mãn nguyện
trên đường tu tập, chỉ còn tu tập
đúng theo
lời dạy của Thầy và có nhiệt tình
quyết tâm
thì thời gian không còn lâu, nếu
không quyết
tâm nhiệt tình thì sự tu tập không
biết bao
lâu mới xong.
Phải cố
gắng lên con ạ! Cuộc đời chẳng có
gì là của
chúng ta cả, chỉ toàn là một trò ảo
ảnh lừa
đảo con người mà thôi, khi đã chết đi
rồi, danh
cũng không còn, của cải, tiền bạc
châu báu,
ngọc ngà, còn có vật gì mà mang
theo chúng
ta được, thân này cũng không còn
là ta, thì
còn gì là ta nữa, của ta nữa , thôi hết
rồi chỉ
còn một nghiệp lực khổ đau tiếp diễn
luân hồi
tái sanh rồi lại tiếp tục trò ảo ảnh của
cuộc sống
này nữa mãi mãi muôn đời muôn
kiếp.
Tóm lại,
hằng ngày con nên quan sát
thân, thọ,
tâm và pháp, trên bốn chỗ này có
chướng
ngại pháp thì con hãy mau mau đẩy lui
nó khỏi
thân tâm con thì ngay đó là con giải
thoát, đó
là một pháp duy nhất mà Thầy chọn
cho con để
đem lại cho con một sự giải thoát
chân thật
nơi tâm hồn, con hãy cố gắng lên con
ạ!
SẮC DỤC
Hỏi:Kính
thưa Thầy, tâm sắc dục là gì?
Đối trị
nó như thế nào?
Đáp: Tâm
sắc dục là lòng thương yêu giữa
trai gái
gồm có tình yêu và tình dục.
Muốn đối
trị tâm này, người tu sĩ và người
cư sĩ phải
tu tập Định Vô Lậu, quán xét như:
1- Quán
xét tâm sắc dục bất tịnh, uế
trược, bẩn
thỉu, hôi thối, v.v…
2- Quán
thân bất tịnh.
3- Quán tử
thi sình trương hôi thúi.
4- Quán
xương trắng.
5- Quán
xét tâm sắc dục, trong nhân quả
nối tiếp
sanh tử luân hồi nhiều đời, nhiều kiếp
khổ đau,
không những một người mà nhiều
người.
6- Quán
xét tâm sắc dục, trong 12 nhân
duyên hợp
lại tạo thành một thế giới khổ đau
triền miên,
bất tận.
7- Quán Tứ
Diệu Đế. 8- Quán xét sắc dục, trong đời số ng vợ
chồng
nghèo đói, con cái nheo nhóc thiếu ăn
thiếu mặc,
không được học hành tới nơi tới
chốn.
9- Quán
xét sắc dục, trong đời sống đôi vợ
chồng gây
gổ đánh nhau, chửi mắng la khóc.
10- Quán
xét sắc dục, trong đời sống vợ
chồng ghen
tuông.
11- Quán
xét sắc dục, khi người phụ nữ
đang sanh.
12- Quán
xét sắc dục, khi người phụ nữ ôm
con nuôi
nấng cho đến lớn khôn.
Sắc dục
là con đường đi tái sanh luân hồi
của tất
cả các loài động vật, không riên g gì loài
người, cho
nên, trên đời này không có người
nào thoát
khỏi, chỉ vì sắc dục có mùi vị dục lạc
cám dỗ
rất mạnh khiến cho ai cũng đắm mê.
Dục lạc
của sắc dục chỉ chốc lát mà để lại
cho con
người biết bao nhiêu là sự khổ đau của
cả một
đời người.
Con đường
tái sanh luân hồi ai cũng biết
đó là sắc
dục, muốn chấm dứt tái sanh luân hồi
mà không
dứt tâm sắc dục thì làm sao mà
tránh khỏi
tái sanh luân hồi được. Có người bảo rằng: “Nếu mọi người trên
thế gian
này ai cũng ngăn chặn và tránh sắc
dục thì
con người trên hành tinh này sẽ không
còn nữa,
loài người sẽ tuyệt chủng”. Nếu mọi
người ai
cũng không đi vào con đường sắc dục
thì trong
môi trường sống này sẽ có một loài
động vật
sanh ra nơi thanh tịnh và cao quý
hơn.
Loài động
vật sanh ra có bốn chỗ sanh:
1- Hóa sanh
2- Thấp
sanh
3- Noãn
sanh
4- Thai sanh
Trong bốn
loại sanh này có hai loại sanh
không đi
vào con đường sắc dục , đó là hóa sanh
và thấp
sanh, còn noãn sanh và thai sanh thì
phải đi
vào đường sắc dục. Từ thấp sanh, noãn
sanh và
thai sanh đi vào con đường bất tịnh ô
uế bẩn
thỉu để tạo môi trường hợp duyên sản
sinh các
loài động vật.
Hóa sanh,
các con đừng hiểu sự biến hóa
ra con
người, mà là sự chủ động phối hợp các
duyên để
sản sanh ra một con người bằng một
khả năng
tâm lực, mà chỉ có những người tu
hành lìa
khỏi các duyên hợp bất tịnh và đoạn dứt tâm dục thế gian thì mới
có đầy đủ tâm lực
hòa hợp
các duyên trong môi trường sống tạo
nên một con
người hoàn thiện, hoàn thiện cả
thân và
tâm, có nghĩa là thân tâm của người
hóa sanh
thanh tịnh không còn một chút dục
và ác
pháp.
Như vậy,
trên hành tinh này sẽ có một số
lượng con
người được sanh ra theo sự chủ động
của con
người và những con người hóa sanh này
sẽ có một
tuổi thọ theo ý muốn của loài người.
Như chúng
tôi đã nói ở trên, do tâm lực
mà người
tu hành tạo ra khi họ còn mang thân
ngũ uẩn,
thân ngũ uẩn là một loại thân bất
tịnh được
sanh ra nơi con đường sắc dục, con
đường ô
uế, bẩn thỉu.
Nếu con
người toàn bộ đều chấm dứt con
đường sắc
dục thì thế gian này rất thanh tịnh
và con
người sẽ xuất hiện bằng con đường hoá
sanh. Con
đường hóa sanh là con đường chủ
động sanh
ra chứ không phải như con đường
sanh sản
bị động như thấp sanh, noãn sanh và
thai sanh.
Nếu trên thế gian này con người
không sợ
nạn nhân mãn cứ để tự do theo đường
sắc dục
mà sanh đẻ thì trái đất này sẽ không
còn chỗ ở
và cũng không có lấy vật gì để đủ ăn
mà sống.
Kế hoạch hóa gia đình là chiến lược hàng
đầu của
thế giới chống nạn nhân mãn, cho nên
sự sanh
sản đi qua nẻo sắc dục là một sự lo
lắng và
đau khổ nhất của loài người, nhưng con
người cứ
mãi đắm đuối trên sắc dục mà không
thấy sự
khổ đau, sự lo lắng, sự ưu tư mà những
người trí
hiểu biết đang tìm mọi cách thoát ra
con đường
tái sanh bẩn thỉu nguy hiểm và đau
khổ này.
Đạo Phật
đã thấy được điều này, vì vậy
Ngài chủ
trương tuyệt dục để chấm dứt con
đường thai
sanh, khiến cho loài người không
còn khổ
đau nữa.
Nếu như
vậy, trên hành tinh này loài
người sanh
ra bằng con đường hóa sanh thì sẽ
có một số
lượng con người vừa đủ để sống
không thừa,
không thiếu. Tại sao vậy?
Vì con
người chủ động sự sanh sản bằng
cách hoá
sanh, sanh mà không bị sắc dục lôi
cuốn, sanh
mà không bị sự đam mê của dục lạc,
sanh mà
không bị đau khổ, tự tại thật là hạnh
phúc biết
bao, sanh mà không bị động như ba
loại sanh
sản kia.
Như vậy
chúng ta nên chọn lấy con đường
sanh sản
nào hơn, nếu chọn con đường sanh
sản hóa
sanh thì chúng ta phải chấm dứt con đường sanh sản bằng tình dục. Con
đường sanh
sản bằng
tình dục là con đường sanh sản bẩn
thỉu, hôi
thúi, bất tịnh, uế trược, khổ đau, cho
nên loài
người sanh ra trên hành tinh này đều
vô minh dù
là một nhà bác học vẫn là vô minh.
Tại sao
vậy?
Tại vì
sanh ra từ con đường bất tịnh, uế
trược, hôi
thúi, dục lạc hèn hạ, ích kỉ, dơ bẩn
giữa đôi
trai gái. Cho nên, nhà bác học cũng
còn mang
bản chất vô minh, còn tự làm khổ
mình, khổ
người, có nghĩa là nhà bác học vẫn
ăn thịt
chúng sanh, vẫn còn tham muốn, vẫn
còn sân
hận, vẫn còn buồn lo, sợ hãi, phiền
não, bất
toại nguyện, v.v.. Những con người còn
mang bản
chất này là còn vô minh, u tối, dại
dột, ngu si
dù là họ có những bằng Tiến sĩ.
Người ta
cứ nghĩ rằng con người là một
con vật
thông minh, biết sáng tạo, sang chế ra
mọi thứ
vật chất để phục vụ con người, nhưng
con người
đã lầm to, dù phục vụ con người có
tiện nghi
như thế nào đi nữa, thì con người
càng khổ
đau nhiều hơn vì sự sanh, già, bệnh,
chết con
người không giải quyết được, cuối cùng
những nhà
bác học vẫn đau khổ, phiền não, bất
toại
nguyện vì lòng tham, sân, si trong cuộc
sống của
họ; họ vẫn khổ đau vì thân già yếu lụm cụm; vẫn khổ đau vì các
chứng bệnh; vẫn
khổ đau vì
phải chết.
Hiện giờ
khoa học đang ráo riết đưa ra
những đề
án để giải quyết sanh, già, bệnh, chết
của loài
người, nhưng nếu con người còn sống
trong dục
thì những đề án này khó thành công.
Cách đây
2548 năm đức Phật là người đầu
tiên đưa ra đề
án này để giải quyết sanh, già,
bịnh, chết
của loài người, đề án đó đã trở thành
mọât chân
lý của loài người “Tứ Thánh Đế”. Nếu
con người
trên hành tinh này thực hiện Tứ
Thánh Đế
là để giải quyết sanh, già , bệnh, chết
thì phải
đi về ngả hóa sanh, chứ không thể còn
có con
đường nào khác hơn nữa được.
Trên hành
tinh này có nhà bác học nào đã
thoát ra
khỏi bốn sự đau khổ này chưa? Cho
nên vật
chất của các ông sáng tạo ra đối với
người vô
minh thì nó là phục vụ tiện nghi cho
đời sống
con người, nhưng đối với người có trí
hiểu biết
thì rất lo lắng nó là tai họa của loài
người. Tại
sao người ngu cho những phát minh
sáng tạo
ra vật chất phục vụ tiện nghi cho con
người là
hạnh phúc, còn người trí thì cho là tai
họa?
Tại vì
người ta sanh ra nơi con đường tình
dục nên
phải ngu si thấy vật chất cho là hạnh phúc, chứ kỳ thực nó là một
đối tượng để con
người chà
đạp lên nhau, xâu xé lẫn nhau, giết
hại lẫn
nhau, làm khổ cho nhau, trừ ra khi nào
con người
tránh sanh nơi con đường tình dục
thì vật
chất phát minh sáng tạo ra kia mới là
hạnh phúc
chân thật.
Đạo Phật
ra đời giúp con người sanh ra
bằng con
đường hoá sanh, vì thế Ngài dạy
chúng ta
“Ái dục” là khổ đau, là vô thường cần
phải chấm
dứt. Nếu loài người ai cũng biết và
hiểu được
như vậy thì nên cố tránh xa con
đường tình
dục, vì con đường đó sản sanh ra
con người u
mê, uế trược, bất tịnh, vô minh, vô
thường,
khổ đau và luôn luôn chịu chi phối
trong luật
nhân quả sanh, già, bệnh, chết.
CỨU ĐỘ CHA MẸ
KHI ĐÃ KHUẤT BĨNG
Câu hỏi
của Diệu Tâm
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Người tu hành
đắc đạo,
khi cha mẹ đã qua phần lâu rồi, có độ
được hay
không? Đáp: Khi tu xong đắc Tam Minh, dùng
Thiên Nhãn
Minh quan sát khắp cả Thế gian
xem xét coi
nghiệp lực cha mẹ mình đã sanh về
đâu, biết
được vị trí cha mẹ sanh ra và đang ở
đó, nghiệp
lực đó còn duyên hay đã hết duyên
với mình,
nếu đã hết duyên thì mình tạo duyên
mới tức
là gieo duyên để gặp lại cha mẹ, nếu
còn có
duyên cũ thì sớm muộn gì, nghiệp lực
nhân quả
sẽ đưa đẩy cha mẹ gặp lại mình dễ
dàng nhưng
lại sợ mình tu chưa chứng nên
không làm
sao nhận ra người được. Khi gặp
nhau nghiệp
lực nhân quả có sức thu hút tạo
thành một
thiện cảm. Nhờ đó, người tu chứng
dùng lời
lẽ hay dùng kinh sách để giúp cho
người thân
của mình hiểu thông đạo đức nhân
bản nhân
quả làm người và tạo duyên hoặc
khuyến
khích độ cha mẹ tu hành thọ Bát Quan
Trai và
hằng ngày sống trong hành động ngăn
ác diệt
ác pháp để người thân củ a mình không
tạo nhân
ác luôn tạo nhân thiện. Đó chính là
mình độ
những người thân thương của mình có
một đời
sống với thân tâm thanh thản, an lạc
và vô sự.
Nếu họ có duyên trong một đời nầy
thì mình
sách tấn họ trở thành những bậc xuất
gia để
tiến tới tu tập thiền định và Tam Minh
chấm dứt
sanh tử luân hồi, không còn tái sanh
lại cõi
thế gian này nữa. Với việc làm này của một người tu chứng
Tam Minh
thì không còn khó khăn, chúng ta
nhớ lại
khi mẹ đức Phật sanh Ngài ra chỉ trong
vòng bảy
ngày mẹ Ngài chết. Lúc bây giờ đức
Phật được
người dì nuôi nấng cho đến trưởng
thành đi tu
và chứng đạo. Sau khi chứng đạo
Ngài quan
sát thấy nghiệp lực của mẹ sanh lên
cõi Trời
và mùa hạ năm đó đức Phật đến cõi
Trời để
dạy mẹ mình tu hành, còn vua cha đức
Phật cũng
hướng dẫn cha mình tu tập và sau
khi chết
được sanh lên cõi Trời.
Như vậy, mẹ
của đức Phật chết gần bốn
chục năm,
Ngài tìm được không mấy khó khăn
và độ mẹ
mình tu hành, trong kinh sách còn
ghi lại rõ
ràng. Nếu chúng ta nỗ lực tu hành
khi chứng
được Tam Minh thì không lý nào
một người
tu sĩ đệ tử của đức Phật lại làm ngơ
trước lòng
hiếu hạnh của mình sao? Đạo đức
của đạo
Phật dạy rất đầy đủ sự hiếu hạnh làm
người. Làm
người phải nhớ công ơn sanh thành
dưỡng dục
của mẹ cha, cha mẹ phải chịu biết
bao nhiêu sự
khổ cực để nuôi con lớn khôn,
công ấy như
trời biển, không sao kể hết được.
Những
người không tu theo đạo Phật họ
còn có
hiếu thay, huống là những người tu theo đạo Phật thì lòng hiếu hạnh
của họ phải còn
gấp trăm
ngàn lần.
Những
người tu theo đạo Phật là những
người biết
thương mình thương người, vì đạo
Phật tu
hành rất khó khăn, nếu ai không
thương mình
thương người thì không bao giờ tu
được, bởi
vì tu theo đạo Phật không tựa nương
vào oai lực
của ai cả chỉ bằng sức lực của mình,
nhất là
đời sống của người tu sĩ đạo Phật phải
buông xả
vật chất thế gian cho thật sạch thì
mới có
thể ly dục ly ác pháp được, mà có ly dục
ly ác pháp
thì mới gọi là thương mình thương
người và
chính vì vậy mà họ phải thương cha
mẹ họ
nhiều nhất, cho nên khi tu xong, họ liền
quan sát
tìm cha mẹ được sanh về nơi đâu rồi
tìm mọi
cách để độ cha mẹ, ngõ hầu đền đáp
công ơn sanh
thành dưỡng dục cao dày như
trời, như
biển.
BẬC TU
CHỨNG KHI NHẬP DIỆT CĨ
DÙNG THA LỰC
ĐỘ CHÚNG SANH KHƠNG?
Hỏi:Kính
bạch Thầy! Các bậc tu đạt
đạo đã
nhập diệt có thể thị hiện hoặc dùng tha
lực để độ
chúng sanh không?
Đáp: Các
bậc tu chứng đã nhập diệt chỉ có
thị hiện
độ chúng sanh, không dùng tha lực, vì
tha lực
trái với đạo Phật, trái với luật nhân
quả.
Đạo Phật
xây dựng giáo pháp của mình
trên một
nền tảng đạo đức nhân bản nhân quả,
cho nên
không thể nào dùng tha lực độâ người
được.
Đạo Phật
là một tôn giáo có một nền đạo
đức công
bằng và công lý , không có một tôn
giáo nào
có một nền đạo đức hơn được.
Vì thế
cầu siêu, cầu an, tụng kinh, cúng
bái, tế
lễ, niệm Phật, vẽ bùa đọc thần chú, v.v..
là của
ngoại đạo, với việc làm này đạo Phật
được xem
là việc làm phi đạo đức, tà nghiệp.
Đạo Phật
là một tôn giáo dạy người phải
tự lực
cứu mình bằng những hành động đạo đức nhân quả có nghĩa là mình
muốn đượ c an vui
hạnh phúc
thì không nên làm những điều ác,
những điều
làm khổ mình, khổ người và khổ
muôn loài
chúng sanh, nếu làm những điều ác
khổ mình,
khổ người, dù có cầu Thánh, Thần,
chư Phật,
chư Bồ Tát gia hộ thì cũng không bao
giờ có
một vị nào dám cứu độ cho một việc làm
phi đạo
đức như vậy. Cho nên, đạo Phật không
có dùng
tha lực cứu độ mà chỉ có thị hiện để
dạy người
sống có đạo đức và nhờ sống có đạo
đức không
làm khổ mình, khổ người thì chính
đó là đem
lại sự an vui hạnh phúc cho chính
bản thân
mình và cho mọi người, chứ không
thể cầu ai
cứu khổ cho mình được cả.
Tóm lại,
đạo Phật không có dạy cầu tha
lực, cầu
tha lực là không đúng của đạo Phật mà
đó là
chịu ảnh hưởng của tà giáo ngoại đạo,
chịu ảnh
hưởng mê tín lạc hậu của dân gian.
Bậc A La
Hán hoặc Phật thị hiện để độ
chúng sanh
là thể hiện những đức hạnh đạo
đức không
làm khổ mình, khổ người, sống đúng
một đời
sống phạm hạnh ly dục ly ác pháp,
không phạm
phải một giới luật nhỏ nhặt nào,
thường
sống thiểu dục tri túc, chứ không có thể
hiện thần
thông hoặc trị bệnh trừ tà yểm quỷ,
như các vị
giáo chủ của ngoại đạo thường dùng những danh từ “cứu dân độ thế”,
những danh
từ cứu dân
độ thế là để lừa đảo thiên hạ.
Cho nên,
đạo Phật chân chánh và đạo
Phật không
chân chánh chúng ta rất dễ nhận
ra, nhận ra
là ở chỗ tha lực và tự lực; nhận ra
là ở chỗ
mê tín và không mê tín; nhận ra là ở
chỗ đạo
đức không làm khổ mình, khổ người và
không đạo
đức thường làm khổ mình, khổ
người;
nhận ra là ở chỗ giới luật nghiêm trì và
không nghiêm
trì giới luật, phạm giới, phá giới;
nhận ra là
ở chỗ cúng tế và không cúng tế ;
nhận ra là
ở chỗ thiểu dục tri túc và không
thiểu dục
tri túc; nhận ra là ở chỗ phòng hộ sáu
căn và
không phòng hộ sáu căn.
Vì công
bằng công lý của đạo đức nhân
quả nên
các bậc tu chứng chỉ độ người bằng sự
thị hiện
để dạy đạo cho người ấy phải tự mình
thắp đuốc
lên mà đi chứ không dùng tha lực
giúp họ
được, dù bất cứ trường hợp nào, cho
đến sự
báo hiếu đối với cha mẹ cũng không
dùng tha
lực mà chỉ dùng duyên nhân quả để
giúp cho
cha mẹ hiểu rõ thiện và ác và không
nên làm
các điều ác luôn sống trong thiện pháp
thì cha mẹ
được an vui hạnh phúc, đó là độ cha
mẹ giải
thoát.
THẾ GIỚI
SIÊU HÌNH KHƠNG CĨ,
CHỈ CĨ THẾ
GIỚI TƯỞNG
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Thầy xác định là
không có
cõi siêu hình nhưng có nhiều kinh nói
đến các
cõi Trời, và người ta làm được gì đều
bảo là
nhờ chư Thiên hoặc Tam Bảo gia hộ.
Vậy có
cõi mà họ không có sắc thân chăng?
Thưa Thầy!
Nếu có thì họ có phải ở vào
cõi siêu
hình không Thầy?
Trong băng
Thầy có nói mấy ông ở cõi
Trời, nhìn
xuống thế gian thấy khoa học hiện
đại tạo
đời sống tiện nghi hơn nhiều, nên họ
cũng khoái
xuống trần gian. Xin Thầy giải
thích cho
con hiểu rõ thêm?
Đáp: Kinh
Thập Nhị Nhân Duyên và kinh
Pháp Môn
Căn Bản đã xác định không có các
cõi siêu
hình (linh hồn), 33 cõi Trời toàn là các
cõi tưởng
tri8 chứ không phải là cõi liễu tri9,
8
Tưởng tri
là sự hiểu biết bằng tưởng thức, không rõ
ràng, cụ
thể, thiết thực, nói cách khác cho dễ hiểu, có
nghĩa là
ý thức không thấy, hiểu, biết được, nên phải
vận dụng
tưởng thức tưởng tượng. cho nên những kinh khác nói đến cõi Trời
hoặc
cõi Địa
Ngục đều chỉ là nói đến cõi Tưởng ấm,
cho nên
nhiều người không hiểu tưởng là đức
Phật nói
có cõi siêu hình thật sự. Đức Phật
không bao
giờ tự mâu thuẫn với mình, bài kinh
Pháp Môn
Căn Bản đã xác định rõ ràng, tất cả
cõi Trời
mà đức Phật nói ra đều là cõi tưởng,
cõi không
có thật.
Khi một
người còn sống là có cõi hữu
hình (hữu
sắc) và có cõi siêu hình (vô sắc). Khi
một người
mất đi thì cõi hữu hình mất và cõi
vô hình
cũng mất luôn.
Trong kinh
điển Phật dạy: Thiện là cõi
chư Thiên,
ác là cõi Địa ngục, dục là cõi nhân
gian. Quý
Phật tử hãy đọc tập 3 Đường Về Xứ
Phật, Thầy
đã giải đáp về thế giới siêu hình
rất rõ
ràng.
Chư Thiên
và Tam Bảo không có gia hộ vì
gia hộ là
trái với luật nhân quả (phi đạo đức),
nhưng người
ta thường sống theo thói quen nên
hễ làm
một điều gì thành công thì bảo là chư
Thiên hay
là Tam Bảo gia hộ chứ sự thật thì
không có ai
gia hộ mình cả mà chỉ có công sức
9
Liễu tri
là sự hiểu biết bằng ý thức rất cụ thể, rõ ràng,
thiết
thực, không mơ hồ, trừu tượng, ảo giác. của mình và những hành động
làm những điều
thiện sống
đúng trong đạo đức nhân quả, do
nhân làm
thiện nên quả phải thành công tốt
đẹp, nếu
nhân làm ác thì quả sớm muộn gì
cũng phải
gặp thất bại.
Chư Thiên
cũng chẳng có, cõi siêu hình
cũng không
có. Thầy nói mấy ông ở cõi Trời
nhìn xuống
thế gian… là nói mấy ông đi tu mà
không dám
bỏ dục lạc thế gian.
Như Thầy
đã dạy ở trên: cõi Trời là cõi
thiện, quý
Thầy đang ở trong chùa tức là ở cõi
thiện, cõi
thiện tức là cõi Trời. Cõi Trời cơm ăn
áo mặc
rất đầy đủ, không làm vẫn có ăn có
mặc, thế
mà quý thầy còn chạy theo dục lạc thế
gian, ăn
uống phi thời, áo quần sang, chùa cao
Phật lớn,
xe cộ đủ loại, ti vi, tủ lạnh, máy điều
hòa không
khí, v.v.. Thế gian có vật gì thì
trong chùa
có vật nấy, như vậy các vị có phải ở
trên cõi
Trời mà nhìn xuống thế gian sanh tâm
ham thích
không?
Có dịp
Thầy sẽ giải thích thế giới siêu
hình (linh
hồn người chết) có hay không để các
con không
còn nghi ngờ. Bởi vì các hiện tượn g
siêu hình
thường xảy ra chung quanh các con,
nên làm sao
người ta rõ được là không có thế
giới siêu
hình. Trong việc tìm hài cốt liệt sĩ, linh hồn
người chết
về nhập đồng cốt để chỉ cho thân
nhân tìm
xương cốt, khiến cho người ta phải
chấp nhận
có linh hồn, mà đã có linh hồn thì
phải có
thế giới siêu hình, vấn đề này làm các
nhà khoa
học cũng điên đầu, nhưng đối với
những vị
tu sĩ Phật giáo đã nhập Tứ Thánh
Định vượt
qua thế giới tưởng ấm thì họ mới xác
định thế
giới siêu hình đúng đắn giống như đức
Phật đã
dạy: “Thế giới siêu hình chỉ là một
thế giới
của tưởng tri chứ không phải liễu
tri”.
Cho nên,
đức Phật dạy về thế giới cõi Trời
là những
người cũng sống trong cõi thế gian
như chúng
ta nhưng họ sống Thập Thiện,
không sống
trong Thập Ác.
Đạo Phật
tính theo hành động đạo đức
nhân quả
thiện ác mà phân loại Phật, Trời,
Người, A Tu
La và tất cả các loài chúng sanh
theo tiêu
chuẩn như sau:
1/ Thế
giới của chư Phật thì vô lậu.
2/ Thế
giới của chư Thiên thì Thập Thiện.
3/ Thế
giới của loài Người là dục giới và
ngũ giới.
4/ Thế
giới của A Tu La là sân và ác pháp. 5/ Thế giới của loài chúng sanh
là á c pháp
nhiều,
thiện pháp ít.
6/ Thế
giới của Địa Ngục là toàn ác pháp.
Trên đây là
sáu cõi mà đức Phật đã chỉ
cho chúng
ta rất cụ thể như:
1/ Người
sống vô lậu là Phật.
2/ Người
sống Thập Thiện là Trời.
3/ Người
sống giữ gìn ngũ giới là Người.
4/ Người
sống thường hay giận dữ là A Tu
La.
5/ Người
sống ác nhiều thiện ít là chúng
sanh mang
lốt người và tất cả loài chúng sanh.
6/ Người
sống toàn ác là người ở cảnh giới
Địa Ngục.
Sáu cõi
trên đây không có cảnh giới nào là
siêu hình
cả. Nếu quả thật có cảnh giới siêu
hình thì
không phải để chúng ta hiểu, vì tri
thức hữu hạn
của chúng ta không cho phép
chúng ta
hiểu nó, thế giới đó nếu có thật sự thì
chúng ta
phải có trí vô hạn. Sanh ra làm người
chúng ta
không thể nào có trí vô hạn được, trí
của chúng
ta hiện giờ, đối với không gian thì bị
ngăn sông
cách núi, nên không thấy, không
nghe, còn
đối với thời gian thì bị chia cắt quá khứ hiện tại và vị lai, cho
nên con người phải
phát minh
ra những loại máy để sử dụng thâu
ngắn không
gian và ghi nhớ để hạn chế bớt
thời gian
chia cắt.
Nếu đạo
Phật có cõi Trời thì đạo Phật
cũng bắt
chước các tôn giáo khá c mà thôi, đó là
đúc từ
khuôn mê muội và quá sợ hãi của loài
người thời
cổ, trước sự hùng vĩ của môi trường
sống thiên
nhiên.
NHẬP TỨ THIỀN
CĨ PHẢI LÀ
A LA HÁN
KHƠNG?
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Thầy và quý
Thầy tu
nhập Định Tứ Thiền có phải như một
A La Hán
trong thời đức Phật không?
Phật và A
La Hán khác nhau như thế
nào?
Đáp: Người
nhập xong Tứ Thiền, chứng
Tam Minh là
bậc A La Hán như trong thời đức
Phật còn
tại thế. Phật và A La Hán không
khác nhau
chỗ tu hành và giải thoát. A La Hán chỉ khác Phật là chỗ đức Phật
là Giáo chủ,
người sáng
lập ra Phật giáo.
Bởi vì
đức Phật cũng tu từ Giới, Định, Tuệ
mà được
giải thoát, các bậc A La Hán cũng tu
từ pháp
môn này mà thành tựu, cho nên sự
viên mãn
giải thoát phải giống như nhau. Khi
tu hành
giải thoát rồi thì người nào cũng như
người nấy.
Chúng ta
trở lại thời quá khứ của đức
Phật trong
khi Ngài từ bỏ các pháp môn của
ngoại đạo
để tu Tứ Thánh Định và Tam Minh,
nhờ giáo
pháp này mà đức Phật đã chứng đạo
giải
thoát, các đệ tử của Người cũng nhờ giáo
pháp này
chứng quả A La Hán.
Tứ Thánh
Định và Tam Minh tức là Giới,
Định, Tuệ,
vì trong bốn thiền có giới và định,
Sơ Thiền
thuộc về giới ly dục ly ác pháp do ly
dục sanh
hỷ lạc, Nhị Thiền diệt tầm tứ do định
sanh hỷ
lạc, Tam Thiền ly hỷ tưởng và Tứ
Thiền tịnh
chỉ hơi thở, ba loại thiền này thuộc
về định,
còn Tam Minh thuộc về tuệ.
Xin quý vị
đọc lại bài kinh Saccaka sẽ
thấy đức
Phật tu tập Sơ Thiền cho đến Tam
Minh và
thành tựu viên mãn đạo giải thoát:
“Rồi này
Aggivessana, Ta suy nghĩ: “Nay
thật không
dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế
này,
Ta hãy ăn
thô thực, ăn cơm chua”. Rồi này
Aggivessana,
Ta ăn thô thực, ăn cơm chua
trở lại.
Này Aggivessana, lúc bây giờ năm
Tỳ Kheo
hầu hạ Ta suy nghĩ: “Khi nào Sa
Môn Gotama
chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho
chúng ta
biết”. Này Agivessana khi thấy
Ta ăn thô thực,
ăn cơm chua, các vị ấy
chán ghét
Ta, bỏ Ta và nói: “Sa Môn
Gotama nay
sống đầy đủ vật chất, từ bỏ
tinh tấn
trở lui đời sống sung túc”.
“Này
Agivessana, khi Ta ăn thô thực
và được
sức lực trở lại, Ta ly dục ly pháp
bất thiện,
chứng và trú Thiền Thứ Nhất,
một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh có
tầm có
tứ. Này Agivessana như vậy lạc thọ
khởi lên
nơi Ta được tồn tại nhưng không
chi phối
tâm Ta. Diệt tầm và tứ chứng và
trú Thiền
Thứ Hai, một trạng thái hỷ do
định sanh
không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm.
Này Agivessana, như vậy lạc thọ
khởi lên
nơi Ta, được tồn tại nhưng không
chi phối
tâm Ta. Ly hỷ trú xả chánh niệm
tỉnh giác,
thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
Thánh gọi
là xả niệm lạc trú, chứng và trú
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!