Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
chỉ mà
không chết, đó
là sự lợi
ích làm chủ được sự sống chết.
2- Bệnh lao phổi vi trùng đề kháng thuốc thì
bác sĩ
cũng phải chết,
huống chi là một
người như Thầy, thế mà dùng tâm lực trị bệnh chỉ có 15
ngày mà cơ thể từ 35 ký
tăng lên 44 ký và chỉ
trong 12 tiếng
đồng hồ không
còn khạc ra máu nữa.
Đức Phật
đã không chấp
nhận hai loại thần thông, đó là thần thông ký thuyết
và thần thông biến hóa.
Hai loại thần
thông này là thần
thông huyễn hóa lừa đảo
người chỉ làm trò
hý luận cho
người giải trí,
do đó Thầy chẳng bao giờ dùng nó để lừa đảo ai cả mặc
dù Thầy đủ khả
năng sử dụng,
nhưng không thể sử
dụng hai loại
thần thông này để gieo
vào lòng đệ tử của mình sự ham muốn.
Người tu
hành theo đạo Phật chỉ
có lòng ham muốn duy nhất là ham
muốn làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh,
chết.
Khi Minh
Tông đến xin Thầy tu thì Minh Tông đã trèo lên tảng đá rất cao trước tổ đường để biểu
diễn thiền định của mình,
thấy bản ngã của Minh Tông quá lộ
liễu, và khi được vào tu hành thì nhắm
vào thần thông
chứ không
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
phải đi tìm
sự thoát
khổ, nên Thầy
đã thử thách cho ngồi
trên vết thương
rướm máu hơn sáu
tháng trời, thế
mà bản ngã
cũng chưa từ bỏ. Người như Minh
Tông mà dùng thần thông biến hóa độ thì
Minh Tông sẽ trở thành một lãnh chúa làm bá chủ hoàn cầu, đã không chấn
hưng Phật pháp
mà còn tai hại cho những
người trên hành tinh này.
Minh Tông
là một con
người có đầu óc
chính trị hơn là một nhà tu hành, nhưng biết chuyển hóa
thì cũng trở thành
người tu hành
tốt.
Đạo Phật
là đạo không ức chế
tâm, nên tâm còn hướng ra ngoài
là đi ngược
lại đạo Phật, nhờ
có những người
tu không nghe lời
dạy của
Thầy như một số quý Thầy mà làm
sáng tỏ thêm đường lối và giáo pháp của đức Phật. Họ chỉ là đá trải đường cho người sau đi mà thôi.
THIỀN YOGA CŨNG
TỊNH CHỈ HƠI
THỞ ĐƯỢC
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Các tu
sĩ ngoại đạo Yoga sao họ
chưa ly dục
ly ác pháp
mà tịnh chỉ được
hơi thở, vì Thầy dạy tịnh chỉ được hơi thở khi tâm xả sạch dục và ác
pháp?
Đáp: Các tu
sĩ Yoga tịnh chỉ được hơi thở là do tu tập tưởng định, tưởng định sẽ thở bằng lỗ chân
lông, bằng rốn, bằng tai, bằng mắt, v.v.. do sự luyện tập bằng tưởng thì đâu
cần ly dục ly ác pháp.
Mục đích của đạo Phật là ly
dục ly ác pháp để làm chủ cuộc sống, bất
động tâm trước các pháp và
các cảm thọ để tâm hồn
được giải thoát thanh
thản, an lạc;
còn mục đích của
thiền Yoga là luyện thần thông tịnh chỉ hơi thở chôn trong đất dìm trong nước
đi trên lửa đỏ, mặc chiếc áo mỏng đi dưới trời không độ, để khiến cho người
ta thán phục
và kính nể, nhờ đó mới lập nhiều thiền đường Yoga khắp
trên thế giới, để bành trướng giáo phái Yoga, nhưng các con xét
kỹ nó đem lại
sự lợi ích gì
thiết
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
thực cho con người
hay là để trị bệnh,
bệnh là do gốc nghiệp ác mà
muốn hết bệnh thì chỉ có ly dục ly ác pháp thì bệnh sẽ hết, chứ đâu
phải do luyện tập Yoga mà hết bệnh, hết bệnh của Yoga là hết bệnh tưởng chứ bệnh
của nghiệp ác không làm sao hết được.
Tất cả những phương pháp
ngừa bệnh và trị
bệnh trên thế
gian này đều
là những phương pháp trị ngoài
ngọn, chứ không phải trị ở gốc, mà trị bệnh
ở ngọn
là sự lừa đảo, lường gạt người
“tiền mất tật
mang”. Chúng ta cứ
quan sát xem có đúng không? Biết bao nhiêu phương pháp ngừa bệnh và trị bệnh mà
con người có hết bệnh chưa?
Chúng ta nên
phân biệt cho rõ ràng, thiền Yoga tịnh
chỉ được hơi thở là
do “tưởng lực” khéo tu tập tưởng, thiền của Phật tịnh
chỉ được hơi thở là do “tâm lực” khéo ly dục ly ác pháp.
TÂM LỰC
PHÁP HƯỚNG
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Pháp hướng
tâm có lần Thầy bảo, khi nào tâm thanh
tịnh hướng tâm mới có kết quả, nhưng
chúng con sơ cơ tâm còn quá nhiều
tạp loạn, làm
sao chúng con dùng pháp hướng tâm
có hiệu quả được?
Đáp: Pháp
hướng tâm hiệu
quả có cao có thấp như:
1- Trình độ cao tức là tâm đã ly dục ly ác pháp
thì hướng tâm diệt tầm tứ, ly hỷ tưởng và tịnh chỉ hơi thở làm chủ sự sống chết
thực hiện Tam Minh và chấm dứt luân hồi.
2- Trình độ thấp là tâm chưa ly dục ly ác
pháp thì pháp hướng
tâm sẽ giúp
chúng ta có nội lực tỉnh thức trước các pháp ác.
Pháp hướng
tâm đối với người mới tu cũng như người tu
lâu đều có hiệu quả
nhưng hiệu quả trong
giai đoạn tu của nó,
như hiệu quả ở
giai đoạn ly thì không hiệu quả ở giai đoạn chỉ, ở giai
đoạn chỉ thì không hiệu quả ở giai đoạn diệt, v.v..
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Người mới tu
ở giai đoạn ly dục ly ác pháp mà muốn pháp
hướng có hiệu
quả ở giai
đoạn chỉ thì không thể
nào được, cũng
như ở giai đoạn
chỉ mà muốn
pháp hướng có hiệu quả ở
giai đoạn diệt
thì không thể được.
Chừøng nào tu tập viên mãn ở giai
đoạn này, làm sung mãn ở giai đoạn kia thì mới thấy hiệu quả pháp hướng tâm cụ
thể, rõ ràng.
CÁCH TU ĐỊNH
NIỆM HƠI THỞ
VÀ ĐỊNH
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy
chỉ rõ cách tu Định
Niệm Hơi
Thở và Chánh
Niệm Tỉnh Giác Định.
Đáp: Cách
tu Định Niệm Hơi Thở có 19
giai đoạn tu tập:
1/ Hít vô
tôi biết tôi
hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra.
2/ Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra
dài tôi biết tôi thở ra dài.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
3/ Hít vô
ngắn tôi biết
tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn.
4/ Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô, cảm
giác toàn thân tôi biết tôi thở ra.
5/ An
tịnh thân hành
tôi biết tôi
hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra.
6/ Cảm giác tâm hành tôi biết tôi hít vô, cảm
giác tâm hành tôi biết tôi thở ra
7/ An
tịnh tâm hành
tôi biết tôi thở vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra.
8/ Quán
thân vô thường
tôi biết tôi
hít vô, quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.
9/ Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô,
quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.
10/ Quán tâm
vô thường tôi biết tôi hít vô, quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra.
11/
Quán các
pháp vô thường
tôi biết tôi hít vô, quán các pháp vô thường tôi biết
tôi thở
ra.
12/ Quán ly
tham tôi
biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra.
13/ Quán ly
sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
14/
Quán từ
bỏ tâm tham
tôi biết tôi
hít vô, quán từ bỏ tâm tham tôi biết tôi thở ra.
15/ Quán từ
bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra.
16/
Quán đoạn diệt
tâm tham tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm tham tôi biết
tôi thở ra.
17/ Quán đoạn
diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra.
18/ Với tâm định
tỉnh tôi
biết tôi hít vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở
ra.
19/ Với tâm giải thoát
tôi biết tôi
hít vô, với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra
Đây là 19
giai đoạn khái niệm tu tập về Định Niệm
Hơi Thở, còn nếu tu tập cho trọn vẹn là phải 40 giai đoạn.
Hiện giờ
con nên tu tập giai
đoạn thứ nhất của Định Niệm Hơi
Thở trong 1 tháng, khiến cho tâm
nhu nhuyễn thuần
thục quen dần với hơi thở và với
phương pháp này. Vì từ xưa đến
nay người ta tu tập
hơi thở bằng cách quán niệm
hơi thở nên
thường ức chế
tâm để cho hết vọng tưởng.
Bắt đầu tu
con ngồi kiết già hoặc bán già, lưng thẳng, hai bàn tay để chồng nhau lên trên
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
hai bàn
chân, hai ngón
tay cái đụng đầu vào nhau, khi thân ngồi yên lặng con cảm giác
toàn thân được yên ổn, con như
lý tác ý:
“Ý thức phải tập trung biết
hơi thở ra biết hơi thở vô”. Hai
mắt con bắt đầu tập trung nhìn
chóp mũi, con vừa hít vô vừa nhắc tâm: “Hít vô tôi biết tôi hít vô”, sau
khi hít vô xong, con vừa thở ra vừa nhắc
tâm: “Thở ra
tôi biết tôi thở ra”. Một hơi thở đầu con nhắc tâm như vậy và 4 hơi thở
kế tiếp con không nhắc, vẫn để tâm tự nhiên biết hơi thở ra
và hơi
thở vô, xong 5 hơi
thở con đứng vậy đi kinh hành,
trước khi đi kinh hành con nhắc
tâm: “Đi kinh hành
ý thức phải
biết đi kinh hành”, bắt đầu đi kinh hành con chú ý bước chân
đi và đi rất tự
nhiên, đi theo
thói quen đi hằng
ngày của mình,
không nên đi chậm quá mà cũng không nên đi nhanh quá, đi như
người vô sự,
trong khi đi con thầm
đếm mỗi bước đi
là một số 1,
2, 3, 4, cho đến 20 bước, mỗi
5 bước là con
hướng tâm một lần:
“Tôi đi
kinh hành tôi biết
tôi đi kinh hành”, đúng 20 bước thì con ngồi trở lại,
y như lúc ban đầu con ngồi tu hơi thở.
Con nên
lưu ý:
“giai đoạn tu tập này mục
đích là
tập luyện sự tỉnh thức,
sự tinh cần và
nghị lực chứ không phải tu tập cho hết vọng tưởng”.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Sau khi
tu tập
1 tháng cho
thuần thục Thầy sẽ dạy tiếp giai
đoạn 2, còn nếu bây giờ Thầy dạy hết 19
đề mục
Định Niệm Hơi Thở
này thì con chỉ học để hiểu chứ
tu hành bị rối rấm như cuộn tơ. Vì thế, Thầy bảo rằng: nếu
có cơ sở sống đúng phạm hạnh Thầy trực tiếp dạy các con tu
tập, chứ viết
ra thành sách các
con hiểu để mà hiểu còn tu tập thì không phải dễ.
Về hơi thở
phải tu tập từng đề mục cho thuần thục, khi thuần
thục đề mục
này xong thì mới tu tập đề mục
khác, chứ không phải tu một lần luôn cả 19 đề mục và tu tập như vậy là tu sai
pháp.
Định Niệm Hơi Thở là
pháp môn có lợi
ích rất lớn trong vấn đề tu tập xả tâm trên Tứ Niệm Xứ để hộ trì
và bảo
vệ chân lý. Nếu
không có
Định Niệm Hơi Thở thì không
thể nào tu tập Tứ Niệm Xứ được và cũng không thể nào tu tập pháp xả Tứ
Vô Lượng Tâm được.
Bởi vậy Định
Niệm rất cần thiết và hộ trợ trên bước
đường về xứ Phật. Xin quý
vị hãy tu tập kỹ lưỡng, đừng coi
thường loại thiền định này.
QUÁN VÀ BIẾT
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! “Quán ly
tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham
tôi biết tôi thở ra”, xin Thầy chỉ
cách hành chữ
“Quán” và nghĩa chữ
“Quán” trong câu
này. Còn chữ “Biết”
là biết hơi thở đang
hít vô hay biết
ly tham mà tâm đang ly tham hay đã ly tham.
Con trạch
pháp hướng tâm có phải mình đang vướng mắc hoặc hướng tâm để thấu lý rõ lý mới
dùng ?
Ví dụ:
“Tham” con đang ham muốn cái xe hơi đẹp
đắt tiền thì
con phải quán
lý vô thường, xảy ra nhiều cái
khổ khác, như cọ quẹt trộm mất, v.v.. quán triệt rồi tâm con ly ham muốn cái xe
đó đi. Và phải nhắc hoài để nó ly!
Thưa Thầy có phải vậy không? Và như vậy
biết “tâm ly tham” hay “ hành động hít vô”?
Đáp: Trong
câu hỏi của con: “xin Thầy chỉ cách hành chữ quán và nghĩa của chữ quán”.
Quán có
nghĩa là quan
sát, xem xét,
tư duy, suy nghĩ về một pháp gì, một việc gì, một điều gì, v.v..
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Cách hành
chữ quán như
câu “Quán ly tham
tôi biết tôi
hít vô, quán ly
tham tôi biết tôi
thở ra”, câu
này có ba nghĩa
và có ba kết quả trong một hành động tu:
1- Nhắc nhở tôi quan sát xem xét tâm tôi
có khởi
lên tham muốn
cái gì không?
Nếu có thì tôi phải tỉnh thức
quán xét tâm tham muốn đó “để xa
lìa” như tôi
đang tỉnh thức biết
hơi thở vô ra vậy.
2- Nếu
không có niệm
khởi tâm tham muốn thì nó giúp tôi tỉnh thức trên tâm
tôi, tôi biết rõ tâm tôi “không có tham muốn” tức là tôi biết rõ
tâm tôi đang ở
trong trạng thái “thanh thản,
an lạc và
vô sự” như
tôi đang tỉnh thửc biết hơi thở ra vô rõ ràng vậy.
3- Nếu tâm tôi không có niệm khởi tham muốn thì câu
pháp hướng trên sẽ thấm
nhuần “lý ly tham” và sau này trở thành một “nội lực không tham muốn”
nó sẽ giúp
tôi đoạn diệt lòng tham muốn.
Chữ “Quán”
ở đây có
nghĩa là quan sát xem
xét, còn chữ
“Biết” có nghĩa
là hiểu biết một cách rõ ràng.
Ba kết quả trên
đây giúp chúng
ta tin tưởng vào pháp môn như lý
tác ý của đức Phật
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
bất lay
chuyển để hằng
giây, hằng phút, hằng giờ, hằng
ngày, hằng tháng,
hằng năm rèn luyện tu tập xa lìa tâm tham muốn của
mình cũng như giống
như mình biết
hơi thở vô,
hơi thở ra vậy.
Câu “quán ly
tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham
tôi biết tôi thở ra”,
đó là con đã
hiểu được nghĩa thứ nhất của nó “đang vướng mắc”.
Biết “tâm
bị tham” là chánh còn
hành động hít vô và thở ra là phụ, có nghĩa là nương vào hơi thở vô
và ra để biết
tâm tham của mình
dễ dàng hơn mà xa lìa nó, như đức Phật đã dạy:
“Muốn ly dục ly ác
pháp thì Định niệm hơi thở vô
hơi thở ra phải
khéo tác
ý”.
Ở đây có
nghĩa là biết hơi thở để lìa
tâm tham, sân, si chứ không
phải biết hơi thở để mà
biết hơi thở
thì không có ích lợi
gì. Dùng hơi thở để xả tâm tham, sân, si là có ích lợi, vì tâm được
thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm giải thoát. Còn ngược lại dùng hơi thở
để nhiếp tâm ức chế tâm
không niệm khởi,
đó là tu sai, tu không đúng pháp
của Phật dạy. Cách thức tu tập
này là diệt ý thức khiến
cho người tu hành trở thành cây đá.
LY CÁC LOẠI
HỶ TƯỞNG
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch Thầy!
Xin Thầy cho con nghe qua về cách tu tập để ly các loại
hỷ tưởng.
Đáp: Muốn ly
các loại hỷ tưởng, khi hành giả diệt tầm, tứ, ý thức ngưng hoạt động, tưởng thức xuất
hiện hoạt động thì
có những
trạng thái hỷ lạc do dục tưởng sanh ra. Lúc bấy giờ hành giả muốn lìa xa
các trạng thái hỷ tưởng này thì phải xuất Nhị Thiền, nương vào hơi thở vô hơi
thở ra và thỉnh thoảng phải như lý tác ý những
câu này: “18 loại hỷ tưởng này phải
lìa xa
không được ở
trong thân tâm
này” hoặc “Thân tâm phải ly hỷ tưởng
cho thật sạch”.
Tu tập như vậy cho đến khi nào các trạng thái hỷ không còn là lúc
bấy giờ chúng ta xả niệm
hơi thở diệt tầm tứ mà
không thấy có trạng thái hỷ
là chúng ta
đã nhập Tam
Thiền, còn có trạng
thái hỷ là nhập Nhị
Thiền, cho nên trong
kinh dạy: “Ly
hỷ trú xả
nhập Tam Thiền”. Thầy xin nhắc lại một lần nữa, còn xả niệm
hơi thở diệt tầm tứ mà có hỷ lạc là nhập Nhị Thiền.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khi nào dạy
về Thiền căn bản 2 thì Thầy sẽ giảng rõ, còn bây giờ chưa có ai ly dục ly ác
pháp được mà giảng cho nhiều
thì mọi người biết để mà biết chứ
chẳng có ích gì, đôi khi còn làm hại người
khác giúp cho họ
chỉ biết nói thiền nói đạo miệng để lừa đảo thiên hạ,
như mình đã nhập được thiền định sâu mầu.
Dạy tu tập thiền
định mà dạy
sai dù là một
ly, nhưng vẫn
đưa hành giả vào chỗ bệnh tật,
chứ không vào chỗ giải
thoát, vì thế
xin quý vị lưu ý cảnh giác.
XÂ LẠC, XÂ KHỔ,
XÂ NIỆM THANH TỊNH NÀO?
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy
hoan hỷ cho con nghe qua cách
tu xả
lạc, xả khổ xả niệm thanh
tịnh. Lạc nào? Khổ nào? Và niệm thanh
tịnh nào? Đã là
thanh tịnh sao lại phải xả?
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Đáp: Muốn xả
lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì phải trú
vào hơi thở dùng pháp
hướng tâm tịnh chỉ
thân hành thì xả
lạc, xả khổ, xả
niệm thanh tịnh sẽ đạt được kết quả như ý muốn, nhưng trước khi xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì tâm phải ly dục ly ác
pháp hoàn toàn thì tịnh chỉ thân
hành không có khó
khăn, không có mệt nhọc,
không có phí sức,
bằng ngược lại
chưa ly dục ly ác pháp
hoàn toàn mà xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì chẳng bao giờ xả được.
Khi tu tập
nhập vào tâm bất động thì tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Tâm định tỉnh,
nhu nhuyễn, dễ sử dụng là tâm có đủ bảy
năng lực
Giác Chi. Tâm
có đủ bảy
năng lực Giác Chi là tâm có
đủ Tứ Thần Túc. Khi có đủ Tứ Thần Túc
thì xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh rất dễ dàng không có khó khăn
không có mệt nhọc.
Xả lạc
nào? Xả khổ
nào? Và xả
niệm thanh tịnh nào?
Lạc, khổ
và thanh tịnh
là ba trạng thái của thọ, tức là cảm thọ:
1- Thọ lạc.
2- Thọ khổ.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tịnh.
3- Thọ bất lạc bất khổ tức là niệm thanh
Trong phần cảm
thọ có hai:
1- Cảm thọ thuộc về thân.
2- Cảm thọ thuộc về tâm.
Lạc và khổ
thuộc cảm thọ về thân, còn hỷ
và niệm
thanh tịnh thuộc cảm thọ về tâm. Như vậy ly hỷ, xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh
tịnh là xả cảm thọ về thân và tâm; xả cảm thọ về thân và tâm là tịnh chỉ các
hành trong thân và
tâm.
Cho nên, người
nhập Tứ Thiền toàn thân tâm bất động, thân tâm không còn rung động một chút xíu
nào thì hơi thở phải tịnh chỉ.
Trong câu hỏi:
Lạc nào? Khổ nào? Thanh tịnh nào? Sao thanh tịnh mà lại phải xả?
Lạc, khổ và
niệm thanh tịnh có hai phần:
1- Lạc,
khổ và niệm
thanh tịnh do tâm tham dục sanh ra.
2- Lạc, khổ
và niệm thanh tịnh do tâm ly dục sanh ra.
Lạc, khổ
và niệm thanh
tịnh do dục hoặc do ly dục sanh
ra đều phải xả sạch thì mới nhập vào định Tứ Thiền được, còn có
trạng thái
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
thanh tịnh
thì không nhập vào Tứ Thiền được, dù là thanh tịnh do ly dục sanh.
Như vậy đến đây
con đã hiểu xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh nào rồi. Đức Phật
không chấp nhận 3 thọ:
1/ Thọ lạc.
2/ Thọ khổ.
3/ Thọ bất lạc
bất khổ.
Thọ là
gì? Thọ là
các cảm thọ
nơi thân tâm. Thọ là một
pháp vô thường như các pháp khác; thọ
là pháp khổ,
là pháp vô
ngã. Người tu theo Phật giáo đứng
trước các cảm thọ tâm không hề dao động:
Thọ lạc không
tham đắm, thọ khổ
không sợ hãi,
thọ bất khổ bất lạc không
quan tâm. Vì thế, đứng
trước các khổ tâm không hề lay động một mảy may nào.
Tâm không hề lay động một mảy may nào tức là xả lạc, xả khổ.
Tại sao lại xả niệm thanh
tịnh? Niệm thanh tịnh vẫn còn
là một pháp
vô thường, khổ, vô ngã. Pháp vô
thường, khổ, vô ngã là ác pháp cho nên đức Phật bảo: “Dù Ta nhập các định do
ly dục
có hỷ lạc,
nhưng hỷ lạc
không chi phối tâm
Ta”. Không chi phối tâm
Ta là đức Phật bất động
tâm, không dính mắc vào
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thọ lạc do
ly dục sinh, đó
là đức Phật xả thọ lạc.
Xả lạc thọ
giai đoạn đầu
là không dính mắc, không thích thú, không chấp trước,
không mong đợi, v.v..
Khi tâm định tỉnh,, nhu
nhuyễn, dễ sử dụng thì xả thọ là tâm đình chỉ các hành
trong thân khiến cho thân an lành không còn một chút cảm thọ nào xảy ra. Khi
hơi thở ngưng thì các hành trong
thân đều ngưng thì cảm
nhận trạng thái thanh tịnh của tâm cũng không còn. Đó là phương cách xả
niệm thanh tịnh ở giai đoạn Tứ thiền. Ngoài Tứ thiền thì không có thiền nào xả
niệm thanh tịnh.
Cho nên xả lạc, xả khổ, xả niệm
thanh tịnh là chỉ
có ở trạng
thái Tứ thiền.
Người nhập Tứ thiền là người đã xả các cảm thọ và xả luôn tâm niệm
thanh tịnh. Đó là phương pháp tu tập làm chủ sự sống chết.
Tu theo Phật
giáo mà không tu tập Tứ Thánh Định thì không thể nào làm chủ sự sống chết được.
Trên thế gian
này chỉ có
pháp môn Tứ Thánh Định mới tịnh
chỉ được hơi thở.
LY HỶ
TRÚ XÂ CÓ PHÂI LÀ
PHÁP HƯỚNG TÂM KHÔNG?
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! ly hỷ
trú xả có phải
là pháp hướng
tâm không? Xin Thầy chỉ dạy lại ý này.
Đáp: Ly hỷ
trú xả không phải là pháp hướng
tâm, ly hỷ trú xả là những danh từ chỉ cho chúng
ta muốn nhập
Tam Thiền thì phải lìa xa 18 loại hỷ tưởng, mà muốn lìa
xa 18 loại hỷ tưởng thì phải
trú trong pháp xả, pháp xả
gồm có có hai phần:
1- Định Niệm Hơi Thở.
2- Pháp hướng tâm như lý tác ý.
Khi muốn ly
các loại hỷ tưởng thì phải trú tâm vào hơi thở và khéo tác ý xả nó, do đó đức
Phật gọi
tắt: “Ly hỷ
trú xả”, có
nghĩa là muốn ly trạng thái hỷ
thì phải trú ở trong hơi thở ra, hơi thở vô thì
sẽ ly trạng thái hỷ rất
dễ dàng, không mấy khó khăn và không có mệt nhọc.
Khi tu tập vừa thấy
hay cảm nhận một
trạng thái tưởng nào thì mau mau xả pháp môn
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
đang tu tập
không được tiếp tục tu tập nữa. Khi xả
pháp môn xong thì nên
tiếp tục dùng
pháp tác ý. Tác
ý ngay trạng
thái tưởng đó bảo nó phải diệt ngay liền và nương vào tâm thanh
thản, an
lạc và vô sự và thỉnh thoảng
tác ý trạng thái
tưởng đó phải dừng lại,
cơ thể và tâm phải
bình thường. Tác
ý đến chừng
nào trạng thái tưởng đó không còn nữa mới thôi.
Ly hỷ
trú xả không
phải là pháp
hướng tâm, nó là ngôn ngữ để chúng ta nói cho người khác thông hiểu cách
thức lìa xa trạng thái hỷ tưởng.
Còn pháp như
lý tác ý
là phải tác ý
đúng trạng thái tưởng đó, đúng tên của nó, chứ không thể
nói chung chung
được “Ly hỷ” là
danh từ chỉ chung thì tâm biết trạng thái hỷ gì mà ly.
Ví dụ: Sắc
tưởng hiện ra khiến chúng ta thấy ánh sáng như hào quang hoặc thinh tưởng hiện
ra tai tiếng nói của các Tổ hay
chư Thiên nói pháp hay tiếng tụng
kinh niệm Phật thì phải
tác ý đúng
tên đúng của
nó như:: “Ánh sáng hào quang này là sắc tưởng hãy đi
đi, Ta không chấp nhận
ngươi” hoặc “Tiếng
nói của Tổ hay chư Thiên là thinh
tưởng, là Ma hãy đi đi Ta không chấp nhận
ngươiø”.
NGHIỆP TÁI SANH
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Con nghĩ khi chúng sanh luân hồi
là do nghiệp lực,
nghiệp lực như luồng khí, luồng từ trường sẽ thu hút những gì
có chung nhân
duyên nhân quả với
nó để
hợp lại tạo
nên một kiếp
chúng sanh mới? Bởi
vì ngay cả con người
chết rồi là tan
hoại hết thì chỉ còn có nghiệp đi luân hồi.
Vậy nghiệp là thế phải không thưa Thầy ?
Đáp: Đúng
như vậy, con đã hiểu đúng nghiệp lực đi
tái sanh luân hồi là như vậy.
Khi một người
còn sống hằng
ngày thân, miệng, ý thường hay hoạt động tạo ra nghiệp lực, nghiệp lực có thiện và có ác.
Hành động ác thì làm khổ mình, khổ người
tạo ra nghiệp khổ chẳng lợi mình, lợi
người mang đến sự khổ đau cho nhau, tạo cuộc sống chung như
Địa Ngục, còn hành động thiện thì không làm khổ mình, khổ
người tạo ra
nghiệp thiện lợi
mình, lợi người mang đến hạnh
phúc cho mọi người tạo cuộc sống chung an vui, thanh thản như cảnh giới Thiên
Đàng.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khi con người chết rồi tất cả toàn
thân ngũ uẩn đều trả về môi trường sống của nó, chẳng còn một vật gì
là của
ta dù chỉ
còn lại một chút xíu nhỏ như đầu
mũi kim cũng không còn, nhà cao cửa
rộng, con bầy cháu
đàn cũng chẳng còn gì, vàng bạc
châu báu ngọc ngà cũng vô nghĩa, chỉ còn lại nghiệp ác, thiện mà thôi.
Nghiệp ác,
thiện là gì?
Nghiệp ác,
thiện như con đã
hiểu ở trên, nó
là luồng khí
như bao nhiêu luồng
khí khác trong môi
trường sống này,
khi luồng khí nghiệp lực đó tương ưng với các luồng
khí khác đủ duyên hợp lại thành một con
người mới. Nói một cách khác
cho dễ hiểu là mỗi hành động
của chúng ta làm, nói và suy tư đều có một từ trường, từ trường đó thiện hay ác
là do hành động thân, miệng, ý ác hay thiện mà thôi.
Từ trường
toàn thiện thì không
có duyên để hợp
nên không tái
sanh chỉ hưởng
quả phước thiện ở từ trường
đó chờ hết quả phước đó
mới tái sanh
làm người trở lại. Còn từ
trường thiện nhiều
ác ít thì sẽ hợp
duyên với những từ
trường thiện ác
khác trong môi trường
sống và từ
đó tiếp tục
tái sanh làm chúng
sanh mới trong
hoàn cảnh thiện
và
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
phước báo đầy
đủ6 chứ không có linh hồn đi tái sanh. Từ
trường ác cũng vậy sẽ hợp duyên với những từ trường ác khác trong môi trường sống
và tiếp tục tái sanh trong hoàn cảnh khốn khổ đủ mọi điều
khổ hoặc sanh làm những loài vật nhỏ bé ti tiện như côn trùng, sâu, bọ v.v.. sống nơi ẩm ướt dơ bẩn, thời
gian sống quá ngắn
ngủi, tuổi thọ không được dài lâu.
THỨC TRONG
12 NHÂN DUYÊN VÀ THỨC NÀO LÀ LINH HỒN
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy chỉ dạy “Thức” trong 12
nhân duyên và “thức” nào mà người vô minh
cho là linh hồn? Họ dựa vào gì?
Đáp: Trong
12 nhân duyên có 3 thức:
6 Từ trường thiện không còn có duyên để hợp nên
không tạo ra thế giới, còn từ trường ác
thì có các duyên để hợp mới tạo ra thành thế giới gồm có: dục giới,
sắc giới và vô sắc giới. Do dục giới, sắc giới và vô sắc giới nên mới tạo ra thế giới khổ đau.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
1- Thức là thức uẩn.
2- Danh
là tưởng uẩn
còn gọi là tưởng
thức (cái thức trong giấc mộng).
3- Sắc là sắc uẩn còn gọi là sắc thức, sắc thức
gồm có sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Người đời
vô minh không
rõ cho tưởng thức là linh hồn dựa vào những hiện tượng
phi không gian và thời gian của tưởng thức tạo ra sắc tưởng như ánh sáng, lửa
hay những hình bóng mờ mờ ảo ảo, v.v.. thanh tưởng như âm thanh tiếng
kêu, tiếng khóc,
tiếng rên, v.v.. hương tưởng như mùi thơm, mùi thối,
v.v.. vị tưởng như mùi vị ngon
ngọt, cay, đắng
xuất phát từ trong
miệng của mình,
v.v.. xúc tưởng như cảm
giác mát mẻ,
nóng nực, khinh
an, hỷ lạc, v.v.. pháp
tưởng như sự hiểu biết về các pháp
tưởng v.v.. như Tổ Long Thọ tưởng ra trí tuệ Bát Nhã Chân Không, Phật
Tánh v.v.. hoặc nói chuyện quá khứ vị lai của người chết hoặc người đang
sống rất đúng.
Do những hiện tượng này, nên tưởng tri của loài người
dựng ra có thế giới
siêu hình và
cho tưởng thức
là những con người vô sắc (linh
hồn) sống trong thế giới đó.
Trong 12
nhân duyên thì
duyên “danh sắc” là một
duyên mà chiếm
hai thức, đó là
sắc thức và tưởng
thức. Do sự
tu tập nhập
Tứ Thánh Định, tịnh chỉ các thức, mới biết rõ 12 nhân duyên có ba thức
chứ không có nhiều thức như các nhà Duy Thức
phát triển chia chẻ
đặt ra làm cho người sau khó hiểu.
Các nhà
kinh sách phát triển
cho ý thức không niệm thiện niệm
ác là Phật Tánh, đó là một điều lầm lạc, và
quá sai do lạc
vào tưởng tuệ tạo ra Tánh Thấy,
Tánh Biết, Tánh Nghe... Xin quý vị cứ suy ngẫm kỹ, nếu xét đúng thì tin chúng
tôi, còn nếu thấy chúng tôi nói sai thì đừng tin.
Chúng tôi
nói ở đây không phải tự nói mà không thấy, chúng tôi thấy biết
rất rõ mới nói và
nói ra không phải
chỉ có một
mình chúng tôi nói mà đức Phật đã
nói cách đây 2550 năm, Vì vậy những điều chúng tôi nói là lập lại của đức Phật
qua sự chứng thật của mình.
Vì vậy,
quý vị
tin là có lợi ích cho quý vị, còn
không tin thì thôi và
quý vị sẽ bị người khác
lừa đảo “Tiền
mất tật mang
và phí công vô ích”.
Tóm lại,
thân người có 3
thức, không có linh hồn.
Khi người chết đều
tan hoại tất cả
không còn một
vật gì tồn tại chỉ còn nghiệp thiện
ác do trong lúc sống gây tạo ra do lòng ham muốn.
MINH
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Sách Đường
Về
Xứ Phật tập VI, Thầy có giải nghĩa
“Minh” có từ giới
luật, và có đoạn ông
Bàn Đặc tối
tăm dốt nát, sau khi được Phật dạy tu hành, chứng quả A La Hán
thông suốt tam tạng kinh
điển, như vậy thời Phật tại thế có kinh
điển sao? Và sao Thầy lại bảo quý Thầy đọc các bộ kinh Nguyên Thủy cũng
như kinh sách phát triển để khi có
ai hỏi để biết trả lời. Theo
con nghĩ Thầy nên quán
xét và độ họ tu
nhanh giải thoát xong là
cái gì là không
biết ? Con thắc mắc xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Nói về
“Minh” thì các nhà kinh sách phát triển hiểu “Minh” có nghĩa là sự hiểu biết một cách rộng rãi
bao la mà không
cần học,
cho nên câu
chuyện ông Châu Lợi Bàn Đặc là một câu chuyện bịa đặt của các nhà phát
triển.
Ông Châu Lợi
Bàn Đặc trong kinh Nguyên Thủy là người tối tăm học bốn câu kệ mãi mà không thuộc,
khi chứng quả A La Hán, ông thể hiện thần thông
biến ra vô số
ông Bàn Đặc ngồi khắp trong rừng, còn kinh sách phát
triển nói: khi ông chứng quả A La Hán, liền thông suốt Tam Tạng kinh điển lên
đàn thuyết giảng. Trong kinh Nguyên Thủy
chúng ta còn
tin vì khi ông Châu Lợi
Bàn Đặc chứng
quả A La Hán thị hiện thần thông, còn kinh sách
phát triển chúng ta
không tin là vì thời đức Phật
chưa có Tam Tạng
kinh điển thì lấy gì gọi
là thông suốt.
Người ta hiểu lầm
ý nghĩa “trí
tuệ” của đạo Phật, tưởng khi tu
chứng đạo là thông suốt cả tam thiên đại thiên thế giới, cái gì cũng hiểu tất cả, điều đó
là sai. Đức Phật đã
xác định: “Nếu bảo rằng Ta hiểu
biết tất cả là có nói láo trong Ta” (lời
dạy này trong
kinh Tăng Chi). Khi tu chứng là có sự hiểu biết không làm khổ mình, khổ người; là có sự hiểu biết đạo đức
nhân bản
làm người. Sự hiểu biết
đó có mục đích giải quyết sự đau khổ của con người
chứ không phải là sự thông suốt
vũ trụ cái gì
cũng
biết. Nếu tu
chứng mà biết như vậy có ích lợi gì hay biết
như vậy để đi ra tranh luận hơn thua cao thấp với mọi người?
Đức Phật
nói: “Trí tuệ đâu là giới luật đó, giới luật đâu là trí tuệ đó” (kinh Trường Bộ), giới
luật tức là đức hạnh,
vậy chỗ nào có
đức hạnh chỗ đó có trí tuệ, đức hạnh và trí tuệ được gắn liền với nhau.
Trí tuệ thông suốt Tam tạng kinh điển
chưa hẳn là trí tuệ
đức hạnh. Kinh điển phát triển phần nhiều có những
bài kinh dạy mê tín trừu tượng
mơ hồ và phi đạo
đức v.v…
Như vậy, người
thông suốt Tam Tạng kinh điển chưa hẳn
là người có
“Minh”. Minh của đạo Phật có
nghĩa là sự hiểu biết
không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
Ở đây
Thầy khuyên đệ tử đọc
kinh sách
Nguyên Thủy
cũng như kinh sách phát triển là để:
1- Thấu rõ âm mưu thâm độc của Bà La Môn Giáo
đã, đang và hiện tại diệt Phật giáo bằng những danh từ chấn hưng đạo Phật.
2- Biết
rõ pháp môn
nào của Phật
giáo và pháp môn nào không phải của đạo Phật.
3- Khi có
người chất vấn nếu không
đọc hai loại kinh
sách này thì biết
đâu mà trả lời
cho đúng. Vì
Minh của đạo
Phật không có nghĩa
là trí tuệ hiểu
biết sự tào
lao (tam tạng kinh điển của Bà La Môn), minh của đạo Phật là trí tuệ
hiểu biết để làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi. Thầy xin nhắc lại một lần
nữa, khi đức Phật tu chứng Ngài nói: “Nếu
Ta nói Ta hiểu
biết tất cả
trong thế gian này là có nói láo
trong Ta”
Kinh sách
phát triển dựa vào lời nói của đức Phật: “Ta dạy cho các
tỳ kheo như nắm lá cây
trong lòng bàn tay và Ta
tu chứng như rừng lá cây”, nghe
câu nói này, những người không hiểu biết về Phật giáo nên nghĩ tưởng rằng:
đức Phật tu chứng đạo
là biết tất cả mọi việc trong tam thiên đại thiên thế
giới cái gì cũng biết. Do sự hiểu sai này nên mới bịa ra câu chuyện
ông Châu Lợi
Bàn Đặc u tối,
nhưng khi tu chứng
quả A La
Hán thì thông suốt Tam Tạng kinh
điển, đó là một điều
nói sai của kinh sách
phát triển. Nói
không đúng sự thật mà không khéo
léo để ló đuôi nên người đời sau thấy rõ. Phật còn tại thế
đâu có kinh sách. Vậy mà tu chứng
là thông suốt tam tạng kinh điển thì thật là nói láo không
sách vở.
Trong sách
Đường Về Xứ Phật Thầy nêu câu chuyện ông Châu Lợi Bàn Đặc để gợi ý cho phật tử
hỏi, do đó mới có nhân duyên vạch trần sự
lừa đảo thêm bớt của
kinh sách phát triển để mọi người rõ hơn.
PHƯƠNG CÁCH NHẬP NHỊ THIỀN
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy giảng trạch rõ: - Khi ly
dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền
- Muốn nhập
Nhị Thiền phải ra khỏi Sơ Thiền chừng đó điều tâm như thế nào? Nếu như lý tác
ý “tịnh
chỉ tầm tứ”
có được không?
Vì lúc đó tâm
không còn thanh tịnh hoàn
toàn (vì xả Sơ Thiền).
Đáp: Bởi Sơ
Thiền con chưa nhập được, nên mới có câu hỏi này. Tại sao?
Tại vì tâm
chưa ly dục ly ác pháp nên con không biết được
trạng thái này,
khi tâm đã ly dục ly ác pháp thì tâm con lúc nào cũng thanh tịnh vì nó
không còn tham,
sân, si, mạn, nghi
nữa, lúc tiếp duyên
cũng như lúc
không tiếp duyên với mọi người nó
đều thanh tịnh.
Cho nên, trước
khi nhập Sơ Thiền thì con ly dục ly ác
pháp nhập Bất Động Tâm Định.
Bất Động Tâm Định là một trạng thái Tứ Niệm Xứ
sung mãn, trạng thái này
có đủ 7 năng
lực của Thất Giác
Chi. Do 7
năng lực của Thất
Giác Chi con mới nhập vào trạng thái của Sơ Thiền là trạng thái tâm không phóng
dật, tâm không phóng dật tức
là tâm ly dục ly ác pháp. Nói
nhập Sơ Thiền là nói
tâm thanh tịnh, khi tâm đã
thanh tịnh thì
làm sao ra khỏi sự thanh
tịnh đó? Nói ra
khỏi Sơ Thiền để nhập
Nhị Thiền tức là muốn nói tâm ra khỏi 5 chi thiền của Sơ
thiền là: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất
Tâm. Khi ra khỏi
5 chi thiền
này thì nương vào hơi thở và ở
trên hơi thở để dùng pháp hướng tịnh chỉ tầâm tứ nhập Nhị Thiền, chứ trạng thái
tâm đã ly dục ly ác pháp thì không thể nào trở lui lại với đời sống dục lạc thế
gian nữa, chỉ
có những người
hết muốn tu thì mới trở lui lại chạy theo dục lạc thế
gian để hưởng thụ, còn
người quyết tâm
tu giải thoát
thì luôn
luôn lúc nào cũng ở trong trạng thái ly dục này.
Ví dụ: Một sinh
viên đang học
năm thứ nhất trên đại học y khoa,
có nghĩa là phải tốt nghiệp lớp 12 cấp phổ
thông, hay nói
cách khác cho dễ hiểu
là anh phải rời khỏi lớp 12 rồi
mới lên đại học, học
năm thứ nhất mới
được. Ở đây không có nghĩa là
người sinh viên này trở lại
một cậu bé
chưa cắp sách
đến trường lần nào
(chưa biết chữ)
mà bước vào năm thứ nhất của Đại học y khoa. Còn nếu
anh sinh viên đại học mà cứ ở lại lớp 12 và học bài vở lớp 12
thì không thể nào
là sinh viện đại
học y khoa được.
Ra khỏi 5
chi của Sơ Thiền là ý nghĩa này chứ không phải rời khỏi tâm thanh tịnh.
Sơ Thiền
ví như cái
nhà của chúng
ta đang ở, lìa khỏi cái nhà để trồng đám ngô, đám ngô ví
như Nhị Thiền,
nhưng trồng ngô
xong thì chúng ta trở về nhà nghỉ, nhưng khi chúng ta muốn trồng lúa,
đám lúa ví như Tam Thiền, thì chúng ta phải rời khỏi nhà và đám ngô, khi trồng
lúa xong chúng ta trở về nhà, v.v…
Còn nếu mình ở trong nhà
(Sơ Thiền) mà trồng ngô thì không
thể trồng được vì nhà để ở chứ
không thể trồng
ngô, trồng lúa được,
cũng như trong đám ngô thì không thể trồng lúa vào được, trồng như vậy chẳng có
kết quả.
Cho nên, xả
Sơ Thiền không có nghĩa là một người có học thức
mà xả bỏ cái học thức
của mình. Xả Sơ Thiền có
nghĩa là rời lớp học thấp lên lớp học cao hơn.
Khi muốn
nhập Nhị Thiền
thì phải ra khỏi Sơ Thiền
bằng cách nương
vào hơi thở, tâm
ở trên đường
dây hơi thở
này thường như lý
tác ý: “Tầm
tứ phải tịnh
chỉ nhập Nhị Thiền”, cứ thỉnh thoảng hướng tâm một lần,
chừng nào tâm nhập Nhị Thiền mới thôi vì lúc đó hơi thở cũng mất tiêu, tầm tứ
cũng không còn, tầm tứ
không còn thì không
còn hướng tâm được.
Tầm tứ thuộc về
ý thức, nếu tầm tứ dừng
thì ý thức dừng.
Ý thức là một thức
trong sáu thức, nên
ý thức dừng
thì năm thức kia đều
dừng theo hết. Nhóm sáu thức gồm có:
1- Nhãn thức
2- Nhĩ thức
3- Tỷ thức
4- Thiệt thức
5- Thân thức
6- Ý thức
Khi nhập Nhị
Thiền tai không nghe tiếng, mắt
không thấy sắc,
mũi không ngửi
mùi hương thơm hay thối, lưỡi không
nếm vị, thân không
xúc chạm tức
là sáu căn
ngưng hoạt động thì mới nhập được
Nhị Thiền.
HÀNH CÁC
PHÁP THIỆN CÓ PHÂI
LÀ TU TẬP CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC VÀ
ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ KHÔNG?
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch Thầy!
Xin Thầy hoan hỷ chỉ
dạy con cách hành
và qua ví dụ để con
rõ về hai loại định:
“Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và
Định Niệm Hơi Thở”. Chánh
niệm có phải là các pháp thiện không?
Đáp: Chánh
Niệm Tỉnh Giác
Định là niệm chân
chánh. Niệm chân
chánh tức là
niệm thiện,
cho nên Chánh Niệm Tỉnh Giác tức là tâm niệm niệm hằng giây, hằng
phút, hằng giờ, hằng
ngày trong trong
sức tỉnh thức để các niệm ác
không xen vào được.
Cho nên nó là các pháp thiện, nếu có một niệm ác xen vào thì không thể gọi
đây là chánh niệm được.
Trong Bát
Chánh Đạo có tám nẻo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Định. Chánh Niệm là một nẻo thiện trong tám nẻo
thiện, pháp hành của đạo Phật là
như vậy.
Chánh Niệm
trên Tứ Niệm
Xứ mà Tứ Niệm
Xứ thì có bốn chỗ để tu tập
thiện pháp, trên bốn chỗ đó luôn
luôn khắc phục ác pháp không cho ác
pháp xâm chiếm
vào, vì thế, người
thường sống trong Chánh Niệm là
người sống đạo đức
không làm khổ
mình, khổ người hay
nói một cách
khác là người
tu thiền Tứ Niệm Xứ.
Chánh Niệm
như con đã hỏi có phải là các thiện pháp không?
Đúng vậy
Chánh Niệm là niệm các pháp thiện như:
1- Không tham.
2- Không sân.
3- Không si.
4- Không làm đau khổ chúng sanh.
5- Không
trộm cắp, cướp
giâït, móc túi, lấy của không cho.
6- Không tà dâm.
7- Không nói vọng ngữ.
8- Không nói lời hung dữ.
9- Không nói thêu dệt
10- Không
nói lưỡi hai chiều.
Niệm các niệm
thiện không có nghĩa đọc thầm 10 niệm thiện
như niệm chú, đọc kinh, mà
chính phải sống
trọn vẹn và giữ gìn
thân, thọ, tâm, pháp của mình
trong 10 điều
lành trên đây. Có như vậy mới được gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
Định Chánh
Niệm Tỉnh Giác
Định và Định Niệm Hơi Thở là
hai pháp môn thiện để tu tập ngăn các ác và diệt các
ác pháp.
Ví dụ: Con
đi kinh hành, trước khi bước đi con hướng tâm nhắc: “Tâm như đất từ bỏ tham,
sân, si tôi
biết tôi đi
kinh hành”, cứ thỉnh
thoảng con vừa đi vừa nhắc
câu pháp hướng này.
Ví dụ:
Con đang nấu cơm, trước
khi nấu cơm con hướng tâm nhắc:
“Tâm như cục đất từ
bỏ xa lìa lòng
tham, sân, si
tôi biết tôi
đang nấu cơm”. Và trong thời gian còn đang nấu cơm thì con cứ thỉnh thoảng
lại nhắc tâm câu pháp hướng trên cho đến khi nấu cơm xong.
Mục đích ở đây
là nương vào
hành động làm việc
hoặc hơi thở để được tỉnh
thức không quên Chánh Niệm tức là pháp
hướng nhắc tâm, chứ không phải tỉnh thức trong hành động làm hay đi
hay thở mà nhờ nhắc
tâm “đi, hơi thở
và làm việc là để tỉnh thức trên Chánh Niệm từ bỏ tâm tham, sân, si, mạn,
nghi”.
Cho
nên, pháp hành của đức
Phật thật là rõ
ràng và cụ thể mỗi
hành động tu tập đều mang
đến một ý
nghĩa thiện, một kết quả an
lạc, yên
vui, các pháp
hành của đức Phật sẽ mang đến cho chúng ta một điều gì đó
rất giải thoát thực tế cho đời sống
của con người. Nhờ vậy con người tu tập tức là sẽ sống không làm khổ mình, khổ người. Đấy là sự thanh thản, an lạc và
vô sự của
loài người. Làm
người ai ai cũng
nên chọn cho mình
một sự sống
như vậy để đem lại sự an vui cho mình
cho người và cho muôn loài vạn vật trên hành tinh này.
PHÁP HƯỚNG TÂM NGẮN GỌN CĨ KẾT QUÂ NHANH
HƠN
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy chỉ dạy cho con khi tu Định Niệm
Hơi Thở dùng pháp hướng tâm như lý tác ý nhắc nhiều
câu pháp hướng và mỗi
câu pháp hướng
thì dài như: “Thân
ngồi ngay thẳng
không được nhúc
nhích xê dịch, không được cảm giác nóng lạnh, đầu không được nhức... cái
tâm không được sanh vọng tưởng... tai không được nghe âm thanh... cái mũi...
cái miệng... Như vậy phải
nhắc liên tục suốt buổi
tu hay thỉnh
thoảng cách 5 hơi thở? Và hướng tâm như vậy có hiệu quả
không?
Đáp: Trạch
câu pháp hướng như thế nào “ngắn gọn đầy đủ ý
nghĩa và chỉ thẳng mục đích
của nó giải
quyết tâm trạng
đang vướng mắc cần phải xả ly, từ
bỏ” trong pháp đang tu hành. Trạch câu
pháp hướng như vậy là một
lệnh truyền thì sẽ
có hiệu quả,
còn nếu câu pháp hướng tâm dài quá sẽ mất ý nghĩa
truyền lệnh mạnh mẽ, do đó sẽ không có hiệu quả.
Khi hướng tâm
thì phải thỉnh thoảng
5,
10 hơi thở
là lúc ngồi tu định Niệm Hơi Thở hoặc 5,
10 bước đi lúc
đi kinh hành mới nhắc
tâm một
lần chứ không
được nhắc liền
miệng như tụng kinh, niệm
chú thì tu tập
như vậy là sai không đúng
cách, không đúng
cách sẽ không có hiệu quả tốt và
tu tập như vậy sẽ phí công.
Nên lưu ý: Ở
đây tu tập không dùng câu pháp hướng tâm để ức chế tâm
khiến cho tâm không còn niệm khởi;
ở đây dùng câu pháp hướng để xả tâm ly tham đoạn diệt ác pháp, để thực hiện
tâm bất động
trước các ác
pháp và các cảm thọ; để giữ gìn
chân lý thanh thản, an lạc và vô sự, chứ
không diệt ý thức để trở
thành gốc cây, cục đá.
KHI NÀO MỚI
BẮT ĐẦU HƯỚNG TÂM
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính Bạch
Thầy! Khi nào mới bắt đầu hướng tâm?
Đáp: Trước
khi đi kinh hành phải
huớng tâm rồi mới bước đi và đi được 10 bước lại hướng
tâm một lần nữa và cứ tiếp tục 10 bước là hướng tâm một câu. Hướng tâm như vậy
có nghĩa là nhắc tâm đừng quên xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp, chứ pháp hướng
tâm chưa có hiệu quả gì
chỉ giúp
cho chúng ta nhớ được
lòng ham
muốn và ác
pháp để xả,
đó là hiệu quả đầu tiên của pháp hướng tâm.
Ngồi tu Định
Niệm Hơi
Thở, sau khi tréo chân ngồi xếp bằng, lưng thẳng và toàn thân cảm giác được an ổn, bất động thì mới bắt đầu hướng tâm, sau khi hướng tâm xong, tâm
chú ý vào hơi thở thì bắt đầu hít vô và thở ra, đúng 5 hơi thở hoặc 10
hơi thở rồi dừng lại
tác ý hướng tâm một lần nữa như
câu trên, tu tập
cho đến khi xả Định Niệm Hơi Thở mới thôi.
Tóm lại,
cách thức dùng pháp hướng tâm trước khi đi
kinh hành rồi từ đó về sau
cứ mỗi
5 bước
hoặc 10 bước
là hướng tâm một lần, Định Niệm Hơi Thở cũng vậy, tu tập như vậy
phải siêng năng
chuyên cần hằng
ngày, đừng tu theo
kiểu một nắng
hai sương thì không có kết quả.
Pháp hướng tâm
là một phương pháp dẫn tâm vào đạo. Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
“Tâm dẫn đầu
các pháp
Tâm làm chủ
tâm tạo tác...”
Pháp hướng
tâm là một pháp môn rất đặc biệt, người nào siêng năng tu tập thì có đủ khả
năng điều khiển làm chủ thân tâm một cách cụ thể rõ ràng. Vì thế đức Phật nói:
“Thiên thượng
thiên hạ
Duy ngã độc
tôn Nhất thiết thế gian Sanh, lão, bệnh, tử”
Chỉ có “Tác
ý một tướng
khác của tướng kia thì tướng kia sẽ
bị diệt sạch”, đó là lời dạy của
Phật để chúng ta theo pháp môn này tập luyện
mới có đủ nội lực
ngăn và diệt các ác pháp và các cảm thọ rất tuyệt vời.
Kính mong quý vị đặt trọn
lòng tin áp dụng vào đời sống
hằng ngày sẽ thấy kết
quả ngay liền “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy...”,
đúng như lời đức Phật đã xác định.
Pháp Phật rất đơn giản và
tu hành dễ dàng
không có khó
khăn, không có mệt nhọc như người ta tưởng, vì nó là thiện pháp,
là đạo đức của mỗi con người nên con người chỉ cần có nhiệt tâm sống như lời Phật dạy
là đã
chứng
đạt chân
lý. Chỉ có những người
không chịu hiểu nên tu sai, nhất
là không nhận ra pháp thiện pháp, không chấp nhận sống đời đạo đức làm người
thì không thể chứng
đạt chân lý được.
Vì chân lý là một sự thật của
loài người mà ai
cũng có nơi
thân tâm, nó
không riêng của một người nào cả.
TU ĐỊNH VƠ LẬU
TRÊN BỐN CHỖ
THÂN, THỌ,
TÂM PHÁP NHƯ THẾ NÀO?
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Khi tu Định
Vô Lậu, phải dùng tâm tư duy, quán xét bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Xin Thầy dạy
rõ hơn về cách hành.
Đáp: Muốn
tu tập Định
Vô Lậu, ở đây
Thầy chỉ thẳng không giải thích lòng vòng. Bắt đầu vào tu, con ngồi kiết già hoặc
ngồi bán già lưng thẳng hoặc ngồi trên ghế thường hoặc đi kinh hành
hoặc làm mọi việc. Tuy
đi, đứng, nằm, ngồi hoặc làm mọi việc con nên để ý bốn
chỗ thân, thọ,
tâm và pháp của con, nếu trên bốn chỗ này
có xảy ra chướng
ngại pháp thì con nên quán xét chướng ngại pháp đó rồi
dùng pháp hướng đẩy lui ra khỏi bốn chỗ này, khi chướng ngại pháp đã được đẩy lui ra khỏi thân tâm thì ngay đó
thân tâm con được giải
thoát. Thân tâm con được giải
thoát tức là
vô lậu, vô lậu tức
là thân tâm
con thanh thản, an lạc
và vô sự.
Tu Định Vô Lậu
tức là quán xét như thế nào để cho tâm
ham muốn và
các ác pháp
lìa xa khỏi thân tâm của con khiến
cho thân tâm con không còn phiền não đau khổ nữa.
Cách tu hành
dễ nhất của nó như Thầy đã dạy ở trên.
Ví dụ: Ngồi quan sát
trên bốn chỗ
thân, thọ, tâm, pháp
giống như người
lính gác bốn cửa thành như sau:
1- Thấy
thân yên lặng,
thanh thản, an lạc
và vô sự thì
nên để
thân tâm tự
nhiên, đừng đả động đến nó.
2- Thấy tâm yên lặng, thanh thản, an lạc và vô
sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó.
3- Thấy thọ yên lặng, thanh thản, an lạc và vô
sự thì nên để thân tâm tự nhiên, đừng đả động đến nó.
4- Thấy
pháp yên lặng,
thanh thản, an lạc
và vô sự thì
nên để
thân tâm tự
nhiên, đừng đả động đến nó.
Cảm giác
trên bốn chỗ
này thấy rất rõ
như vậy thì cứ để tự
nhiên cho nó, có nghĩa là để cho
nó tự nhiên thanh thản, an lạc và vô sự, đó là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật tức là tâm vô lậu.
Khi tu tập
quán Tứ Niệm Xứ còn thấy
thân tâm cảm nhận chướng ngại pháp:
1- Trên
thân, thọ có
pháp ác đến,
nghĩa là con có cảm giác như: đau, nhức, ngứa, mỏi mệt, tê, nóng, rát
trên thân v.v.. thì con nên quán
xét mà đẩy
lui nó ra khỏi
thân con. Vậy đẩy lui bằng cách
nào? Khi con ngồi kiết già chân bị tê,
đau nhức hay nóng
con muốn đẩy lui chướng
ngại pháp đó thì
con hãy đứng dậy đi kinh hành tức khắc đau tê nhức được đẩy
lui, tức là con trở
về trạng thái
thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
2- Trên tâm thọ có ác pháp đến, nghĩa là trong
tâm con có một niệm khởi, niệm khởi ấy
đem đến cho
con một sự phiền não, một sự lo lắng, một sự
buồn khổ, v.v.. cho đến một niệm tào lao chẳng ích lợi gì tuy nó không
làm cho tâm con buồn khổ, phiền não, nhưng nó cũng làm cho tâm con mất thanh thản,
an lạc và vô sự, vì vậy
con cần phải đẩy
lui tất cả để tâm con trở
về trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự
thì mới đúng cách
thức tu tập. Ở đây
con phải hiểu có nghĩa là con tu tập đẩy lui như thế nào mà
tâm con tự
nhiên không phóng
dật. Tâm con tự nhiên không phóng dật là con đã đi hết hai phần ba đường
của Đạo giải thoát.
3- Trên
Pháp thọ có
ác pháp đến,
có nghĩa là con đang sống một mình
và đang quan sát thân, thọ, tâm,
và pháp của con thì có một người bạn đến
nói chuyện, thì con phải hiểu đó là ác pháp đến với con, khiến con mất đi trạng
thái thanh thản, an lạc và vô sự, nếu con thích nói chuyện với người bạn đó hoặc
con tùy thuận nói chuyện để khỏi mất lòng bạn bè, thì trong cuộc đời
tu hành của
con không mạnh dạn
quyết tâm đẩy lui các
chướng ngại pháp đó thì
dù con có tu
ngàn đời muôn
kiếp cũng chẳng bao giờ
giải thoát được,
vì đó là duyên
để tâm con phóng
dật, mà tâm
còn phóng dật
thì chẳng bao giờ hết lậu hoặc, tâm
không hết lậu
hoặc thì làm sao tâm
hết tham, sân,
si được, tâm không
hết tham, sân,
si thì làm sao có thiền định được.
4- Thọ thân, thọ tâm, thọ pháp như thân thọ tâm
pháp ở trên đã dạy đều có ác pháp đến xâm chiếm vào thân tâm con thì con cũng
quán xét đẩy lui để
tâm
con luôn luôn sống
trong thanh thản, an lạc và vô sự.
Tóm lại,
chỉ có hằng
giây, hằng phút, hằng
giờ, hằng ngày,
hằng tháng, hằng
năm, lúc nào, thời gian nào đều phải quan sát trên bốn chỗ thân, thọï,
tâm, pháp mà đẩy lui các chướng ngại pháp
trên đó, để bảo vệ
chân lý. Khi nào các chướng ngại
pháp không còn tác động đến bốn chỗ thân,
thọ, tâm và
pháp là con đã thành tựu viện mãn sự tu hành của con. Chừng
đó con đã chứng đạt chân lý, có nghĩa là lúc nào con cũng sống với tâm bất động
mà không một chướng ngại nào tác động được. Đến đây con đường tu tập của con đã
hoàn thành, “Sanh đã tận,
phạm hạnh đã
thành, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
VÉN MÀN NGŨ
TRIỀN CÁI, BỨT SẠCH THẤT KIẾT SỬ
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Sau khi quán xét thông suốt rồi dùng pháp hướng tâm quét sạch lậu hoặc. Xin
Thầy dạy cho cách vén màn ngũ triền cái, bứt sạch thất
kiết sử.
Đáp: Ngồi
quan sát thân, thọ, tâm, pháp của con
và đẩy
lui các chướng
ngại pháp trên đó
là cách thức
con đã vén màn
ngũ triền cái và
bứt sạch thất
kiết sử. Nhưng
con phải biết rõ, phải nhận thấy tâm
nào là tâm tham triền cái và tâm nào là tâm tham kiết sử,
phải phân biệt cho rõ ràng.
Các con đã học lớp Chánh kiến chưa? Trong lớp Chánh kiến có bài học về ngũ triền
cái và Thập
thất kiết sử.
Khi học xong lớp Chánh
kiến thì không có một niệm ngũ
triền cái hoặc một niệm
thất kiết sử nào
qua mặt con được. Vì có học nên con thông suốt tất cả ngũ triền cái và thập thất
kiết sử đều là ác pháp, nên không bao giờ con lầm nó. Không bao giờ lầm nó, do
đó con không chấp nhận cho nó tái diễn tới lui
nên ngăn và diệt tận gốc.
Khi biết rõ
nó thì nhất định không
làm theo nó, không
làm theo nó tức là ly
nó. Và
không làm theo nó
mãi thì nó bị diệt mất
không còn tới lui nữa.
Diệt ngũ triền
cái và thập thất kiết sử chỉ có tri kiến
giải thoát mà “tri
kiến giải thoát ở
đâu thì giới luật ở đó”.
Cho nên giới luật càng
sống nghiêm túc
thì tri kiến giải thoát càng
thông suốt: “Giới
luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến là thanh tịnh giới luật”.
Như vậy xả
tâm ly dục ly ác pháp bằng tri kiến giải thoát, chứ không phải xả tâm bằng nhiếp
tâm trong hơi thở ra hơi thở vô, bằng đi kinh hành, bằng
niệm Phật niệm
chú, tụng kinh, bằng tham công án
thoại đầu, v.v..
Muốn tu tập
theo Phật giáo quý vị hãy lưu ý những lời
dạy trên đây:
“Xả tâm bằng Chánh
tri kiến để chứng
đạt chân lý tâm
thanh thản, an lạc
và vô sự, chứ không phải xả tâm bằng chế ngự vọng tưởng chẳng
niệm thiện niệm ác để kiến tánh thành Phật hoặc để được nhất tâm, nhờ đó để được
Phật rước về cõi Cực Lạc Tây phương”.
CÁCH THỨC TU
HÀNH THẤT GIÁC CHI
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy chỉ dạy cách tu Khinh An
Giác Chi, Định Giác Chi, Xả Giác Chi và cho ví dụ để con được rõ hơn.
Đáp: Muốn
tu tập Thất
Giác Chi thì con phải
hiểu nghĩa Thất Giác
Chi cho rõ ràng rồi mới tu tập. Trong Tứ Niệm Xứ
đức Phật có dạy trên pháp quán
pháp: “Lại nữa
này các tỳ kheo,
tỳ kheo sống
quán pháp trên
các pháp đối với bảy
Giác Chi. Này
các tỳ kheo, thế nào là tỳ kheo sống
quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác Chi? Này các tỳ
kheo ở đây
tỳ kheo có Niệm Giác
Chi, tuệ
tri7: “Nội tâm
tôi có niệm
giác
chi”; hay nội
tâm tôi không
có niệm giác chi, tuệ
tri: “Nội tâm
tôi không có niệm
giác chi”. Và với niệm
giác chi chưa sanh nay sanh khởi,
vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác
chi đã sanh,
nay được tu tập
viên thành,
vị ấy tuệ
tri như vậy”. Đoạn
7 -Tuệ tri
có nghĩa là “tôi biết rõ”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!