chúng ta để ngăn
ngừa những ác
pháp, những ác pháp ấy có thể xảy
đến cho chúng ta những tai nạn khổ ách. Đó là những điều của người cư sĩ cần phải
học những đạo đức cụ thể, thực tế trong cuộc sống.
Bởi đạo Phật
là đạo giải thoát, giải thoát từng việc làm, từng hành động tuy nhỏ nhặt
nhưng sẽ
mang đến cho mọi
người một sự an
vui và hạnh phúc chân thật.
Cái hiểu lầm của
các bạn là tưởng tượng sự
giải thoát của đạo Phật
quá cao siêu, quá mầu nhiệm, vì thế mà từ xưa cho đến ngày
nay không có ai làm được.
LỊNG HIẾU SINH
Nếu dạy người
cư sĩ không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm,
không vọng ngữ, không uống rượu thì chưa đủ, vì một trăm giới chúng học là một
trăm giới đạo đức làm người, còn năm giới cấm
này thật sự
quá khó giữ gìn, không phải dễ. Bởi
vì cuộc sống con người đang bị ô nhiễm bởi những ác
pháp, mà
đưa ra những
giới luật cấm
này thì chúng ta chỉ
có thọ cho có
hình thức, chứ giữ trọn vẹn
thì chỉ có những bậc Thánh Tăng. Nghĩa là nói cấm sát
sanh thì phải nói
lòng thương yêu chúng
sanh. Nói đến
lòng yêu thương
chúng sanh là nói đến lòng
hiếu sinh, lòng hiếu
sinh là hiếu sự sống của
muôn loài, tức
là thương yêu sự sống. Nếu
không dạy cho chúng
ta có lòng thương
yêu sự sống,
mà dạy chúng
ta không sát sanh thì không thể nào chúng ta không sát sanh. Vì chúng ta
chưa có lòng yêu thương sự sống
thì chắc chắn chúng
ta không tránh khỏi sự sát sanh.
Lòng hiếu sinh là lòng thương yêu rộng lớn vô bờ bến đối với
muôn loài. Lòng thương yêu sự sống ấy chỉ
có những bậc Thánh
Tăng và Thánh
Ni mới thể hiện được, vì đời sống của họ ba y một bát,
thiểu dục tri túc nên không
hề vi phạm sát
sanh, làm khổ đau chúng sanh.
Nếu chúng ta
là một bậc Thánh thì không nói vọng ngữ,
không vọng ngữ
chỉ có bậc Thánh mới làm được, chứ một con người
như chúng ta khó mà làm được. Tuy rằng chúng ta nói vọng ngữ không hại mình hại
người khác, nhưng đó cũng là một điều kiện làm cho chúng ta mất uy
tín với mọi người,
nó làm cho người
khác xem
thường, không tin
tưởng mình. Nhưng khi chúng ta hiểu đó là đức hạnh uy tín
làm người, làm Thánh. Dù lời
nói vọng ngữ đó không
hại ai hết
nhưng chúng ta
cũng không nói, huống là nói dối
hại mình hại người thì lại càng không được
nói. Nếu chúng ta nói thật mà làm hại người
thì sao? Chúng
ta có quyền không nói chứ? Không nói tức là che giấu
tội ác của kẻ khác ư?
Giới luật đạo đức của đạo Phật khó
như vậy, vì thế chúng ta phải được học hỏi và tu tập rèn luyện dần dần mới
thành thói quen đạo đức được, mới trả lời được những câu hỏi trên.
Thầy thiết
nghĩ, muốn đi vào con đường của đạo Phật
thì phải đi vào
con đường giới luật, tức
là con đường đức hạnh. Khi chúng
ta có đức hạnh rồi thì chúng ta mới có thiền định. Đức Phật
nói: khi tâm ly dục
ly ác pháp thì tâm
định tỉnh, nhu
nhuyễn, dễ sử dụng. Lúc tâm nhu nhuyễn, dễ sử dụng thì muốn nhập
các định dù bất cứ định
nào cũng không
có khó khăn, không
có mệt nhọc.
Trong các kinh đức Phật
đã xác định rõ
ràng như vậy.
Thế chúng ta sống giới luật không
nghiêm chỉnh, ăn uống phi thời như người
giàu có, danh lợi cuốn mình vào trong cái lớp áo giàu sang thì làm sao mình
ly dục
ly ác pháp được.
Muốn ngồi thiền
nhập định mà không ly dục
ly ác pháp thì làm
sao nhập định được. Cho nên, do
không sống đúng giới luật thì không bao giờ nhập định được như trên Thầy đã
nói.
Tóm lại,
lòng hiếu sinh
là một đức hạnh
cao quý tuyệt vời của con đường
giải thoát mà người đệ tử đạo Phật dù tu sĩ hay cư sĩ đều
phải thực hiện cho bằng được,
nhờ thực hiện
cho bằng được thì từ
đó chúng ta
có một tâm hồn
biết chan hoà
tình thương yêu với sự sống
muôn loài trên
hành tinh này thì không
còn làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng
sanh nữa.
NGĂN ÁC DIỆT ÁC PHÁP
Các cư sĩ về
đây muốn tu tập thì Thầy sẽ dạy cho ngăn ác
diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp. Trong gia đình
phải đối xử với
nhau hòa thuận như nước
với sữa. Cha mẹ đối xử với con như thế nào? Chứ đừng đụng
chuyện gì, cũng la, cũng mắng chửi rủa con cái,
rốt cuộc rồi
con cái của
mình, tuy sống gần
nhưng lại cách xa mình, nó làm những việc
gì, nó không dám cho cha mẹ biết, nó đều che giấu cha mẹ. Bởi vì con cái sợ la
rầy thì làm sao nó dám nói thật với mình.
Làm cha mẹ nên
xem nó như người bạn, còn xem nó là đứa con nít, là con của mình, thì tự mình
đã lìa xa con cái rồi. Như vậy bổn phận làm cha mẹ chưa tròn đạo đức.
Cha mẹ cần phải học đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người,
dù nóù là con
mình, mình sanh
ra, mình cũng không
có quyền làm khổ nó.
Nó cũng là một
con người, như bao nhiêu con người khác, phải đối xử với nó
như thế nào
cho đúng đạo đức. Cho nên,
có học đạo đức
mình mới biết đối xử với
con cái của mình. Còn con cái
của mình có học đạo đức thì nó mới
biết đối
xử với cha mẹ. Nó không
bao giờ làm cho cha mẹ
buồn khổ. Như vậy rõ ràng chúng
ta cần phải học đạo đức không làm khổ mình,
khổ người, tức là ngăn ác diệt ác pháp.
HỌC TẬP ĐẠO ĐỨC
Chúng ta
tu theo đạo Phật, mà
không học tu tập đạo đức, mà lại đi học thiền định, để kiến tánh thành
Phật hoặc đi tụng niệm để cầu được sanh
về Cực
Lạc Tây Phương, để cầu siêu cầu an thì điều này có đúng không?
Những điều này chỉ là ảo tưởng của chúng ta mà thôi, chứ làm sao
mà nhập định
được? Khi tâm
còn tham, sân, si... Và làm sao có cảnh giới Tây Phương được mà cầu về
đó. Phỏng chừng có cõi Cực Lạc ở Tây Phương thực sự thì Đức Phật Di Đà có dám
rước chúng ta về đó không? Tâm chúng ta còn dẫy đầy tham, sân, si ngút ngàn
chưa có một chút gì là đạo đức thì ai dám rước mình về. Nếu rước về nước Cực Lạc, thì chắc nước Cực
Lạc sẽ không còn là Cực Lạc nữa.
Ví dụ:
Trong nhà Thầy
hoàn toàn mọi người
đang sống hòa
thuận, yên ổn,
bây giờ rước thêm một cô
dâu về nhà.
Cô dâu không phải là người hiền đức, nên mọi sự việc
xảy ra, rầy rà, la khóc, trong nhà này giống như địa ngục. Ở đây Thầy đem ví dụ để
nói tâm chúng ta đang còn tham, sân, si không có đạo
đức mà muốn về nước Cực Lạc
thì nước đó có
còn cực
lạc nữa không như trên đã nói? Để chúng ta rõ,
khi tâm chúng ta chưa hết tham, sân, si thì không có đức Phật nào dám rước
chúng ta đâu! Nên chúng ta đừng có sống trong ảo tưởng về việc cầu vãng sanh.
Không được đâu các bạn ạ? Điều đó chắc
chắn không ai rước mình
đâu? Còn nếu mà mình sống đạo đức
hẳn hoi thì Đức Phật Di Đà đến
thỉnh mình, mình cũng không muốn đi nữa. Vì mình vẫn ở trong Cực Lạc rồi, không cần về nước
Phật, mình vẫn ở trong nước
Phật. Bởi thiện
pháp không làm
khổ mình, khổ người
thì nó là Cực Lạc rồi,
an vui rồi, chứ đi tìm
nơi đâu
nữa. Đó là một sự thực
tế không có ảo tưởng. Phải không hỡi các bạn?
Cho nên,
chúng ta sống đúng, tu tập đúng pháp ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng
thiện, sống đúng
tâm hồn thanh
thản, an lạc, vô sự thì
đó là
Cực Lạc, đó
là Niết Bàn, đó
là Thiên Đàng. Chính
đó là TU TẬP ĐẠO ĐỨC
LÀM NGƯỜI.
BẤT ĐỘNG TÅM ĐỊNH
Đức Phật nói: Tâm
ly dục, ly ác pháp là nhập Sơ thiền,
do ly dục sanh hỷ lạc nhưng chúng ta đang còn ở trong 5 chi thiền của nó: Tầm,
tứ, hỷ, lạc, nhất tâm tức là chúng ta đang ở
trạng thái Sơ Thiền Thiên.
Còn nếu như chúng ta xả năm chi thiền này ra thì
chúng ta đang ở trong trạng thái bất động,
bất động đó là
Niết Bàn. Lúc bấy giờ chúng ta có cần tu
gì nữa không? Hay chỉ ly dục, ly ác
pháp xả năm chi Sơ Thiền là nhập vào Bất động
tâm định hay là Vô tướng
tâm định là đủ. Mà đã ly dục, ly ác pháp
là đạo đức của loài
người, đạo đức không
làm khổ mình,
không làm khổ
người. Cho nên, lúc nảy Thầy nói đức Phật dạy: “Ta nói: ly dục ly
ác pháp tức
là Ta nói giới
luật”. Người nào sống đúng giới luật tức là ly dục, ly ác pháp, còn người nào sống
không đúng giới luật là không ly dục, ly ác pháp. Nhưng muốn sống
đúng giới luật
mà không ức chế
thân tâm, thì phải có pháp hành để tu. Pháp hành để
tu như thế nào? Tứ Chánh
Cần ngăn ác diệt ác, sanh thiện
tăng trưởng thiện. Khi ngăn ác diệt
ác xong, chúng
ta tiếp tục
quét
sạch những pháp
ác vi tế trên
thân, thọ, tâm, pháp
của chúng ta.
Thân, thọ, tâm,
pháp là thân ngũ uẩn của chúng
ta. Thân ngũ uẩn của chúng ta gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trên thân
ngũ uẩn gồm đủ bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp. Nên đức Phật dạy chúng ta tu Tứ
Niệm Xứ
trên bốn chỗ
này để chúng
ta quan sát và đẩy lùi
chướng ngại pháp
trên đó. Nhờ có
tu tập như vậy
nên toàn bộ
thân, thọ, tâm, pháp của
chúng ta thanh
tịnh. Mà tâm đã
thanh tịnh là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm đã ly dục, ly ác
pháp hoàn toàn.
Như vậy
rõ ràng trong
giai đoạn đầu chúng
ta tu pháp
gì? Tu Tứ
Chánh Cần, giai đoạn kế tu pháp Tứ Niệm Xứ. Tu pháp môn
Tứ Niệm Xứ chúng ta chỉ có quan sát để quét sạch những ác pháp
vi tế trên thân, thọ, tâm, pháp của
chúng ta. Vậy thì, Tứ Chánh Cần chúng ta sống như các cư sĩ, đang chung đụng mọi pháp ác. Gặp pháp
nào ác chúng ta đều ngăn và diệt ác pháp ấy, làm cho đời sống của chúng ta tràn
đầy đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Còn
bây giờ, với
chiếc áo tu
sĩ như Thầy
thì vào thất, không
có ai làm động mình hết, vì vậy mình
ngồi đây quét sạch chướng ngại
trên
thân
tâm của mình
giống như ông
Châu Lợi Bàn Đặc. Khi ông học bài
kệ bốn câu không thuộc, thì người anh của ông đuổi ông về nhà, ông ngồi khóc, đức Phật đi ngang qua thất
ông, ông mới trình bày cho đức Phật biết nguyên do ông khóc. Đức Phật bảo: “Ta
sẽ dạy con, chỉ cần quét cái tâm cho sạch”. Quét tâm cho sạch tức
là tu Tứ Niệm Xứù.
Sau một thời gian ngắn ông thực hiện trọn vẹn lời dạy pháp
môn Tứ Niệm Xứ
và chứng quả
A La Hán, đầy đủ Tam Minh.
Cho nên,
trong giai đoạn đầu chúng ta tu Tứ Chánh Cần ngăn ác, diệt ác pháp, cuối cùng
chúng ta
vào trong tu viện sống độc cư trầm lặng
rồi chúng ta
quét sạch những
ác pháp vi tế
trên thân, thọ,
tâm, pháp của
chúng ta, tức là
tu Tứ Niệm Xứ.
Khi tâm đã hoàn toàn sung mãn Tứ Niệm Xứ,
thì có bốn Thần Túc đầy đủ trong
thân tâm. Khi có
bốn Thần Túc đầy đủ thì thiền định nhập đâu
còn có khó khăn, nên đức Phật bảo rằng: “Tâm định tỉnh
nhu nhuyễn dễ sử dụng thì nhập
định không có khó khăn, không có
mệt nhọc, không có phí sức”. Nghĩa là
lúc bấy giờ
mình chỉ dùng Định
Như Ý Túc tức là Định Thần
Túc, là muốn nhập định nào thì sẽ nhập định như thế ấy một cách dễ dàng.
Khi tâm đã thanh tịnh không còn tham, sân, si thì mình bảo: diệt tầm tứ nhập
Nhị Thiền, tức thì tâm
diệt tầm tứ và nhập vào trạng thái Nhị Thiền tức khắc.
Vậy ai diệt
tầm tứ? Tâm thanh tịnh của chúng ta diệt tầm tứ, chứ không pháp nào khác hơn nữa,
tức là
tâm lực của chúng ta do tu tập Tứ
Niệm Xứ sung mãn
mà có, chứ
không thể nào ngồi
lâu mà chúng ta diệt
nổi tầm tứ, diệt lỗ tai, diệt con
mắt, mũi, miệng, thân và diệt ý thức của chúng
ta được. Ở
đây chúng ta ngồi
nghỉ đừng cho khởi niệm là diệt nó sao? Diệt không thể được đâu? Vì vậy chúng
ta chỉ cần tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì có Tứ Thần Túc, trong Tứ Thần Túc
có Định Như Ý
Túc như trên đã nói.
Các Phật tử có
nghe đức Phật
thuật lại: Khi đức Phật nhập
định, cách đó
200 mét (200m) trời sét đánh chết
hai con bò. Tiếng sét to lớn như thế mà đức Phật trong định không nghe thấy gì
cả. Bởi vì nhĩ căn đã ngưng hoạt động,
nhĩ căn không
hoạt động, thì giống
như người điếc phải không quý Phật tử? Người điếc thì còn nghe
được âm thanh
gì nữa. Dù tiếng lớn cũng như tiếng nhỏ.
Không nghe nhưng chúng ta vẫn tỉnh bơ, vẫn biết
như thường chỉ không nghe, không tác ý, không suy nghĩ. Hiện giờ cái biết
của chúng ta hiện giờ giống như cái biết trong giấc mộng. Cho nên, khi nhập
Nhị Thiền thì chúng ta rơi vào
thế giới tưởng.
Khi bước vào chỗ
này, thì đức Phật bảo phải
ly tất cả hỷ
(Ly hỷ trú xả),
ly tất cả các trạng thái hỷ tưởng.
Có 18 loại trạng thái hỷ tưởng phải
xả ra hết. Lúc bấy giờ xả cho sạch mới nhập được Tam Thiền có đúng như vậy
không? Còn chúng ta nhập Nhị Thiền thấy hỷ lạc tưởng
cho rằng định sanh hỷ lạc
này là thật, nhưng không ngờ
đó là trạng thái của xúc tưởng hỷ
lạc. Xúc tưởng hỷ lạc là một trong
18 loại tưởng.
Nếu không biết xả thì chúng ta sẽ bị rơi vào trong thế giới ma tưởng, chứ không phải
là thiền định gì cả. Hầu hết các Sư Thầy
hiện giờ đang rơi
vào loại thiền định này mà họ tưởng
rằng mình nhập được
Chánh định. Ôi! Thật là vô minh, tội nghiệp thay! Một cuộc đời tu hành xả
bỏ hết nay còn gì đâu nữa.
Có những người
tu ức chế tâm, thấy sắc tưởng hay thinh tưởng
cho là định tưởng xuất hiện. Những người này đã rơi vào mê hồn trận của định
tưởng mà không
biết. Khi rơi vào
trong mê
hồn trận này
thì chẳng bao giờ họ
nhập được Tam Thiền, họ
chỉ còn loanh quanh trong cái thế
giới tưởng này để đạt đến thần thông tưởng (ngũ thông).
Chúng ta muốn
nhập Tứ Thiền thì sau khi đã dừng tất cả các trạng thái
tưởng, được xem như người ngủ không còn chiêm bao, không
còn chiêm bao thì lúc bấy giờ chúng ta nhập Tứ Thiền mới được an toàn. Chúng ta
tịnh chỉ hơi thở, tức là
chúng ta ra lệnh
cho hơi thở phải tịnh
chỉ, ngưng, nhập Tứ Thiền,
chứ không phải chúng ta nín thở.
Ngay đó theo sự lệnh truyền của chúng
ta, thì dần dần tuần tự hơi
thở sẽ
dừng lại. Nhưng
khi dừng lại thân
tâm của chúng ta
không hoại diệt
vì thân tâm chúng
ta thanh tịnh,
sống đúng giới
luật, không hề vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt nào.
Còn như cơ thể của chúng ta bất tịnh thì ngừng thở là chết ngay liền tức
khắc. Bởi vì cơ thể của chúng ta đang
tiếp xúc và
đang được nuôi dưỡng
với những chất
ô nhiễm, ô trược. Tâm thì còn
dẫy đầy tham,
sân, si luôn sống trong đau khổ, mà bảo hơi thở dừng
thì làm sao nó dừng được? Nếu
nó dừng được thì đó
chỉ là hơi thở tưởng dừng, chứ
không phải hơi thở thật dừng.
Các
nhà Yoga họ tập
luyện, tâm họ
chưa ly dục, ly ác pháp
hoàn toàn mà họ dừng
được hơi thở. Họ dừng được hơi thở là tại sao? Ở đây họ phải dùng tưởng để tu tập như: tưởng
thở bằng trán, bằng lỗ chân lông, v.v.. họ thở được là nhờ năng lực của tưởng.
Người tu theo tưởng định chỉ có Ngũ
thông tưởng chứ
nó không có Lục thông, Tam Minh, bởi vì không có Lậu Tận
Minh nên
nghiệp tái sanh vẫn còn,
phải tiếp tục tái sanh luân hồi,
tức là tâm tham, sân, si còn nguyên. Còn một người tu ly dục ly ác pháp
hoàn toàn, tâm
thanh tịnh thì sẽ
lìa hết các lậu
hoặc. Lìa hết
các lậu và tiếp tục
tu các thiền định và Tam Minh thì
mới chấm dứt nghiệp tái sanh
luân hồi. Đó
là con đường tu tập
đúng của đạo Phật là
như vậy. Tâm lực
giúp chúng ta tự tại nhập Định, tự tại đưa tâm đến Tam Minh. Ngoài sự tu tập
này không còn có cách nào khác giúp chúng ta nhập định và thực hiện
Tam Minh được.
Cho nên, chúng ta tu đúng pháp thì có giải thoát, còn tu
không đúng thì không có giải thoát.
Vì thế,
căn bản sự
tu tập thiền
định của đạo Phật là ở chỗ giới luật,
nhờ có giới
luật tâm mới ly dục ly ác pháp, nhờ có ly dục ly ác
pháp mà
tâm mới bất động. Tâm bất động
là
giải thoát hoàn toàn, ra khỏi nhà sinh tử, chấm
dứt luân
hồi. Còn vấn đề thiền
định và Tam Minh là vấn đề phụ.
THỌ BÁT QUAN
TRAI
Hôm nay trong chiếc áo của người
cư sĩ tu tập Thọ Bát Quan Trai,
thì giữ gìn tám giới không có gì khó, chứ đừng có vội xuất gia tu hành. Khi xuất
gia tu hành chúng ta thọ Sa Di giới, Tỳ Kheo
giới, tất cả những giới
này đâu phải dễ giữ gìn được, đâu
phải sống ngay liền được.
Ví dụ:
Trong thập giới
Sa Di thôi, có một giới
cấm ăn uống
phi thời, chỉ
ngày ăn một bữa,
có giới cấm cất giữ tiền bạc,
có giới cấm nghe
ca hát và tự ca
hát, có
giới cấm trang điểm
làm đẹp làm dáng. Thế mà ông thầy
nào cũng ăn ngày ba bốn bữa, cũng cất giữ tiền bạc, cũng xem ca hát,
thì thử hỏi như vậy có
đúng không? Nếu tu
sĩ ăn uống phi thời
thì làm sao Phật giáo sống được.
Mấy ông thầy
ăn uống ngủ nghỉ
sai giới luật, có ông thì đi chân trần,
có
ông thì mang dép da thú
vật, có ông lại có xe hơi riêng, xe cúp, xe hon đa chạy bất kể
luật lệ đi đường, lại có thầy lái xe lại đèo thêm một cô Phật tử; lại có Thầy
đèo thêm một cô Ni sau lưng, thì thử hỏi đạo Phật
còn có nghĩa
lý gì của đạo Phật nữa?
Giới luật ở chỗ nào nữa?
Làm sao ly dục, ly bất thiện
pháp được? Đó là
những cái đau
lòng nhất của Phật giáo
hiện nay. Đó là những điều kiện để cho chúng ta xác định Phật
giáo đang suy đồi, ngoại
đạo mạo danh Phật giáo để làm suy
đồi Phật giáo, chứ không hưng thịnh. Mặc dù bây giờ có hàng vạn tu sĩ Phật giáo
nhưng tu danh,
tu lợi. Bao nhiêu trường Phật học mở
cửa để đào tạo tu
sĩ tài đức. Những
nhân tài học thức như vậy,
chẳng có
lợi ích gì cho
xã hội,
mà còn thêm gánh
nặng cho mọi người.
Những hạng tu sĩ
danh lợi
này quá đông,
còn những tu sĩ tìm
tu giải thoát của Phật giáo
thì quá ít. Số tu
sĩ tu danh, tu lợi này
là gánh nặng
cho tín đồ. Các cư sĩ phải
nuôi, phải cúng
dường. Mỗi lần
trai Tăng là mỗi lần quý vị phải
đóng góp nhau từng
đồng, từng cắc để cho họ
ăn, họ sống,
họ học, họ chia của cải trên mồ hôi nước mắt của quý vị. Cho nên quý vị
biết rằng: “Giới luật còn là đạo Phật
còn, Giới luật mất là đạo Phật
mất”. Chúng ta
không nên nối
giáo cho những người này, họ là
giặc trong Phật giáo, họ đang diệt Phật giáo.
Quý vị đừng nghĩ rằng người
nào làm tội là họ phải chịu tội. Tội những người làm
cho Phật giáo suy đồi, họ không tránh khỏi nhân quả đó đâu. Nhưng quý vị cúng
dường không đúng chánh pháp là tiếp tay làm hư hoại Phật giáo thì quý
vị là người đệ tử cư
sĩ tại
gia của đức Phật sẽ không xứng
đáng, quý vị cũng phải chịu trách nhiệm tội lỗi phá hoại Phật giáo.
Ví dụ: Một người
ngoại quốc vào đất nước Việt
Nam, đến chùa,
lăng, miếu chỗ
đông người, nơi đâu
cũng đều thấy ăn mày
đi xin tiền xin thực phẩm, thì họ
sẽ chê đất nước nước Việt Nam, dân tộc Việt
Nam. Phải không
các
bạn?
Tại sao lại
có ăn mày như vậy?
Tại vì, quý
vị đặt lòng thương không đúng chỗ,
có nghĩa là thấy ăn
mày là quý vị bố
thí. Bố thí như vậy
quý vị sẽ biến đất nước này thành đất nước ăn mày. Nhà nước có bổn phận
phải tập trung những người ăn mày tàn tật vào một cái trại nào đó. Chúng ta những
người dân cùng Nhà nước sẽ bỏ ra tiền bạc
để nuôi những người ăn mày này, những người bất hạnh, chứ không nên để những
người bất hạnh tàn tật ăn
mày
này đi xin rải rác khắp nơi
làm xấu cho đất nước chúng ta.
Cũng như
bây giờ quý vị cứ
nuôi những ông thầy phá giới luật,
phạm giới luật như vậy, quý vị tưởng
như vậy thì Phật
pháp còn ư? Hoặc
quý vị bỏ ra
hàng tỷ bạc như vậy để
xây cất những ngôi
chùa đẹp thì như
vậy có phải làm hưng thịnh Phật giáo không?
Không đúng
đâu. Quý vị
làm cảnh đẹp tham
quan để quý vị đi giải trí quên
sự mệt nhọc bằng
những hình thức
tu tập, chứ
tu tập như vậy đi đến đâu thưa
quý vị?
Quý vị quên
rằng nơi của Phật giáo không phải
là những cảnh
tham quan đẹp đẽ. Hình ảnh của Phật giáo là sống không chùa,
không nhà cửa, chỉ ba
y một bát, chòi
tranh vách lá mà thôi. Đời sống
người tu sĩ là sống du tăng khất sĩ rày
đây mai đó,
không dính mắc một
cái gì hết. Quý vị cất
chùa cho tốt đẹp
và ông thầy là một công
nhân viên để phục vụ
cúng bái cầu an, cầu siêu, ma chay, làm tuần, làm tự, xin xăm, bói quẻ,
xem ngày giờ tốt xấu cho quý vị…
Như vậy quý vị rất thỏa mãn
tinh thần. Quý vị đã làm hư hoại
Phật pháp hết rồi! Phật pháp không phải là chỗ để an ủi tinh thần cho quý vị mà
là chỗ để quý vị thắp đuốc lên mà đi
trên đường giải thoát. Cho nên tu là phải tu
đúng pháp, chùa
là nơi để cho
quý vị
đến đó Thọ Bát Quan Trai để quý vị
tu tập một ngày làm Phật, làm Thánh Tăng, Thánh Ni, chứ đâu phải chùa
là nơi để cho
quý vị
đến đó tham quan, ngoạn cảnh,
tụng kinh, niệm Phật,
ngồi thiền, lạy lễ hồng danh
sám hối theo
kiểu Bà La Môn.
Cho nên, những
gì Thầy nói
ra là những gì muốn xây dựng lại
cái tốt cái đẹp cho Phật giáo. Những gì
Thầy nói ra là muốn đem lại
cho quý vị được một ngày
làm Phật, một ngày được giải thoát, chứ không phải ở
đây lý luận nói thế
này, nói thế
khác, để rồi rốt cuộc tu hành chẳng ra gì. Tu sĩ phải ra tu
sĩ, mà cư sĩ phải ra cư sĩ,
đâu ra đó hẳn
hoi. Cư sĩ phải hộ
trì Phật pháp, hộ trì đúng chánh
pháp, chứ không thể hộ trì
không đúng pháp.
Thầy nói thật sự, được nghe lời Thầy
là may mắn
cho quý Phật tử. Dù sao quý Phật tử cũng còn mang những kiến
chấp, cho Thầy quá cố chấp,
quá sân hận, quá nặng lời, quá lỗi thời không hợp với thời đại này. Đối
với Thầy, quý vị muốn nói sao cũng được, miễn là lời nói của Thầy là chân thật của Phật giáo,
làm sống lại Phật giáo. Thật ra pháp môn gì mà đức Phật ngày
xưa đã để lại thì ngày
nay chúng ta
áp dụng vào đời
sống
và đem lại lợi
ích và hạnh phúc
cho con người, chứ không phải lỗi thời.
Thường thường
người ta nghĩ rằng Thầy chấp giới, chấp cái này, chấp cái kia, vì vậy cho Thầy
lỗi thời không hợp. Bây giờ vật chất, tiền của, xe cộ tất cả mọi thứ hiện đại
tiện nghi như vậy mà Thầy
ôm bát đi bộ, xin
ăn thì quá lỗi thời.
Vì hiện giờ
ăn uống đầy đủ, ngày
xưa không đầy đủ thì đành chịu, còn bây giờ đầy đủ Thầy còn chấp chặt
những điều thiểu
dục, tri túc đó thì
không hợp thời. Ở đây
Thầy suy nghĩ, tư duy cái nào giải
thoát, cái nào không giải thoát, cái nào đưa đến dục lạc và cái nào không đưa đến
dục lạc. Cái chỗ này là chỗ quan trọng
mình phải tư duy
suy nghĩ kỹ lưỡng,
vì mình phải chấp nhận sống đúng đời sống của một vị
tu sĩ Thánh Tăng. Khi mình sống đúng hạnh giải
thoát thì người cư sĩ ủng hộ
và bảo trì Phật pháp. Thật ra Phật
pháp còn là do bàn tay của những
người cư sĩ. Còn
tu sĩ chỉ là
những người có nhiệm vụ tu tập để thực hành đúng Phạm hạnh, để thực hiện
được gương hạnh cho
người cư sĩ, để người cư sĩ
nương theo. Người tu
sĩ đừng nên sa
ngã, chạy theo dục lạc, chạy theo lòng ham muốn của
mình nó là ác
pháp, nó làm
cho người cư sĩ khổ
đau,
phiền não trong lòng. Hôm nay Thầy nói ra để
chúng ta thấy biết rõ ràng.
Tóm lại, muốn
tu tập để được giải thoát hoàn toàn thì chúng
ta mỗi người dù
tu sĩ hay cư sĩ đều phải tu tập Thọ Bát Quan Trai.
Vì đó là bắt đầu cho một cuộc sống ly dục ly ác pháp, cuộc sống
làm Phật, cuộc sống thánh
thiện, cuộc sống giải thoát, cuộc sống cao thượng.
HỌC ĐẠO ĐỨC
Bây giờ
chúng ta quay trở lại vị trí tu hành.
Trước tiên chúng
ta phải học đạo đức. Đạo đức không làm khổ mình, không làm khổ
người, đạo đức nhân bản - nhân quả. Đó là một điều quan
trọng đem đến lợi lạc
cho quý vị sống trong gia đình đối xử với nhau, hoàn toàn đưa gia đình đến
an vui, hạnh phúc chân thật.
Ví dụ:
Bây giờ mình
muốn đi tu,
mà vợ con không cho đi, nhất định
chúng ta không được đi. Tại
sao vậy? Mình đi
tu vợ con mình đau khổ, nhớ thương, cho nên mình
không đi. Mình không đi
không có nghĩa
là mình không
tu. Vì đạo Phật dạy ta tu tập nhẫn nhục, tùy
thuận. Nhẫn nhục
trước sự không
bằng lòng của vợ con, nhưng chúng
ta tùy thuận không bị lôi cuốn vào con đường ái kiết sử, đó là cách khéo léo
đưa dần cả
gia đình đến với Phật pháp. Cả gia đình chúng ta là một cụm
nhân quả. Chúng ta
không thể bỏ
đi tu để vợ con buồn khổ như thế này được. Cho nên, chúng
ta phải sống trong gia đình. Chúng ta phải làm những gương hạnh
gì để dẫn dắt vợ con mình theo
đường lối đạo đức của Phật giáo.
Mình phải làm gương hạnh
đạo đức hẳn
hoi để giúp cho gia
đình mình an vui,
vợ con đồng hướng theo
một hướng tốt.
Chờ đến khi đủ duyên chúng
ta ra đi vợ
con rất sung
sướng, là vì mong cầu cho chồng mình đi tu, còn con cái ước ao người cha của mình
thực hiện được đạo giải
thoát để
về dìu dắt mẹ và
anh chị em mình cùng đi trên con đường đó. Nếu cả gia
đình đều đồng ý thì hạnh phúc
biết bao! Vậy mình phải sống như thế nào, để sống đúng đạo đức
làm gương trong gia đình. Không những
làm gương cho gia đình mình mà còn làm
gương cả xóm giềng chung quanh
mình nữa. Vậy sống như thế nào để mình dẫn dắt những người chung
quanh xóm giềng của mình.
Ví dụ: Một nhà hàng xóm bên cạnh ngay trước nhà mình,
thường hay ném rác bẩn sang nhà
mình, mình cứ xách chổi
ra quét dọn sạch sẽ không la lối chửi mắng ai cả. Và như vậy chúng ta
đã dạy cho họ
một bài học đạo đức, chắc chắn một ngày nào đó họ sẽ trở
thành người tốt. Người ta đã vô minh
không hiểu đạo đức vệ sinh, người ta chỉ nghĩ đến cá nhân chứ không nghĩ đến ai
hết. Đạo đức dạy chúng ta nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng.
Vì thế, tốt hơn
hết mình cứ
vui vẻ, quét dọn sạch sẽ và nghĩ rằng: đây là nhân quả đời trước của
mình, mình có nợ với người này, người
này mới xả rác như vậy thì mình
cứ vui vẻ
làm đi, làm
cho sạch, làm cho người
đó họ ngạc
nhiên và tự hỏi: Tại sao
ông ta
không tức giận
mình? Nếu người khác
lùa rác, lùa chất bẩn
vô nhà mình, thì mình có giận không?
Mình tin chắc
sớm muộn gì người ta cũng ý thức được điều đó, chứ không phải không.
Nhưng mình phải bền chí để
giáo dục đạo đức
cho người. Khi nhân quả thiện của mình tạo
ra đến lúc chín
muồi, nó sẽ
chuyển đổi thì người ta sẽ hối hận tức
khắc và sẽ đến xin lỗi mình. Bởi vì nhân quả nó chuyển
đổi, chứ không phải cố định. Ví dụ bây giờ thấy người ta đổ rác làm
bẩn
nhà mình, mình tức giận tức là
mình bị nhân quả chuyển, chuyển từ
nhân đến quả. Còn mình chuyển nhân
quả thì mình
không tức giận, do đó mình trả hết
các nợ nhân quả đời trước. Khi nhân quả trả hết
thì không bao giờ người ta làm bẩn
trong nhà mình nữa.
Mình phải
thấy rằng nhân quả nó chuyển biến, chuyển
biến để làm
cho cuộc sống từ bất
yên ổn trở thành yên ổn, thanh tịnh, hoà hợp với nhau, nó không làm động nhau nữa.
Chỗ tu tập của
đạo Phật Nguyên Thủy không có dạy người
ta vào chùa tụng kinh, gõ mõ, lạy sám hối để cầu chư Phật phù
hộ cho chúng ta bình
an, tai qua nạn khỏi.
Chúng ta có lầm lỗi, nhưng biết sự
lầm lỗi đó là ác pháp. Do đó, chúng ta nhất quyết không làm lỗi nữa. Khi không
làm lỗi nữa là phải tự mình, chứ
không ai
giúp mình hết
làm lỗi, cho nên
đức Phật bảo: “Các
con hãy tự thắp
đuốc lên mà đi!”. Bây giờ mình không thắp đuốc lên đi, mà cứ
vô chùa tụng
kinh cầu chư Phật phù hộ
cho mình được sao? Tại
sao mình đi ngược
lại lời dạy của đức Phật như vậy? Làm sai như vậy mà bảo
mình tu theo
Phật giáo. Cái
đó là cái sai.
Tu theo Phật giáo là chúng ta phải tự lực. Mỗi
một ác pháp đến làm cho tâm chúng ta chướng ngại, thì ngay đó chúng ta xả, xả tức
là chúng ta chuyển
đổi được nhân
quả. Để nhắc lại
ví dụ trên:
Có người đưa rác
làm bẩn nhà mình,
mình cứ vui vẻ quét hốt, dọn dẹp sạch sẽ, không tức giận, tức là đầu tiên
mình chuyển được tâm
nhân quả của
mình, kế đó nữa
mình thấy được cái nhân quả của mình và
tự nguyện sẽ hốt sạch
rác này, cho đến khi
trả hết nghiệp. Khi hết nghiệp,
chắc chắn chúng ta sẽ cảm hoá được người làm bẩn nhà mình, nếu tôi cảm hoá được người này thì họ không
còn là người xấu. Họ
không còn là người xấu
thì tôi rất mừng, vì
tôi đã dẫn dắt họ
vào con đường đạo đức.
Do đó, tôi phải bền chí
tôi làm việc này,
một tháng chưa
xong, hai tháng
chưa xong, một năm, hai năm, cho đến ba năm, chắc chắn tôi
sẽ cảm hoá
được người này
bằng những hành động vui vẻ không giận hờn người này. Như vậy, rõ ràng
chúng ta đang theo pháp Phật dạy: ngăn
ác diệt ác
pháp. Đó là
cách thức tu tập của chúng
ta, có giải
thoát ngay
liền.
Đây là một ác
pháp nữa. Ví dụ: Người
ta chửi mình, mình
giận dữ tức
là mình đem ác
pháp vào trong tâm của mình, mình tự
làm khổ mình, chứ có lợi ích gì đâu. Nếu người ta chửi mình, mình
không giận tức là mình không đem
ác pháp
vào tâm mình,
mình không làm khổ
mình và như vậy mình có lợi ích lớn cho mình.
Tóm lại, một người tâm bất động trước các ác pháp
là người sống có
đạo đức với mình với
mọi người.
LÀM CHỦ SỰ SỐNG
CHẾT
Nếu Thầy làm chủ được bệnh của Thầy, tức là Thầy làm chủ được
cái chết. Làm chủ
được cái chết, tức là làm chủ nhân quả. Ngoài nhân quả ra thì không có cái chết.
Bởi vì thân của Thầy là thân nhân quả, cho nên nó phải có sanh có diệt. Khi tu
tập theo giáo pháp của đức Phật, thì trước tiên Thầy làm chủ cái tâm, làm chủ
cái tâm là phải làm chủ tâm không sân, không
tham, không si.
Do làm chủ
tâm nên mới không tham, sân, si.
Nếu không làm chủ tâm được thì tâm tham, sân, si cũng giống như mọi người. Khi làm chủ được tâm
không tham, sân, si rồi Thầy làm chủ được bệnh. Đầu của Thầy đau nhức,
Thầy bảo: “cái thọ này vô thường,
cái đầu đau
nhức này phải rời
khỏi thân này đi và không được đau nhức nữa”. Khi hướng tâm như vậy, thì tự cái
đau nhức đầu sẽ đi
mất. Như vậy có phải cần
uống thuốc không hỡi quý Phật tử? Đâu có cần uống gì. Nay Thầy đã sống trên 78 tuổi rồi mà Thầy vẫn sống bình
thường, không có đau
bệnh gì khó khăn
khổ sở. Nếu
có đau Thầy sẽ đuổi nó đi. Khi Thầy sắp chết
Thầy bảo hơi thở
ngưng đi, cái thân già yếu này sống làm chi cho thêm cực khổ quá vậy, chết
đi cho rồi. Thì bắt đầu nó ngưng hơi thở Thầy chết. Bởi vì Thầy làm
chủ được thân nhân quả. Cho nên, đức Phật nói:
“Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn Nhất thiết thế gian Sanh, lão, bệnh,
tử” .
Giải nghĩa:
“Trên trời, dưới trời Con người duy nhất Khắp trong
thế gian Vượt qua sanh, già
Làm chủ bệnh,
chết”.
Đức Phật đã vượt qua
sanh, già, bệnh, chết,
tức là làm chủ sanh tử.
Vậy thì người tu theo
đạo Phật vốn
có tâm niệm với mục
đích làm chủ được bốn nỗi khổ đau này.
Mục đích của chúng ta là tu tập ngồi thiền để làm chủ sự sống
chết và
chấm dứt luân hồi
phải không?
Ở đây, Thầy
chỉ dạy cho quý
vị ngăn ác diệt
ác pháp, có
nghĩa là người
ta chửi mình, mình
không giận, mình
không tham muốn
gì hết. Dù thấy các vật đẹp mình
cũng không ham muốn, chứ không phải ngồi thiền hít thở, niệm Phật, niệm
chú, tụng kinh, sám
hối, v.v… Và như vậy quý vị
đã làm chủ được cái
tâm tham, sân, si của mình, tức là quý vị đã làm chủ được nhân quả trong
cuộc sống của mình, tức là làm chủ nhân
quả của tâm.
Khi đã làm chủ
nhân quả của tâm được rồi thì tiếp tục tu tập để làm chủ nhân quả của
thân. Làm chủ nhân quả của thân, là làm chủ bệnh tật và chết phải không?
Vì có
làm chủ được
tâm thì đó mới
làm chủ được cái nhân. Làm chủ được
cái nhân chưa đủ, nên phải làm chủ cho được cái thân, làm chủ được cái
thân tức là làm chủ được
cái quả. Cái quả
thân của chúng
ta hiện giờ
có là do nhân đời
trước. Nhờ làm chủ được
tâm thì mới làm chủ
được thân. Nếu không làm chủ được
tâm thì không thể nào làm chủ được thân. Khi chưa làm chủ được tâm thì
thân của quý bạn có nhức đầu, dù cho quý
vị có biết
dùng pháp hướng nhắc
tâm đến cả
ngàn lần thì nó
cũng nhức đầu, chứ
không bao giờ hết.
Còn bây giờ Thầy
đã làm
chủ được cái
tâm thì Thầy chỉ nhắc
nó một vài lần là nó hết nhức đầu ngay liền. Làm chủ được bệnh
khổ như vậy thì dù có đem tiền bạc chất
như núi Thái Sơn cho Thầy, thì Thầy cũng không ham. Người
ta chửi Thầy, Thầy không giận, cái
không sân của Thầy, dù
ai có đổi chùa
to Phật lớn,
Thầy cũng không
ham. Tại vì Thầy đã làm chủ tâm của mình
được rồi, nên danh lợi sang
giàu đối
với Thầy trở thành vô nghĩa. Do danh lợi sang giàu trở thành vô nghĩa đối
với Thầy, thì Thầy phải làm chủ được bệnh.
Làm chủ được bệnh thì Thầy
làm chủ được chết của mình, làm
chủ được cái chết của mình, thì Thầy phải
chấm dứt tái
sanh luân hồi của Thầy. Có phải vậy
không? Giống như trên Thầy đã dạy. Vì thế,
chúng ta đã tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền. Khi nhập xong Tứ
Thiền thì chúng ta thực hiện
Tam Minh. Mà thực hiện Tam Minh thì nghiệp lậu hoặc
không còn nữa, do đó
Thầy đã chấm dứt sự
tái sanh luân hồi của mình. Chấm dứt luân hồi tái sanh, tức là chấm dứt
nghiệp lực tái sanh, chứ không phải
có thần thức,
linh hồn đi tái
sanh, mà chính là nghiệp. Nghiệp là do hành động thiện ác của
chúng ta tạo thành.
Ví dụ: Chúng
ta uống rượu,
nó sẽ thành quen đi với rượu, nếu
không có rượu thì cơ thể chúng ta khó chịu phải không?
Chúng ta hút thuốc nó quen
đi, bây giờ
không hút thuốc, nghe buồn bã, nghe khó chịu trong
lòng, hút thuốc vào là
khoẻ trong người
liền. Đó là nghiệp dẫn dắt mình ham thích dục lạc, nó làm cho mình
khổ sở, do
như vậy chúng
ta bị nhiễm. Sự nhiễm như vậy trở
thành nghiệp. Bây giờ
chúng ta làm chủ nghiệp,
thì làm sao nghiệp đi tái sanh
luân hồi được. Phải không? Nếu chúng ta còn tham, sân, si thì còn nghiệp, nghiệp
còn thì tiếp tục đi tái sanh. Hằng ngày Thầy tu tập làm chủ nghiẹâp.
Tu tập làm chủ nghiệp tức là tu tập tâm không tham, không sân, không si. Hằng
ngày Thầy thường nhắc: “tâm không tham, sân,
si, phải ly dục,
ly ác pháp đi”,
hoặc Thầy nhắc: “tâm như cục đất
ly tham, sân, si đi, đừng có tham,
sân, si nữa, tham
sân si là
ác pháp, là khổ
đau”. Thầy nhắc nó như vậy hằng ngày nên nó trở
thành nghiệp không
tham, sân, si.
Khi chưa biết tu tập chúng
ta thường hay tham,
sân, si,
lâu ngày nó
huân tập thành
nghiệp tham, sân, si.
Còn bây giờ
Thầy huân tập nghiệp
không tham, sân,
si. Nghiệp không tham, sân, si thì nó
có tái sanh không quý vị? Nghiệp không tham, sân, si thì không tái
sanh. Còn chúng ta
đi tái sanh
là do nghiệp tham, sân,
si. Như vậy
có đúng không?
Vì đức Phật xác định thân ngũ uẩn của chúng ta là sắc,
thọ, tưởng, hành, thức
và thức cũng
là một trong năm thứ hoại diệt của thân ngũ uẩn.
Thân này hoại diệt thì rã hết năm uẩn kia. Sắc thân này tan rã thì
thức này
cũng tan rã,
thì thân ngũ uẩn có còn cái gì
đâu. Thế mà chúng ta chấp ở trong
thân này còn
có thần thức,
linh hồn, tánh biết, tánh
thấy, tánh nghe.
Nếu có linh hồn nhập vào đồng cốt thì đó là tưởng thức
của chúng ta tạo
tác, chứ không
phải có linh hồn, chúng ta
đã nhận sai rồi không
đúng đâu. Vì đức
Phật nói, khi chúng
ta chết đi thì
không còn có cái gì tồn tại hết. Nó chỉ còn lại nghiệp do hành động thiện ác của
chúng ta, nghiệp đó nó tái sanh
như trên đã
nói. Vì thế,
chúng ta mãi mãi
tái sanh mà không
bao giờ dứt. Hôm nay chúng ta đã rõ biết được. Vậy biết rõ
chúng ta phải tu tập, tu tập để
có được tâm
nghiệp không tham, sân, si. Hằng ngày chúng ta huân tập pháp
như lý tác
ýù, nhờ pháp
như lý tác ý
mà trở thành nghiệp lực không tham, sân, si.
Nghiệp
tái sanh luân hồi là
nghiệp tham, sân, si. Nghiệp
không tham, sân, si là nghiệp chấm dứt tái
sanh luân hồi.
Do đó đức Phật
dạy: “Con người là thừa tự nghiệp”.
Nghiệp
không tái sanh luân
hồi đức Phật ví
như lõi cây.
Muốn tìm lõi cây
thì chúng ta phải bỏ vỏ, bỏ
giác. Cũng vậy muốn tu giải
thoát thì phải bỏ
tham, sân, si,
còn lại cái không tham sân si. Cây mới mọc lên thì
không có lõi liền được. Nó phải có một
quá trình thời gian lâu dài
thì mới có lõi được. Chúng
ta là con người sống trong đau khổ,
muốn thoát ra sự khổ đau thì phải có một quá
trình thời gian tu tập. Nhưng phải
tu đúng pháp, còn tu sai thì chẳng bao giờ có giải thoát được. Nếu không có
pháp Tứ Chánh Cần, không có Tứ Niệm Xứ, không
có pháp hướng
tâm như lý
tác ý thì dù quý
vị có tu
ngàn đời cũng
chẳng giải thoát được.
Tóm lại, làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi là làm chủ nghiệp, làm chủ nghiệp là
làm chủ tâm, tức là tâm
không tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Làm chủ tâm
là tâm phải bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ tức là tâm không còn dục lậu, hữu lậu vô minh lậu nữa
thì mới giải thoát hoàn toàn.
PHẬT TÁNH
Quý vị đừng lầm trong mỗi chúng sanh đều có Phật tánh,
Phật tánh là một ảo tưởng
của những nhà ảo tưởng.
Tu mà nuôi ảo tưởng
thì chẳng bao giờ có giải thoát, tâm quý vị mãi mãi vẫn còn tham, sân, si. Còn
nếu cho rằng có Phật tánh thường hằng, bất biến trong mỗi chúng sanh thì hóa
ra Phật tánh quá
ngu. Tại
sao vậy?
Phật tánh mà cứ đi đầu thai tái sanh hoài không phải
là ngu sao? Phật là
tánh giác, mà sao không
giác lại ngu, để rồi
tham đắm mà chịu
tái sanh mãi,
Phật Tánh chỉ
là ảo tưởng của các Tổ sư Thiền Đông Độ và Đại Thừa,
chứ trong chúng ta chỉ là một khối
các duyên hợp lại
mà thành. Chúng
ta sinh ra từ cái
môi trường sống, tức là môi trường nhân quả. Nếu chỗ nào
không có môi
trường sống thì chỗ
đó không có nhân quả. Tại sao vậy?
Tại vì nơi đó không
có duyên hành.
Có duyên hành
thì mới có mưa, bão, nắng, gió phải không? Có hành, có mưa, có bão,
có nắng, có
gió thì có khí hậu ôn hòa, mát mẻ, thì mới có độ ẩm ướt, từ khi
có độ ẩm ướt có thì
rong rêu, cây, cỏ, thảo mộc mới sanh ra. Cây, cỏ
sanh ra trước rồi mới
có loài động vật
sanh ra, nhờ có cây cỏ mà
loài động vật mới
ăn cây cỏ để sống,
chứ loài động vật
sanh ra mà không
có cây cỏ
sanh ra thì loài động vật lấy gì
để ăn mà sống?
Đây, Thầy đặt
lại vấn đề thân tứ
đại làm cho rõ ràng. Thân của chúng ta đức Phật nói là do tứ đại đất, nước,
gió, lửa hợp lại
mà thành. Nếu không có tứ đại bên
ngoài thì lấy cái gì ăn để nuôi tứ đại bên trong mà sống thì chắc chắn thân
chúng ta sẽ bị hoại diệt. Từ rong rêu, cây cỏ
sanh ra trước. Sau đó
lần lượt đến những
loài động vật
sanh nơi ẩm ướt, rồi kế đó đến
loài noãn sanh, tức là loài
sanh trứng, rồi thai sanh,
sau cùng mới đến loài
hóa sanh. Hóa sanh
là những người
sanh ra bằng
tâm lực, bằng sự hợp chất do tâm lực,
bằng hợp chất do máy móc. Chúng ta đừng hiểu hoá sanh là biến hoá, hoá
sanh không có
nghĩa biến hoá
đâu. Mà do năng lực, tâm lực của người đã tu chứng Tam
Minh. Trong tập
2 Đường Về Xứ Phật, Thầy đã
nói đến năng lực này. Nghĩa là chúng ta
dùng năng lực của tâm hợp tất cả các
gen (gen) ở trong không gian, trong không gian các gen này có đủ, ta hợp
chúng lại, sẽ hoá sanh thành con người.
Nếu một người
chưa toàn thiện thì không làm được.
Cái năng lực toàn thiện của tâm mới có làm được việc này. Con người được
hoá sanh là con
người toàn thiện. Con người toàn
thiện thì không sống
trong xã hội này được, vì con người
trong thế gian rất ác độc.
Nếu toàn bộ loài người tu hành hết thì con người sẽ
là những con
người hoá sanh.
Con người hoá sanh
hoàn toàn không
có đau khổ. Bởi vì tâm chúng hoàn
toàn thiện do hoàn toàn thiện nên không còn quả khổ.
Khi chúng
ta tu đúng
thì kết quả tự tại
sanh tử
là vậy, tự tại sanh tử không
nghĩa là an phận trong sự sống chết.
Tự tại sanh tử, tức là làm chủ sự sống chết đều theo ý muốn của mình.
Tóm lại, đi tu theo đạo Phật không phải vì đi tìm Phật
tánh hay bất cứ một việc
gì khác, mà vì làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh,
chết.
NGƯỜI MUỐN TU THEO ĐÄO PHẬT LÀ PHÂI SỐNG CĨ ĐÄO ĐỨC
Đã tạo ra nhân
quả, có vợ,
có con là có nhiệm vụ đạo đức, trách nhiệm làm chồng,
làm cha, làm mẹ,
mình không thể
nào bỏ chúng được,
mình không thể dứt áo ra
đi tu
hành ngay liền được (cắt ái ly gia được).
Ngày xưa, chưa có đạo Phật cho nên đức Phật mới dứt
áo ra đi, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha bỏ những
người thân để
đi tu. Tạo một điều
đau khổ rất lớn,
chứ không phải
nhỏ. Sáu năm Ngài
phải chịu rất
nhiều sự đau khổ và cay
đắng, do pháp tu ức chế
thân tâm của
ngoại đạo Bà La Môn. Vì ăn quá ít, cuối cùng Ngài đứng dậy không nổi. Đó
là tiết thực quá độ, ăn uống ít
quá, cho nên cơ thể
của Ngài quá kiệt
quệ. Sự
khổ đau này chính
là pháp môn của
ngoại đạo, nhưng cũng để nói lên nhân quả mà Ngài đã tạo ra khổ đau đối với gia
đình mình.
Sau đó,
Ngài tìm được con đường
tu tập, để đi đến
chứng ngộ giải thoát. Ngài trở về độ cả
dòng họ của
mình. Trên đây
là những việc làm của đức Phật ngày xưa. Còn bây giờ
chúng ta tu hành
thấy được đường
đi của đạo Phật,
nhờ Ngài
vạch ra, chính nó
là lối đi đạo đức của loài người. Chúng ta là những người hữu
duyên mới gặp được chánh
pháp như vậy.
Vì vậy, mỗi chúng
ta phải có
trách nhiệm và bảo
vệ nó, không được làm mất nó, vì nó bị mất đi hơn 25 thế kỷ.
Hôm nay nhân duyên đã đủ, chánh pháp của Phật mới được sống lại, chúng ta không có quyền để cho
chánh pháp mất một lần nữa hay bị diệt mất, nhất là đạo đức nhân bản - nhân quả phải
được bảo vệ
và giữ gìn mãi mãi với
cuộc sống của loài người muôn thuở.
NHỮNG CÂU HƠI
Hỏi: Kính Bạch Thầy! Kính Thưa Đại Chúng!
Đây cũng là những câu hỏi của nhiều cư sĩ thắc mắc:
Khi Đức Phật
nhập diệt, các vị Thánh Tăng
đệ tử của đức Phật
cũng đều nhập
diệt rồi, thì hơn
2500 năm nay có vị Thánh
Tăng
nào hay
không? Nếu có thì sách sử không thấy nói
đến? Nếu thật có những bậc A La Hán tu chứng. Theo như Đại Thừa nói là các vị A
La Hán không có
lòng thương xót,
không có lòng từ
bi, cho nên quý
Ngài không có thị hiện để
cứu độ
chúng sanh. Vậy
chúng con xin Thầy chỉ
dạy dùm: CÓ VỊ THÁNH TĂNG
(A LA HÁN) NÀO XUẤT HIỆN KHÔNG?
Đáp: Từ khi
đức Phật nhập diệt đến nay, giáo
pháp của Ngài
đã bị dìm mất bởi những
nhà học giả chịu ảnh hưởng tư tưởng giáo pháp của ngoại đạo Bà La Môn, nên tu
hành không đúng chánh pháp của Phật và sự
tu hành cũng chưa đến nơi đến chốn. Vì thế, tưởng giải, kiến giải theo lối mòn
của ngoại đạo, nên tìm một vị chứng quả A
La Hán rất
khó, vì thế, từ ngày đức
Phật nhập diệt đến nay
chúng ta không thấy sử
Phật giáo có ghi chép
những bậc A La Hán kế tiếp, nhưng có những bậc độc giác A La Hán xuất
hiện tu chứng
quả, những vị này
không nằm trong Phật giáo Đại Thừa cũng như Phật giáo
Tiểu Thừa Nam
Tông, nên không được lịch sử Phật Giáo ghi chép.
Lịch sử
Nam truyền và Bắc truyền
có ghi chép những
bậc Đại Sư học
giả thường gọi là
Bồ Tát, vì những người này chưa nhập được Tứ
Thánh Định của Phật
và Tam Minh,
họ chỉ nhập được Tứ Thiền
của ngoại đạo, tức
là một loại thiền tưởng và thần
thông tưởng. Cho nên, sử Phật giáo
không dám xác định
và ghi
chép họ là những bậc A La Hán.
Trong kinh
sách Nguyên Thủy
cũng như kinh sách phát triển Đại
Thừa đều có dạy rằng: “Một vị A La
Hán, một
vị Phật xuất
hiện ra đời là trên
thế gian này sẽ xảy ra 6
cách chấn động”. Vì thế, từ ngày đức Phật nhập
diệt đến nay chúng
ta chưa từng thấy
có chấn động, chưa có chấn động tức là chưa có A La Hán ra đời.
Tóm lại, khi đức
Phật tịch thì các
ngoại đạo cố tình diệt Phật
giáo. Âm mưu của chúng là phân
hóa Phật giáo. Các Tỳ Kheo tu chưa chứng
đều bị âm
mưu này. Phật
giáo chia thành nhiều
bộ phái, giáo
lý của Phật
đã bị thêm bớt quá nhiều và những
pháp hành của Phật không có
người có kinh
nghiệm, nên người sau
không biết đường
tu tập. Vì thế,
không có bậc A La Hán xuất hiện.
BẬC A LA HÁN
CĨ TÅM ĐÄI BI KHƠNG?
Đáp: Đại Thừa
cho bậc chứng quả A La Hán không có tâm đại bi, không thương
xót chúng sanh là không đúng.
Một vị Phật,
một vị A La
Hán xuất hiện là
do đại nhân
duyên của chúng
sanh trong thời đó. Nếu có đủ duyên
thì bậc A La Hán
xuất hiện bằng ngược lại là không. Nếu chúng sanh sống
hung dữ, tàn
ác, không chánh
tín, theo tà kiến, không có tâm tha thiết cầu sự giải thoát, v.v.. thì A
La Hán không xuất hiện.
Cuộc sống con người xuất hiện nhiều tà giáo ngoại đạo.
Đạo Phật
bị dìm mất
thì Phật và A La Hán không xuất hiện.
Phước
chúng sanh có,
duyên chúng sanh đủ
và tâm tha
thiết của chúng
sanh muốn tìm tu giải
khổ. Mặc dù hiện giờ
tà giáo ngoại
đạo nhiều, nhưng bậc A La Hán vẫn xuất hiện, xuất hiện để
làm sống lại nền đạo đức của Phật
giáo, xuất hiện để quân bình cuộc sống
cho con người trong đạo đức nhân bản -
nhân quả. Cũng giống như thời đức Phật xuất
hiện. Toàn là tà giáo
ngoại đạo (lục
sư ngoại đạo). Nhưng chúng sanh
trong thời đức Phật có đại nhân
duyên, đó là duyên giải thoát. Đức Phật xuất hiện dựng
lại những giáo pháp đúng mà ngoại đạo đã
ném bỏ.
Thường khi đức Phật thuyết một bài pháp xong thì các
cư sĩ ca ngợi tán thán đức Phật bằng cách:
“Sa môn Gotama,
thật vi diệu thay, bạch
Thế Tôn! Thật
vi diệu thay bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì đã quăng ngã xuống,
phơi bày ra những gì bị
che kín, chỉ đường cho kẻ
lạc hướng, đem đèn
sáng vào trong bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc”.
Theo Thầy thiết
nghĩ đức Phật
đâu có pháp môn gì mới đâu? Ngài
dám nói thẳng những cái sai cái đúng; Ngài dám bài bác chú thuật thần thông của
ngoại đạo; Ngài dám bài bác cúng tế, cầu siêu,
cầu an của ngoại đạo; Ngài dám bài bác 62 hệ tư tưởng của ngoại
đạo; Ngài dám bài
bác thế giới
siêu hình không
có chỉ là thế giới của tưởng tri. Cũng như bây giờ Thầy dựng lại
những pháp môn gì của Phật mà giáo
pháp phát triển
và ngoại đạo ném bỏ
xuống Thầy dựng
lên, chứ Thầy
đâu có pháp môn
gì mới. Thầy
cũng dám nói thẳng như Phật, mặc dù Phật còn có một giáo đoàn rất
đông đảo
và có cả nhiều vua chúa
ủng hộ, còn Thầy
có một mình,
không có thế lực, không tiền
bạc chỉ có một tâm
nguyện muốn đem lại lợi
ích cho loài người trên
hành tinh này, một nền
đạo đức nhân bản –
nhân quả Phật
giáo mà mọi người sống không làm khổ mình, khổ người; mà mọi người
sống biết thương
yêu nhau, thương yêu sự sống của muôn
loài trên quả địa cầu này. Rồi đây,
Thầy sẽ không
còn một mình mà có nhiều người,
nhiều người khắp trên hành tinh này.
Nói A La Hán
thương hay không thương, độ
hay không độ
chúng sanh là người ta
nói, chứ những bậc A La Hán biết thời tiết nhân duyên lúc nào đúng, lúc
nào chưa đúng, lúc nào độ, lúc nào
chưa độ và biết mình
phải làm những gì đối với chúng
sanh. Với trí phàm phu hữu hạn mà
trách các bậc
A La Hán
không thương xót chúng
sanh, không độ
chúng thì Thầy e rằng quý vị
không hiểu A La Hán.
Quý vị đừng nghe theo những danh từ lời nói lừa đảo của
kinh sách phát triển “Thương xót
chúng sanh, độ chúng
sanh”, Bồ Tát độ chúng sanh hay
là dắt chúng
sanh vào bệnh thần
kinh, hay biến chúng
sanh thành người xảo
trá lừa đảo
nói láo. Dẫn
nhau đi vào hố
thẳm mà không biết.
Ông Phú Lâu
Na, một vị A La Hán, đệ tử của Đức Phật đến xin Ngài đi hóa độ những người
dân hung ác ở một xứ xa. Đức Phật chấp nhận.
Một hình một
bóng, ông ra đi
về hướng đó và chẳng bao lâu
ông đã độ được dân nước
đó theo chánh pháp của Phật tu hành. Hành động
như vậy, ai
dám bảo rằng
A La Hán không thương xót chúng sanh? Chỉ có những
người phỉ báng
Phật giáo như
các giáo pháp phát triển và các ngoại đạo.
A LA HÁN CHƯA HẾT LẬU HOẶC, XIN QUÝ VỊ ĐỪNG PHỈ BÁNG
BẬC A LA HÁN RẤT TỘI
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Người
ta nói đã có nhiều người khi đọc được một số sách
hay là nghe băng của Thầy họ có thắc mắc
như thế này, họ vấn nạn. Nếu là vị A
la Hán đã
giác ngộ rồi thì phải có cái tâm
từ bi. Lời nói là lời ái ngữ, còn lời nói của Thầy
thì phê phán họ
quá nặng. Vậy, tức là vị này
chưa có đắc đạo.
Một ông sư đã
cho rằng: A La Hán vẫn còn những lậu hoặc, tức là chưa xả sạch hết, xin Thầy từ
bi chỉ giáo.
A La Hán
chưa hết lậu hoặc làm sao gọi là A La Hán. Phải không?
Đáp: Vị A La Hán phải hết sạch lậu hoặc mới gọi
là A La Hán.
Nói A La Hán
chưa hết lậu hoặc là phỉ báng A La Hán. Người ta chỉ tưởng ra mà
nói, chứ chưa biết
rõ thế nào là
hết lậu
hoặc thế nào
là chưa hết lậu hoặc. Ở trong định nào mà hết lậu hoặc và ở trong định
nào mà không hết lậu hoặc. Đừng dùng kinh sách Đại Thừa như: “kinh Duy Ma Cật, kinh Bỏ Những Giới Nhỏ Nhặt, kinh Đại
Bát Niết Bàn v.v..” mà phỉ báng
những bậc A La
Hán đại đệ tử của Phật thì thật
đáng thương, tự
mình đã giết mình
mà không biết.
Đó là mục
đích của Bà La
Môn dùng những
kinh sách này diệt Phật
giáo, kiến giải của Thầy
Chơn Quang là nối giáo
cho giặc diệt
Phật giáo, chứ
không phải chấn hưng Phật giáo. Tội
phỉ báng bậc A
La Hán và nối giáo diệt Phật giáo là tội rất nặng, sẽ mất chủng tử giải thoát,
đời đời kiếp kiếp phải đoạ địa ngục (tức là thân thường thọ bệnh khổ, không bao
giờ dứt) chịu nhiều sự khổ đau và quả vị A
La Hán
không bao giờ chứng được.
Nói đến người
chứng quả A La Hán là nói đến người giới luật
nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, Bốn Thánh Định
phải được nhập
xong và Tam Minh
phải được đầy đủ.
Như vậy, xét qua các pháp môn mà một vị A La Hán
đã thực hiện
xong thì lậu hoặc còn chen
chân vào chỗ
nào được mà gọi là
A La Hán còn lậu hoặc. Chỉ có những
người chưa chứng được Bốn
Thiền và Tam
Minh thì lậu hoặc mới
còn, mà chưa chứng
được Bốn Thiền và Tam Minh thì làm sao gọi là A La
Hán?
Cho nên,
các vị chưa hiểu
A La Hán mà
phỉ báng A La Hán thì tội nghiệp cho quý vị, vì phỉ báng A La Hán là tội rất nặng.
Tóm lại, chưa chứng
A La Hán thì không nên bàn
hay nói đến A La Hán,
vì trí tuệ hữu hạn phàm
phu của quý vị làm
sao hiểu nổi những bậc Thánh Tăng
A La Hán đệ tử của đức Phật.
Xin quý vị đừng dùng
tưởng tri mà luận Thánh
quả thì e rằng quý vị đã
sai lầm lớn. Câu
tục ngữ của Tổ Tiên
ta dạy: “Biết
thì thưa thốt, không
biết thì dựa cột mà nghe”.
DÙNG ÁI NGỮ NHƯ THẾ NÀO ĐÚNG?
Đáp: Tại sao Thầy lại gay gắt với Thiền Đông Độ và
kinh sách phát triển mà không dùng ái ngữ với những giáo pháp này? Vì Thiền
Đông Độ và kinh sách phát triển đã giết bao nhiêu thế hệ tín đồ
Phật giáo, biến
Phật giáo thành thần
giáo ngoại đạo,
biến giáo pháp Phật
giáo thành những
giáo pháp mê
tín, trừu tượng ảo giác v.v.. Những giáo pháp này còn hù dọa, lừa đảo
quyến rũ, cám dỗ tín đồ v.v.. Trong đời Thầy đã chứng kiến biết bao nhiêu Thầy
Tổ phải chịu chết trong đau khổ với những pháp môn này.
Xưa, Đức Thế
Tôn hoàn toàn
bác sạch sáu mươi hai luận thuyết của Ngoại Đạo, Ngài mạnh dạn nói thẳng
chẳng hề biết sợ lục sư ngoại đạo là gì. Thậm chí thế giới siêu hình mà các
tôn giáo đều
có. Đức Phật mạnh dạn xác định không có thế giới siêu
hình, chỉ là thế giới tưởng tri. Mà
trong thời đức Phật đâu phải dễ nói thế giới siêu
hình không có.
Con người thời đó sự hiểu biết về khoa học còn thấp kém, đời sống
còn lạc hậu.
Thế mà đức Phật dám nói,
chỉ có những
bậc A La
Hán, họ mới là
những người dám ăn dám nói một sự thật.
Ông Galilé một
nhà thám hiểm nói một sự thật: “Quả đất
tròn” trong thời
đó mọi người đều
tin rằng quả đất
vuông. Do thế, người
ta bắt buộc ông phải nói quả đất vuông thì không kết tội tử hình, nhưng đứng trước cái chết, ông vẫn ung dung nói
một sự thật
mà ông đã biết: “Không
thể quả đất
vuông được”. Người ta đưa ông lên đoạn đầu đài.
Một nhà thám
hiểm, trước cái chết còn dám nói thẳng một sự thật, thật là gương
can đảm và anh hùng. Còn chúng ta thì sao? Là những nhà tôn giáo, là tượng
trưng cho đạo đức mà không dám
nói thẳng, nói mạnh một sự
thật sai là sai, đúng là đúng, chỉ biết cúi đầu a dua nịnh bợ.
Lời nói thẳng,
nói mạnh thì quý
vị cho rằng lời
nói không ái ngữ, còn lời nói a
dua nịnh bợ cái gì cũng cho là đúng, cái gì cũng cho là phải thì quý vị cho đó
là lời nói ái ngữ.
Lời nói thẳng nói mạnh là để giúp cho người tỉnh
giấc mơ, để người
ta trở về với sự thật, giúp cho người ta thoát ra khỏi sự lừa
đảo của kẻ khác.
Đó là lời
ái ngữ có phải vậy không? Thưa các bạn.
Trong thời đại của chúng
ta là thời đại
văn minh
khoa học nên Thầy mạnh dạn nói rằng thế giới siêu hình không có. Nói thế
giới siêu hình không
có là làm một điều
chướng ngại rất lớn
không những cho các
nhà Phật giáo phát
triển, Thiền Tông
mà còn chướng ngại
tất cả các
tôn giáo khác
trên hành tinh này. Xưa, đức Phật đã nói thế giới siêu hình là thế
giới tưởng tri,
ngắn gọn. Vì thế,
ngoại đạo dễ che lấp
lời nói này.
Còn bây giờ Thầy
vạch trần ra hết, tất cả những
sự lừa đảo,
phi đạo đức của Phật giáo
phát triển và Thiền Tông cho mọi
người thấu rõ sự gian xảo thì người ta bảo Thầy là người không có ái ngữ.
Thầy xin chấp nhận mình
không ái ngữ với Phật
giáo phát triển và Thiền Tông.
Mà Thầy có
ái ngữ với những người không có
kiến chấp đem lại lợi ích cho họ. Nếu Thầy có ái ngữ với những giáo pháp này,
thì những giáo pháp
này sẽ giết Phật giáo và giết hết những tu sĩ Phật
giáo sau này. Nếu không
nói thẳng nói thật thì ai
biết Phật giáo phát
triển và Thiền Đông Độ
là sai, là phi đạo đức, là không phải của Phật giáo, là của Bà La Môn Giáo; nếu không nói
thẳng nói thật, thì ai biết thế giới siêu hình là không có; nếu không
nói thẳng nói thật thì ai
biết được Phật giáo
có một nền đạo đức
nhân bản - không làm khổ mình, khổ người; nếu không nói thẳng nói thật thì ai
biết được những
âm mưu thâm độc diệt Phật giáo của
ngoại đạo; nếu không nói thẳng
nói thật thì
ai biết được những tu sĩ ẩn nương cửa Phật kinh
doanh làm giàu trên xương máu của đồng bào Phật tử; nếu không nói
thẳng nói thật
thì ai biết
được những tu sĩ
tu danh, tu lợi đang lợi
dụng mồ hôi nước mắt của đồng bào
Phật tử để ăn
trên ngồi trước; nếu
không nói thẳng
nói thật thì làm
sao làm sống lại Phật giáo,
thì làm sao làm sống lại nền đạo
đức của Phật giáo; nếu không nói thẳng nói thật
thì làm sao dẹp sạch những nạn mê tín
lạc hậu,
làm hao tốn tiền của
đồng bào Phật tử một
cách nhảm nhí.
Vì thế, phải nói thẳng, nói thật, nói mạnh, chứ không thể
nào ái ngữ ngọt ngào
êm dịu với Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ được.
Người tu chứng đạo biết sử dụng ngôn ngữ, đối với người nào phải dùng ái ngữ, đối
với người nào không dùng ái ngữ, chứ không phải lúc nào cũng dùng
ái ngữ. Cũng
như người cầm
cân pháp luật là phải biết phạt, trị tội người nào; biết tha
và biết giảm tội cho người
nào. Lúc nào dùng
ái ngữ, ngọt
ngào an ủi; lúc
nào nộ nạt tra tấn đánh đập. Người mới phạm tội lần
đầu thì tha thứ, cảnh cáo,
giáo dục họ, dạy họ để
họ sửa lại những sự sai lầm. Còn người nào ba lần năm lượt không chịu sửa đổi phải
cưỡng bức họ cải tạo, giam giữ bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên, chúng ta
không phải lúc nào cũng dùng ái ngữ. Xưa, đức Phật cũng dùng ngôn ngữ
không ái ngữ:
“Ông ngu si, ông điên
đảo…”. Như vậy, đức Phật
không chứng đạo sao? Nếu họ bảo rằng:
người tu chứng lúc nào cũng dùng ái ngữ, dùng ái ngữ như vậy là người a dua, nịnh
bợ, không dám nói thẳng nói thật. Người chứng
đạo như vậy
là người nhát gan
sợ hãi, người
hèn nhát. Như vậy gọi là
chứng đạo là không đúng.
Một người ác, một quỷ vương, một ác thú mà chúng
ta dùng ái ngữ thì chúng
có tha cho chúng ta không? Cho nên, chúng ta phải là
người sáng suốt,
phải là người
trí tuệ mới biết dùng
ái ngữ. Vì vậy, phải
biết sử dụng
ái ngữ với những
người nào và
không sử dụng
ái ngữ đối với những người
nào. Chúng ta cần phải diệt
cho sạch những ác
pháp đó để đem
lại sự an vui cho mọi người. Đó là cách
thức xử sự của một người trí tuệ, của một người tu chứng.
Dùng từ “ái ngữ” hay
dùng từ “địa ngục” là để bịt miệng
mọi người, để mọi người
không dám nói thẳng sự sai trái trong Phật giáo hiện nay là một điều tồi tệ nhất, đó là một sự để
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!