Ở đây, không có ma đè mà có một số thần kinh
nghỉ ngơi chưa hoạt động trở lại bình thường trong khi còn đang ngủ nên cảm thấy
thân cứng đơ.
QUY Y TAM
BÂO
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Đối
với người chưa từng biết Phật
pháp là gì, nhưng đời sống của họ rất thiện.
Vậy, họ có cần phải
quy y Tam Bảo gieo duyên chủng tử
Phật pháp hay không thưa Thầy?
Đáp: Tuy rằng
sống trong thiện Pháp, nhưng đó là những thói quen thiện pháp theo truyền thống
hay gen thiện
của ông bà,
cha mẹ. Những truyền thống và những gen thiện pháp ấy
chưa đủ để hiểu
biết về thiện
pháp nhân bản - nhân quả của đạo đức làm người. Vì thế, dù có sống trong
thiện pháp của truyền thống ông cha,
nhưng chưa trọn vẹn
nên vô tình chúng
ta vẫn còn
làm khổ mình,
khổ
người, khổ
chúng sanh, cho nên chúng
ta phải quy y Tam Bảo.
Quy y Tam Bảo có
nghĩa là nương tựa
và học hỏi những
thiện pháp mà chúng
ta chưa hiểu biết.
Những thiện pháp của Tam Bảo là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm
khổ mình, khổâ người và khổ tất cả chúng
sanh.
- Thứ nhất
là học hỏi về Phật Bảo. Học hỏi
về Phật Bảo là
học đạo đức làm Phật.
Đạo đức không tham, sân, si.
- Thứ hai là
học hỏi về Pháp Bảo. Học hỏi về Pháp Bảo là học đạo đức ngăn ác diệt ác pháp,
sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.
- Thứ ba là
học hỏi về giới luật của một vị Tăng (Tăng Bảo). Học hỏi về giới
luật của một vị Tăng là
đạo đức làm Thánh vô lậu. Vậy đạo đức làm Thánh vô lậu
như thế nào?
Đạo đức làm
Thánh vô lậu là những hành động sống hằng ngày của một vị Tăng. Vậy, các
con muốn hiểu
rõ nghĩa này
thì phải hiểu nghĩa của các cụm từ như: vô lậu, Tăng.
Vậy vô lậu và Tăng nghĩa là gì?
Vô lậu
nghĩa là không
còn tham, sân,
si;
không còn
phiền não, tức giận; không còn tham
danh, chức tước, quyền cao; không còn đắm lợi chùa to, Phật lớn, tiền bạc nhiều v.v..
Tăng là một người
tu sĩ cạo bỏ râu
tóc, mặc y áo thô xấu, sống chỉ có một bộ đồ: y thượng, y
trung và y hạ. Một
chiếc bát bằng đất nung, để xin cơm, ăn uống cũng trong
chiếc bát ấy. Sống
không gia đình,
không nhà cửa, lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, đó
là hạnh tri túc thiểu dục, không có chùa to Phật lớn.
Tăng là một người
tu sĩ sống
đúng 10
Thánh hạnh:
1- Thánh đức
hiếu sinh, sống thương yêu
chúng sanh như
con. Không làm
chúng đau khổ, không
giết hại chúng,
không ăn thịt chúng,
luôn luôn an ủi, xoa dịu những
vết thương đau của chúng.
2- Thánh
đức buông xả, sống không
lấy của người khi họ
chưa cho, tức là không
tham lam, trộm cắp, cướp giựt, móc túi lấy của người khác.
3- Thánh
đức thanh tịnh,
sống không dâm dục,
xa lìa dâm dục, từ bỏ
dâm dục, đoạn diệt dâm dục, vì
dâm dục là con đường sanh tử luân hồi, đầy dẫy mọi sự đau khổ.
4- Thánh đức chân thật, sống không nói dối, xa
lìa nói dối, từ bỏ
nói dối, đoạn diệt nói dối.
Vì người nói dối không
có việc ác
nào mà họ không
làm. Người nói dối sẽ
làm mất lòng tin đối với mọi người khác.
5- Thánh
đức minh mẫn,
sống không uống rượu, dù bất cứ
loại rượu nào cũng không uống, vì uống rượu đầu óc u tối không sáng suốt
minh mẫn, không
biết xấu hổ, nằm
đường ngủ bụi không
biết vệ sinh
dơ sạch. Người
uống rượu càng lúc
càng ngu si, cơ thể
thường sinh bệnh tật, lời nói của người uống rượu không có giá trị, ít
ai tin cậy.
6- Thánh đức tự nhiên, sống không trang điểm,
làm đẹp, làm sang, không đeo vòng vàng, chuỗi
ngọc, tràng hoa,
không thoa dầu
thơm,
v.v..
7- Thánh
đức trầm lặng độc cư, không tụng niệm
cúng tế, không
ca hát, không nghe ca hát, không hội họp nói chuyện, sống độc
cư, độc bộ, độc hành.
8- Thánh đức thanh bần, lấy gốc cây làm giường
nằm, từ bỏ nằm giường cao rộng lớn, lấy chòi
tranh vách lá làm nhà ở,
từ bỏ
ở chùa to, Phật lớn, v.v..
9- Thánh
đức ly dục, sống từ bỏ ăn
uống phi thời, không
ăn uống phi thời là ly
dục ăn. Ly dục ăn mà không khắc phục được,
thì không xứng đáng là một vị Thánh Tăng trong Đạo Phật. Một vị Thánh Tăng còn
ăn phi thời, ngày hai ba bữa là chưa ly dục ăn. Chưa ly dục ăn là chưa phải một
vị Thánh Tăng đệ tử của Đức Phật. Xin quý
phật tử hãy cảnh giác, họ chỉ là Ma
Ba Tuần trong
Phật giáo, họ
là những người diệt Phật giáo.
10- Thánh đức
ly tham, sống từ bỏ cất giữ tiền bạc, xa lìa cất giữ tiền bạc, còn cất giữ tiền
bạc không phải là một
vị Thánh Tăng. Vì tiền bạc sẽ sai
khiến con người. Một vị Thánh Tăng không còn nô lệ cho tiền bạc của cải tài sản,
sống thiểu dục tri túc ba y một bát ngày đi xin ăn, tối ngồi thiền xả tâm.
Trên đây là
những Thánh hạnh tiêu chuẩn của một vị Thánh Tăng, khi các con muốn quy y Tăng Bảo thì hãy chọn những vị
nào sống đúng 10 Thánh hạnh này thì mới xứng đáng là Thầy của các con. Còn nếu
vị Thầy nào sống không đúng 10 tiêu chuẩn này thì các con đừng chọn họ quy y
Tam Bảo. Họ không xứng đáng làm Thầy của các con đâu.
Nếu không
quy y Tam Bảo thì không bao giờ
thông hiểu và biết cách
tu sửa những
lỗi lầm sống không đúng đạo đức nhân bản – nhân quả thì cuộc đời rất là
đau khổ. Phải không các con?
TRI KIẾN VÀ
BÂN LĨNH CỦA NGƯỜI TU THEO CHÁNH PHÁP NGUYÊN THỦY
Bài viết của
Nguyên Thanh
Khi chúng
ta đến với
chánh pháp Nguyên Thủy,
chúng ta có những ước
nguyện, có những tâm
nguyện tu tập để chấm dứt mọi sự khổ đau của kiếp người, để gieo duyên
với chánh pháp Nguyên Thủy. Chúng ta có hữu duyên từ nhiều tiền kiếp xa xưa nên
ngày hôm nay mới được gặp gỡ hội tựu về đây cùng chung sống bên nhau tu tập.
Chúng ta sống một ngày làm Phật; một ngày làm Thánh A La Hán; một ngày được sống
trong thiện pháp; sống trong những từ trường thương yêu của chư Phật, của Thầy,
của Út. Tâm của chúng ta luôn hân hoan, khinh an, thanh thản, an lạc và vô sự
trong những ngày tháng
đó. Vì vậy, ta cố gắng khắc phục những
nhược điểm của
chính mình; cố gắng tu tập để có được những kết quả tốt;
cố gắng tu tập để
có những giây phút thanh thản và
vô sự; những
giây phút một
mình ở trong thất,
đối diện với
chính mình; đối
diện với những tư tưởng của
chính ta. Đó là những
giờ
phút chiến đấu
oanh liệt nhất. Khi chúng ta bước chân vào tu viện tu tập, khi chúng ta đến với
chánh pháp Nguyên Thủy.
Đến với
tu viện chúng
ta tập sống một
mình, sống cho mình,
tu cho mình. Chúng
ta tập sống một ngày làm Phật, một ngày làm Thánh A
La Hán. Nên mọi cái
khó khăn của chính
ta được khắc
phục, chế ngự, từ cái ăn
uống, đến cái
ngủ nghỉ, cái
chỗ ở, cái
nói chuyện, đều được
ta khắc phục một cách dễ
dàng không khó
khăn chi. Bởi
vì ta đang hướng đến làm Phật, làm Thánh A La Hán,
để giải thoát làm chủ sanh tử. Cho nên ta không muốn đòi hỏi một cái gì hết. Ta
tập sống, đời sống thiểu dục
tri túc, như thời Đức Phật thuở xưa. Mỗi ngày ta ôm bình bát đi xin cơm về
ăn, cho gì ăn nấy,
không đòi hỏi cầu kỳ,
ta ngủ cũng vậy,
đúng thời khóa
tu tập giờ
giấc nghiêm chỉnh, ta không
nói chuyện nhiều. Chỉ nói những điều
cần thiết và thưa hỏi
pháp khi gặp khó khăn. Tại sao chúng ta phải sống như vậy?
Thưa các bạn!
Vì ta đang tập sống,
ta đang hướng đến
như Phật, như
Thánh A La Hán.
Chúng ta đang
tập sống theo
truyền thống quá khứ của chư Phật để lại.
Đức Phật dạy
rằng: “Này các tỳ kheo, nghề sinh sống hèn hạ nhất là nghề khất thực (đi
xin). Đây là một lời
nguyền rủa trong đời, này
các tỳ kheo
khi nói ông là kẻ
khất thực (xin ăn) với cái
bát trên bàn tay, ông đi chỗ này,
chỗ kia và đấy là nghề sinh sống. Này các tỳ kheo, điều mà các thiện gia nam
tử chấp nhận
là những vị nào
sống vì lý tưởng,
mục đích. Duyên
với lý tưởng mục
đích, không phải
vì ma cưỡng ép,
không phải vì trộâm
cướp cưỡng ép, không
phải vì thiếu nợ,
không phải vì sợ hãi, không phải vì không có nguồn sinh
sống mà với ý nghĩ, ta bị chìm đắm trong sanh,
già, bệnh, chết,
sầu, bi khổ, ưu não, bị
chìm đắm trong đau
khổ, bị quanh
vây bởi đau khổ. Rất có thể sự chấm dứt
toàn
bộ khổ uẩn
này được tìm ra11”.
Như vậy, Đức Phật
đã dạy cho chúng
ta thấy rằng: Khi ta ôm bình bát đi xin cơm về ăn là để xả tâm ly
dục, ly ác pháp. Khi ta đi đến
một trú xứ nào
đó hoặc ta đi đến khu
nhà bếp
11 Người
khất thực đại tạng kinh
Việt Nam Tương
Ưng
Kinh tập III
trang 171, 172, 173
để thọ nhận
thức ăn là để xả tâm; xả những cái ham
muốn ăn ngon;
xả cái ham muốn ăn cầu
kỳ; xả
cái ham muốn ăn
đòi hỏi, cũng
như đòi hỏi “cho tôi một tuần
thêm đĩa rau hoặc một tuần đĩa khoai; cho tôi cơm mềm; cho tôi
cơm trắng; cho tôi thêm cái này; cho tôi thêm cái khác, v.v…”.
Chúng ta ăn
uống là để ly dục, chứ không phải ăn uống để đắm nhiễm, cho nên đi khất thực, cho gì ăn
nấy, không nên
đòi hỏi, thêm cái
này, thêm cái
khác; chê cái
này, chê cái khác. Nếu như vậy, chúng ta chưa xả được
cái tâm của mình, ta chưa khắc phục được
nội tâm của mình, vì ở khu vực nhà bếp cô
Út Diệu Quang đã sắp xếp
soạn sẵn cho mỗi người một khẩu phần
khất thực quá đầy đủ, chỉ còn
đem về thất thọ nhận mà thôi. Nếu ở nhà,
hay ở chùa hoặc ở một
trú xứ nào
đó, ta có thể sống
đòi hỏi,
chạy theo tâm dục của
chính mình, muốn ăn uống thêm cái
này, thêm cái khác bao nhiêu cũng được.
Nhưng khi ta bước
chân vào tu viện tu tập, chúng ta
hãy tập sống một ngày làm Phật, làm
Thánh A La
Hán thì chúng ta phải cố gắng khắc phục, chế ngự tâm của
mình, để được sống trọn vẹn trong một ngày đó, trong những tháng đó. Vì ta đang
hướng tâm đến quả
thánh giải
thoát, nên ta phải sống đúng thiện pháp. Thực hành mục đích Sa Môn hạnh trong
ngày đó, trong
những tháng đó.
Vì thế, ta không
đòi hỏi một điều gì hết. Út cho
gì ăn nấy, ta
không khen, chê một điều
gì. Bởi vì, mục đích ta đến tu viện Chơn Như tu tập
là để làm Phật, làm
Thánh ALaHán, làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Cho nên, ta phải
khắc phục, chế ngự tâm dục của mình. Để buông xả xuống hết,
không đòi hỏi
mong cầu một điều
chi. Vì
ăn uống là để được
khỏe mạnh tu tập,
để được no bụng mà tu, chứ có phải ta đến tu viện để du lịch hay nghỉ mát? Ta đến
tu viện là để giải thoát, không còn bị trói buộc trong ăn uống, ngủ nghỉ, chứ
không phải đi bổ dưỡng.
Ngày xưa Đức
Phật, A La Hán Thích Ca Mâu Ni đang trên
đường tu tập,
có bao giờ Ngài gọi điện về
xin vua Sudd- Hodana (vua Tịnh Phạn) hoặc
xin bà con, bạn
bè cho thêm cái này, thêm cái
khác? Có bao giờ Ngài đi xin ăn mà xin
thêm của đàn
na tín thí cho tôi thêm
đĩa rau, cho tôi
thêm đĩa khoai,
cho tôi cơm mềm, cơm trắng, cơm gạo lứt,
v.v..? Và Ngài đi xin ăn, thí chủ
cho gì Ngài đều hoan hỷ nhận đem về dùng,
Ngài không có
đòi hỏi và
tất cả chúng
tỳ kheo thời đức Phật đều như thế cả.
Chúng ta
hãy noi
gương hạnh của Trưởng Lão
Thông Lạc đi khất thực,
cho gì ăn nấy
không đòi hỏi, mặc dù Trưởng Lão tuổi tác khá cao, 78 tuổi rồi, Trưởng Lão làm
việc suốt ngày trên computer, dạy
chúng tu tập,
làm việc không ngừng nghỉ, viết
sách, đóng sách, dán sách, quét lá mỗi buổi sáng, v.v… Trưởng Lão có bao giờ đòi hỏi Út cho
Thầy thêm cái
này, cái khác, đi
xin cơm về ăn,
có gì ăn nấy,
ăn xong rửa khay
bát như mọi
người. Không có một vị thị giả nào. Có hôm ăn rau luộc không có
nước tương, Người bỏ một chút
muối và lấy nước
canh hoà tan để chấm rau ăn. Trưởng Lão sống rất tùy thuận, Người là ngọn đuốc
soi sáng của tu viện Chơn Như. Chúng ta đến tu viện tu tập là để giải thoát
trong cái ăn uống, ngủ
nghỉ, nói chuyện, chứ không phải
để trói
buộc; trong cái thèm ăn uống; trong
cái thèm ngủ
nghỉ; trong cái thèm nói chuyện.
Nhớ thuở
xưa, đức Phật và chúng tỳ kheo thường ngủ nghỉ trong những ngôi điện thờ
Capala, Gotamaka, điện thờ Sattambaka, Baluputta, Sarandada, những gốc cây, những
ngôi nhà trống. Còn chúng ta bây giờ quá sung
sướng
và đầy đủ tiện nghi
được Thầy và cô Út
cho mỗi người một
cái thất, điện nước quá đầy
đủ. Cái thất bằng liếp tre tầm vông của mỗi chúng ta là cái cội bồ đề. Vậy mà
đôi khi ta còn bỏ cái cội bồ đề
này để tìm cầu
một cái cội bồ
đề khác,
đầy đủ tiện
nghi hơn. Ta chạy theo tâm
dục đòi hỏi của chính
ta, chứ ta
không ly dục. Nếu ta muốn ly dục thì ta đâu
chối bỏ cái cội
bồ đề (cái
thất bằng liếp tre tầm vông)
mà tìm cầu cái cội bồ đề khác (ngôi nhà gạch). Những diễn biến xảy ra
chung quanh ta là môi trường tốt để cho ta xả
tâm, khắc phục và chế
ngự tâm
mình, khi có ác pháp
xảy đến. Chúng ta sống chết
dưới cội bồ đề này. Nếu nó mục
nát và hư hỏng Thầy và Út sẽ cho ta cái cội bồ đề khác. Chúng ta hãy tập sống để
buông xả, chứ không phải bị trói buộc.
Chúng ta hãy
noi gương hạnh của Đức Trưởng Lão Thông Lạc, cội bồ đề của Trưởng Lão là
cái thất bằng
liếp tre tầm
vông đã cũ kỹ, bên trong có một tảng đá, mà hằng
ngày, hằng đêm Trưởng Lão tọa Thiền nghỉ ngơi, để phục
hồi sức khỏe.
Không chiếu, gối, mền, chỉ có
3 y một bát, đơn sơ đi
đâu cũng gọn
gàng. Còn cô Út Diệu Quang thì chỗ
nào cũng là cội
bồ đề,
Út ngủ nghỉ
khi ở nhà bếp,
khi ở nhà
kho, v.v… miễn là ngủ nghỉ qua đêm, khuya dậy sớm vừa tu tập, vừa nấu cơm,
cô Út rất nhọc nhằn. Trên đôi vai gầy yếu đó, đã chu toàn mọi việc cho chúng
ta yên tâm
tu tập mỗi
ngày. Thế mà chúng ta có ai nghĩ đến điều này chưa?
Đôi khi chúng ta phải tư duy
rằng: Cô Út Diệu Quang phải thức dậy
từ lúc 2 giờ sáng để lo
cơm nước, tuổi tác của Út
cũng khá cao rồi (68 tuổi) thân gầy ốm, buổi khuya thức
dậy nấu cơm, hộ thất nuôi
chúng tu tập. Cái khó khăn, cái vất vả khổ cực của Út chúng ta
cần phải tư duy thật sâu sắc để xả cái tâm đòi hỏi ăn ngon dở, đòi hỏi các
món này, các món khác. Chỉ có cái
ăn uống ngủ nghỉ, cái nói chuyện chúng ta chưa làm chủ được,
chưa thực hành thuần thục thì cái quả
A La Hán
kia làm sao tu chứng được? Phải không các bạn? Chúng ta chỉ
tu chứng những trạng
thái tưởng điên đảo mà
thôi.
Nếu bạn đến
tu viện Chơn Như tu tập mà chưa sống trọn
vẹn những thiện pháp này như: Ba hạnh ăn, ngủ, độc cư; ba đức nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng thì dù bạn có ở
nơi đâu, có ở một trú xứ nào đó, thì cũng rất khó mà tu tập.
Vì ở
nơi đây là
môi trường rất
thuận lợi cho việc tu nhập thất miên mật và giữ hạnh độc
cư
trọn vẹn,
mà bạn chưa tu
tập nổi thì làm
sao đến một trú xứ nào đó mà tu tập được. Rất khó khăn vô
cùng, bạn cứ suy
nghĩ và
nghiệm lại xem có
đúng không: Xét về hạnh
ăn vừa ra khỏi
cổng chùa là
đã bắt đầu
ăn theo ý
thích của mình rồi.
Nào là gạo lứt, nào
là phải đủ chất
này, chất kia,
nào là uống
thuốc này, thuốc nọ, v.v.. Cứ chạy
theo cái ý của mình mãi thì làm sao rèn
luyện nội lực được? Còn xét về ba đức
thì ra đi khỏi chùa là giải quyết sự việc nhiều hơn giải quyết cái tâm. Hơn nữa
đã xa thiện tri thức thì ai là người thử thách và kiểm chứng tâm bạn? Do đó, có
rất nhiều hành động sai lầm mà cứ chấp chặt, cứ thực hành mãi, rồi giậm chân tại
chỗ cũng không hay biết.
Ở tu viện Chơn Như còn có Thầy và cô Út, có nội
quy kỷ luật mà bạn còn vi phạm nội quy thì làm
sao đến một trú xứ nào
đó mà tu tập
nổi. Bao nhiêu ác
pháp quanh vây
đánh vào, làm sao chống
trả nổi. Rất dễ đầu
hàng, sự tu tập chỉ còn giậm chân
tại chỗ không tiến lên được. Cho
nên hơn
bao giờ hết, chúng
ta phải cố gắng nỗ lực
trau dồi rèn
luyện mỗi ngày. Sống
và giữ đúng
phạm hạnh, chấp
hành nội quy kỷ luật của Tu viện,
thực hành thiện pháp, hạnh ăn, hạnh
ngủ, hạnh độc
cư, ba đức nhẫn
nhục, tùy
thuận, bằng lòng
thì mới hy vọng được
giải thoát sẽ
làm chủ sanh
tử, chứng Thánh quả A La Hán.
Chúng tôi
xin ghi lại những lời dạy của Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) về BỐN THÁNH CHÚNG
trong kinh Trường Bộ tập II trang 588,
590.
Ngài
Sariputta là bậc đại trí tuệ, trưởng tử của Như Lai, đã tu chứng Thánh quả A La
Hán. Ngài dạy:
1. Này các
hiền giả, ở đây vị tỳ kheo tự bằng
lòng với bất cứ loại
y nào, tán
thán sự bằng lòng với bất cứ loại
y nào, không cố gắng tìm cầu y một cách
không xứng đáng, không có phiền não (tham,
sân, si) nếu
không được y. Nhưng khi được y, vị này không nhiễm trước,
không say mê, không có phạm tội, vị này dùng y thấy các nguy hiểm và biết rõ sự
giải thoát, vì tự bằng lòng với bất cứ loại y nào, vị ấy không khen
mình, chê người.
Ở đây vị
này khéo léo, tinh
cần, tỉnh giác, chánh niệm. Này các hiền giả, vị tỳ kheo ấy được gọi là
một vị đã trung thành với Thánh chúng, theo truyền thống quá
khứ.
2. Này các hiền giả, ở đây vị
tỳ
kheo tự bằng lòng với bất cứ
món ăn khất
thực nào,
không cố gắng
tìm cầu món ăn khất thực một cách
không xứng đáng,
không có phiền
não (tham, sân, si) nếu không
được món ăn khất
thực. Nhưng khi được món ăn khất thực vị
này không nhiễm trước, không say mê, không có phạm tội, vị này dùng các món ăn
khất thực, thấy các nguy hiểm và biết rõ sự
giải thoát. Vì tự bằng lòng với bất cứ
món ăn khất thực nào, vị này không
khen mình, chê
người. Ở đây vị
này, khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm. Này các hiền giả, vị tỳ kheo ấy được gọi
là một vị đã trung thành với Thánh chúng theo truyền thống quá khứ.
3. Này các
hiền giả, ở đây vị tỳ kheo tự bằng lòng với bất cứ phòng xá nào, tán thán sự bằng
lòng với bất cứ phòng xá nào không cố gắng tìm cầu phòng xá một cách không xứng
đáng không có phiền não (tham, sân, si) nếu không được phòng xá hoặc trú xứ.
Nhưng khi được phòng xá vị này
không nhiễm trước, không say mê, không có phạm tội. Vị ấy
dùng các phòng xá thấy
các nguy hiểm và biết
rõ sự giải thoát vì tự bằng lòng
với bất cứ phòng xá nào, vị này không khen mình, chê người. Ở
đây vị này khéo
léo, tinh cần,
tỉnh giác, chánh niệm.
Này các hiền
giả, vị tỳ
kheo ấy được gọi
là một vị đã
trung thành với Thánh chúng theo truyền thống quá khứ.
4. Này các hiền giả, vị tỳ
kheo ưa thích đoạn trừ, hoan hỷ đoạn
trừ, ưa thích tu tập,
hoan hỷ
tu tập. Nên
không khen mình,
chê người. Ở đây vị tỳ kheo này
khéo léo tinh cần,
tỉnh giác, chánh
niệm. Này các hiền giả, vị
ấy được gọi là một vị đã trung thành với Thánh chúng theo truyền thống
quá khứ”.
Qua những lời
dạy chúng tỳ kheo trên đây của Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) chúng ta thấy thấm thía
vô cùng. Những lời dạy
này, chính như Người đang nhắc nhở
chúng ta. Vì hiện giờ chúng ta xét lại thấy
mình quá lỗi lầm với Thầy và cô Út Diệu Quang, không xứng đáng
là những người tu
sĩ, cư sĩ tu tập theo
Phật giáo Nguyên Thủy, nếu căn cứ
theo lời giáo giới của Ngài Sariputta.
Thưa các bạn! Những
lời chúng tôi
nói trên đây, có những
điều chi không
hợp thì xin quý bạn vui lòng tha
thứ cho. Chúng tôi nói ra đây để chúng
ta biết những
sự sai lầm của
mình; để cố gắng khắc phục những sai lầm
ấy; để trở thành những Thánh tu sĩ và Thánh cư sĩ xứng đáng là đệ tử của Phật,
đệ tử của Thầy; để
không hổ thẹn với
lòng mình; để
không mang nợ của đàn na thí chủ.
Phải không các bạn?
Thân mến
kính chào các bạn. Chúc
các bạn thành công trên đường tu tập.
Tu viện Chơn
Như
Ngày 20- 8-
2003
3 NĂM VÀ 5
NĂM, NĂM
NÀO ĐỨC PHẬT
CHẾ GIỚI LUẬT
Một số câu hỏi
của Nguyên Thanh
Sau khi đọc
“Giới Bổn Khất
Sĩ Tân Tu” (The Revised Pratimoksha) (Tác giả là một
vị Thiền Sư nổi tiếng
của Làng Hồng ở bên
kia đại dương) con có
vài nghi vấn
và thắc mắc. Con thành kính xin được thưa hỏi lên Thầy.
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Theo giới
bổn của các Tổ biên soạn Ba La Mộc
Xoa Đề thì sau 13 năm từ khi chứng đạo Đức
Phật mới chế giới. Còn bộ Giới
Luật Khất Sĩ Tân Tu
thì cho biết sau năm năm từ ngày
thành đạo thì Đức Phật mới chế giới. Vậy ở đây thời gian chế giới
của Đức Phật có
sai khác, chúng
con không biết thời gian nào đúng, thời gian nào sai.
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được hiểu.
Đáp: Khi biên
soạn giới bổn Ba
La Mộc Xoa Đề các Tổ dựa
vào những truyền
thuyết, chứ không có căn cứ vào lịch sử, vì trong thời Đức Phật lịch sử không có
ghi lại rõ
ràng cụ thể, nên mạnh ai cứ dựa
vào chỗ nào theo kiến tưởng giải của
mình cho là
đúng, rồi cứ thế
biên soạn.
Các Tổ cho rằng
13 năm sau khi Đức
Phật thành đạo, còn bộ Giới Luật
Khất Sĩ Tân Tu cho
rằng 5
năm sau khi Phật thành đạo
mới chế giới.
Bộ giới luật
này không biết căn
cứ vào truyền
thuyết nào, bộ sử nào mà
dám xác định thời gian như vậy. Chúng tôi xin nhường lại cho những nhà sử học
xác định.
Theo
chúng tôi nghĩ
khi muốn biên soạn nói một điều gì về lịch sử của một bậc
vĩ nhân thế giới như Đức Phật
thì không nên ghi một
cách bừa bãi như vậy cần phải căn cứ vào kinh sách nào, lịch sử nào?
Cho nên,
thời gian 13 năm
chế giới của các
Tổ và thời
gian 5 năm của bộ Giới Luật Khất
Sĩ Tân Tu còn
là một nghi vấn chưa xác định
thời gian cụ thể về
chính sử và
chính kinh. Vì vậy, thời
gian 13 năm và 5
năm chế giới luật
là một giả
thuyết chúng ta chớ nên
tin.
Theo kinh
sách Nguyên Thủy thì hai giả thuyết thời gian chế giới của các Tổ và bộ Giới Luật
Khất Sĩ Tân Tu là sai sự thật.
Chúng tôi
thiết nghĩ, mặc
dù lịch sử không có
ghi thời gian Phật
chế giới luật năm nào,
ngày nào, nhưng
chúng tôi căn cứ vào những kinh sách Nguyên Thủy do Phật Thuyết
thì Đức Phật
không có chế giới luật
mà giới luật đã
có sẵn trước
khi Đức Phật thành
đạo, xin các bạn đọc lại
kinh Trường Bộ tập 1
bài kinh Sonadanda thuộc Tạng Kinh Việt Nam.
Trong bài
kinh ấy Bà La Môn Sonadanda có
nêu ra 5 điều kiện của một Bà La Môn:
1- Đẹp trai, tướng tốt (32 tướng tốt 80 vẻ
đẹp).
2- Bảy đời liên tục là Bà La Môn.
3- Chú thuật, tụng niệm và thông suốt ba
bộ kinh Vệ
Đà.
4- Tri kiến.
5- Giới luật.
Trong năm điều
kiện này Đức Phật chỉ chấp nhận giới luật và tri kiến còn ba điều kia Đức Phật
không chấp nhận bằng một lý luận sắc bén bẻ gãy những luận thuyết khiến cho Bà
La Môn Sonadanda phải chấp nhận.
Trong bài kinh ấy Đức Phật
kết
luận một câu rất tuyệt vời:
“Giới luật ở
đâu là tri kiến
ở đó, tri kiến ở
đâu thì giới luật ở đó. Giới luật
làm thanh tịnh tri kiến,
tri kiến làm thanh tịnh
giới luật”.
Bài kinh
này đã xác định giới
luật có trước Đức Phật vì đạo Bà
La Môn có trước Đạo Phật.
Đọc bài
kinh này chúng
ta nhận xét
các Tổ và những người sau này không lo tu tập, không chịu
khó nghiên cứu
kinh sách Nguyên Thủy mà cứ dựa theo kinh sách
và giới luật phát triển của Đại Thừa, đó là những
kinh sách chịu ảnh hưởng của tà giáo
ngoại đạo, cho nên thời gian
chế giới của đức Phật
trong các bộ sách này là sai sự thật.
Trong kinh sách Nguyên Thủy thường hay nhắc đến
Phạm hạnh. Như
đoạn kinh dạy: “Sanh đã tận Phạm hạnh đã thành, những
việc làm đã làm xong, không còn trở lại trạng thái này nữa”.
Phạm hạnh
là giới luật,
xin các bạn
hãy đọc lại đoạn kinh Kandaraka trong tập II kinh Trung Bộ, tạng kinh Việt
Nam: “Ở đây này Pussa lại có người vừa không hành khổ mình, không chuyên tâm
hành khổ mình, vừa không hành khổ người,
không chuyên tâm hành khổ
người. Người ấy
không hành khổ mình, không chuyên tâm hành khổ mình,
không làm khổ
người không
chuyên tâm
làm khổ người, hay trong hiện tại
không tham dục,
tịch tịnh cảm thấy
mát lạnh, cảm giác lạc thọ tự ngã
trú vào Phạm thể. Này Pessa, bốn hạng người này, hạng người
nào được tâm ông
thích nhất?”.
Như trong đoạn
kinh này dạy: “Người không làm khổ mình, khổ người là người trú vào Phạm thể”.
Vậy Phạm thể
là gì? Phạm thể
là đức hạnh của Phạm
Thiên. Cho nên đức hạnh của Phạm
thiên là sống không làm khổ mình,
khổ người, khổ cả hai. Đức
hạnh không làm khổ mình,
khổ người và khổ
cả hai
là giới luật.
Do căn cứ
vào những bài kinh Sonandanda và kinh Kandaraka chúng ta quyết chắc
giới luật đã
có trước Đức Phật.
Đức Phật không có chế giới mà chỉ loại trừ những giới luật
phi đức hạnh của Bà La
Môn. Vì giới luật là đạo đức của con người,
là hành động không làm khổ
mình, khổ người,
khổ cả hai như
trên đã nói.
Người nào có những hành động làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai là người phạm giới,
phá giới. Vả lại giới luật là thiện pháp. Người sống trong thiện pháp là người
không phạm giới, người sống trong ác pháp là người phạm giới.
Hạnh Phạm Thiên
dạy sống ly dục ly ác pháp mà chúng ta sống không ly dục ly
ác pháp là sống phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới
làm cho Phật Giáo suy đồi, dìm mất đạo đức nhân bản - nhân quả, tội ấy rất
nặng.
Ví dụ: Lấy của
không cho, nói láo,
dâm dục, giết hại
và ăn thịt
chúng sanh, ăn uống
phi thời, ở
trong chùa to Phật lớn,
đó là sống trong
ác pháp. Mà
đã sống trong
ác pháp là phạm giới.
Ăn uống phi
thời ngày ăn hai ba bữa, là phạm giới, vì không
làm ra của cải
tài sản ăn nhiều
quá phí phạm mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Đó là phạm giới không ly dục.
Ở chùa
to Phật lớn
là phạm giới
không thanh bần, không
xứng hạnh tu
hành giải thoát của
người tu sĩ Phật
Giáo “xả phú cầu
bần, xả thân cầu đạo”.
Cho nên, giới
luật là Phạm hạnh, người nào sống không đúng Phạm hạnh là phạm giới.
Giới luật là
đạo đức, người nào sống không đúng đạo đức là phạm giới.
Giới luật
đâu cần phải
chế. Chế giới
luật là bắt buộc
người đó là những tổ chức của
các phe đảng phái
và các tôn
giáo khác chứ đạo
Phật đâu có
bắt buộc ai phải tu theo đạo mình. Vì đạo Phật là đạo đức của loài người. Ai muốn
sống có
đạo đức thì theo
nó. Theo nó thì cuộc đời
sẽ không còn khổ đau và
được tiếng thơm là
người có đạo đức; còn
ai không theo đạo
Phật, không muốn sống đạo đức làm người thì phải chịu
khổ mãi mãi
và trở thành
người vô đạo đức.
Vì sự giải thoát
mọi sự khổ
đau của cuộc đời, người
ta mới chấp
nhận sống đời sống
Phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của đức Phật.
Cho nên, một
vị ngoại đạo đến xin Phật tu hành thì Phật chấp
nhận, nhưng phải sống
biệt trú 4 tháng đúng Phạm hạnh thì đức Phật mới cho xuất gia làm Tăng theo Phật,
còn sống không đúng giới
luật thì xin về, chứ đức Phật
không có
bắt buộc người
nào sống đúng
giới luật như Phật.
Nhờ đó chúng
ta quyết chắc Phật không có chế giới luật cấm các tu
sĩ mà chính các tu
sĩ phải tự
nguyện sống đời sống
giới luật.
Còn bây giờ
Tổ chế ra giới luật cấm ngăn, thế mà tu sĩ phạm giới, phá giới tan nát. Hình thức
một ngôi chùa xây cất đồ sộ vĩ đại tốn hao hằng
tỷ bạc. Đó
là sự tu tập trái
ngược của Phật giáo,
chứng tỏ tu
sĩ Phật giáo
đang sống
theo dục lạc thế
gian, phạm giới, phá
giới làm cho Phật giáo suy đồi và
nền đạo đức của Phật giáo cũng không còn.
Tóm lại, 5
năm và 13 năm bảo rằng Phật chế giới luật
là sai. Phật không có chế giới, vì giới luật đã
có sẵn trong đời sống Phạm Thiên và Bà La Môn.
BỎ NHỮNG GIỚI
NHỎ NHẶT
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong tập sách “Giới Bổn Khất Sĩ Tân Tu” (The Revised
Pratimoksha), có đoạn
nói là trước
khi nhập diệt Đức Phật dạy:
“Này A Nan, khi ta
nhập Niết Bàn thì những giới
nhỏ nhặt nào
không cần thiết và không quan trọng mấy có thể được bỏ bớt
đi, để sự
hành trì giới luật
luôn luôn mang tính
thích ứng, nhưng
đến nay đã hơn
2500 năm mà
lời dạy của Đức Bổn Sư vẫn chưa
thực hiện”.
Thưa Thầy những
giới nào là giới nhỏ nhặt? Những giới nào là giới không thích ứng? Xin
Thầy dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Giới luật
là đức hạnh, là thiện pháp thì có giới luật nào là nhỏ nhặt; thì có giới luật
nào là không thích ứng với thời đại.
Dù bất
cứ thời đại nào cũng phải cần đến đạo đức; có đạo đức thì cuộc
sống của con người
mới có an vui hạnh phúc; có đạo đức thì xã hội mới
có trật tự, đất nước mới phồn vinh
thịnh trị; có đạo đức thì thế
giới mới có
hòa bình thật sự. Có thời
đại nào con người không cần đạo đức đâu? Đạo đức như
cơm ăn áo mặc hằng
ngày của con người, sống không đạo đức như con người
thiếu thực phẩm, vậy con người có sống được không các bạn?
Con người sống không đạo đức
là con thú vật các bạn ạ! Chỉ
có những người
không biết giới luật là đạo đức, là thiện pháp thì mới dám cho nó là những
giới nhỏ nhặt và không thích ứng với thời đại nên bỏ nó.
Thưa các bạn!
Các bạn có thấy đạo đức nhân bản – nhân quả nào mà không thích hợp với thời đại
không? Nhưng đã bảo là đạo đức nhân bản - nhân
quả thì làm sao không
thích hợp với mọi thời đại được? Các bạn có hiểu không? Đạo đức nhân bản -
nhân quả, chứ
không phải
những đạo đức phục vụ phong kiến phi
nhân bản như đạo đức Khổng Mạnh,
như các giáo điều
phi nhân bản của ngoại
đạo tà giáo nên mới không thích ứng
với thời đại đang đi lên.
Phạm hạnh là
đức hạnh sống ly dục ly ác pháp, là đức hạnh nhân bản - nhân quả, là giới
luật của Phật giáo. Tất cả những hành động sống
Phạm hạnh là giới luât.
Vậy bỏ những giới
luật nhỏ nhặt
cho thích ứng với thời đại thì chúng tôi xin hỏi các bạn và các bạn
hãy thành thật trả lời:
- Ăn uống
phi thời là giới nhỏ nhặt phải không?
- Ngủ trên
giường cao rộng lớn, sống trong chùa to Phật lớn là giới nhỏ nhặt phải không?
- Không ca hát
không nghe ca hát tức là
tụng kinh niệm Phật là giới nhỏ nhặt phải không?
- Cất giữ tiền
bạc là giới nhỏ nhặt phải không?
- Ăn mặc chải
chuốt, y áo đắt tiền là
giới nhỏ nhặt phải không?
Tất cả những giới
nhỏ nhặt này
quý thầy muốn bỏ giới nào để được
thích nghi với thời
đại?
Bỏ những giới
nhỏ nhặt này để ăn uống ngày ba bữa, để ăn uống phi thời mà
không Phật tử nào dám nói. Có đúng như vậy không?
Bỏ những giới
nhỏ nhặt này để ở trong chùa to Phật lớn; để tụng niệm
ca hát ê a, để xem tivi, xem phim ảnh cho thích ứng với thời đại mà phật tử
không ai dám nói. Có đúng như vậy không?
Những giới
nhỏ nhặt này là Phạm hạnh của người tu
sĩ Phật giáo.
Tu sĩ không còn giữ
gìn những giới luật này là tu sĩ sa đọa.
Người tu
sĩ Phật giáo
còn ăn phi thời ba bữa hay ăn uống lặt vặt thì có ly dục ly
ác pháp không các bạn? Các bạn cứ trả lời đi!
Người tu sĩ
Phật giáo nằm giường cao rộng lớn, sống trong chùa to Phật lớn có ly tham không
các bạn?
Người tu sĩ
Phật giáo còn tụng niệm ê a là còn ca hát, còn xem ti vi thì có sống trầm lặng
độc cư không các bạn? Những
người tu sĩ như
vậy có ly tham ly dục không các bạn?
Xét như trên
đây thì giới nào
là giới nhỏ nhặt, giới nào là
giới không thích ứng với thời
đại?
Thưa các bạn! Nếu
các bạn muốn
thích ứng với thời đại thì các bạn hãy trả chiếc áo cà sa lại cho chùa,
rồi về đời
mà sống thích ứng
với mọi
người thì có ai
nói các bạn
đâu? Các bạn đừng
mượn chiếc áo đạo làm cuộc đời
thì tội nghiệp cho Phật
giáo lắm các bạn? Tội
cho những người tu hành nghiêm chỉnh giới luật “Một con sâu làm rầu nồi
canh”.
Các bạn
có bao giờ nghe
những danh từ trong nhà Phật dạy không?
Người muốn
tu theo đạo Phật thì
“phải sống ly dục
ly ác pháp”. Vậy các bạn muốn cho thích ứng với thời đại thì sự
tu hành của
các bạn có ly dục ly ác pháp được không?
Thưa các bạn! Nếu
các bạn không
hiểu giới luật thì các
bạn hãy làm
thinh, chú ý mà
nghe đừng có bắt chước các Tổ chế giới luật, rồi nay thêm giới
này, mai bớt giới kia.
Việc làm sai không dám chịu rồi
gán cho Phật, và bảo rằng Phật chế giới luật năm này, năm khác, rồi bỏ những giới
luật nhỏ nhặt, giới
này giới kia, rất tội
cho đức Phật, vốn Người không làm
mà phải chịu. Nếu
không có những
kinh sách
Nguyên Thủy
còn lại thì lấy đâu minh oan cho
Đức Phật?
Phật giáo là
một chân lý đạo đức
của loài người thì không bao giờ
còn có ai
dám thêm bớt vào được. Vì
chân lý của
con người thì muôn đời không còn sai một li hào nào, dù
thời đại khoa học có tiến bộ đến đâu thì chân lý của con người vẫn là chân lý của
con người thì làm sao là lỗi thời, là không thích ứng. Vậy mà, các bạn cả gan
dám thêm bớt. Xưa kia các Tổ dám thêm
vào kinh Niết Bàn một đoạn
như sau: “Này A Nan,
khi ta nhập Niết
Bàn thì những giới nhỏ nhặt nào
không cần thiết
và không quan trọng thì có thể được bỏ bớt đi”. Ngày nay
các bạn
lại dám thêm
vào một đoạn nữa: “Để sự hành trì giới luật luôn luôn mang
tính thích ứng, nhưng
nay đã hơn 2500 năm
mà lời dạy của
đức Bổn Sư vẫn chưa
thực hiện được”. Thêm
vào kinh Niết
Bàn câu này nữa thì có chỗ
dựa để chế ra bộ
giới luật mới,
đó là dùng băng keo dán miệng
thiên hạ để không còn ai bắt bẻ các bạn được. Đó là lời dạy của đức Phật, các bạn
chỉ làm theo, chứ đâu phải của các bạn tự
làm. Thầy Tổ
khéo lắm, nhưng
không bịt mắt người tu chứng được.
Thích ứng với mọi thời đại Phật giáo hiện giờ lại
có thêm một bộ luật mới, “Giới
Bổn Khất Sĩ Tân Tu” (The Revised Pratimoksha).
Nếu một người
làm được thì các hệ phái khác cũng sẽ làm được. Do đó, giới luật sẽ phát triển
đồng hướng kinh sách phát triển.
Thưa
các pháp
hữu! Các bạn
hãy xem xét lại trình độ
tu tập của những người
biên soạn chế ra bộ
giới luật tân
tu này. Họ
đã làm chủ được những gì nơi thân và tâm của họ
chưa?!
Thứ nhất, đời
sống giới luật của họ có nghiêm chỉnh không? Nếu giới luật của họ nghiêm chỉnh
thì họ chế giới
ra thì chúng ta chấp nhận. Nếu giới
luật của họ sống không nghiêm chỉnh thì bộ giới luật biên soạn của họ sẽ không
đủ cho chúng ta có niềm tin.
Về thiền định họ
có nhập được Tứ Thánh Định chưa? Nếu họ chưa nhập được Tứ
Thánh Định mà biên soạn bộ giới
luật này thì chúng ta biết chắc chắn rằng họ chưa đủ
khả năng và kinh nghiệm để biên
soạn bộ giới
luật Phật
giáo.
Về sự tu tập
của họ, họ đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết được chưa? Nếu chưa làm chủ được mà
biên sọan bộ giới luật
thì chúng ta
biết chắc rằng họ
biên soạn giới
luật là để phạm giới luật mà không ai dám phê bình.
Họ có thực
hiện được Tam Minh chưa? Họ có sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người chưa? Nếu họ chưa thực hiện được
Tam Minh, chưa sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì bộ giới luật của họ không đủ
cho chúng ta tin tưởng.
Kính thưa
các bạn! Các bạn chưa sống
đúng giới luật,
chưa làm chủ
sanh già bệnh chết, chưa nhập Bốn Thánh Định, chưa thực
hiện Tam Minh. Mà các bạn muốn bỏ giới luật cũ,
để chế giới
luật mới thì chúng
tôi e rằng việc làm của các bạn
quá nông nổi.
Ví dụ: Bạn đang sống
phạm giới mà chế
giới là
bạn sẽ phá giới, diệt
giới chớ đâu phải
bạn chế giới. Có đúng như vậy không các bạn?
Các bạn
chưa sống được như Phật
mà các bạn chế giới là các bạn đã
đi xa đạo Phật và có thể các bạn
đang diệt Phật
giáo, các bạn có
biết không?
Các bạn
có thấy gương của thầy Tổ
chưa? Do tưởng giải mà viết kinh sách
phát triển là các Tổ đã diệt Phật giáo ngay từ lúc viết
rồi. Vì thế mà từ
đó đến nay
các bạn có thấy ai tu
chứng quả
A La Hán
chưa? Nếu các bạn bảo rằng có người tu chứng thì chúng tôi xin
hỏi các bạn trả lời cho:
Tu chứng quả A
La Hán sao kết tập
kinh sách còn sô bồ, sô bộn như thế này?
Đạo đế
là chân lý,
là chương trình giáo dục đào tạo của những bậc thánh A
La Hán thế mà chứng quả
A La Hán lại không
phân ra được các cấp, các lớp tu
học và không biên soạn ra được giáo trình tu
học thì chứng quả
A La Hán chỗ nào? Xin các bạn chỉ
cho!
Tuy các Tổ kiến
giải dựa vào
kinh Phật viết ra giới luật,
nhưng chưa có
ai dám bỏ những giới luật nhỏ nhặt nào, vì các Tổ
cũng tự xét mình tu
hành chưa tới
đâu, chứng chưa bằng
Phật nên không
dám bỏ. Chỉ
nêu ra như vậy để khi
lỡ có
phạm giới thì không
ai chê cười vì đó là giới nhỏ nhặt.
Hiện giờ
chúng ta được đọc bộ giới mới, nhưng nếu bộ giới này đừng bỏ giới nào hết thì rất
hay, những giới mới thêm vào, nhưng nó không
mới vì những
giới cũ đã
có đủ. Nếu
các bạn là người
tu chứng bằng
Phật thì bộ giới luật này có giá trị rất lớn cho tăng ni
và cư sĩ. Còn nếu các bạn chưa chứng như Phật
mà biên soạn bộ giới luật này thì chưa đủ khiến cho mọi
người tin tưởng
và vì vậy bộ giới
luật này không có giá trị.
Giới luật
là đức hạnh
thì không có giới luật
nào nhỏ nhặt. Có giới luật nhỏ nhặt là
do các bạn không hiểu giới luật. Các bạn hiểu giới luật của Phật như
là pháp luật của quốc
gia, hiểu như vậy
là các bạn
đã hiểu sai;
hiểu như vậy thì giới luật Phật
không phải là pháp môn vô lậu.
Ví dụ: Giới
sát sanh và giới không nằm giường cao rộng lớn, nếu hiểu về đức hạnh thì hai
giới này bằng
nhau. Sát sanh
là đức hiếu sinh,
không nằm giường
cao rộng lớn là đức
thanh bần. Đức
thanh bần và đức hiếu
sinh bằng nhau. Còn hiểu
hai giới này là
pháp luật thì giới sát sanh là giới
trọng, còn giới nằm giường cao rộng lớn là giới khinh.
Ví dụ: Giới vọng
ngữ là đức
thành thật, giới ăn uống phi thời
là đức ly tham. Vậy đức ly tham và đức thành thật bằng nhau cho nên đức hạnh thì bằng
nhau không có đức hạnh
này cao, đức hạnh kia thấp.
Mà cả hai đều bằng nhau vì là đức hạnh. Chỉ có giới cấm là
có giới trọng giới khinh, giới vọng ngữ là giới trọng, còn giới ăn uống phi thời
là giới khinh.
Đối với Đạo
Phật không có giới nhỏ nhặt mà là nền đạo đức
nhân quả - nhân
bản. Các Tổ không hiểu giới luật
của Phật chính là đạo đức, nên mới
phân loại theo
pháp luật mà kê
tội, nên mới
có những giới
nhỏ nhặt (giới khinh).
Như trên đã nói giới luật là đức hạnh nên không có giới nào
là không thích ứng với thời
đại, dù thời đại khoa học kỹ nghệ tiến bộ đến đâu thì đức
hạnh nhân bản -
nhân quả
không bao giờ lỗi thời. Chỉ có những người không hiểu giới luật nên cho
nó không thích ứng.
ĐỪNG LỢI DỤNG LINH ĐỘNG, SỐNG ĐỘNG ĐỂ SỬA ĐỔI GIÁO
PHÁP VÀ GIỚI LUẬT PHẬT
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Bức thư ngỏ trong tập
sách Giới Bổn
Khất Sĩ Tân
Tu (The Revised Pratimoksha)
có câu dạy.
“Đạo Bụt phải được
duy trì như một thực tại sống động. Như
một thân cây
các cành khô phải được cắt
đi để cho những nụ mới được xuất hiện. Những nụ
mới này là những giáo lý và những phương pháp thực tập có thể đáp ứng
được những nhu yếu của thời đại và văn
hóa mới. Những phát triển kỹ thuật, tin
tức báo chí và tốc độ của đời sống,
nó đã ảnh
hưởng nhiều tới
đời sống những người xuất gia”.
Kính thưa
Thầy! Những lời dạy trên
đây có đúng với giới luật
và giáo pháp của Đức Phật không thưa Thầy?
Đáp: Giáo lý
của Đạo Phật là một chân lý của
loài người: khổ, tập, diệt,
đạo. Đã là chân lý
của con người thì không còn
có chỗ nào
sai.
Nếu còn
có chỗ sai
thì không gọi là
chân lý. Giáo lý của các
tôn giáo khác
còn có chỗ
sai nên không được gọi là
chân lý mà chỉ gọi là
triết lý, giáo điều. Triết lý, giáo điều còn nhiều chỗ sai nên các tông đồ của
các tôn giáo khác thường hay chỉnh sửa giáo lý cho thích hợp với thời đại.
Còn giáo lý của đạo Phật là
chân lý của con người nên nó
không còn sai. Nhất là chân lý ấy do
con người ở trên
hành tinh này tu chứng
nói ra, chứ không
phải chân lý ấy từ cõi nào. Cho nên, không ai được quyền sửa,
nếu người nào muốn sửa thì người ấy hãy tu
chứng như Phật, còn tu chưa chứng thì đừng có sửa chân lý. Các bạn có biết
không? Chỉ có những người điên mới dám cầm bút sửa chân lý, chứ người không
loạn thần kinh thì chẳng
bao giờ dám sửa.
Những người
không hiểu giáo lý của Phật giáo là chân lý nên mới cho giáo lý ấy như một thân
cây, các cành khô phải được cắt đi để cho những
nụ mới xuất
hiện. Người nào hiểu như vậy là hiểu Phật giáo là một triết lý, chứ
không phải hiểu là chân lý.
Những nụ mới xuất hiện đó là
giáo lý của các hệ phái phát triển. Các bạn có biết không?
Nó có thể đáp ứng được
nhu yếu của thời
đại và văn hóa mới, nên tăng ni sống phi phạm hạnh, phạm
giới, phá giới, bẻ vụn giới,
sống trong chùa to Phật lớn
như cung đình
điện ngọc. Do đó, tăng ni lo xây chùa to Phật lớn, và chùa to Phật lớn
hiện giờ mọc khắp nơi. Đời sống của các
tăng ni vật chất dục lạc đầy đủ, ăn
ngủ phi thời.
Một người tu
sĩ sống như người thế tục thì Phật giáo còn gì là
Thánh đức thưa các bạn? Do tu hành như vậy nên bây giờ khó tìm cho ra một người
chân tu, một người tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết hoặc nói cách khác là
bao giờ mới tìm thấy một người chứng quả A La Hán.
Do cắt tỉa
mãi Phật giáo chân chánh bây giờ thành Phật giáo phát triển và Thiền Tông. Giới luật hiện giờ tu sĩ không
còn biết đến, nếu ai hỏi đến giới đức,
giới hạnh, giới
hành thì ngơ ngẩn chẳng biết đâu
mà trả lời.
Cắt tỉa
mãi Phật giáo
hiện giờ thành Thần
giáo, một tôn
giáo mê tín, một
tôn giáo tha lực, mất hết tự lực.
Cắt tỉa mãi
Phật giáo thành một tôn giáo dục lạc, chứ
đâu còn là một tôn
giáo ly dục ly ác pháp nữa. Có đúng như vậy không các bạn?
KHẾ LÝ, KHẾ
CƠ
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong lời ngỏ của Tập
sách Giới Bổn
Khất Sĩ Tân
Tu (The Revised Pratimoksha) vừa
có tính cách khế lý, khế cơ, vừa có
tính cách thực tiễn.
Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Muốn
đưa một giáo pháp mới vào Đạo Phật thì các Tổ hay dùng những từ khế
lý, khế cơ để che đậy mắt mọi người.
Các Thầy Tổ
bao giờ cũng muốn mình hơn Phật, nên
dùng những danh từ rất
kêu để sửa kinh sách Phật: khế lý khế cơ, thích ứng,
thích nghi với thời đại, duy trì như một thực tại sống động, đáp ứng những
nhu yếu của thời đại và
văn hóa mới, vv..
Các Thầy Tổ
dùng những lời này chứng tỏ các Thầy tổ không hiểu Phật giáo.
Xin thưa
cùng các bạn!
Giáo lý Phật
giáo là đạo đức
nhân bản - nhân
quả sống không làm
khổ mình, khổ
người nên khi mọi
người mới bắt đầu vào tu thì đức Phật dạy: “Các pháp ác không
nên làm, nên
làm các pháp
thiện”
(“Chư ác mạc
tác, chúng thiện phụng hành” hoặc
“ngăn ác diệt
ác pháp sinh
thiện tăng trưởng thiện pháp”).
Tu tập như vậy có cái gì không khế lý khế cơ với
thời đại? Tu tập
như vậy có cái gì
không thích ứng,
thích nghi với thời đại? Tu như vậy có cái gì không đáp ứng
những nhu yếu của thời đại và
văn hóa mới? Các
bạn cứ tự hỏi lại
xem giáo pháp của Phật
dạy như
vậy có cái
gì không khế
lý khế cơ, không đáp ứng những nhu yếu của thời đại
và văn hóa mới chỗ nào?
Dạy niệm
Phật, ngồi thiền,
tụng kinh, niệm chú, bắt ấn, niệm
hồng danh chư Phật lạy sám hối, tụng
kinh cầu siêu, cầu
an, v.v.. như vậy
là khế lý khế cơ đáp
ứng những nhu yếu
của thời đại và văn
hóa mới hay sao? Dạy đạo như vậy là dạy
mê tín, phi đạo đức nhân bản – nhân quả, phi Phạm hạnh. Các bạn có biết không?
Các bạn muốn sửa
giáo lý của đức Phật, thì nhìn lại
các bạn có
tu tập được
như Phật chưa? Giới luật còn sống
chưa đúng, chưa thanh tịnh, ăn uống ngủ nghỉ còn phi thời, sống còn ở trong
chùa to Phật lớn. Phạm hạnh của mọât người
tu sĩ và cư
sĩ như
vậy sao? Phạm hạnh
sống chẳng ra gì mà muốn chỉnh lại kinh sách
Phật là một việc
làm chẳng biết
lượng sức mình.
Kính thưa các bạn! Chừng nào các bạn tu theo Phật
Giáo sống như Phật, làm như Phật, chứng đạo như Phật thì lúc
bấy giờ các bạn sẽ không
còn có ý
nghĩ sửa kinh, sửa
giới luật Phật nữa.
Các bạn
như con cóc, mà muốn làm
ông Trời thì làm sao được
các bạn? Các bạn như con nhái mà muốn làm bằng con bò thì làm
sao được. Phải không các bạn?
Xin thưa
cùng các bạn,
các bạn chưa hiểu Phật giáo
thì các bạn đừng đụng đến
nó, mà hãy lo tu tập đi để cứu
mình ra khỏi sự khổ đau của kiếp người,
đừng mơ mộng sửa kinh sách Phật là các bạn đã tự giết mình, giết Phật giáo, giết hằng bao thế hệ, các bạn
có biết không?
NHỮNG GIỚI
KHÔNG THÍCH HỢP
ĐƯỢC THAY BẰNG
NHỮNG GIỚI KHÁC
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Giới Bổn Khất Sĩ Tân Tu
(The Revised Pratimoksha), có những giới cũ không còn thích hợp với hiện tại được thay
thế bằng những
giới có công
năng bảo hộ cho sự thực tập và giá trị đích thực của người xuất
gia trong thời đại mới.
Như những giới có
liên hệ tới sự sử dụng xe hơi,
máy vi tính, máy
truyền hình, điện
thọai cầm tay, trò chơi
điện tử, điện
thư, và mạng
lưới internet
v.v..
Kính thưa
Thầy! Giới Bổn Khất Sĩ Tân
Tu (The
Revised Pratimoksha) đặt ra
những giới này có mới không
hay chỉ là những
danh từ mới? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng
con được
rõ.
Đáp: Thực
ra, Giới Bổn Khất Sĩ Tân Tu là bộ
sách pháp luật,
chứ chưa phải là giới luật của Phật. Những giới luật trong Giới Bổn
Khất Sĩ Tân Tu được
đặt ra gọi là mới, chứ thực ra trong
giới luật của Phật đã
có đầy đủ,
nhưng
các bạn
biên soạn ra bộ
giới luật này
không chịu khó nghiên cứu giới luật Phật nên không hiểu giới đức, giới hạnh,
giới hành trong giáo lý Phật. Vì thế,
tưởng nó mới chứ thực
ra những giới luật này không mới. Có lẽ các bạn tưởng rằng thời đại khoa học phát
minh ra nhiều máy
móc tối tân mà
trong thời Đức Phật chưa có, nên Đức Phật không có chế giới luật
đó chớ gì? Không đâu
các bạn ạ!
Các bạn đã lầm!
Những giới luật và giáo pháp của Phật chính là nền đạo đức, nên nó
đã vượt không
gian và thời gian.
Vì thế, thời đại khoa học có
phát triển đến đâu
thì vẫn đi sau giới
luật và giáo pháp
của Phật. Bởi
vì thời đại
khoa học luôn luôn đi sau giới luật và giáo pháp của
Phật, đó là một bằng
chứng rõ ràng,
nên giới luật
và giáo pháp của Phật luôn thích ứng với mọi thời đại, không bao giờ lỗi
thời.
Ví dụ: Giới không
nằm giường cao rộng lớn là các bạn phải
hiểu nó là giới cấm
không cho tu sĩ ở chùa to, cốc lớn,
sang đẹp. Có đúng như vậy không các bạn? Chúng ta nên suy ra giường cao rộng lớn
là phải được đặt trong ngôi nhà to lớn, nếu giường
to rộng lớn
mà đặt trong nhà
nhỏ thì làm
sao đặt được.
Phải không các bạn?
Sau này các
bạn hãy đọc bộ sách Văn Hóa Truyền Thống Thánh
Hạnh thì giới luật Phật không thiếu một giới nào trong thời hiện
đại này. Cho nên, sự chế giới mới của các bạn là thừa, vì trong
giới cũ đã
có đầy đủ,
nhưng các bạn không hiểu nên tưởng
là không có. Còn bỏ những giới nhỏ nhặt là
vì các bạn
chưa hiểu đức giới, hạnh giới, hành giới. Bỏ những giới nhỏ nhặt là bỏ
những hành động đạo đức nhân bản - nhân
quả không làm
khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh là một việc
làm sai lầm các bạn ạ!
Đức Phật dạy:
“Này các tỳ kheo, tỳ kheo phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống
phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy sự
nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt,
chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.
Ở đây, đức Phật nhắc
nhở chúng ta: “Thấy
sự nguy hiểm
trong các lỗi
nhỏ nhặt”. Vậy theo lời dạy này thì chúng ta bỏ những giới nhỏ nhặt nào?
Có những giới nhỏ nhặt nào bỏ được. Phải không các bạn?
Khi tu hành
chưa chứng đạo thì các bạn đừng làm một việc ngoài
sự hiểu biết của các bạn.
Ngoài sự hiểu
biết của các bạn thì việc
làm ấy không
bao giờ đúng chánh pháp, nó làm hại bạn, làm hại Phật Giáo, làm hại mọi người,
nó có tính cách giết Phật Giáo. Chứ không phải chấn hưng Phật Giáo đâu các bạn.
TẦM QUAN TRỌNG
CỦA GIỚI BỔN TÂN TU
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Các bạn đồng tu cho
rằng: “Sự công bố Giới Bổn Khất
Sĩ Tân Tu (The Revised
Pratimoksha) sẽ ảnh hưởng không những đối với Phật giáo mà cũng sẽ ảnh hướng tới
các tôn giáo khác và đây không phải chỉ
là một sự kiện thuộc
giới tâm linh và
tôn giáo, nó còn là một sự kiện văn hóa”.
Vậy bộ giới luật
này có tầm
quan trọng đến như thế nào?
Xin Thầy dạy rõ cho chúng con được hiểu.
Đáp: Các bạn chỉ ca
ngợi bộ
Giới Bổn Khất Sĩ Tân
Tu của mình như vậy chứ sự thật ra nó cũng giống như những bộ giới cấm
Ba La Đề Mộc Xoa của các Tổ. Với bộ giới luật này nó
chỉ là pháp
luật của một quốc gia như trên đã nói, chứ chẳng có gì đặc biệt trong giới luật
cả. Nó không nói lên được giới đức, giới hạnh, giới hành mà nó chỉ là những giới
cấm. Giới cấm là những giới luật
không đúng tinh thần
tự lực của Phật
giáo. Giới cấm (bị bắt buộc) làm mất
sự tự nguyện, tự giác của người tu sĩ Phật giáo.
Xưa Đức Phật
trước khi nhận một người mới vào tu học thì cho
họ sống biệt
trú 4 tháng, nếu
trong bốn tháng
biệt trú mà người
ấy thấy
khả năng của mình sống đầy đủ giới luật thì mới xin làm đệ tử của Phật bằng
không sống nổi thì xin về, chứ không ép buộc người nào cả.
Do điều kiện
này mà chúng tôi xác định giới luật Phật
không có giới cấm, chỉ
có giới đức, giới hạnh, giới
hành. Vì thế giới cấm là do các tổ làm ra. Bây giờ các bạn không hiểu nên lại chế ra
giới cấm
tân tu một lần nữa,
đó là một việc
làm giẫm lại lối mòn của các Tổ,
khiến cho tu sĩ Phật giáo
đã phá giới,
phạm giới lại còn phá giới và phạm giới hơn nữa.
Cho nên, bộ
giới luật này không có giá trị, nó
cũng giống như những bộ giới Ba
La Mộc Xoa Đề của các Tổ mà thôi.
NHỮNG THẦY
PHẠM GIỚI LÀM SAO
THAY ĐỔI VÀ
SỬA ĐỔI GIỚI LUẬT ĐƯỢC
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Khi viết bộ Giới Luật
Khát Sĩ Tân
Tu (The Revised Pratimoksha), sợ có người hỏi
nên các bạn đã
rào đón câu này: “Có người hỏi: Quý vị là ai mà dám tu chỉnh giới của Bụt?
Câu trả lời:
chúng ta đều là con của Đức
Thế Tôn và chúng ta là sự tiếp nối của Người”.
Thưa Thầy
câu trả lời
này đúng hay sai? Xin
Thầy giảng rõ cho chúng con được hiểu.
Đáp: Phần
đông những tu sĩ phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thường hay có ý chỉnh giới luật
để sự vi phạm giới luật không ai phát giác ra được, cho nên
câu trả lời
này cũng nhằm ý
ấy để
che đậy những sự phạm giới,
phá giới. Câu nói:
“chúng ta là con
của Đức Thế Tôn và là sự tiếp nối của Người” là chúng ta có quyền sửa những gì của Phật.
Phải không các bạn?
Ta là con của đức
Phật, là sự tiếp nối
của
Người, nhưng
ta có làm được như
Người chưa?
Chưa
làm được
như Người mà
dám sửa những lời
dạy của Người thì có
ai tin các bạn
không? Các bạn có sống đầy đủ giới hạnh như Người chưa? Tu hành có chứng
đạo được như Người chưa? Chưa được như Người thì chưa đủ khả năng chỉnh lại những
gì mà Người đã dạy. Các bạn có biết không?
GIÁO ĐOÀN XUẤT
GIA CÒN LÀ ĐẠO BỤT CÒN
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Có người
bảo: “Đạo Bụt sở dĩ còn có mặt, đó là nhờ giáo đoàn xuất gia
chưa bao giờ từng dứt đoạn”. Lời
nói này có đúng không thưa Thầy?
Đáp: “Giáo
đoàn xuất gia còn là Đạo Bụt còn”, lời nói này là nhắm vào lực lượng đông người,
chứ đông
người mà phạm
giới, phá giới, còn tu hành là tu danh, tu lợi thì đông
người có ích gì cho mình, cho Đạo Phật.
Đông người như vậy là làm hại Phật
giáo thêm. Dù
tu sĩ có
hàng vạn
người theo tu
mà giới luật
vi phạm thì Phật giáo được
xem là đã mất. Xưa đức
Phật sắp nhập Niết Bàn Ngài đã di chúc: “Nếu giới luật
còn là đạo
Ta còn, giới
luật mất là đạo Ta mất”.
Lời phát biểu
trên đây là lời của một đảng phái chứ không
phải là lời của Phật
giáo nữa, cho nên các bạn phát
biểu mà không
suy nghĩ chín chắn: “Đạo
Phật sở dĩ
còn có mặt,
đó là nhờ giáo
đoàn xuất gia chưa từng
bao giờ dứt đoạn”.
Đúng vậy, lời
nói này là các bạn xem Phật giáo giống như một đoàn
thể, một đảng
phái, chứ không phải là tôn giáo Phật giáo nữa. Phật giáo lấy giới luật
làm nền tảng
tu học cho mình,
cho người, nên đức Phật dạy: “Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật
mất là Phật giáo mất”. Vì thế, Phật
giáo không phải
là đảng phái mà
cũng không phải
là tôn giáo,
vì nó là đạo đức của
con người nên gọi
nó là đạo đức
nhân bản. Các Tổ sau này không hiểu giới luật và giáo pháp của Phật là đạo đức
nhân bản
- nhân quả nên mới
suy tôn nó thành tôn giáo
Phật giáo.
Những người
tu sĩ Phật
giáo hiện giờ có
cái nhìn
giới luật và
giáo pháp của Phật như
luật đảng luật
đoàn của một nhà chánh trị hơn là một nhà đạo đức, một nhà chơn tu.
CỨ 25 NĂM GIỚI
LUẬT PHÂI ĐƯỢC SỬA ĐỔI
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong tập sách “Giới Bổn Khất Sĩ Tân Tu” (The Revised Pratimoksha)
Tác giả cho rằng: Cứ 25 năm thì giới luật
lại được tu chỉnh một lần.
Lời dạy
này có đúng
không thưa Thầy? Xin
thầy dạy rõ cho chúng con được hiểu.
Đáp: Giới luật
là một đạo đức nhân bản - nhân quả
sống không làm
khổ mình, khổ người,
khổ chúng sanh,
vậy mà phải
25 năm thay đổi một lần, như vậy
giới luật của Phật là pháp luật chứ đâu còn là giới luật nữa. Phải không các bạn?
Có lẽ các bạn hiểu giới luật là pháp luật của nhà nước, nên phải 25 năm Quốc Hội
họp lại để sửa đổi.
Giới luật Phật
là một pháp môn tu học để tâm được vô lậu
nên gọi là “giới
vô lậu”. Vậy là
các bạn biến giới luật Phật thành pháp luật, để bắt buộc
tu sĩ phải
thi hành theo pháp
luật, nếu tu sĩ nào vi phạm pháp luật thì bỏ tù hoặc tử hình
hoặc phạt tiền,
v.v.. Giới luật
khi vi phạm bị phạt tội như quỳ hương phát
lồ sám hối hoặc tẩn xuất như vậy
sao gọi là giới vô lậu được. Như vậy Đức Phật đề ra Tam Vô Lậu học để làm gì?
Các bạn trả lời đi?
Phật giáo
là trường huấn
luyện đạo đức con người, chứ Phật giáo không phải đảng
phái nên bắt ép người khác phải thi hành luật đảng.
Nếu Giới
Luật Khất Sĩ Tân Tu này ra đời thì hàng đệ tử của Phật
không bao giờ tu chứng quả vô lậu và Phật giáo sẽ trở thành một đảng phái Phật
giáo chứ không còn là
đạo Phật đạo đức nữa. Và từ đó về
sau có nhiều đảng phái ra đời tranh quyền cố vị danh lợi, chứ
không còn là một
tôn giáo để
tu tập đi đến chỗ rốt ráo giải thoát hoàn toàn.
Hiện giờ
có rất nhiều
sách Phật giáo
ra đời. Nhưng chúng tôi xin cảnh giác các bạn:
- Khi tập sách
nào được xuất bản ra đời thì hãy nhìn
tác giả tu
hành tới đâu,
giới luật sống có nghiêm chỉnh
chưa?
- Thiền định
có nhập được Tứ Thánh Định chưa?
- Có thực hiện
được Tam Minh chưa?
- Có làm chủ
được bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết chưa?
Nếu biết
rõ tác giả
đã hội đủ bốn điều kiện trên thì cuốn sách ấy có giá trị rất
lớn cho con đường tu tập của các bạn sau này.
Còn về phía tác giả nếu trả lời
chưa được những câu hỏi
trên đây mà
đã viết kinh sách
thì kinh sách ấy không
có giá trị,
chỉ là những
kinh sách kiến giải, tưởng giải lừa đảo mọi người mà
thôi.
Vậy, các bạn
hãy cảnh giác đừng để những nhà học giả lừa đảo
làm phí sức, phí công, phí của tiền
mà tu hành
chẳng tới đâu,
chỉ uổng một đời.
THAY ĐỔI GIỚI
LUẬT CÓ LÀM
ÂNH HƯỞNG TỚI
PHẬT GIÁO KHÔNG?
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nếu giới
luật đã tu theo
thời gian, theo mỗi truyền
thống của thời đại, của mỗi nền
văn hóa thế giới thì hiện có còn bảo đảm chất lượng cho hàng đệ tử của
Phật hay không? Tại sao giới luật lại
“tân tu”? Điều này có đi ngược lại luật nhân quả hay không?
Con xin Thầy giảng
dạy cho chúng
con được thấu hiểu.
Đáp: Đạo Phật là đạo
tự giác,
tự nguyện, tự lực,
nên bộ giới cấm là
sai. Đạo Phật lấy
thiện pháp làm vũ khí tiến thẳng vào cứu
cánh, nên cuộc sống lấy giới
luật làm căn cứ địa. Vì và
toàn bộ giáo
lý của Phật
là giới đức,
giới hạnh, giới hành.
Bộ giới bổn Ba
La Mộc Xoa Đề các Tổ
cũng dựa vào kinh Phật biên soạn ra thành bộ giới cấm. Các Tổ không hiểu biết
giới luật Phật là pháp môn
tu tập tâm
vô lậu nên biến nó
thành pháp
luật. Cho nên, chỗ sai của các Tổ là chỗ “cấm” làm mất hết ý nghĩa của đạo Phật
là đạo tự giác, tự nguyện. Đạo không khuyến dụ, không bắt buộc người khác, tự mọi
người ý thức đời là khổ
đau nên tự nguyện
sống theo Đạo Phật để thoát mọi sự đau khổ.
Bộ giới luật
Ba La Mộc Xoa Đề của các Tổ do cấm
mà lỗi thời
không thích ứng với thời đại
là vậy, bộ Giới Luật
Khất Sĩ Tân Tu
cũng là một bộ giới cấm,
nhưng chỉ có
thay đổi những danh từ theo
thời đại cho
thích ứng người nghe, chứ chẳng
có gì mới mẻ cả.
Như trên
đã nói: nó chỉ sai là đi ngược lại với
tông chỉ của đạo Phật là tự giác, tự nguyện, chứ không
phải cấm, bắt buộc. Bộ Giới Luật Khất
Sĩ Tân Tu cũng vậy, nó cũng giẫm
lại lối mòn của các Tổ. Giới luật
không có gì đi ngược lại với qui luật nhân
quả. Giới cấm
có đó, nhưng người
tuân thủ giới cấm thì không
có, cho nên tu sĩ Phật giáo hiện giờ sống phá giới, phạm giới
không còn xem giới luật
ra gì. Bộ Giới Luật Khất Sĩ Tân
Tu bỏ những giới mà tu sĩ thường vi phạm
để được thích ứng với thời
đại mà
không bị phạm giới. Đó là cái khéo léo của
bộ giới luật
này để tu
sĩ chạy theo dục lạc dễ dàng hơn.
Nhìn những bộ giới cấm của các Thầy Tổ mà đau lòng
cho Phật Giáo, nó đã làm mất hết ý nghĩa tự giác, tự nguyện sống đời đạo đức
không làm khổ mình, khổ người, khổ cả
hai.
PHẠM HẠNH CÓ
CHẤP NHẬN CHÙA TO, PHẬT LỚN KHÔNG?
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Sau
khi con được đọc tập
sách mỏng “LỜI DẠY CỦA THẦY” (tác giả
là một vị Thiền Sư nổi
tiếng). Trong đó có một đoạn nói
rằng: “Tôi tu hành chỉ lo hướng dẫn tăng, ni biết rõ đường lối tu, chớ không đặt
nặng chùa to Phật
lớn, song bây giờ
tôi lại có chùa to Phật lớn. Đây dường như là điều
mâu thuẫn. Vì tôi
lo cho tăng ni mà
tăng ni ngày càng đông nên chùa
phải to, chùa nhỏ làm sao dung chứa hết? Chùa to thì Phật cũng phải to theo.
Đó là
điều tự nhiên. Không
gượng ép gì
hết”.
Đọc đến đoạn này.
Con xin Thầy
giảng
cho con được hiểu
hơn về điều
này “Chùa to
Phật lớn”.
Vì con
thấy ở tu viện Chơn Như tăng ni cũng rất đông mà đâu có thấy
chùa to Phật lớn, con chỉ thấy mái nhà tranh, vách liếp thoáng mát, mỗi
người được nhận một cái thất riêng biệt để lo
tu tập. Vì thế, con kính
xin Thầy giảng dạy cho con thấu hiểu để mỗi ngày tri kiến của
con được sắc bén,
và sâu sắc
hơn
nữa.
Đáp: Đối với câu hỏi này,
Thầy không có ý kiến gì cả, vì câu hỏi của con đã có câu
trả lời
rồi.
Thầy chỉ
mong sao các bậc
Tôn Túc khi tịch được tự tại trong sanh tử, đừng nằm
liệt giường liệt chiếu. Một hình ảnh
của một người tu hành theo
Phật Giáo không
bao giờ mong
gặp.
Khi các bậc
Tôn Túc tịch mong sao các huynh đệ đều đoàn kết là đẹp nhất.
Chùa to Phật lớn
là hình ảnh
danh lợi. Cho nên, khiến lòng người
dễ sa ngã bị phân hóa nội bộ.
Chùa to Phật
lớn là hình ảnh danh lợi. Người tu sĩ giới luật
nghiêm chỉnh thì không thể
nào chấp nhận,
không thể nào sống trong đó được.
Trong giới luật Sa Di có giới luật tu sĩ
không được nằm
giường cao rộng lớn, tức là đức
Phật dạy tu
sĩ không nên ở trong chùa to Phật
lớn. Tại sao
có nghĩa này?
Chúng ta lấy
giới này suy ra thì biết ngay
liền. Giường
cao rộng lớn là phải được đặt
trong trong
chùa to, cốc lớn, nếu am tranh, cốc
nhỏ làm sao
đặt giường cao rộng lớn được. Phải
không các bạn?
Cho nên, giới không nằm
giường cao rộng
lớn là giới không được ở trong
chùa to Phật
lớn. Như vậy, các bạn ở trong
chùa to Phật
lớn là các bạn vượt quá giới luật
Phật. Giới
luật là đức hạnh của người tu sĩ.
Người tu sĩ
phải sống có đức hạnh thanh bần
mới đúng là
Thánh Tăng, còn sống trong chùa
to Phật lớn
thì Thánh hạnh thanh bần đâu còn
nữa. Phải
không các bạn?
Giới luật và
giáo pháp của Phật không cho
phép người
tu sĩ sống trong đó. Vì giới luật và
giáo pháp của
Phật dạy ly dục ly ác pháp, mà
sống trong
đó là làm sao ly dục ly ác pháp
được.
Không ly dục
ly ác pháp thì tu pháp nào
cũng là tu
theo ngoại đạo. Tu mà không ly dục
ly ác pháp
là tu tập có ích lợi gì. Tu mà khôngsống đời Phạm hạnh là không xứng đáng người
tu sĩ Phật
giáo.
--------
HẾT TẬP IXMỤC
LỤC
Lời nĩi đầu
............................................................ 5
Kinh viên
giác ..................................................... 31
Đức Phật tu
tập pháp mơn nào trong 49 ngày chứng
đạo
...................................................................... 34
Các pháp đều
khơng ............................................. 43
Thế giới
siêu hình ................................................ 47
Khơng cĩ cảnh
giới Niết bàn, tu rồi về đâu ............ 49
Người tu
hành chưa giải thốt hồn tồn cĩ bị vơ
minh che mờ
và cịn tiếp tục tái sanh khơng? ......... 53
Người điếc
khơng sợ súng .................................... 55
Cĩ thân người
mới đủ điều kiện tu hành thốt khổ . 63
Được thân
người khĩ ........................................... 68
Con người
ngày một đơng hơn .............................. 72
Khỉ vượn cĩ
phải là thủy tổ của lồi người khơng .. 83
Nguồn gốc vũ
trụ ................................................. 88
Người hồn hảo
................................................... 93
Nẻo về đạo đức
.................................................... 97
Quy y tam bảo
................................................... 101
Trung tâm an
dưỡng Chơn Lạc ........................... 102
Đường đi
nhân quả ............................................. 104Người cư sĩ ăn phi thời.......................................
112
Đức Phật
khơng cĩ dạy pháp mơn đập phá .......... 114
Ngày sinh nhật...................................................
129
Thọ bát quan
trai là gieo duyên Phật pháp ........... 130
Hãy tiết kiệm
..................................................... 134
Nhĩm tu học
nguyên thủy Hoa Kỳ...................... 136
Thỉnh kinh
......................................................... 137
Xá lợi cĩ phải
do tu thiền khơng? ....................... 141
Cúng dường
đúng chánh pháp ............................ 155
Muốn nhập định
thì phải siêng năng lễ Phật ........ 161
Rèn luyện
nghị lực, bền chí, kiên nhẫn................ 166
Tưởng tức
......................................................... 169
Chưa đủ
duyên xuất gia...................................... 171
Tập II (bộ mới)
.................................................. 178
Cỡi Trời
............................................................ 179
Hồi vọng
......................................................... 185
Nguyện ước
....................................................... 189
Xin thỉnh
kinh ................................................... 193
Tu sao lâu
quá ................................................... 195
Chấn hưng Phật
pháp ......................................... 196
Dùng thần
thơng độ chúng sanh .......................... 199Thiền Yoga cũng tịnh chỉ được
........................... 203
Tâm lực pháp
hướng .......................................... 205
Cách tu định
niệm hơi thở và định chánh niệm tỉnh
giác
................................................................... 206
Quán và biết
...................................................... 211
Ly các loại
hỷ tưởng .......................................... 214
Xả lạc, xả
khổ, xả niệm thanh tịnh nào? .............. 215
Ly hỷ trú xả
cĩ phải là pháp hướng tâm khơng?... 220
Nghiệp tái
sanh .................................................. 222
Thức trong
12 nhân duyên, thức nào là linh hồn .. 224
Minh
................................................................. 227
Phương cách
nhập nhị thiền ................................ 231
Hành các
pháp thiện cĩ phải là tu tập chánh niệm tỉnh
giác và định
niệm hơi thở khơng? ....................... 235
Pháp hướng
tâm ngắn gọn cĩ kết quả nhanh hơn . 239
Khi nào mới
bắt đầu hướng tâm .......................... 240
Tu định vơ lậu
trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp như
thế nào? .............................................................
243
Vén màn ngũ
triền cái, bứt sạch thất kiết sử......... 248
Cách thức tu
hành thất giác chi ........................... 250
Dùng một hay
nhiều câu hướng tâm trong một thời tu
.........................................................................
267
Hướng tâm
như thế nào cĩ hiệu quả? .................. 273Thùy miên hay tùy miên
.................................... 274
Hạnh độc cư
...................................................... 275
Sống thơ thẩn
một mình ..................................... 278
Thường bất
khinh bồ tát ..................................... 280
Thời khĩa tu
tập cho người cư sĩ ........................ 282
Bốn loại thức
ăn ................................................ 285
Một truyền
thống đẹp “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả
nhớ kẻ trồng
cây” .............................................. 288
Cĩ ba hạng
người tu tập Giới, Định, Tuệ............. 301
Sự tu tập Khổ
đế, Diệt đế trong Tứ niệm xứ ........ 310
Từ trường
.......................................................... 312
Cúng dường
và nhận đồ cúng dường như thế nào cho
đúng pháp
......................................................... 319
Nỗi đau về
thể xác ............................................. 324
Nhân quả
........................................................... 329
Phĩng sanh
........................................................ 334
Nhân quả phải
trả .............................................. 340
Cầu cơ
.............................................................. 342
Ma đè
................................................................ 349
Quy y tam bảo
................................................... 351
Tri kiến và
bản lĩnh của người tu theo chánh pháp
nguyên thủy.......................................................
3573 năm và 5 năm, năm nào đức Phật chế giới luật.. 370
Bỏ những giới
nhỏ nhặt ...................................... 377
Đừng lợi dụng
linh động, sống động để sửa đổi giáo
pháp và giới
luật Phật ......................................... 388
Khế lý, khế
cơ.................................................... 391
Những giới
khơng thích hợp được thay bằng những
giới khác
........................................................... 394
Tầm quan trọng
của giới bổn tân tu ..................... 397
Những thầy
phạm giới làm sao thay đổi và sửa đổi
giới luật được
.................................................... 399
Giáo đồn xuất
gia cịn là đạo Bụt cịn ................ 400
Cức 25 năm
giới luật phải được sửa đổi .............. 402
Thay đổi giới
luật cĩ làm ảnh hưởng tới Phật giáo
khơng
................................................................ 405
Phạm hạnh cĩ
chấp nhận chùa to, Phật lớn khơng?
.........................................................................
407
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!