chắc đã chịu nghe, nên
thôi.
Một vị Trưởng
lão ôn hoà như ông A Nan thống lãnh giáo
đoàn đương thời,
nắm trong tay giáo quyền
tối thượng, nhưng
vẫn áp dụng lối xử sự nhún nhường”.
Qua câu chuyện
trên chúng ta
xác định
Phật giáo tồn
tại tính Nguyên Thủy chỉ có một
trăm năm. Một trăm năm ấy tính theo tuổi thọ của Ông
A Nan. Ông
A Nan vào đạo lúc 20
tuổi, đến khi thị
tịch 120 tuổi. Như vậy
ông A Nan có 100 tuổi đạo và 20 tuổi đời
lúc trẻ. Còn tính theo năm đức Phật tu chứng quả đến khi về
nước là 10 năm
nhưng mất hết 7
năm mới tu chứng. Khi tu chứng xong ba
năm sau mới về nước. Như vậy tính theo năm tu chứng đạo của Đức Phật và ông A
Nan thị tịch là 103 năm. Nhưng ít nhất ba năm
sau cuối đời của
ông A Nan thì tu sĩ đã tu sai lệch
theo kiến giải Thầy Tổ của họ. Như vậy Thầy Thông Lạc nói: Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ có tồn tại 100
năm là đúng, vì Thầy có nghiên cứu và căn cứ vào sử sách hẳn
hoi, chứ không
phải Thầy suy đoán như bạn Ng. H nói. Các bạn có chấp
nhận điều này không?
Đó là cái
sai thứ nhất của bạn Ng. H luận về Thầy Thông Lạc.
2- Lại nữa,
theo bạn Ng. H nói: “Phật giáo Nguyên Thủy giữ đúng theo hình thức tu hành thời Phật,
vẫn tồn tại
vài trăm năm
sau khi đức Phật Thích Ca nhập
diệt, sau đó mới chia thành nhiều
bộ phái mà Thượng Tọa Bộ, Đại Chúng Bộ sau này tập hợp thành Nam Tông và Bắc
Tông”.
Theo sự hiểu biết chung của mọi người, cũng
như bạn Ng. H, Phật giáo vẫn tồn tại vài trăm
năm sau khi đức
Phật Thích Ca nhập
diệt, sau đó mới
chia thành nhiều
bộ phái mà Thượng Tọa Bộ, Đại Chúng Bộ sau này tập hợp
thành Nam Tông và Bắc Tông.
Thưa các bạn!
Sự phân chia bộ phái không phải đợi đến vài trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt,
mà ngay khi đức Phật còn tại thế đã có sự phân chia thành hình hai bộ phái rõ rệt. Đó là:
1- Một bộ phái do Đức Phật lãnh đạo.
2- Một
bộ phái do Đề
Bà Đạt Đa
lãnh
đạo.
Nhờ sự lãnh đạo khéo
léo của Đức Phật
nên bộ phái Đề Bà Đạt Đa bị chìm, chứ không bị diệt mất, chỉ chờ có cơ
hội thuận tiện
là phát triển ngay liền.
Như vậy, bạn Ng.
H hiểu biết sự phân chia Phật giáo thành bộ phái là theo lối
mòn của các Tổ như trên đã nói, chứ không phải bạn ấy hiểu biết qua trí tuệ tu
chứng. Do đó, đây là điểm sai thứ hai của
bạn Ng. H luận về Thầy Thông Lạc.
3- Lại nữa,
theo bạn Ng. H nói: “Theo lịch sư,û Phật chỉ giảng pháp trong 49 năm, không phải
100 năm (tại thế) như TL viết”.
Đoạn luận
trên của bạn
Ng. H. cho thấy cái hiểu của bạn ấy lờ mờ không biết
Thầy Thông Lạc nói 100 năm Phật giáo trụ thế, hay
100 năm thuyết
pháp, do đó Ng. H. đưa ra hai
giả thuyết:
a. Giả
thuyết thứ nhất:
Vẫn tồn tại
vài trăm năm sau
khi đức Phật Thích Ca nhập
diệt, chứ không phải 100 năm.
b. Giả thuyết thứ hai: Theo lịch sử, Phật chỉ
giảng pháp trong 49 năm, không phải 100 năm (tại thế) như TL viết.
Qua lời luận
trên các bạn thấy rõ bạn Ng. H rất vội vàng, đọc sách Đường Về Xứ Phật mà không
hiểu gì về văn của Thầy Thông Lạc viết. Ở
đây, Thầy Thông Lạc viết rất rõ ràng: “Đạo Phật chỉ
có tồn tại được 100
năm” mà bạn ấy
lại lý luận bảo: “Phật chỉ giảng pháp 49 năm, không phải
100 năm như TL viết”.
Như vậy bạn Ng. H đã đồng hoá nghĩa của chữ “tồn tại”
và chữ “giảng pháp”. Có lẽ bạn Ng. H. là
người tu học theo
kinh sách sách phát
triển và bạn đã đạt được trí vô phân biệt!
Đến đây các bạn đều biết lời luận của bạn
Ng. H
là dựa theo lối mòn của các Tổ thuộc kinh sách phát
triển, chứ bạn
Ng. H không tự nghiên
cứu Phật giáo
như tôi đã
nói, nên sự hiểu biết của bạn ấy không có gì mới mẻ,
riêng biệt. Vậy mà cầm bút phê bình kết luận Thầy Thông Lạc viết sai, không
đúng.
Thầy Thông Lạc
viết một điều gì, điều ấy có căn cứ rõ
ràng, chứ không phải tự dự đoán riêng đặt ra, mà cũng không theo lối mòn của
các Thầy Tổ học giả xưa và nay. Thầy viết theo trí tuệ do tu
tập, chứ không
phải viết theo
trí tuệ kiến thức học giả phàm phu.
Ông A Nan là
hiện thân giáo pháp của đức Phật,
ông A Nan mất
là giáo pháp
Phật mất, ông A Nan còn là giáo
pháp Phật còn.
Ai cũng
biết khi ông A Nan
còn sống mà không
chỉnh được những
cái sai trong
Phật giáo bấy giờ,
thì thử hỏi khi ông
A Nan chết thì còn
ai chỉnh những
cái sai này được. Với khả
năng ghi nhớ của ông
A Nan được đức
Phật cho là đệ tử đa văn
đệ nhất, thế
mà còn không thể cứu nguy Phật
giáo được, nên ông đành thị tịch.
Giờ đây chúng
ta hãy đọc lại
đoạn sử Phật giáo rất não lòng này:
“Tuy vậy một
bậc Trưởng lão Thánh Tăng đã sống 120 tuổi đối với việc đời không
còn chút lưu luyến, sau khi gặp
chuyện trên lại còn chán ngán thế
gian hơn. Tôn giả nghĩ:
“cái cõi đời này thật hết ý kiến,
đức Thế Tôn nhập diệt chưa bao lâu
mà có người
hiểu sai Phật
pháp như vậy, sau này trong giáo đoàn lại có những điều tà kiến kể sao
cho xiết. Ta vì Phật tụng lại giáo
pháp mà mọi
người chấp chặt
vào kiến chấp tà kiến của họ
không chịu theo đúng pháp mà tu hành. Ta còn ở lại đây làm gì? (Thập Đại Đệ Tử
Sử Chuyện)
4- Thưa các
bạn! Tôi chỉ dẫn vài đoạn luận ngắn
trên đây để
các bạn thấy
rõ khả năng hiểu biết về Phật pháp của bạn Ng. H còn
tùy thuộc, cần phải tu học nhiều hơn nữa để thực chứng tự trí
tuệ thấy
hiểu biết như thật, chứ không
phải nhai lại
bã mía của người
xưa như vậy, chẳng có lợi ích gì cho bản thân, mà còn làm cho mọi người
hiểu biết lệch lạc về Phật giáo,
làm mất chánh
pháp của Phật
khiến người sau chẳng biết đường lối nào tu hành đến nơi đến chốn. Thật
tội ấy không thể tha thứ được. Như các bạn đã thấy kinh sách phát triển
không thiếu, nhiều
như rừng, như biển, nhưng tìm một
vị tu sĩ Phật giáo sống đúng
Phạm
hạnh giới luật
thì không tìm thấy, huống
là tìm một tu sĩ Phật giáo tâm ly dục ly bất thiện pháp và bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ thì làm sao tìm có. Phải không các bạn?
Một rừng
kinh sách phát triển
như vậy mà không
tìm ra một bậc tu
hành sống đúng Phạm
hạnh giới luật
thì làm gì tìm được một bậc nhập Tứ Thánh Định, thể hiện Tam Minh, làm
chủ sự sống
chết, chấm dứt
luân hồi tái sanh được
Thưa
các bạn!
Rừng kinh sách phát
triển vĩ đại như thế
mà chỉ thấy
những bộ giới cấm
ít ỏi, lơ thơ, còn giới đức, giới
hạnh, giới hành thì không có một bộ nào cả. Vậy lấy giới
luật gì? Ở đâu? Mà bạn Ng. H dám
đem giới luật ra đây nói: “Có hay không
có, phạm hay không phạm”. Dựa vào mấy bộ
giới cấm của các Tổ mà luận về giới
luật thì tôi e bạn ấy không
biết lượng sức mình. Khi bạn viết
ra câu này chứng tỏ bạn là người không có nghiên cứu và học hỏi về giới luật:
“Vì làm sao gọi là phạm giới khi không hay
chưa có giới”.
Thưa các bạn! Các bạn có biết giới
luật của Phật bắt nguồn từ đâu mà có?
Từ Phạm
Thiên đấy các bạn ạ!
Thưa các
bạn! Phật có trước Phạm
Thiên hay Phạm Thiên có trước Phật?
Trong kinh
sách Nguyên Thủy, Phật thường nhắc nhở các tỳ kheo nên sống một đời sống Phạm hạnh.
Vậy Phạm hạnh là gì? Phạm hạnh là đức hạnh của Phạm Thiên. Đức hạnh của Phạm Thiên là
giới đức, giới hạnh các
bạn
ạ!
Phạm Thiên
có trước Phật, như vậy giới luật có trước
Phật thì làm sao bạn
Ng. H bảo rằng:
“Vì làm sao gọi là phạm giới
khi không hay chưa
có giới!”.
Như vậy, bạn
Nguyễn Hòa thật là đáng thương. Phải không
các bạn? Khi nói,
khi viết phải suy nghĩ kỹ. Đối với Phật giáo
hiểu biết thì phải hiểu biết cho
thật rành rẽ (chứng đạo), thì có lợi ích cho mình cho người, còn biết theo kiểu như những nhà học
giả (chưa chứng), sự hiểu biết ấy như con dao hai lưỡi, biết mà im lặng như
Thánh thì tốt;
đã không biết
mà tưởng là biết lại nói
ra là một
tai họa cho mình,
cho người, cho Phật giáo.
Các bạn có thấy điều này không?
Kinh pháp Cú
dạy:
“Người
ngu nghĩ mình ngu
Nhờ vậy thành có trí Người ngu tưởng có trí Thật
xứng gọi chí ngu”
Trường hợp bạn H. Tr
và bạn
Ng. H, và một số vị nữa đều là những người viết bài
cho trang Thư Viện Hoa Sen. Trang Thư Viện
Hoa Sen tiêu biểu tiếng nói chân chánh, đúng đắn của Phật
giáo, vì thế
các bạn không
nên viết sai phạm như thế này. Viết
sai phạm thì trang Thư Viện Hoa Sen sẽ mất uy tín đối với các độc giả khắp
nơi trên thế giới. Tiếng nói của Phật giáo
mà không chân
thật, không đúng đắn,
lệch lạc, nghiên cứu không thấu đáo là khinh thường độc giả, xem độc giả thiếu
hiểu biết về Phật giáo, vì thế mới muốn nói xuôi, nói ngược như thế
nào cũng được.
Tôi nghĩ các bạn đã lầm,
muốn nói một điều gì về Phật
giáo, về Thầy Thông
Lạc thì các bạn
hãy tu chứng đầy đủ
trí tuệ Tam Minh,
chứ đừng đem chút
học thức ra khoe khoang. Các bạn đừng tưởng rằng độc giả
toàn là những
người dễ tin; rồi
đây sẽ có những
độc giả sẽ vạch trần
những cái sai trong những bài viết của các bạn, khi Thầy
Thông Lạc ẩn bóng.
Như vậy,
đây là cái
sai của bạn
Ng. H
luận về Thầy Thông
Lạc gây ảnh hưởng làm
mất uy
tín cho trang Thư Viện
Hoa Sen nữa. Theo tôi nghĩ trang
Thư Viện Hoa Sen là một thư viện Phật giáo chuyển tải những kinh
sách Phật, những tiếng nói chân chánh của Phật giáo, chứ không phải là một tiệm
sách hỗn tạp chưng bày nhiều thứ ô hợp.
4- Bạn Ng. H
còn một lỗi về phẩm hạnh nữa. Thầy Thông Lạc là một người lớn tuổi (dù bài viết
của bạn Ng. H vào năm 2002 hay 2003 thì Thầy Thông Lạc năm đó cũng đã 75 hay 76 tuổi), vậy
mà bạn Ng.
H viết trống
không và viết tắt
như vầy “TL”: “Theo lịch
sử, Phật chỉ giảng pháp trong 49 năm,
không phải 100 năm (tại thế) như
TL v ie á
t” (còn nhiều
nơi khác nữa!). Cách thể hiện của
bạn như vậy tôi cho là thiếu văn hóa lịch sự,
kém đạo đức,
không lễ độ. Có đúng như vậy
không các bạn?
Dân tộc Việt
Nam là một dân tộc có một truyền thống văn hoá kính trên, nhường dưới, sống có đạo đức lịch sự, lễ
độ, cung kính, tôn ti, trật tự rất tuyệt
vời. Vì thế, ngôn
ngữ nước ta có đầy đủ những danh từ xưng hô phân biệt
tôn ti trật tự mà trên thế giới không dân tộc nào có những danh từ xưng hô nhiều
như vậy. Thế mà bạn Ng. H
quên mình là
dân tộc Việt
Nam, quên nguồn gốc đạo đức của Tổ Tiên ông bà, vì
thế không chút e dè coi Thầy TL như bạn bè đồng
trang lứa, hay bậc trưởng thượng đối với hàng
ti thuộc vậy (cho dù
bạn Ng. H
trên 70 tuổi đi nữa thì lại
càng thủ lễ
hơn để làm gương cho con cháu) trong khi Thầy Thông
Lạc là một cụ già, còn ba năm nữa bằng tuổi Đức Phật nhập diệt. Đó là nói về tuổi
tác của Thầy Thông Lạc đáng là cha, là ông của không ít người. Còn giả dụ cho
bạn Ng. H hấp thụ văn hoá
Âu Tây nên có lối
xưng hô như thế thì tôi cũng cho bạn ấy sai nốt, vì chỉ khi
nào bạn Ng. H thường giao dịch và thân thiết mới gọi người đó bằng tên trống
không và hấp thụ như vậy là mất gốc.
Chắc nhiều bạn
không biết rằng về phần đức độ và tu hành của Thầy Thông Lạc khó mà tìm thấy
trong thế gian này: Đời sống giới luật rất nghiêm chỉnh, không hề vi phạm những
lỗi nhỏ nhặt, thiền
định nhập Tứ
Thánh Định, làm chủ sự sống chết,
chấm dứt tái sanh luân hồi, thể hiện Tam Minh,
tâm thường bất động trước các
ác pháp và
các cảm thọ,
thường trú trong trạng thái thanh
thản, an lạc và vô sự. Người như vậy trên đời này dễ gì thấy, phải không các bạn?
Thưa
các bạn! Có sống gần
bên Thầy Thông Lạc mới nhận thấy
được điều này. Thấy được điều này thực đáng
cho chúng ta
cung kính, tôn trọng!
Có đáng cho
chúng ta quỳ xuống đảnh lễ dưới chân Người không các bạn?
Như vậy,
cách ứng xử của bạn
Ng. H là rất
đáng trách. Phải không các bạn?
Chỉ mới vào
đầu một đoạn ngắn bài tiểu luận của bạn
Ng. H mà
đã có nhiều
cái sai không đúng với Phật giáo.
Nếu đem hết các bài của bạn Ng.
H ra luận thì cái
sai của bạn ấy
còn biết bao nhiêu mà kể! Nhưng thôi, luận
kể ít nhiều mà đi đến đâu!
Chỉ mong chúng
ta giúp cho nhau có được nhận thức đúng để tránh được cái
đã sai. Và như vậy, xin
hãy bình tâm mà học, bởi
vì chỉ khi tu chứng quả
A La Hán thì mới đủ sức bình luận được sách của Thầy Thông Lạc.
Thưa các bạn!
Diệu Quang quá tất bật vì nhiều
công việc, chỉ
xin góp ý với bạn
Ng. H trong một đoạn tiểu
luận nhỏ để
làm một hạt cát xây dựng lại mái nhà Phật giáo mà Thầy
Thông Lạc ngày đêm miệt
mài dựng lại những gì của đức Phật đã bị các Tổ ném bỏ.
Mong bạn Ng. H thông
hiểu cho. Nếu tôi
có nói điều
gì làm bạn không
bằng lòng, xin bạn tha thứ và từ đây về sau xin
được xem bạn
và các bạn khác như là những người bạn thân. Bạn Ng.
H đồng ý nhé!
Diệu Quang có
lời thăm và
chúc bạn dồi dào sức khoẻ.
Kính ghi Diệu Quang Tháng 5-2004
--------
HẾT TẬP VI
MỤC LỤC
Lời nĩi đầu
................................................................ 5
Thư gửi quý
bạn ...................................................... 19
Tu tập định
vơ lậu cĩ ba việc cần phải lưu ý........... 21
Trì giới là
ly dục ...................................................... 24
Các nhà học
giả dạy nhập Sơ thiền ......................... 31
Tiếng ồn...................................................................
35
Tầm tứ
..................................................................... 39
Ly hỷ........................................................................
41
Sổ tức.......................................................................
43
Dứt tiếng ồn
lên Nhị thiền ....................................... 46
Chấm dứt tầm
tứ lên Tam thiền............................... 47
Chấm dứt hỷ
lên Tứ thiền........................................ 49
Trong Tứ thiền
ngưng sổ tức đạt khơng định .......... 50
Mười hơi thở
đếm khơng lộn là ý cĩ định............... 52
Nhờ theo dõi
hơi thở mà đạt được định................... 55
Gom ý thức
nhập thiền thứ mấy .............................. 58
Sáu thức gom
lại sẽ nhập định gì?........................... 59
Gom ý thức bằng
cách nào? .................................... 61
Gom ý thức
diệt tầm tứ............................................ 62
Tưởng thức
.............................................................. 63
Năm thức
................................................................. 64
Nhân quả..................................................................
65
Nhân quả là
gì? ........................................................ 67
Nhân quả do
đâu mà cĩ ........................................... 70
Con người do
ba hành động thân, miệng, ý sinh ra. 73
Vơ minh và
minh ..................................................... 74
Trí học giả................................................................
80
Hỷ lạc cĩ xả
bỏ hay khơng? .................................... 85
Trưởng dưỡng
hỷ lạc ............................................... 88
Tứ chánh cần
........................................................... 91
Một người mù
dẫn một đám người mù.................... 98
Chứng đắc một
ít cĩ dạy người được khơng? ....... 101
Sống khơng
phạm hạnh ......................................... 104
Chỉ cần tâm
cĩ tàm quý là tu chứng đạo ............... 134
Mọi người đều
là tu sĩ đi xin ăn thì thế gian này sẽ ra sao?
........................................................................ 136
Lục căn hư
hoại ..................................................... 139
Sáu căn quay
vào trong.......................................... 142
Nằm theo kiểu
kiết tường ...................................... 144
Nhân tướng nội
và ngoại của thọ........................... 146
Nhiếp phục
và phá thọ ........................................... 149
Nhân tướng của
nội tâm ........................................ 152
Ngăn ác diệt
ác ...................................................... 155
Nhân tướng
............................................................ 158
Đặc tướng
.............................................................. 160
Thọ hành
................................................................ 163
Mục liên
thanh đề .................................................. 165
Tệ nạn mê
tín ......................................................... 180
Làm lễ quy y
cho người chết ................................. 185
Những kinh
sách mê tín......................................... 190
Tu như thế
nào là đúng pháp ................................. 192
Như lý tác ý
........................................................... 198
Trùng trong
lơng sư tử........................................... 201
Làm sao phân
biệt được tu sĩ giả hay thật trong Phật
giáo
........................................................................ 205
Hộ trì các
căn......................................................... 206
Thế giới
siêu hình .................................................. 212
Phật giáo Đại
thừa ................................................. 216
Thiền Đơng độ
....................................................... 217
Niên lịch Phật
giáo ................................................ 218
Thuyết pháp
45 năm và 49 năm, năm nào đúng? .. 219
Kinh sách
Nguyên thủy và Đại thừa, kinh sách nào đáng tin cậy
........................................................... 220
Kinh sách Đại
thừa cĩ phải là chánh pháp khơng? 222
Luật tứ phần...........................................................
223
Kinh Phạm
Võng Bồ tát giới ................................. 224
Sự sai biệt
giữa Phật giáo và Bà la mơn ................ 225
Thâm ý của
Bà la mơn đối với Phật giáo .............. 232
Bà la
mơn............................................................... 233
Lời giới thiệu
......................................................... 236
Lời tựa giới
thiệu kinh pháp cú của Hịa thượng Thích
Minh Châu
............................................................. 241
Xác định của
đức Phật về “Ý thức” của con người cĩ
tầm quan trọng
nhất trong đạo Phật....................... 243
Lời xác định
thứ hai của đức Phật ......................... 254
Tầm ác và tầm
thiện .............................................. 261
Lấy ân báo ốn.......................................................
266
Phịng hộ sáu
căn ................................................... 273
Chỉ định một
thánh tăng ........................................ 280
Song tầm
................................................................ 284
Thiện xảo
trong tu tập............................................ 288
Nhân quả
1............................................................. 291
Nhân quả
2............................................................. 298
Người học
nhiều khơng bằng người tu tập ............ 301
Khơng phĩng
dật ................................................... 307
Thiền định..............................................................
314
Nỗ lực tu tập
Tứ niệm xứ ...................................... 318
Thiện xảo tu
tập ..................................................... 332
Khen ngời điều
phục tâm....................................... 335
Người chiến
thắng ................................................. 337
Thư hỏi đạo............................................................
340
Hộ trì các
căn ......................................................... 341
Kinh Duy Ma
Cật .................................................. 358
Vơ sở đắc
............................................................... 368
Phụ lục: Khi
nĩi, viết phải bình tâm suy nghĩ cho kỹ
...............................................................................
374
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!