GIỚI ĐỊNH TUỆ
Giới, Định,
Tuệ là môn học đạo đức của loài
người. Nền đạo
đức nhân bản – nhân quả ấy, chính là nếp sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nếu người nào sống được
như vậy thì cõi thế gian này là cảnh Thiên
Đàng, Cực Lạc
trong tầm tay.
Lời nói đầu
Sau khi đọc xong
tập bốn, tập năm, tập sáu và tập
bảy “Đường Về Xứ Phật”1, quý vị đã thấy
rõ âm mưu thâm độc của Bà
La Môn Giáo, có thâm ý từ xưa quyết tâm diệt Phật giáo trên hành tinh này, nên
đã khéo léo lồng giáo
pháp của mình vào kinh
sách của đạo Phật
để rồi
1 Đường Về Xứ
Phật là tên của một bộ sách nhiều tập để chỉ cho cách thức tu tập đi đến chỗ
làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
biến Bà La Môn Giáo trở thành Phật
giáo phát triển,
bằng những bài kinh gạch nối trong các bộ
kinh A Hàm, nhất là bộ kinh Tăng Nhất A Hàm, để
biến giáo lý chân chánh của đạo
Phật thành giáo lý ngoại đạo.
Hiện giờ,
giáo pháp phát triển đã được ăn sâu và
ngự trị trong lòng tín đồ Phật giáo, nó trở thành một truyền thống
ăn sâu vào tư tưởng của con người, theo kiểu cha truyền con nối (tổ tổ truyền nhau), một truyền thống đã trở thành một
tập khí,2 thói quen mê tín, lạc hậu của con người, khó bỏ được ngay liền.
Hiện giờ, thói quen mê tín và lạc hậu ấy
đã ăn sâu vào tâm hồn của
2 - Tập
khí là những
hành động thân
và tâm đã lặp đi, lặp lại nhiều lần trong một việc gì, trở
thành những thói quen mà không thể bỏ được trong một sớm một chiều.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
mọi tín đồ
Phật giáo, khiến cho người ta
rất khó bỏ
và có muốn bỏ đi cũng rất sợ tội đọa địa ngục, vì trong kinh sách phát triển đã hù dọa
người ta như vầy: “Nếu Phật tử nào có tâm quan
niệm trái bỏ kinh luật phát triển thường trụ, cho rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì
kinh luật tà kiến và tất cả các giới của
Thanh Văn, Nhị Thừa cùng ngoại đạo ác kiến, Phật tử này phạm khinh cấu tội”, đó
là những lời
hăm dọa trong Bồ Tát giới “Phạm
Võng” đã in thành sách do Hòa Thượng Trí Tịnh đã lược giảng, câu kinh trên ở
trang 144. Đây là những bằng chứng rất cụ
thể đã in thành kinh sách giấy trắng mực đen
thì không còn ai muốn bao che
sự gian ác của kinh sách phát triển được.
Cuối cùng,
Bà La Môn Giáo quét
sạch
kinh sách Phật giáo chân chánh với chiêu
bài “đức Phật Di Lặc là Giáo chủ Phật giáo thời vị lai”. Như thế,
người ta thay đổi Giáo chủ của một tôn giáo như thay đổi một nhà vua trong thời
phong kiến mà tất cả tín đồ Phật giáo
không hề hay biết, mà vẫn còn ủng hộ đấng Giáo chủ này, thật là Bà La Môn giáo rất khéo léo trong việc thay
thế đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đức Phật
Di Lặc.
Chúng ta
cũng thấy rất rõ ràng, trước khi muốn lật đổ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người ta đã lần lượt thay thế giáo lý của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni bằng những giáo lý của Bà
La Môn3 và còn
3 - Bà La
Môn giáo là một tôn giáo lớn nhất của Ấn Độ lúc bây giờ trước Phật giáo.
chế ra giới
luật Bồ Tát giới cấm tín đồ
Phật giáo
không được tu học theo giáo pháp nguyên gốc của Phật dạy. Vì sợ mọi người tu học
theo giáo pháp này, thì giáo pháp phát triển sẽ bị lộ tẩy những điều sai.
Kinh sách
phát triển đã biến Phật giáo thành ba tông phái lớn ở khắp thế giới:
1- Thần giáo
(Tịnh độ tông)
2- Huyền bí
giáo (Mật tông)
3- Hữu ngã
giáo (Thiền tông)
Với mục đích
thâm độc đưa ra ba tông phái như ba mũi tên độc nhắm bắn vào một mục tiêu là
“tín đồ Phật giáo”. Cho nên, toàn thể tín đồ Phật giáo, không thể có một người
nào thoát khỏi ba mũi tên độc này, nếu không bị mũi tên này thì lại dính
mũi tên kia. Bằng chứng, tất cả tín đồ
Phật giáo
hiện giờ,
không tu Tịnh độ thì lại tu Thiền
tông, không
tu Thiền tông thì lại tu Mật tông. Ba
tông phái này, chiếm trọn tín đồ Phật giáo. Còn Phật giáo chính gốc Nguyên Thủy thì chẳng còn ai tu nữa, mặc
dù họ biết giáo lý Nguyên Thủy của đức
Phật rất rõ ràng, nhưng họ chẳng quý trọng mà lại còn có vẻ xem thường, vì giáo
lý đó mang tên rất thấp kém “Tiểu thừa, Nhị thừa, Phàm phu thiền, Ngoại đạo thiền”.
Những tín đồ
bình dân ít học và phụ nữ thì lại rơi vào Tịnh độ mê tín, cúng bái, cầu khẩn, tụng
kinh, niệm Phật, xin xăm, bói quẻ, cầu siêu, cầu an, cúng sao, giải
hạn, xem ngày giờ tốt xấu, làm ma
chay, cúng vong, tiển linh, làm
tuần, mở cửa mả v.v..
Những tín đồ ham
mê thần thông,
những sự huyền bí linh
hiển thì lại rơi vào Mật tông, chuyên bắt ấn, niệm chú, luyện bùa, trị bệnh
tà ma, quỷ quái, đàng Dưới, đàng Bố, bà
Thủy, Long Vương v.v..
Những tín đồ ham
mê thiền định
có tính cách thiết thực, cụ thể và khoa học hơn, nên họ thoát ra khỏi sự mê tín,
dị đoan, lạc hậu của Tịnh độ tông và thần thông huyền bí, bùa chú của Mật
tông Tây Tạng thì họ lại rơi vào Thiền
tông, bằng cách tọa thiền thọ hưởng các
trạng thái của dục tưởng, trừu tượng, không thực tế mà các vị thiền sư Đông Độ và các vị thiền
sư Nam Tông hiện giờ đang say mê tu tập.
Các thiền
sư Nam Tông mặc dù họ đang học tu theo
giáo pháp Nguyên Thủy, nhưng lại tu sai
lời Phật dạy, lấy hơi thở
hoặc dùng
cơ bụng (phình
xẹp) hoặc tập
trung chú ý
quá sức vào các hành động ngoại thân như đi,
đứng, nằm, ngồi, mặc y, mang bát, ăn, uống, v.v.. ức chế tâm, để quá độ làm cho
sáu thức ngưng hoạt động, để rồi tưởng thức hoạt
động, khiến cho thân tâm sanh cảm giác “xúc tưởng hỷ lạc”. Các sư
lầm tưởng đó là trạng thái hỷ lạc của
thiền định, nên cố giữ và ôm chặt các trạng
thái hỷ lạc tưởng thức, gặp trạng thái này các sư đều bị chết chìm trong pháp định
tưởng này.
Lối tu như vậy,
các sư Nam Tông do không có thiện hữu
tri thức, có kinh nghiệm nhập Bốn Thánh Định và Tam Minh hướng dẫn, nên lạc vào thiền
tưởng giống như Thiền Đông Độ. Chứng minh cụ thể như
thiền sư Nam Tông A Chaan - Chah
trả lời những câu hỏi đạo, ngôn ngữ Ngài
giống
như thiền sư Đông Độ.
Thiền tông
xây dựng một giáo lý tưởng tượng tuyệt đối
“Bản thể vạn hữu” còn gọi là “Phật tánh”
với những lý luận khéo léo, khiến
cho các nhà khoa học lầm tưởng đó là khoa học tâm linh. Nhưng đó chỉ là những mánh khóe lừa đảo giới trí thức và các nhà khoa học. Vì thế, sự tu hành của họ, cũng chẳng đi đến đâu cả, có nghĩa là họ
chưa làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người.
Giới đức của một bậc thánh tăng, các vị thiền sư này,
sống chưa đủ đức hạnh thánh và đôi khi họ cũng còn có những hành động phàm phu
tục tử như những người khác.
Tại sao
chúng ta biết như vậy?
Xét giới luật
của đức Phật dạy, về
đạo đức làm
người và làm thánh thì họ có những
hành động đều phạm giới luật, mà lại phạm
vào những giới luật làm người, làm thánh tăng.
Ví dụ: như
giới cấm một vị tu sĩ không ăn uống phi thời, thế mà các vị đều ăn uống phi thời.
Nếu phân
tích giới này ra, chúng ta thấy rất rõ:
1- Loài thú
vật không có đạo đức, nên ăn uống phi thời,
ăn uống không có giờ giấc, ăn uống lặt vặt, lúc nào có cũng ăn được?
2- Con người
có đạo đức hơn, không ăn uống lặt vặt phi thời, ăn uống có giờ giấc, có bữa ăn hẳn hòi, ngày ba bữa hoặc hai bữa ăn. Ăn uống có tiết độ hẳn hoi. Còn
những người
ăn uống lặt vặt, ăn uống phi
thời, lúc
nào cũng ăn uống được là loài cầm thú,
vô đạo đức về ăn uống, không phải là con
người.
3- Vị tỳ kheo
tăng và vị tỳ kheo ni là thánh
tăng và thánh ni thì ăn uống ngày một bữa
vào giờ trưa (ngọ). Nếu ăn uống phi thời như người phàm phu, như loài cầm
thú, tức là còn tham ăn, tham uống, còn
sợ thân này thiếu chất bổ dưỡng, còn thích ăn ngon, thích ăn theo ý của mình thì không thể gọi những người này là thánh tăng
và thánh ni được, dù họ có thần thông phép tắc, tàng hình, kêu mây, gọi gió, v.v.. hoặc ngồi
thiền năm bảy ngày, triển khai những thứ thần thông tưởng, để lừa đảo người nhẹ dạ thì chính họ là những ác quỷ, chứ không phải là con người và
súc sanh nữa.
Dù họ
là nhà học giả có trình độ kiến
thức thông
suốt tam tạng kinh điển, có bằng tiến sĩ Phật học mà sống phạm giới, phá giới,
bẻ vụn giới của Phật, họ sống không đúng đạo đức làm
thánh tăng, thánh ni thì không được xem họ là những người nhập lưu vào dòng thánh của đạo
Phật, họ chỉ là những người còn đứng
ngoài cổng chùa.
Đơn giản chỉ
có một giới luật như vậy mà chúng ta đã
nhận ra thánh, phàm, súc sanh và ác quỷ, còn biết bao nhiêu giới luật dạy về những đức thánh mà quý vị tỳ kheo tăng
và tỳ kheo ni đã vi phạm rất nhiều
thì làm sao gọi là nhập lưu vào dòng
thánh của đạo Phật được.
Bà La Môn
giáo xếp loại Phật giáo Nguyên Thủy là
Tiểu Thừa, là Nhị Thừa, là
ngoại đạo, còn
ba tông phái
Thiền, Tịnh,
Mật được gọi là Đại Thừa
4, Tối Thượng
Thừa và còn mạo nhận là giáo lý chơn
chánh của đạo Phật, để dễ bề lừa đảo và đưa tín đồ Phật giáo vào con đường mê tín, lạc hậu, phi đạo đức v.v..
Hiện giờ quý vị
đã thấu rõ, đâu là giáo pháp của đức Phật, đâu là
không phải, nhưng chắc gì quý vị đã tin chúng tôi. Cho nên, những gì
chúng tôi nói, quý vị cứ suy ngẫm, đừng vội tin, đúng thì
tin, không đúng thì thôi, miễn sao quý vị tu hành được giải thoát là chúng tôi
hoan hỷ vui mừng.
Trong thế
gian này, ai là người đã tu theo đạo Phật, sống đúng giới hạnh, đạt được chân
lí cứu cánh, nhập Bốn Thánh
4 - Đại Thừa
là Phật giáo phát triển bị thế tục hóa và bị các tôn giáo khác đồng hóa.
Định, thực hiện Tam Minh 5. Nếu quan sát nhìn chung
khắp trên thế giới, chưa có một
người nào thực hiện được thì làm sao dạy tu tập theo đường lối của đạo Phật
cho đúng được, hầu hết đều dạy tu hành
sai theo kiến giải, tưởng giải của mình, đó là cách thức tu mò, chứ không đúng như lời của đức Phật đã dạy trong các kinh, vì
không có kinh nghiệm tu hành, đúng như
pháp và tu đến nơi, đến chốn.
Cho nên thầy
trò truyền nhau, mà chẳng có người nào tu đến
đâu cả, chỉ giậm chân tại chỗ, rồi lý
luận nào là Bồ Tát còn tập khí;
nào là tùy duyên tiêu cựu nghiệp; nào là thấy các pháp như mộng như
huyễn (Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng như huyễn v.v..),
5 - Tam Minh
là ba trí tuệ siêu việt của Đạo Phật: 1- Túc mạng minh; 2- Thiên nhãn minh; 3-
Lậu tận minh
nào là thấy sáu trần như hoa đốm giữa
hư
không,
v.v.. đó là những danh
từ lý thuyết suông mà thôi, chẳng
có pháp hành, nên khó thực hiện được giải thoát.
Tất cả những
tập “Đường Về Xứ Phật” được đến tay quý vị và sẽ chia ra làm ba nhóm Phật tử:
1- Nhóm thứ nhất, cho
chúng tôi còn mang bản ngã, tự
cho mình là trên hết không còn ai tu hơn mình, theo như kinh sách phát triển dạy: “Người còn thấy mình
tu chứng quả A La Hán 6là chưa chứng quả A La Hán; người mà hay chống đối
các pháp môn khác là
người chưa chứng
đắc; người
6 - A La Hán
là quả vị của người tu sĩ đạo Phật đã chứng đạt Bốn Thánh Định và Tam Minh, làm
chủ sanh, già bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử.
còn thấy cái
sai cái đúng, chưa vô phân biệt
là người
chưa chứng đắc”.
2- Nhóm thứ
hai, là nhóm trung lập, ý của nhóm này khuyên chúng tôi không nên nói thẳng quá, đừng nói cái sai của
người khác mà hãy nói cái gì mình đã tu và thực hành được, đừng động đến kẻ khác, chỉ dạy những gì mình biết, còn sai
đúng mặc kệ họ.
3- Nhóm thứ ba, nhóm này chấp nhận và nhận xét những lời
chúng tôi nói là đúng. Những cái sai
không hợp lý trong kinh sách phát triển rất nhiều: những điều mê tín, những điều
phi đạo đức và những lý luận lừa đảo lường gạt tín đồ, không thể kể hết được,
cái lợi ích của kinh sách phát triển giúp cho mọi người thì ít, mà tai hại cho
người đời thì rất nhiều, nhưng khéo che đậy bưng bít khiến mọi người khó thấy
được. Cho nên, có nhiều
người lầm tưởng giáo pháp kinh sách phát
triển làm lợi ích
cho xã hội. Nhưng sự thật không phải vậy, đó chỉ là những bức
màn “Tứ Nhiếp Pháp 7” khéo
che đậy, những thủ đoạn gian xảo, lừa đảo
của giáo pháp này là để quyến rũ mọi người
theo tôn giáo của mình đông đảo, biến
thành một lực lượng phục vụ và quên mình
lăn xả, dám hy sinh cho những sự mê tín
lạc hậu này. Còn làm việc từ thiện của Đại Thừa giáo có sự tích cực, đó chỉ là một hành động thế tục hóa theo trào lưu xã hội
mà thôi.
Con người biết
lợi dụng giáo pháp này, cũng dễ làm giàu không mấy khó khăn. Bằng chứng quý thầy
hiện giờ là những phú
7 - Tứ
Nhiếp Pháp là bốn pháp môn
của kinh sách phát triển dùng để khuyến
dụ và lôi cuốn những
người khác theo tôn giáo của
mình.
tăng “Triệu
phú, tỷ phú”, chứ không còn là
bần tăng đi
xin ăn như thời đức Phật.
Khi được đọc
những gì chúng tôi đã nói và nói thẳng, thì những người chịu ảnh hưởng kiến chấp
và ngoan cố của giáo pháp của kinh sách
phát triển sẽ dùng những lý luận bưng
bít che đậy mà giáo pháp này đã vạch sẵn
từ lâu, để phản ứng lại và giãy giụa trong những giờ phút hấp hối của nó, khi người ta phát giác.
Dù cho các
nhà kinh sách phát triển có luận như thế nào? Có khéo che đậy như thế nào? Thì
sự thật vẫn là sự thật, như Hòa Thượng Minh Châu đã nói: “Chơn
lý vẫn là chơn lý” dù ai có nói gì thì
chơn lý cũng vẫn phải là chơn lý;
cái sai vẫn là cái sai, khi đã
không đúng, dù muốn đúng, cũng không thể đúng được. Vì đúng, phải có sự
chứng minh cụ
thể làm chủ được bốn sự đau
khổ của kiếp người: sanh, già, bệnh,
chết. Phần đông, các thiền sư trong giai đoạn hiện giờ, thuyết giảng
lung tung, nói đông, nói tây mà chẳng biết cách nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Nếu bảo rằng,
vô ngã như trong kinh sách phát triển đã dạy, thì đức Phật đâu không tự xưng: “Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”; nếu bảo rằng, vô ngã như trong kinh sách
phát triển thì đức Phật không tự xưng như trên:
“Trên trời
dưới trời.
Khắp trong
thế gian.
Con người
duy nhất.
Vượt qua:
sanh, già, bệnh,
chết”.
Còn nếu bảo
rằng, còn thấy cái sai cái đúng thì chưa chứng đắc, thì tại sao đức Phật lại bài bác sáu mươi hai luận thuyết
của ngoại đạo, là những tôn giáo đồng thời và trước đạo Phật. Ngài
là giáo chủ của đạo Phật,
là người chứng
quả A La Hán mà Ngài lại bài bác
như vậy thì Ngài là người “hữu ngã 8” sao?
Tại sao Ngài lại tuyên bố đạo Phật
là “đạo Vô Ngã”? Có mâu thuẫn chăng?
Chúng tôi
xin trả lời để
quý vị không còn thắc mắc hữu ngã và vô ngã.
8 -Hữu ngã
là ta, cái ta, cái bản ngã của ta.
Đạo Phật chủ
trương lấy thiện, diệt
ác, lấy đạo
đức nhân quả làm cuộc sống của mình không làm khổ mình. khổ người. Từ chỗ này,
chúng ta suy ra để thấy đạo Phật không
mâu thuẫn “Vô ngã ác pháp, chứ không phải vô ngã thiện pháp”. Nếu chúng ta tu
hành vô ngã cả thiện pháp và lẫn ác pháp thì hóa ra chúng ta là cây, là
đá; cây, đá là một loại vô tri,
vô giác, đó là cái vô ngã của kinh sách
phát triển, chứ đạo Phật không có vô ngã như kiểu đó.
Vả lại, đức Phật dạy chúng ta quán Tứ Niệm Xứ: “Vô
thường, khổ, không, vô ngã”.
Chữ vô ngã ở đây, chỉ cho chúng ta thấu rõ thân, thọ, tâm, và pháp không
có ngã, tức là trong bốn chỗ này, không
có cái gì là ta, của ta. Các nhà học giả
đã lầm chỗ pháp hành để ly dục, ly
ác pháp, nhập
Sơ Thiền cho là “đạo Phật
vô ngã”.
Nếu chúng ta
tu hành để trở thành cây, đá thì chúng
ta tu để làm gì?
Cái vô ngã
đó, chỉ là một lý luận suông danh từ chữ nghĩa, chứ đã là con người thì không thể tu tập, đạt kết quả
vô ngã như vậy được, đó là một triết thuyết của tưởng thức, như bao nhiêu
triết thuyết khác mà các nhà triết học, đã đưa ra như: Triết học hiện sinh của Krishnamurti, Triết học vô sản của Karl
Marx v.v..
Còn bảo rằng
ai làm sai, mặc kệ họ, không nên nói ai
hết, thì mới gọi là người tu chứng. Những
Phật tử trung lập này, họ hiểu rằng, khi
tu hành chứng đạo là không được quyền
phê phán, bài bác cái sai, cái tai hại lừa đảo, gian xảo, lường gạt mọi người,
bằng những
thủ đoạn gian ác không lường
trước được,
bằng chứng giáo pháp phát triển đã dạy người bao nhiêu thứ mê tín,
lạc hậu, phi đạo đức, làm hao tốn
tiền của, mồ hôi, nước mắt của tín đồ quá nhiều mà chẳng ích lợi gì cho họ.
Thưa quý vị, chúng tôi tu
chứng là để thấy được cái sai,
cái đúng của mình để sửa đổi làm cho tốt,
cho thiện hơn và thấy được cái sai của Phật giáo là một tôn
giáo mà chúng tôi đang theo tu, để chúng tôi chỉnh đốn lại, gạt bỏ những cái
sai để làm ích lợi cho mọi người đang và
sẽ tu theo đạo Phật, chứ không phải tu chứng
để làm thinh
như cây đá, Phật giáo sai đúng như thế nào cũng chẳng dám nói ra. Tu chứng
như vậy là tu chứng cái gì? Trong lúc tín đồ Phật giáo đặt trọn niềm tin ở quý thầy tu
hành
chứng đắc để làm
gương sáng đạo đức và
dạy họ tu
hành thiền định, để tiến bước trên đường
giải thoát của đạo Phật.
Tu hành chứng
đắc, tức là người đã biết đường lối đi đến nơi, đến
chốn, thế mà thấy mọi người tu sai, không biết đường lối đi mà lại làm
thinh, không chỉ lối cho kẻ
khác đi, thì người tu hành đó có tốt bụng không? Có tâm từ bi không? Có thương người
lạc lối đang đi sai đường, gặp nhiều hiểm nguy trong rừng thẳm
âm u chăng?
Trước mắt
chúng ta đang thấy rõ ràng, tất cả tín đồ Phật giáo hiện giờ, chẳng tiếc công,
tiếc của, sẵn sàng bỏ công, bỏ sức, bỏ của để
xây dựng một Phật giáo chân chánh và cao quý, nhưng không ngờ lại lầm lạc
xây dựng một Phật giáo mê tín, lạc hậu, lừa đảo, phi đạo đức v.v..
Người đã tu chứng
đắc thấy biết
đúng, sai rõ ràng mà nỡ đành
lòng nào
nhìn ngó những tín đồ Phật giáo như vậy sao?
Xưa, đức Phật
đã từng bài bác cái sai của Lục Sư ngoại đạo, của Bà La Môn giáo khiến cho mọi
người mới thấu rõ đâu là chánh pháp, đâu là
tà pháp. Còn bây giờ, chúng
tôi muốn chỉnh đốn lại những điều không
đúng của đạo Phật, cái gì của đạo Phật là
phải của đạo Phật, không phải là phải loại trừ ra khỏi đạo Phật thì quý
vị bảo rằng chúng tôi bài bác, tự xem
mình là trên hết, tức là còn mang bản ngã, còn mang bản ngã tức là chưa chứng. Ở đây, chúng tôi không hiểu quý vị muốn nói chứng đắc là chứng đắc cái gì. Riêng chúng tôi, chẳng thấy có chứng đắc gì cả.
Trên đường
tu hành theo đạo Phật,
chúng
tôi chỉ thấy mình luôn luôn sửa sai những hành động thân, miệng,
ý để từ những hành động sai đó, không
còn làm khổ mình, khổ người nữa, có được
những hành động như vậy, thì chúng tôi
thấy tâm hồn thanh thản, an lạc
và vô sự. Tâm chúng tôi như “cục đất”. Chùa to, Phật lớn không cám dỗ chúng
tôi được; danh lợi,
ăn ngủ, sắc dục không lôi cuốn được chúng tôi, còn bảo rằng, chúng tôi
chưa vô ngã thì chúng tôi vẫn thấy
mình còn nguyên vẹn, có mất mát chỗ nào
đâu mà gọi là vô ngã.
Chúng tôi
nói những điều sai trái không đúng của Phật Pháp trong kinh sách phát triển,
là vì giáo pháp này đã từng lừa đảo, lường
gạt thầy tổ của chúng tôi nhiều đời, nhiều kiếp, bỏ biết bao nhiêu công lao mồ
hôi, nước mắt của
các Ngài, để rồi các
Ngài gặt
hái được những
gì “giải thoát”
hay lại phải
chết trong đau khổ.
Chúng
tôi nói là vì
ích lợi cho những người trong hiện tại, đang bị
lừa gạt và sẽ phí uổng một đời tu hành của họ, chẳng đi đến đâu cả.
Chúng
tôi nói là vì những
thế hệ con người mai sau và để con cháu
của chúng ta, tránh khỏi những cạm bẫy ác nghiệt của kinh sách phát triển.
Nó không dạy
chúng ta đạo đức làm người, đạo đức
làm thánh nhân mà dạy chúng ta những điều
phi đạo đức, những pháp môn mơ hồ, huyền bí, cao siêu để làm Phật, Thánh, Tiên v.v.. Trong khi chúng ta đang cần có một đạo đức làm
người,
không
làm khổ mình, khổ người, thì Phật
giáo Nguyên
Thủy đã có đầy đủ những pháp môn dạy về đạo đức, như vậy thì kinh sách phát triển đã dìm mất đi và
biến nó trở thành một thứ đạo đức nhân
quả mê tín, tạo ra cảnh địa ngục hù dọa tín đồ, để lường gạt tín đồ bằng cách cúng bái, cầu xin
v.v..
Mục đích của
đạo Phật ra đời là nhằm giải quyết bốn sự
khổ của kiếp làm người, tức là giải
quyết giúp tâm bất động, trước các pháp
và các cảm thọ, chứ không phải đi tìm một “Phật tánh cao siêu tuyệt vời”. Vì thế, pháp môn của đạo Phật là pháp môn
toàn thiện, mà pháp môn toàn thiện
là pháp môn dạy đạo đức không làm khổ mình, khổ người, tức là đạo đức
nhân quả. Quý vị đừng lầm đạo đức nhân quả của đạo Phật là đạo đức mê tín của kinh sách
phát triển.
Kinh sách phát triển đã từng xây
dựng đạo đức
nhân quả mê tín để lừa đảo và lường gạt
những tín đồ nhẹ dạ mê tín, lạc hậu, u
mê, v.v.. để biến thành một nghề “thầy tụng
và phù thủy”.
Người tu
theo Phật giáo Nguyên Thủy đã thực hiện
được đạo đức nhân quả, là người đã ly dục, ly ác pháp; người đã ly dục,
ly ác pháp là người nhập Sơ thiền; người
đã nhập được Sơ thiền là người nhập được
bất động tâm định; người đã nhập được bất động tâm định là người đã sống trọn vẹn đạo đức nhân quả, tức là sống toàn thiện. Chính nơi đây, chúng ta đã đạt được mục đích của đạo Phật
“Ly dục, ly
ác pháp”. Đó là kinh sách
Nguyên Thủy đã từng dạy như
vậy, còn kinh sách phát triển lại dạy khác hơn “Kiến tánh thành Phật”, chỉ
thấy tánh, mới
thành Phật, còn không thấy
tánh thì
chưa thành Phật.
Tu theo đạo
Phật, qua sự hiểu biết nông cạn của
chúng tôi, chẳng phải tu
để làm Phật mà để được thoát ra
khỏi bốn sự đau khổ của kiếp làm người.
Khi chúng tôi tu đến đây, chúng tôi biết
rõ tâm mình bất động trước các
pháp, dù trong hoàn cảnh nào, chúng tôi
vẫn thấy tâm mình an vui và thanh thản, vì đã sống một đời sống đạo
đức không làm khổ mình, khổ người, như thế chúng tôi cũng hạnh phúc lắm rồi,
chúng tôi không dám đòi hỏi những cái cao siêu, huyền bí hơn, làm
Phật, Thánh, Tiên v.v.. Và cũng
không dám mơ thần thông, phép tắc, tàng
hình, biến hóa, kêu mây, gọi gió, biết
chuyện quá khứ, vị lai v.v..
Còn hiện giờ,
ai muốn nghĩ về chúng tôi
như thế nào
cũng được, khen chúng tôi không mừng, chê chúng tôi không buồn vì biết khen chê đó là ác pháp, là
pháp làm khổ mình, khổ người.
Chúng tôi
đã sanh ra làm
người, mà làm người như thế nào có ích cho mình, cho người
thì chúng tôi làm, còn những điều gì lừa đảo, lường gạt và làm hại người khác thì chúng tôi không làm, dù có chết chúng tôi cũng vẫn không làm. Không làm
không phải chúng tôi sợ quý vị
chê cười, mạt sát, mạ nhục, chỉ trích v.v..
Còn chúng tôi làm không phải vì
những lời khen của quý vị hoặc vì danh, vì lợi do sự cúng dường của quý vị. Chúng tôi làm, vì
con người cần phải có một đạo đức công
lý, công bằng và bình đẳng, cho nên trước
chông gai khó nhọc, gian khổ,
nhọc nhằn,
dù cho có cay đắng dường nào,
có vất vả đến đâu, có nguy hiểm tánh mạng như
thế nào, thì chúng tôi cũng chẳng sờn lòng, vì sống và làm đúng đạo đức
và lẽ phải.
Còn những
người chưa hiểu chúng tôi, chê trách
chúng tôi, nói xấu chúng tôi, chúng tôi
chẳng bao giờ hờn giận họ, vì họ
chưa hiểu việc làm của chúng tôi, mặc họ nói gì cũng được, dù họ có thù oán
chúng tôi, đạp bằng bình địa cái mảnh đất Trảng Bàng hoặc đốt sạch cái rừng
Trảng Bàng này thì chúng tôi cũng chẳng
hề phiền trách họ, vì họ đã hiểu lầm việc
tu hành và việc làm của chúng tôi mà thôi.
Điều mơ ước
của chúng tôi là làm sao đem đạo đức nhân quả đến
từng mọi người, để mọi người
không còn làm khổ mình, khổ
người nữa,
thì đó là niềm vui và sung sướng
nhất của
chúng tôi.
Chúng tôi
mong rằng, ngày nào mọi người trên hành
tinh này, luôn luôn sống đối xử với nhau bằng đạo đức nhân bản - nhân quả với lòng thương yêu và biết
tha thứ cho nhau những lỗi lầm, không
còn hành động vì mình mà làm khổ mình, khổ người, để mọi người được an vui, hạnh phúc và không
bao giờ còn thấy con người còn mang bản chất loài cầm thú hung ác. Nếu được như ước vọng của chúng tôi thì cuộc sống con
người trên hành tinh này là đang
sống nơi cõi Cực Lạc, Thiên Đường và sự
ước mơ của con người đã thành sự thật, không còn là một giấc mộng.
Sau cùng,
mong rằng chúng tôi có nói những lời nói sơ sót nào, không vừa ý và bất
toại nguyện
của quý vị, thì xin
quý vị vui
lòng
tha thứ và chỉ dạy cho những chỗ sai lầm ấy, để
kỳ tái bản sau, những tập sách này sẽ được hoàn chỉnh hơn và hẹn gặp lại quý vị ở những tập sau.
Kính ghi
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc. (Ngày 25 - 8 - 1999).
NGƯỜI MỚI
VÀO TU
CÓ
HAI MƯƠI
PHÁP CỈN TU TẬP
1- Trong
mọi thời gian,
không bỏ sót một
phút giây nào cả, đều
phải nhắc tâm:
‚Tâm như cục
đất phải ly dục ly ác pháp, không giận hờn thương ghét ai hết, phải thanh thản, an lạc và vô sự;
phải bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ‛.
2- Một
ngày đêm phải
tu tập ngồi
kiết già hay bán già lưng
thẳng hoặc bất cứ một tư thế
ngồi nào trong
bốn thời, miễn
sao cách thức ngồi phải
thoải mái dễ chịu v.v..
Người mới tu mỗi thời năm phút dần dần tăng lên 30 phút. Và tất cả các
thời gian khác trong ngày đêm đều có thể chia
ra trong nhiều tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi nào cũng được, miễn tư thế ấy phải tĩnh giác, thoải mái dễ
chịu để nhiếp tâm và an trú tâm.
3- Người mới
bắt đầu tu tập hơi thở, mỗi
ngày tập
bốn lần, mỗi lần mười
hơi thở, hai mắt tập nhìn chóp mũi, chú ý nơi nhân
trung cạnh chân mũi,
chỗ hơi thở
đi ngang ra vào.
(Nếu có
căng đầu thì dừng
lại không được
tu tập tiếp phải thưa hỏi kỹ lại pháp tu).
4- Tập thở hơi thở bình thường, mười hơi thở rồi nhắc tâm:
‚Hít vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra tôi
biết tôi thở
ra‛, tiếp tục
tu năm phút xả nghỉ, lần lượt tăng dần lên
đúng ba mươi phút.
5- Tập đi kinh hành mười bước đếm đúng mười bước
thì lại hướng tâm:
‚Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi
kinh hành‛. Chỗ này phải
lưu ý: đừng
chú tâm vào
hai nơi, một là
hơi thở
và hai là bước đi. Ở đây
chỉ chú tâm vào
bước đi thì mới
đúng nghĩa là
đi kinh hành. Chú ý tâm trên bước
đi tức là cảm nhận bước đi. Tu tập trên
pháp môn Tứ Niệm Xứ Phật
dạy: Đi kinh hành
là thân hành
niệm ngoại còn gọi
là Chánh niệm tỉnh giác định.
Hơi thở là thân hành niệm nội còn gọi là Định niệm hơi thở. Các Tổ không
rõ Định niệm hơi thở
nên gọi Định
niệm hơi thở
là quán niệm hơi thở (Sổ tức quán). Khi đã tập được
mười hơi thở không có một tạp niệm xen vào thì lại tiếp tục đứng dậy
đi kinh
hành đếm hai
mươi bước đi kế tiếp. Trước
khi đi thì phải hướng
tâm
‚Tôi đi
kinh hành tôi
biết tôi đi
kinh hành‛. Hướng tâm xong rồi bước đi từ bước thứ
nhất cho đến
bước hai mươi, cứ mười bước lại hướng tâm một lần nữa, khi đếm hai mươi bước
thì lại tiếp tục hướng tâm. Hướng tâm xong, thì lại tiếp đếm bước
hai mươi mốt
cho đến ba mươi, cứ đếm như vậy cho đến 100 bước. Nếu
đếm như
vậy thấy không
tiện thì nên đếm từ
một đến
mười rồi đếm trở lại một đến mười.
Nếu có
tạp niệm xen
vào thì nên lui lại 50 bước,
50 bước còn có tạp niệm
xen vào thì lui lại 10 bước
xả nghỉ. Xả nghỉ năm
phút rồi đi kinh hành lại.
6- Quán xét thực phẩm bất tịnh để tâm không còn
ưa thích ăn uống ngon béo ngọt bùi.
7- Quán xét đời sống con người khổ để xa lìa
tâm tham đắm vật chất thế gian.
8- Quán xét
thân vô thường sự sống chết như
chỉ mành treo
chuông để tinh tấn
tu tập diệt ngã xả tâm ly dục ly
ác pháp.
9- Quán
xét bệnh là khổ để
siêng năng tinh tấn tu hành, tập
làm chủ bệnh.
10- Quán xét
tâm tham, sân, si, mạn, nghi là ác pháp, là nguy hiểm, là đau khổ. Để tâm được
thanh thản, an lạc và vô sự.
11-
Quán xét
thân bất tịnh để phá
tâm sắc dục không ham thích phụ nữ.
12-
Quán xét
tâm vô thường
để không bị lầm
chấp tâm là
linh hồn, là Phật
Tánh, là Bản thể vạn hữu.
13-
Quán xét
thọ vô thường
để tâm bất động khi gặp thọ khổ chẳng hề sợ hãi.
14-
Quán xét
các pháp vô thường để tâm
không tham đắm và dính mắc, không sinh ra năm dục trưởng dưỡng.
15-
Quán tâm
từ để không
làm đau khổ chúng sanh, để tâm không sân hận.
16- Quán tâm
bi để không làm thương tổn chúng sanh.
17- Quán tâm
hỷ để tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và không thù oán ai hết.
18-
Quán tâm
xả để tâm
thanh thản an lạc
vô sự và bất động trước
các ác pháp
và các cảm thọ.
19- Khi mọi hoàn cảnh bất
an hoặc tai nạn, bệnh tật thì quán xét nhân quả.
20- Mỗi ngày
ít nhất phải nhắc
tâm một lần, tức là như lý tác ý:
‚chỉ trong đời này ta phải tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết‛.
NGƯỜI MỚI
TU CÓ
NĂM
PHÁP CỈN NÊN TRÁNH
LỜ I PHẬT
DÄY
1/ Tránh
tranh luận
2/ Tránh chỉ
trích
3/ Tránh phạm
giới
4/ Tránh lý
luận
5/ Tránh hội
họp
CHÚ GIẢ I:
Đức Phật dạy:
‚Tránh tranh luận‛. Tranh luận hơn
thua là một điều tai hại nhất trong đời tu hành, vì còn tranh luận là
còn bản ngã to lớn.
Muốn hơn người
mới tranh luận, tranh luận hơn
thua thì mệt thân,
mệt trí dễ sinh tâm tức giận, ăn
không ngon, ngủ không yên. Vì thế, đức Phật ngăn cấm đệ tử của mình không được
‚Tranh luận‛. Lời tranh luận không phải là lời nói
oai nghi tế hạnh của người tu
sĩ Phật giáo. Người
tu sĩ Phật
giáo có
lớp học về ái ngữ.
Lớp ái
ngữ dạy: Người có ái ngữ là người không có tranh luận hơn thua
với bất cứ một
người nào. Người
tranh luận hơn thua là người không
có ái ngữ
đó là một điều
xác quyết chắc chắn. Người tu sĩ Phật giáo thấy ai nói
hơn thì mình
chịu thua, nhịn
thua, không tranh luận với họ.
Hành động
không tranh luận hơn thua với nhau
là hành động đạo đức sống không
làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai.
Vì thế, người đệ tử của Phật phải
vâng theo lời dạy của Người sống không
tranh luận hơn thua bất cứ một người nào trong xã hội.
--o0o--
Đức Phật dạy:
‚ Tránh chỉ trích‛. Người tu theo Phật giáo không được chỉ
trích nói cái xấu của người, luôn luôn thấy lỗi mình, không thấy lỗi người.
Người tu
theo Phật giáo thường thể hiện lòng
thương yêu (tâm từ) thì làm
sao chỉ trích nói xấu người khác
được. Cho nên, đức Phật cấm: ‚Không được
chỉ trích nói xấu
người khác‛, khi tu hành chưa xong. Người ta làm ác nói xấu,
chỉ trích kẻ khác là họ đã
gieo nhân quả xấu
ác thì họ phải gặt
lấy những quả
không tốt,
quả phiền não,
lo toan, sợ
hãi và những quả khổ đau bất tận
v.v..
Những quả khổ
đau ấy có liên quan gì với chúng ta đâu mà chúng ta chỉ trích nói họ làm
gì. Chúng ta
hãy thản nhiên
im lặng như thánh có lợi ích hơn không?
Chúng ta là
những đệ tử của Phật nên ghi khắc những lời dạy này
trong tâm, đừng
bao giờ quên: ‚Tránh
chỉ trích‛ người khác,
dù bất cứ một người nào.
--o0o--
Đức Phật dạy:
‚Tránh phạm giới‛. Giới luật của Phật là
đạo đức không làm khổ mình, khổ
người và khổ chúng sanh. Vì thế, giới luật của Phật có một tầm
quan trọng rất lớn và lợi ích
cho loài người
trên hành tinh này
sống được yên vui, bình an, khoẻ mạnh nói chung và lợi ích rất
lớn cho các hàng đệ tử của
Phật, vì nó có công năng chuyển đổi nhân
quả ác thành nhân quả thiện; chuyển đổi đau khổ thành yên vui; chuyển đổi tâm
tham, sân, si thành tâm vô tham, vô sân, vô si nói riêng, vì giới luật của Phật là một phương pháp
xả tâm ly dục
ly ác pháp rất tuyệt
vời. Nó chính
là đạo đức
nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người
và khổ cả
hai. Cho nên, nó
là một đạo
đức cao thượng
tuyệt vời; nó không dành riêng cho những đệ tử của Phật mà
cho tất cả loài người trên hành tinh này.
Người tu
theo Phật giáo
phải cố gắng tối
đa tránh phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới dù là những giới nhỏ nhặt,
nhưng phải cẩn thận giữ gìn nghiêm
chỉnh, đừng nên
xem thường mà con đường tu tập trở thành vô ích. Đừng
nghĩ rằng giới luật của Phật
chỉ dàng riêng
cho những vị đệ tử tu
sĩ của Phật.
Không đâu quý vị ạ! Giới luật dành cho tất cả mọi người
dù là tu sĩ hay cư
sĩ đều
phải nhớ lời Phật đã dạy
bảo: ‚Tránh phạm giới‛.
Người đệ tử
Phật mà sống phạm giới, phá giới thì còn mặt mũi nào, còn danh dự gì mà tự
xưng mình dòng
họ ‚THÍCH CA‛,
mình còn xứng đáng
gì mà cạo bỏ
râu tóc đắp
áo cà sa. Hình
dáng cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà sa của những kẻ phạm giới, phá
giới, bẻ vụn giới mà dám mạo danh
là Thích tử thì
thật là
trùng trong lông sư tử, tự những người này làm tỏ rõ bộ mặt giả dối,
ví như một bầy dê chỉ có một
con bò thì bầy dê
đâu tự xưng mình
là bầy bò được, dê là dê, bò là bò, dê
không giống bò, bò không giống dê.
Và lại đức Phật đã
xác định:
‚Giới luật
còn là Phật
giáo còn, giới
luật
mất là Phật giáo mất‛. Cho nên, tu sĩ phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới
thì Phật giáo đãõ mất rồi, hiện giờ Phật giáo còn gì nữa. Phải không quý Phật tử?
Là những
đệ tử của Phật chúng
ta phải ghi nhớ
lời dạy của
Người: ‚Tránh phạm
giới‛.
--o0o--
Đức Phật dạy:
‚Tránh lý luận‛.
Lý luận là một cố tật của những
người vô minh cố che giấu những lỗi lầm, những tật xấu thói hư, những sự ngu dốt
của mình.
Người đệ tử của Phật phải
vâng theo lời dạy của
người TRÁNH LÝ LUẬN, ví
lý luận để che đậy một sự thật là một tật xấu. Cho
nên, lý luận có hai mặt:
1- Lý luận để
soi sáng cho một sự thật sai hay đúng, để dựng lại nền đạo đức nhân bản, mang lại
sự yên vui cho loài người. Đó là sự lý luận đáng tán dương, ca ngợi, bái phục.
2- Lý luận để che đậy một
hành động sai lầm, một hành động tội lỗi v.v..; lý luận
để biểu dương một triết học ảo tưởng, một giáo điều sai lầm, một
giáo pháp mê
tín, hư ảo, nó sẽ đưa đến
những hậu quả
đau khổ cho loài người
từ
thế hệ này đến
thế hệ khác; lý luận để bao che cho một lịch sử huyền thoại là một việc làm sai
lệch với
chánh sử, đó
là một hành tội lỗi với
bao thế hệ của người sau.
Ở đây
đức Phật khéo
nhắc nhở những người
đệ tử của
mình nên cố
tránh lý luận. Người
không hay lý luận mới xứng
đáng là đệ tử của Phật, người không lý luận là người
im lặng như Thánh, chính là những hàng đệ tử thánh Tăng,
thánh Ni và thánh
Cư sĩ của đức
Phật là như
vậy.
--o0o--
Đức Phật dạy:
‚Tránh hội họp‛. Hội họp là một điều bất lợi trong việc tu
hành, vì tụ họp hay sinh ra chia phe nhóm; vì hội họp
sinh ra nhiều chuyện khiến cho cảnh sống tu hành bất an; vì hội họp tâm
sinh phóng dật.
Đức Phật
đã khẳng định:
‚Ta thành chánh giác là nhờ tâm
không phóng dật‛. Cho nên, hội họp
là đi ngược
lại con đường tu tập của Phật giáo; hội họp là nuôi dưỡng
tâm phóng dật. Người
tu tập theo
Phật giáo mà thích hội họp thì đừng nên tu theo Phật
giáo vì có tu theo Phật giáo cũng chỉ phí công sức mà thôi. Trong
tu viện thấy
những ai hội họp nói
chuyện là biết
ngay những người ấy tu hành sai đường lối của đạo Phật.
Tu viện rất thương
xót và lo lắng cho đường lối
tu tập của Phật giáo,
nếu tu sĩ thích hội
họp mà tu tập như thế này
thì không bao giờ có người chứng
đạt được chân lí. Và
không bao giờ có người chứng đạt được chân lí thì con đường Bát Chánh Đạo
sẽ bị mai một và bị chôn vùi một lần nữa, như vậy không biết chừng nào sẽ dựng
lại được nền đạo đức nhân bản
- nhân quả của Phật giáo cho loài người.
Đức Phật vì
lòng thương xót chúng ta đã khuyên nhắc và răn cấm: ‚Tránh hội họp‛. Thế chúng
ta không nghe lời khuyên
dạy này thì còn nghe ai hỡi quý vị?
Trên đường
tu tập để đến mục đích giải thoát, đức Phật vì lòng thương xót chúng ta đã
khuyên răn, nhắc
nhở và còn
ngăn cấm, có năm điều cần nên tránh. Nếu chúng ta không
nghe lời
dạy này thì con
đường tu tập của
chúng ta
sẽ không đi đến đâu cả, uổng
công, mất thì giờ, vô ích.
NGƯỜI MỚI TU
CÓ SÁU ĐỨC CHÁNH HÄNH CẦN PHÂI TU TẬP
LỜ I PHẬT DẠY
tâm.
1/ Ăn ngày một
bữa.
2/ Ngủ đúng
giờ.
3/ Độc cư, sống
trầm lặng, ít nói.
4/ Nhẫn nhục
thấy nhân quả, xả
5/ Tùy thuận
không bị lôi cuốn.
6/ Bằng
lòng, vui vẻ và hân hoan.
CHÚ GIẢ I:
Sáu điều Đức
Phật đã dạy trên đây là những hạnh Thánh, chứ người phàm phu không thể sống như
vậy được.
1/ Ăn, ngày
một bữa là Thánh hạnh.
2/ Ngủ, đúng
giờ là Thánh hạnh.
3/ Độc cư,
là Thánh hạnh.
4/ Nhẫn nhục,
xả tâm là Thánh hạnh.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
5/ Tùy thuận,
không bị
lôi cuốn là Thánh hạnh.
6/ Bằng lòng,
vui vẻ hân
hoan là Thánh hạnh.
‚Ăn ngày một bữa
là Thánh hạnh‛.
Vậy ăn
ngày một bữa
là Thánh hạnh
như thế nào?
Ăn ngày một
bữa là ăn vừa đủ để sống, để tu tập, để
ly dục ly ác pháp, để xa lìa ăn
ngon, ăn bổ, để từ bỏ lòng tham ăn chạy theo dục lạc thế gian, để giữ gìn giới
luật nghiêm chặt v.v..
Ăn ngày một
bữa có nhiều thời gian rảnh rang nghỉ ngơi không bận lo
ăn uống, vì ăn
uống nhiều bữa rất cực nhọc phải nấu nướng, phải nhai nuốt, phải rửa bát chén
đũa nĩa v.v..
Ăn ngày một
bữa cơ thể ít hoạt động được nghỉ ngơi nhiều, vì thế mà cơ thể ít bệnh tật.
Ăn ngày một
bữa cơ thể ít hôn trầm thùy miên vô ký, ít
vọng tưởng, giảm bớt sắc dục, thân
tâm thường tỉnh
thức, siêng năng ít lười biếng.
Cho nên, ăn
ngày một bữa chỉ có những bậc thánh Tăng, thánh Ni và thánh Cư sĩ mới sống được với
thánh hạnh này,
còn những
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
người thế
gian không bao giờ
sống được, họ luôn luôn chạy theo dục lạc về ăn uống.
Ăn ngày một bữa
là giới thứ
chín của người mới xuất gia
(Sa Di), vậy mà
các vị tỳ kheo tăng Đại Đức, Thượng Toạ, Hoà Thượng
không sống đúng giới luật này thì còn mặt mũi nào nhìn
những cư sĩ họ
đang thọ Bát
Quan Trai. Có đúng như vậy không quý vị?
Cho
nên, ăn
ngày một bữa lợi
ích rất lớn cho người tu tập theo
Phật giáo, vì đó là một phương pháp sống
ly tham. Vậy tất
các đệ tử của Phật hãy lấy lời dạy này làm thước đo giới luật của giai đoạn đầu. Người
nào ăn uống phi thời ngày hai bữa, ba bữa
ăn là tu
sĩ Bà La Môn, là
ngoại đạo. Cho nên vấn đề ăn uống là dễ xác định tu sĩ nào của Phật
giáo và tu sĩ nào của ngoại đạo. Có đúng như trên đã nói
không
quý vị?
--o0o--
‚Ngủ, đúng
giờ là Thánh hạnh‛. Vậy ngủ đúng giờ là Thánh hạnh như thế nào?
Người ngủ
đúng giờ là không ngủ sai giờ, giờ nào ngủ là đi ngủ, giờ nào thức là thức. Lúc
nào cũng giữ đúng như vậy không ngủ phi thời,
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
vì ngủ phi thời là người biếng nhác, người lười biếng, người không siêng năng.
Ngủ là một
tướng trạng si mê, người si mê không phải là người không hiểu biết mà hiểu biết
lệch lạc không đúng như thật.
Ví du:ï Thấy
cái bánh hay một ly sữa thơm ngon, béo bổ, nhưng đó là cái
thấy sai sự thật, thấy theo tham dục của ăn uống. Nếu thấy cái bánh hay
ly sữa đúng là phải thấy cái bánh và ly sữa là món ăn thức uống bất tịnh.
Hầu hết mọi
người đều si mê nên thấy sai sự thật. Ví dụ: Thân ngũ uẩn của chúng là thân
vô thường thế mà mọi người lại thấy thân này là thường hằng nhưng
cuối cùng không có người nào sống lâu được, chỉ cao lắm là sống 120 tuổi là chết.
Thấy thân vô
thường không thể duy trì sống lâu được
nên người ta
nghĩ ngay trong thân này còn có một vật thường hằng, đó
là cái biết, cho cái biết
là tâm nên
các tôn giáo gọi
tâm là
linh hồn, Phật giáo Đại thừa gọi là Thần thức, Thiền Tông gọi là Phật tánh, Bà
la môn gọi là Tiểu ngã
v.v.. Đó là những si mê
của con người chỉ sống trong tưởng mà thôi.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Người còn
ham ăn, ham ngủ là người còn si
mê. Người còn
si mê là người thấy
và hiểu biết không
đúng như thật
nên thường chịu nhiều sự khổ đau do sự hiểu sai.
Ví dụ: Như
có người mắng chửi chúng ta. Chúng ta liền tức giận, chính tức giận là vì
chúng ta
đã hiểu sai,
hiểu không đúng
như thật. Nếu hiểu đúng sự thật thì phải hiểu nhân quả. Hiểu nhân quả
như thế nào?
Hiểu nhân quả
là hiểu người kia đang thọ quả khổ tức là đang giận dữ nên mới chửi người khác
được, do chửi người khác được nên gieo nhân
ác. Như vậy,
người kia đang đau khổ và đang làm điều ác. Khi hiểu biết như vậy
chúng ta khởi tâm
thương yêu hay
ghét họ? Chắc chắn
là chúng ta
thương yêu họ.
Chúng ta thương yêu họ là thiện hay ác? Là thiện cho nên chúng ta không tức giận, không chửi mắng
lại họ.
Vì thế chúng
ta đã chuyển
được nhân quả. Vì vậy chúng ta sống
đạo đức không làm khổ mình, khổ người và
khổ cả hai.
Cho nên những
bậc Thánh không ngủ phi thời, ngủ đúng giờ. Một ngày đêm chỉ nằm
nghỉ
30 phút
không cần ngủ
nhiều như người
thế gian vì thế sự hiểu biết của họ như thật, do tri kiến hiểu biết như
thật nên tâm họ ly dục ly ác
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
pháp hoàn
toàn. Họ sống bất động
tâm trước các ác pháp và các cảm
thọ. Họ là người đã đạt được chân lí cứu
kính, luôn sống
trong thanh
thản an lạc
và vô sự.
--o0o--
‚Độc cư, là
Thánh hạnh‛. Vậy Độc cư là Thánh hạnh như thế nào?
Độc cư là
phương pháp phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, vì có
sống độc cư nên năm dục trưởng dưỡng không sanh khởi được. Do
năm dục trưởng
dưỡng không sanh khởi được nên tâm ly tham, ly sân và ly
si. Do ly tham, ly sân và ly
si nên
tâm trở nên bất
động. Do tâm trở nên bất động, chúng ta mới chứng đạt chân lý tức là
sống trong trạng thái tâm thanh thản, an
lạc và vô sự.
Đấy quý vị thấy
chỉ có một
pháp độc cư mà chúng ta tu chứng đạo, dù tu có muôn
ngàn vạn pháp mà không sống độc cư thì cũng
hoài công vô ích.
Bí quyết
thành công của
thiền định là pháp độc cư. Đức Phật thường nhắc người sống
độc cư như con tê ngưu một sừng.
Độc cư khó lắm
các bạn ạ! Ăn ngày một bữa không khó,
ngủ ngày 4 tiếng đồng
hồ
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
không khó,
nhưng độc cư mọi người
đều không thể sống nổi. Con đường tu
hành theo Phật giáo mà không sống độc cư thì không bao
giờ tu tới nơi tới chốn được. Vì có độc cư mới sống cho riêng mình;
mới chiêm nghiệm được tâm mình còn
tham, sân, si hay
đã hết
tham, sân, si. Vì
có chiêm
nghiệm được tâm
mình mới ngăn được ác pháp và diệt được ác pháp; vì có
chiêm nghiệm được tâm
mình mới thấy
được tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự.
Bởi vậy, độc
cư rất quan trọng cho con đường tu tập theo Phật giáo. Sống độc cư chỉ có những bậc
Thánh thoát ly thế
tục, nếu không thoát
ly thế tục thì không
bao giờ gọi là
tu sĩ Phật giáo
được. Vì thế, người
tu sĩ được gọi là tu
sĩ Phật giáo
thì phải cạo bỏ
râu tóc đắp áo
cà sa
sống không gia
đình, không nhà cửa,
sống một mình như con tê ngưu một sừng,
sống phải độc cư, độc bộ, độc hành.
Như trên
đã nói, không
sống độc cư thì con đường tu
theo Phật giáo
chỉ hoài công
vô ích mà thôi. Bởi vậy, độc cư rất quan trọng quý vị ạ! Phải hết
mình cố gắng sống độc cư
cho trọn vẹn mới xứng đáng mình là đệ
tử của đức
Phật.
--o0o--
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
‚Nhẫn nhục,
xả tâm là
Thánh hạnh‛.
Vậy nhẫn nhục,
xả tâm là Thánh hạnh như thế nào?
Ai cũng biết
khi sân giận mà nhẫn được là một việc làm rất khó làm. Phải không quý vị? Nhẫn
khó lắm! Phải tu tập rèn luyện tâm mình như đất, như nước, nhờ tâm như đất như
nước mình mới nhẫn được. Muốn tâm như đất như nước thì hằng ngày phải tu tập
pháp như lý tác ý. Pháp như lý tác ý như thế nào?
Pháp như lý
tác ý là pháp tự kỷ ám thị. Ví dụ: ‚Tâm
như cục đất, tâm phải như nước, tâm phải lìa xa, từ bỏ tâm
tham, sân, si, vì tâm tham, sân, si là ác pháp, là pháp đau khổ‛.
Trạng thái
tâm nhẫn được là một việc làm thiện rất lớn,
trạng thái tâm nhẫn đó
tương ưng với cõi trời
Đâu Xuất, vì thế nó mới được gọi nhẫn nhục là Thánh hạnh.
Ở đây nhẫn nhục là do xả tâm chứ
không phải nhẫn nhục do ức chế tâm chịu đựng như người thế gian. Nhẫn nhục
xả tâm là do tu tập pháp như lý
tác ý và tri
kiến hiểu biết
các pháp như thật. Nhờ có hiểu biết các pháp như thật nên
tâm sân bị triệt tiêu bởi tri kiến
của
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
mình. Nếu tri kiến không được học tập để hiểu các
pháp như thật thì việc xả tâm chỉ là ức chế và chịu đựng mà thôi.
Cho nên, muốn
nhẫn nhục thì phải tu học lớp Chánh kiến để cái thấy và hiểu biết không còn lệch
lạc, sai trái rơi vào
tà kiến. Vì không có Chánh kiến
nên con người không xả được tâm, vì thế tâm sinh giận hờn buồn phiền khổ
đau.
--o0o--
‚Tùy thuận,
không bị lôi
cuốn là Thánh hạnh‛. Vậy tùy thuận,
không bị lôi cuốn là Thánh hạnh như thế nào?
Tùy Thuận có
nghĩa là làm theo ý muốn của người khác tức là
không chống lại, không cãi cọ, không hơn thua, không lý luận
kích bác, không bài xích,
luôn làm theo,
thuận theo, nhưng làm
theo, thuận theo
coi chừng sẽ bị a dua, nịnh bợ. Cho nên, tùy thuận làm theo,
thuận theo mà
không bị lôi cuốn vào
ác pháp thì mới được gọi là Thánh
hạnh.
Tùy thuận
có nghĩa là làm
vui lòng mình, lòng người
mới gọi là
Thánh hạnh, còn
tùy thuận mà chỉ
có làm vui
lòng người mà
mình rất bực bội
thì sự tùy thuận đó không được gọi
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
là Thánh
hạnh. Tùy thuận
mà bị lôi cuốn vào ác
pháp. Ví dụ:
Như có người
mời chúng ta uống rượu hoặc hút thuốc lá thì chúng ta
tùy thuận làm vui
lòng họ, do đó
chúng ta uống rượu hay hút thuốc lá. Đó là chúng ta
tùy thuận mà bị lôi cuốn vào
ác pháp. Hành động tùy thuận
như vậy không phải
là Thánh hạnh.
Đó là tùy thuận
ngu si trong
vô minh, sẽ
mang đến cho chúng ta nhiều khổ
đau vì bị nghiện rượu và thuốc lá. Rượu và thuốc lá là
hai chất độc có thể mang đến cho chúng ta những bệnh tật khó trị.
Cho nên đức
Phật dạy: “Tùy thuận mà không bị lôi cuốn vào
ác pháp thì mới được gọi là Thánh hạnh‛. Trong cuộc sống
hằng ngày biết bao nhiêu điều thường xảy ra, nếu chúng ta không tùy thuận thì
chúng ta chống lại, nhưng chống lại thì sinh ra bao điều làm đau khổ cho
mình, cho người và cho cả hai. Và vì vậy,
cuộc đời của chúng ta chẳng được an ổn,
lúc nào cũng phải
đấu tranh vì vật chất và đấu
tranh vì tinh thần.
Người đời sống không
biết tùy thuận
nên chi họ phải
thọ khổ bất tận,
chỉ có
người tu sĩ Phật giáo mới biết
tùy thuận mà
không bị lôi
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
cuốn vào ác
pháp, vì thế họ hoàn toàn sống với tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.
--o0o--
‚Bằng lòng,
vui vẻ hân hoan là Thánh hạnh‛.
Vậy bằng lòng,
vui vẻ hân hoan là Thánh hạnh như thế nào?
Người ở đời ít ai
bằng lòng với cuộc sống hiện tại của mình, vì thế
họ thọ lấy muôn vàn sự khổ đau.
Phải không quý vị?
Ví dụ:
Hoàn cảnh gia
đình mình nghèo ngày bữa cơm bữa cháo, nhưng bằng lòng
với hoàn cảnh sống ấy nên tâm mọi người đều được hân hoan và vui vẻ, còn ngược
lại thì than thân trách phận của mình sầu
khổ.
Bằng lòng
còn có nghĩa là vui lòng với mọi hoàn cảnh, với mọi sự việc, với mọi người, với
mọi loài
thú vật và cỏ cây đất đá, thời tiết nắng mưa gió bão v.v..
Bằng lòng
còn có nghĩa là xả bỏ lòng ham muốn, lòng sân hận, xả bỏ các ác pháp, các cảm
thọ khổ đau không hề nao núng trong lòng một chút nào cả.
Người tu
theo Phật giáo phải thực hiện Thánh hạnh bằng
lòng, vì có thực
hiện Thánh này mới thấy
con đường giải thoát
của Phật
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
giáo là một
sự thật. Nếu ai sống được một phút
‚BẰNG LÒNG‛
là được an vui một
phút, nếu được 2 phút, 3 phút hay
một giờ, 2 giờ hoặc 1 ngày, 2 ngày
hoặc 1 tháng,
2 tháng hoặc 1
năm, 2 năm và mãi mãi thì sẽ được an vui mãi mãi. Đấy
là con giải thoát
của Phật giáo
như thật là vậy.
Chỉ có Thánh
hạnh bằng lòng như vậy mà được giải thoát cả một đời người, tại sao chúng ta
không làm được?
Không phải
khó đâu quý vị ạ! Chỉ cần quý vị thấy và hiểu biết các pháp vô thường, các
pháp không phải
là ta, không
phải của ta, không phải bản ngã của ta là quý vị sẽ sống
bằng lòng, vui vẻ, hân
hoan. Tất cả
ác pháp tham, sân,
si trong tâm của quý vị đều
buông xả sạch hết.
CÓNĂM
PHÁP TU TẬP
LY DỤC, LY BẤT
THIỆN PHÁP
LỜ I PHẬT DẠY
1- ‚Y cứ tướng
nào tác ý tướng đó liên
hệ đến thiện,
phải khác tướng
ác bất thiện, thì sẽ diệt trừ và ly dục, ly ác pháp, nội tâm sẽ được an
trú, an tịnh, nhất tâm, định tỉnh‛.
2- ‚Nhờ quán
xét sự nguy hiểm
của các tầm ác, bất thiện liên hệ đến dục
thì sẽ diệt trừ và ly dục, ly ác pháp, nội tâm
sẽ được an
trú, an tịnh, nhất
tâm, định tỉnh‛.
3- ‚Nhờ
không nhớ niệm ác của kẻ khác,
không tác ý niệm ác
nên tâm ly dục ly, ác pháp, nội tâm định tỉnh, an
trú, an tịnh, nhất tâm‛.
4- ‚Nhờ tác
ý các hành tướùng tầm thiện, các tầm ác bất thiện liên hệ đến dục được đoạn trừ
nên tâm ly dục, ly ác pháp, nội tâm định tỉnh, nhất tâm, an trú, an tịnh‛.
5- ‚Nhờ nghiến
răng, dán chặt lưỡi lên nóc
họng, lấy tâm
chế ngự tâm, nhiếp
phục tâm đánh bại tâm,
các ác bất thiện
pháp liên hệ đến dục,
đều được đoạn trừ nên tâm ly dục, ly ác pháp, nội
tâm định tỉnh, nhất
tâm, an
trú, an tịnh‛.
CHÚ GIẢ I:
1 –‚Y cứ tướng
nào, tác ý tướng đó, liên hệ đến thiện, phải khác tướng ác, bất thiện thì sẽ
diệt trừ và ly
dục, ly ác pháp, nội tâm sẽ được an
trú, an tịnh, nhất tâm định tỉnh‛.
Như lời đức Phật
đã dạy trên đây:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động Tâm
hay Sơ Thiền thì phải y nơi
‚pháp thiện‛ như lý
tác ý. Y nơi pháp thiện là như thế nào?
Y nơi pháp
thiện, tức là trạch pháp
giác chi, trạch pháp giác chi tức là chọn lựa một câu pháp hướng tâm cho
phù hợp với đặc tướng của mình, để hằng
ngày dùng câu đó
như lý tác ý
(tự kỷ ám thị).
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Câu một này
đức Phật dạy chúng ta chọn lựa câu pháp hướng thiện, không được dùng câu pháp
hướng ác.
Ví dụ:
Như trạch pháp
câu này: ‚Tâm phải
ly dục, ly ác pháp
nhập Sơ Thiền đi‛
hoặc ‚Tâm như cục
đất không còn
tham, sân, si, mạn, nghi nữa‛ v.v..
Đây là
phương pháp thứ nhất, dạy về cách thức chọn lựa pháp hướng tâm, để nhâïp Bất Động
Tâm hay nhập Sơ Thiền.
Xưa, đức Phật
khi tu các pháp môn của ngoại đạo, thân
tàn ma dại, đứng dậy
không nổi, nhờ bát sữa dê Ngài đã hồi tỉnh, nhớ lại lộ trình Tứ Thánh Định
và khi phục hồi cơ thể khoẻ mạnh trở lại, Ngài thực hiện con đường này, bằng
câu pháp hướng đầu tiên là: ‘Tâm ly dục,
ly ác pháp nhập Sơ Thiền‛. Ngài đã
thành đạo là nhờ pháp
môn ly dục ly ác
pháp này, tâm không phóng dật.
--o0o--
2- ‚Nhờ
quán xét sự
nguy hiểm của các
tầm ác, bất
thiện liên hệ đến dục
thì sẽ diệt trừ và ly dục, ly ác pháp, nội tâm sẽ được an trú, an tịnh,
nhất tâm, định tỉnh‛.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động Tâm hay nhập Sơ Thiền, nên phải quán xét sự
nguy hại của tầm ác, sự nguy hại của tầm ác là gì?
Sự nguy hại
của tầm ác, tức là một niệm khởi
lên trong tâm của mình
khiến cho tâm mình bất
an, bất toại nguyện,
phiền não, khổ đau,
lo lắng, sợ
hãi, giận hờn,
phiền muộn, thương nhớ, hối tiếc,
hối hận, lo sợ, lo lắng, bất an v.v..
Khi có một tầm
ác khởi lên như vậy tức là ác pháp tăng trưởng thì mau mau dùng ‚Định Vô
Lậu‛ quán xét xả tâm,
lìa cho thật sạch tầm
ác. Nhờ có
quán xét xả ly
tầm ác
thì mới diệt được ác pháp, tâm mới trở lại thanh thản, an lạc và vô sự.
Đây là
phương pháp thứ hai dạy về quán xét trên thân, thọ, tâm, pháp tu tập diệt các
pháp ác
để ly dục, ly ác
pháp nhập Bất Động
Tâm hay nhập Sơ Thiền.
--o0o--
3- ‚Nhờ
không nhớ niệm ác của kẻ khác, không tác ý niệm ác, nên tâm ly dục, ly ác
pháp, nội tâm định
tỉnh, an
trú, an tịnh, nhất tâm‛.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Động Tâm hay nhập Sơ Thiền thì đừng nhớ đến
niệm ác của kẻ khác, nếu tâm có nhớ đến niệm ác của kẻ khác thì phải trở về phương pháp
thứ hai, quán
xét niệm ác đó
trong nhân quả để diệt nó. Theo phương pháp này, nên thường tu ‚Định Sáng Suốt‛
giữ tâm thanh thản để
không nhớ đến niệm ác của
người khác. Tốt nhất là
nên tránh tác
ý niệm ác của kẻ khác. Phương
pháp này có hai cách:
1- Không nên
nhớ đến niệm ác9 của người khác.
2- Không nên
tác ý niệm ác10 của người khác.
Có tu tập
như vậy thì tâm mới diệt ngã xả tham, sân, si, mạn, nghi. Đây là phương pháp thứ ba để
ly dục, ly ác pháp
nhập Bất Động Tâm hay nhập Sơ Thiền.
--o0o--
9 - Nhớ
đến niệm ác
có nghĩa là một niệm
ác tự trong tâm khởi ra ngoài ý muốn của chúng ta.
10 - Tác ý
niệm ác nghĩa là chúng ta tự khởi niệm ra, có ý muốn khởi ra.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
4- Nhờ tác ý
các tướng tầm thiện, các tầm ác bất
thiện liên hệ đến dục được
đoạn trừ nên tâm ly dục, ly ác pháp, nội tâm định tỉnh, nhất tâm, an trú, an tịnh‛.
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động
Tâm hay nhập
Sơ Thiền thì phải thường tác ý
các hành tướng tầm thiện. Các hành tướng tầm thiện là gì?
Các hành tướng
tầm thiện là thân hành niệm nội và ngoại. Thân
hành niệm nội và
ngoại là gì? Thân hành niệm nội là hơi thở. Thân hành niệm ngoại là: đi, đứng,
nằm, ngồi, mang bát, mặc y, ăn cơm, uống nước, làm tất cả mọi công việc v.v..
Luôn tác ý về
hơi thở, tức là tác ý hành tướng tầm thiện, cũng như luôn tác ý tất cả oai
nghi tế
hạnh đi, đứng,
nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc, tức là tác ý hành tướng tầm thiện
ngoại. Nhờ thường
xuyên tác ý về hơi thở và mọi hành động trong thân, nên các tầm ác
liên hệ với dục được đoạn trừ. Đây là phương pháp thứ tư để tâm ly dục, ly ác
pháp nhập Bất Động Tâm hay nhập Sơ Thiền.
--o0o--
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
5- ‚Nhờ nghiến răng,
dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp
phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện pháp liên hệ đến dục đều được đoạn trừ,
nên tâm ly dục, ly ác pháp, nội tâm định tỉnh, nhất tâm, an trú, an tịnh‛.
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động
Tâm hay nhập
Sơ Thiền, khi gặp các
ác pháp tấn
công dữ dội
thì phải cố gắng nhẫn nhục. Ở đây, đức Phật chỉ cách phải cắn chặt răng và
dán chặt lưỡi lên nóc họng, nghĩa là cố gắng nén tâm hết sức kham nhẫn chịu đựng
để vượt qua cơn thử thách của ác pháp. Những hành động nghiến răng, dán chặt lưỡi
lên nóc họng là dùng sức tận lực chịu đựng của
mình, để chiến
đấu với nghiệp
lực tham, sân, si, mạn, nghi của
các ác pháp v.v.. Nếu không tận lực
dùng như vậy
thì cơn tức giận sân hận sẽ thể
hiện qua hành động, sắc mặt và lời nói của chúng ta, khiến cho chúng ta không
còn bình tỉnh.
Nếu chúng ta
cứ để tâm chạy theo tham, sân, si thì rất dễ dàng, bằng đi ngược lại, nó là một
việc làm hết sức gian khổ, cần phải có đầy đủ nghị lực, gan dạ và chịu đựng những
cơn thử
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
thách kinh hồn
đó thì chúng ta mới vượt
qua cơn sóng gió bão bùng của nội tâm mình.
Bởi ‚Thắng
trăm trận không bằng tự thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt‛. Cuộc
đời tu hành của chúng ta là một cuộc chiến
đấu không ngừng,
trường kỳ gian khổ, chứ không phải
tụng kinh, niệm chú, ngồi thiền mà chiến thắng
được mặt trận giặc nội
tâm của mình. Hình ảnh
nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng không phải là một chiến trận kinh khủng
sao?
Đó là phương
pháp thứ năm đức Phật dạy để ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền, là phương
pháp ức
chế tâm mình để chịu đựng một
cách anh dũng.
Đây là một
phương pháp ít khi dùng, vì cuộc đời tu sĩ của đạo Phật là sống trầm lặng một mình,
nên ít khi xảy
ra các ác
pháp, nhưng thiếu sự phòng hộ sáu căn và do sự tiếp duyên bên
ngoài thì cũng có thể sẽ xảy ra dữ dội.
û õ Â Ï
CĨ BÂY PHÁP
KHIẾN CHO PHẬT PHÁP HƯNG THỊNH
LỜ I PHẬT
DÄY
1- ‚Thích giản
dị
2- Ưa yên lặng
3- Ít ngủ
nghỉ
4- Không kết
bè bạn
5- Không tự
khoe khoang
6- Không kết
bạn với người xấu
7- Thích ở một mình‛.
CHÚ GIẢ I:
1- THÍCH GIẢN
DỊ
Người tu
sĩ đệ tử của
đức Phật
thích sống giản dị là sẽ làm cho Phật Pháp hưng thịnh, vì đời sống
giản dị là đời sống
thiểu dục tri túc, đời
sống giản dị
là đời sống
không ham thích, ít dục, rất
phù hợp với
pháp tu hành của đức Phật là ly dục ly ác pháp. Đời sống giản
dị của một vị tu sĩ đệ tử Phật, nhìn
vào, người ta mến
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
phục và cảm
tình ngay liền, đời sống giản dị là một đạo hạnh của người tu sĩ giải thoát.
Bởi người tu
sĩ có đạo hạnh là làm cho tôn giáo đó hưng thịnh, chứ không phải có thần thông,
phép tắc, học giỏi, tụng kinh hay, ngồi thiền tốt, thuyết giảng thao thao bất tận
v.v..
--o0o--
2- ƯA YÊN LẶNG
Người tu sĩ
đệ tử của đức Phật ưa sống yên lặng là làm cho Phật Pháp
hưng thịnh, sự yên lặng là nói
lên được tâm hồn giải thoát của người
tu theo đạo Phật; sự yên
lặng là
nói lên được đức hạnh thánh
thiện của bậc
chân tu sống với nội
tâm của mình; sự yên lặng còn
là một pháp môn độc cư tuyệt vời. Nếu cuộc đời tu hành theo đạo
Phật mà
không sống độc cư
thì chẳng bao giờ tìm được
sự giải thoát,
vì pháp
‚Độc cư” là
bí quyết thành tựu thiền định. Nếu người tu sĩ sống chẳng độc cư thì chẳng bao
giờ nhập định được.
Độc cư là
phương pháp đệ nhất
tâm không phóng
dật, nhờ phòng
hộ sáu
căn.
3- ÍT NGỦ
NGHỈ
--o0o--
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Người tu
sĩ đệ tử của đức Phật thường
tu tập tỉnh thức,
không ưa ngủ nghỉ,
vì ưa ngủ nghỉ sẽ làm cho Phật
Pháp suy đồi; vì ưa ngủ nghỉ, tâm sanh lười biếng, tâm sanh
lười biếng là tâm u mê; tâm u mê thì
không thể sống đời sống giới luật nghiêm chỉnh, thường hay phạm giới. Một vị tỳ
theo phạm giới là làm cho Phật pháp
không hưng thịnh,
mà còn khiến
cho người đời khinh chê Phật giáo.
Không ưa thích
ngủ nghỉ thì cần
phải đi kinh hành nhiều, người tu
sĩ đệ tử của đức Phật không đi kinh hành hoặc đi kinh hành ít là người tu
sĩ lười biếng,
là người tu
sĩ ham ngủ. Kinh hành là một pháp
môn tỉnh thức, tối cần thiết để phá sạch tâm ưa
thích ngủ nghỉ,
nhờ người siêng đi
kinh hành nhiều, nên đường tu hành
mau chóng kết
quả. Phật pháp
hưng thịnh là do những tỳ
kheo ít ưa ngủ
nghỉ, thường siêng năng
kinh hành. Vì thế, kinh hành
rất có lợi
cho sự nghiệp tu tập dễ chứng
đạt chân lí, nó là một phương pháp phá tâm si mê và lười biếng hiệu quả nhất.
Người nào
không thích đi kinh hành là người không tinh tấn. Người không tinh tấn dù có tu
muôn ngàn kiếp cũng chẳng đi đến đâu. Phàm
phu chỉ là phàm
phu chứ không bao giờ
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
trở thành hiền
nhân thánh đức được. Rất uổng phí
cho một đời
tu hành chỉ
vì không thấy pháp
đi kinh hành quan trọng
và lợi ích đến
bực nào.
--o0o--
4- KHÔNG KẾT
BÈ BẠN
Người tu sĩ
và cư sĩ đệ tử của đức Phật, sống không kết bè bạn là làm hưng thịnh Phật
pháp. Sống kết
bè bạn là
làm mất thì giờ
tu tập, vì có bè bạn thì phải có chuyện trò, chuyện trò không ích lợi mà
còn sanh ra nhiều chuyện lôi thôi, đôi
khi còn xảy ra nhiều
việc cãi cọ, tranh tụng, hơn thua, gây gổ, thù oán, tị
hiềm, khiến cho cuộc sống tu hành bất an.
Kết bè bạn sẽ
chia ra phe nhóm, từ phe nhóm này đến
phe nhóm khác, do đó
mới tạo ra cảnh bất hòa, từ đó,
cuộc sống của chư Tăng không còn lục hòa. Cuộc sống không lục hòa thì sự tu
hành chẳng đến đâu và cũng vì vậy, mà Phật pháp không hưng thịnh.
Người tu sĩ
và cư sĩ đệ tử của đức Phật, muốn
tu hành được
giải thoát và Phật pháp hưng
thịnh thì sống không
nên kết giao
bè bạn, kết giao
bè bạn thì sự
tu hành chẳng
đi đến đâu cả, chỉ uổng
phí một đời
người. Đừng
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
nghe nguời ta
nói: ‚Đi tu có bạn‛.
Trong đạo
Phật tu
hành rất cấm kị
sự kết
bạn, vì sự kết bạn:
1- Làm mất
thì giờ tu tập.
2- Ái kiết sử,
không đoạn dứt được.
3- Thường xảy ra
chuyện rầy rà
đôi chối, tranh chấp.
4- Sống
không hòa hợp, Tăng đoàn thường bị phân
hóa chia rẽ, thiếu đoàn kết. Phật giáo suy thoái.
Cho nên Phật dạy:
“Không kết bè bạn” là con đường tu tập phải độc cư, độc bộ, độc
hành mới có thể đi đến nơi đến chốn được.
Bè bạn
có lợi nhưng
cũng có hại; lợi là nương nhau
sách tấn tu
hành; hại là tập họp nhau nói chuyện, lập phe lập đảng, nói xấu
ly gián nhau.
Phật giáo
ngày nay chia ra nhiều bộ phái khác
nhau cũng chính vì không sống
đúng giới luật, do không sống đúng giới luật nên danh lợi đã lôi cuốn họ chia
manh xẻ mún đạo Phật ra nhiều bộ phái
khác nhau, để mặc tình triển khai tưởng giải 84 ngàn pháp môn,
mỗi người đứng một góc trời tự xưng mình
là Giáo chủ của bộ phái đó.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!