sao biết thiền
biết định như thế
nào, cho nên những điều lừa đảo
lường gạt vô tình hay hữu ý của các Tổ,
thì làm sao chúng ta biết được,
vì thế chúng ta phải tin theo và rất quý trọng thường có dịp bỏ tiền ra đi
chiêm bái xá lợi
một cách mù quáng.
Đối với thiền
định của đạo Phật như nhập Diệt Thọ Tưởng Định, nhập Diệt Thọ Tưởng Định
là tất
cả các hành
trong thân đều
ngưng nghỉ toàn bộ
như khẩu hành,
thân hành, ý hành, cho nên thân và tâm bất động toàn bộ
vì sức định này diệt các hành uẩn không còn rung động một chút xíu nào cả, nên
từ trong định lực của thiền định
này lưu xuất
ra một từ trường để
bảo vệ nhục
thân không bị ảnh hưởng
thời tiết nắng, mưa, gió,
bão, nóng, lạnh
xâm thực và còn giữ gìn nhục thân
tươi nhuận như người còn sống, chứ không phải khô đét như khỉ khô, từ trường
đó nó còn bảo vệ
không cho loài thú vật xâm chiếm và phá hoại nhục thân. Một
từ trường bảo vệ nhục
thân như vậy mà đức Phật còn cho
là huyễn
hóa lừa đảo
người, nên khi đức
Phật tịch thì thiêu
đốt bỏ, nhưng
vì lòng kính trọng của mọi người đối với đức Phật nên những mảnh xương vụn ấy được
đệ tử của Ngài chia cho tám nước về xây
tháp để tưởng
nhớ
công ơn của
Người đã có công giáo hóa đạo đức giải thoát
cho loài người, còn
dân chúng trong tám nước này đều
xin tro thiêu nhục thân Phật đem về
xây tháp để tưởng nhớ
công ơn, kinh Du Hành trong Trường
A Hàm tập I trang 233: “Bấy giờ ông
Hương Tánh lấy một
cái bình và dùng bát
đá, chia đều
xá lợi làm
tám phần bằng nhau. Lúc đó người
trong thôn Tất Bát cũng đến xin mọi người một phần tro còn lại để dựng tháp
cúng đường”.
Các Tổ
khéo léo dùng thuốc ướp xác
trước khi chết bằng cách uống vào người rồi ngồi kiết già lúc bây giờ
thuốc ngấm dần vào cơ thể diệt sự sống của cơ thể
và cơ thể nhờ
đó không bị hôi thối, từ từ khô dần giống như khỉ khô.
Bên Tây Tạng người
ta ướp xác bằng cách mổ bỏ ruột
gan, còn Việt Nam
và Trung Hoa thì ướp xác đặc biệt hơn.
Trong Thời
Nam Bắc Triều Phân Ranh, Chúa Trịnh Giang
có một người
cung nữ chết rồi ướp xác chôn. Gần
đây các nhà khảo cổ Việt Nam đã khai
quật những ngôi mộ cổ
và xác nàng cung nữ vẫn còn nguyên vẹn tươi tốt như người ngủ.
Giả thiết
Trung Hoa và Việt
Nam có một loại
thiền tu tập để ướp
xác thật sự
như bộ
xương khô của Lục Tổ Huệ
Năng, Vũ Khắc Minh và
Vũ Khắc Trường thì loại thiền này có ích lợi gì cho loài người, khi
pháp môn của các vị này dạy chúng
tôi chẳng thấy có
đạo đức gì cả, như vậy có lợi ích
gì cho đời sống của loài người đâu. Nếu so
sánh Pháp môn
thiền định của Lục Tổ Huệ
Năng và đạo đức của Khổng
Phu Tử thì đạo đức của Khổng
Phu Tử làm lợi ích cho loài người hơn nhiều.
Đạo đức của
đạo Phật dạy cho chúng ta ngăn ác diệt ác
pháp để đem lại
sự ích lợi cho cuộc sống của mình
và của mọi người. Vì thế người tín đồ của đạo Phật, phải sống thường áp dụng
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng và Chánh Tinh Tấn,
nhờ biết áp dụng đúng cách nên đệ tử của đức Phật sống không làm khổ mình, khổ người đem lại một trạng thái
thanh thản, an lạc,
vô sự cho cuộc sống
chung nhau trên
hành tinh này, biến
cuộc sống trở
thành Niết bàn, Cực
lạc, còn đến khi chết thì cũng giống như bao nhiêu thân xác của người khác, vì
thân xác của người nào cũng đều
là bất tịnh, cũng do tứ đại hòa hợp tạo thành, còn có cái gì quý giá ở đây, sống
mà không thiện,
chết thì còn có cái gì quý? Để lại làm gì những mảnh xương ô nhiễm
môi trường,
khi chết đem thiêu xác
đem chôn vào lòng đất
cho kín để giữ gìn
môi trường trong sạch
là điều tốt nhất cho những
người còn sống.
Chúng ta
hãy dẹp cái
trò lừa đảo để lại nhục thân và xá lợi là tu chứng Thiền, chứng
Thánh, đó là vọng ngữ, là nói láo. Đạo Phật không chấp
nhận những điều
mê tín, lừa đảo
này.
Tóm lại, chúng ta nên đọc một đoạn
kinh Du Hành trong Trường A Hàm tập 1 trang 240 để biết rõ trong lúc trà tỳ đức
Phật có nhiều xá lợi như vậy là nhờ dập tắt lửa để lấy những mảnh xương
vụn cháy chưa hết
để chia nhau xây tháp, chứ không phải do kết tinh tu
thiền: “Dân chúng Mạt La bảo nhau: “Ngọn lửa cháy mạnh quá khó dập tắt e cháy
tiêu hết xá lợi! Chúng ta phải lấy nước ở
đâu để tưới?
Lúc đó có một vị Thần Ta La đang
hầu một bên, dùng thần lực làm tắt ngọn lửa”.
Đoạn kinh trên xác minh xá lợi của đức Phật không
phải do kết tinh của thiền định.
Đến đây
chúng tôi xin nhường lại những ý kiến
chân chánh của
quý Phật tử
và quý vị tư
duy như
thế nào, đừng để kẻ
khác lừa đảo chúng ta nữa.
CÚNG DƯỜNG
ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Thạch, Kim,
Tú thưa hỏi
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Từ khi đọc bài của Thầy dạy rằng: “cúng dường một đồng
cho các thầy tu phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới, dùng miệng lưỡi lý luận
mơ hồ trừu tượng gây mê
tín và thần
thông, bùa chú lừa đảo
người còn nhẹ tội
hơn là một người
cúng dường một tỷ
đồng”. Nhất là nhớ đến đạo đức
nhân quả thì chị Nghiêm không dám
cúng dường hàng tháng cho các tu viện nữa. Trước đó anh chị có hứa hằng
tháng bảo trợ
cho các tăng ni Tây Tạng
tu học. Bây giờ chị ấy ngưng
vì sợ tạo thêm tội. Anh em chúng con có người cho rằng:
“các tu
sĩ Tây Tạng
đâu có lỗi
gì. Họ chẳng may tu phải một pháp môn không phải của
đức Phật. HT Thanh Từ bảo rằng cúng dường
cho người tu là gieo duyên, cho họ mắc nợ mình
để kiếp sau còn gặp nhau để họ dạy
dỗ, nhắc nhở mình tu hành.
Xin Thầy chỉ dạy cho
chúng
con.
Đáp: Những
người dùng tôn giáo và tà pháp dạy những điều
mê tín, phi đạo đức, tạo ra những điều kỳ lạ quyến rũ những người
nhẹ
dạ để đem tiền
bạc hoặc thực phẩm cúng dường cho những người
đó ăn không
ngồi rồi mà chẳng làm ích lợi gì cho ai cả. Khi
đã học xong họ lại còn đem những sở học
tà giáo ngoại đạo ra phổ biến
rộng khắp dạy mọi người
làm những điều mơ hồ, trừu tượng
không chân chánh “Tiền
mất tật mang”, không có
nghĩa lý và đạo đức gì cho cuộc sống làm người.
Chúng ta đã
biết pháp của họ là những pháp mê tín, trừu tượng, ảo giác, lừa đảo lường gạt thiên
hạ mà cứ đem
tiền bạc
cúng dường cho những người
đó ăn thì chúng
ta tự xét lại
mình có
phải mình là người khờ dại hay là
người thông minh?
Cúng dường như vậy có được
phước báo gì? Đức Phật dạy: “cúng dường không đúng chánh pháp như đem hạt giống
tốt gieo trên đất chai xấu, chẳng có
phước báo mà còn
tổn phước”. Tại sao vậy? Vì giúp người làm
ác.
Cúng dường
gieo duyên như Hòa Thượng Thanh Từ bảo
là cúng dường đúng chánh pháp, nhờ cúng dường đúng chánh pháp mà chúng ta gặp
được chánh pháp, còn cúng dường cho tà pháp
thì đời đời sẽ gặp tà
pháp, mà gặp tà
pháp thì làm sao chúng ta sống có đạo đức làm người làm Thánh và làm sao tu
hành được giải
thoát sanh tử
luân hồi thì kiếp kiếp đời đời chúng
ta sẽ thọ khổ vô lượng vô
biên biết chừng nào cho chấm dứt.
Vả lại,
cúng dường cho những người
tu theo tà pháp
mê tín phi đạo đức, là nối giáo cho kẻ khác diệt nền đạo đức của Phật
giáo. Bằng chứng là quý phật tử từ xưa đến giờ đã bị kinh sách phát triển
dẫn dắt mà quý vị không
biết nên
cúng dường, do đó
chúng duy trì và phát triển, nên diệt sạch Phật giáo,
khiến cho loài người 25 thế kỷ nay đã
đánh mất nền đạo đức nhân bản - nhân quả làm người tuyệt vời. Bây giờ khắp trên
thế giới con người
sống bất an thường
xâu xé chà đạp lên
nhau vì cuộc sống, cho nên chiến tranh thế giới không
lúc nào yên, lần lượt con người sẽ thoái hóa trở thành những loài thú dữ và còn
tệ hơn là trở thành ác quỷ. Bởi vậy, cúng dường không đúng chánh pháp tức là
cúng dường cho
tà pháp, cúng dường tà pháp là
quý vị có tội, tội là vì xã hội con người không
có đạo đức
nên cuộc sống bất
an, cuộc sống bất an
thì quý vị cũng
đang sống trong cảnh bất an đó.
Quý vị cứ
suy ngẫm lại xem, từ lâu con người không
theo tôn giáo này thì lại theo tôn giáo
khác, không theo
triết học này
thì cũng theo triết lý khác, các tôn giáo dạy người cầu khẩn cúng tế cầu
cho quốc thái dân an, thế giới hoà bình bằng cách này hoặc bằng cách khác,
nhưng chúng ta
có thấy quốc
thái dân an bao giờ
chưa? Có thấy
thế giới hòa
bình không chiến tranh chưa?
Hay phải muốn
quốc thái dân an thì phải
bằng sức lực của con người
và thế giới muốn
có hòa bình
thì cũng phải bằng sức lực của con người chứ không có một đấng
siêu hình nào của các
tôn giáo mà đem
lại sự hòa bình
cho loài người
được. Do đó, bằng
những hình thức cầu khẩn, cúng tế lạy cầu
hoặc tam bộ nhất bái để cầu quốc thái dân an và hòa bình thế giới thì đó
là một kiểu lừa đảo lường
gạt thiên hạ. Vậy mà chúng ta đem tiền của cúng dường cho những hạng người này
là làm một việc làm phi đạo đức, nghĩa là không có phước báo mà còn có tội đối
với loài người, nhờ chúng ta cúng dường mà những người lừa đảo mới tiếp tục sống
lừa đảo, còn nếu chúng ta không
cúng dường thì chúng
không thể sống
lừa đảo được
buộc chúng phải sống lương thiện
làm bằng mồ hôi nước mắt của mình làm ra
để mà sống như chúng ta vậy.
Ví dụ: Mọi người
đều biết pháp
môn của kinh sách phát
triển là pháp
môn lừa đảo
thì không ai còn cúng dường thì mấy ông thầy của kinh sách phát
triển không còn
nói láo được nữa
và nhờ đó
các ông sống
trở lại đời sống
lương thiện đời sống không làm khổ mình,
khổ người.
Đức Phật dạy: “Cúng
dường đúng chánh pháp, là cúng dường
cho cá nhân thanh tịnh và tập thể thanh
tịnh”. Cá nhân thanh tịnh và tập thể
thanh tịnh như thế nào?
Cá nhân
thanh tịnh và tập thể thanh tịnh là cá nhân và tập thể phải sống đúng giới luật.
Người sống đúng
giới luật có
nói láo không? Quý
phật tử hãy
nhìn lại quý thầy của
kinh sách phát triển
và các Thiền
Sư Trung Hoa có sống đúng
giới luật chưa?
Có nhập định
làm chủ sự sống
chết được chưa? Có
hết tham sân, si
chưa? Nếu chưa sống đúng
giới luật, chưa làm
chủ sự sống
chết, chưa hết tham,
sân, si
thì quý Thầy
đó thuyết giảng dạy người khác tu là
nói sai, có
đúng không? Mình
tu chưa được mà dạy người khác tu
là những người đó có xạo không? Mà người
xạo, người nói láo thì có
nên cúng dường không?
Vì thế
cúng dường cho
người lừa đảo, người
nói láo là
mình có tội
thêm và tội rất
lớn, do
thế cúng dường
một đồng ít tội
hơn người cúng một tỷ đồng là vậy.
Hòa Thượng
Thanh Từ bảo rằng: “Cúng dường cho những người tu chân chánh là gieo
duyên, cho họ mắc nợ mình để kiếp
sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ, nhắc
nhở mình tu hành”. Lời dạy này của Hòa Thượng rất
đúng, đúng là đúng với chánh Pháp của đức Phật, vì pháp của đức Phật là đạo đức
làm người không làm khổ mình, khổ người,
còn như chúng ta đã biết Thiền, Mật, Tịnh là tà pháp ngoại đạo thường dạy người
mê tín, phi đạo đức, phi nhân quả và có những điều dạy rất mơ hồ, trừu tượng chỉ hiểu bằng tưởng
tri. Nếu chúng
ta thường đem tứ sự
cúng dường cho những bậc thầy này
để họ
mắc nợ chúng
ta, để kiếp
sau còn gặp nhau để họ dạy dỗ nhắc
nhở mình tu
hành những điều mê tín, phi đạo đức, thì chúng ta có nên cúng
dường gieo duyên
với những người
này hay
không? Gieo duyên với họ
đã tốn tiền của và
công sức, nhưng
cuối cùng được
những gì? Hãy nhìn các bậc
Thầy Tổ của chúng ta họ giải thoát được những gì hay chỉ lừa đảo chúng
ta mà thôi.
Tóm lại, quý
phật tử phải sáng suốt trong lúc cúng dường
hay bố thí, phải chọn cho đúng đối tượng,
bậc tu hành
giới luật phải
nghiêm túc và người
được bố thí thật
sự phải trong cảnh khổ.
MUỐN NHẬP ĐỊNH
THÌ PHÂI SIÊNG NĂNG LỄ PHẬT
Thạch, Kim,
Tú thưa hỏi
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Thầy Chơn Quang bảo rằng ngồi
thiền mà còn nhiều vọng tưởng là
còn thiếu phước,
phải chịu khó siêng năng
lễ Phật, một thời gian
sau sẽ nhập định dễ
dàng hơn. Chúng
con nhớ lời Thầy dạy:
“ly dục ly bất
thiện pháp, diệt
ngã xả tâm
quét sạch ngũ triền
cái và dứt bỏ thất
kiết sử thì
tâm được
thanh tịnh và tâm nhập Vô Tướng
Tâm Định (Bất
động Tâm Định)”.
Chúng con tu
tập Chánh Niệm Tỉnh Giác và
Định Vô Lậu thì thấy vọng tưởng thưa dần. Như vậy có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Có người
bảo rằng: “Ngồi thiền mà còn nhiều vọng tưởng là còn thiếu phước, nên phải chịu khó
siêng năng lễ Phật, một thời
gian sau
sẽ nhập định dễ dàng
hơn”. Lời dạy này
chúng ta thấy rất mơ hồ, chỉ tưởng giải theo
chữ nghĩa của
câu kinh: “Năng
lễ sở lễ tánh
không tịch”, đây là một câu kinh
của kinh sách phát triển do tưởng tri của
các Tổ
viết ra để lừa đảo con người, để
dựng lên tánh không mà Thiền Tông đã lấy
đó làm Phật tánh. Kinh sách phát triển
đã là sai,
mà người lấy
câu kinh này tưởng ra thì lại
còn sai hơn
là chỗ vọng tưởng và phước báo.
Chữ phước
ở đây là phước vô lậu hay phước
hữu lậu, không
xác định rõ. Nếu bảo rằng
có phước hữu lậu thì nhập
định dễ dàng, nếu vậy thì những
nhà giàu có,
vua, quan v.v.. đều là những người nhập định dễ dàng. Vậy họ có hết vọng
tưởng không và có nhập định dễ dàng
không? Lý này
không thể có được. Còn
nếu bảo rằng phước
vô lậu do siêng
năng lễ Phật mà có thì điều này
là vọng ngữ sống trong tưởng tri mà nói ra. Đức Phật dạy phước vô lậu là do
“ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện” sanh thiện tăng trưởng thiện
không phải là phước vô lậu sao? Đức
Phật đâu có dạy lễ Phật mà có phước
vô lậu, cho nên đức Phật dạy rõ
ràng không có mơ
hồ, trừu
tượng như nhà học giả này. Còn bảo rằng lễ Phật sau một thời gian nhập định
dễ dàng thì các người tu theo Tịnh Độ Tông
là những nguời
siêng năng lễ Phật nhất thế gian mà họ có hết vọng tưởng và nhập định được
đâu.
Ở đây chúng
ta nên phân biệt phước hữu lậu và phước
vô lậu tu như
thế nào
để có được hai loại phước này?
Người biết
cúng dường bố thí
đúng chánh pháp, tức
là đem của cải tài sản bố thí
cho người bất hạnh
trong xã hội,
nhưng những người này không có
tham lam, trôïm cắp, cướp của, giết người thì mới có phước hữu lậu, còn ngược lại
thì chẳng được phước gì cả, nhiều khi còn
phải thọ khổ,
cho nên có nhiều
người làm từ thiện mà trong nhà
không thiện chút nào.
Đem cơm, thực
phẩm, y áo, giường nằm và thuốc
thang dâng lên
cúng dường cho những bậc
chân tu giới
luật đức hạnh
thanh tịnh, thiền định
sâu mầu thì được
phước hữu lậu bằng
ngược lại phi
công đức nghĩa
là cúng dường cho những người
phá giới phạm
giới thì không được phước mà còn
có tội thêm.
Chúng tôi
chưa từng thấy trong Kinh Nguyên Thủy đức Phật dạy siêng năng lễ Phật sẽ nhập định
dễ dàng
bao giờ. Bởi vậy
người sau thường hay dựng lên những sự tưởng tượng trong khi mình chưa thực hiện được những điều mình dựng
lên mà dám dạy
người, may mà sự lễ
Phật không có
tai hại chứ
còn nhiều thứ khác
rất tai hại
như thiền Đông Độ và thiền
Minh Sát
Tuệ ức chế
tâm nhất là
tham công án, khiến
cho hành giả tu
căng mặt, tức ngực,
căng thần kinh, đau đầu, v.v..
Người dạy nhập
thiền định kiểu này là người chưa bao giờ biết
thiền định, chỉ dựa
theo kinh sách phát
triển dạy ức chế
tâm, khi nào tâm hết vọng tưởng
là nhập định, dạy kiểu này là dạy thiền điên, đức Phật dạy: “Tịnh chỉ ngôn ngữ nhập Sơ Thiền, tịnh chỉ tầm tứ
nhập
Nhị Thiền,
ly hỷ tưởng nhập Tam Thiền, tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền, hoặc ly dục ly ác
pháp hoặc tâm
không phóng dật
nhập Sơ Thiền”, chứ
đức Phật đâu
có dạy hết vọng
tưởng là nhập định.
Đây là một
loại thiền định mới của những nhà học giả đẻ ra trong thế kỷ thứ 21.
Lễ Phật để chư Phật
gia hộ cho hết
vọng tưởng, nhập định dễ dàng mà đời sống ăn uống phi thời
chạy theo danh lợi tham
tiền, tham bạc, tham xe cộ chùa
to Phật lớn, v.v.. thì dù có lễ mòn đầu gối cũng chẳng hết vọng tưởng. Còn các
con tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Vô
Lậu để ly dục
ly ác pháp diệt
ngã xả tâm... Thấy vọng tưởng
thưa dần là tu đúng cách.
Mục đích ở
đây tu hành
là để tâm
thanh tịnh (không tham, sân, si) chứ không phải diệt vọng tưởng mà vọng
tưởng thưa dần là triệu chứng tâm ít phóng dật.
RÈN LUYỆN NGHỊ LỰC, BỀN CHÍ, KIÊN NHẪN
Thạch, Kim,
Tú thưa hỏi
Hỏi: Chúng
con theo thời
khóa tu tập mà
Thầy chỉ dạy
trong ĐVXP VIII, nhưng
thay vì thức dậy từ 2
giờ sáng, chúng
con thức dậy lúc ba giờ, có khi
làm biếng dậy lúc 3h30, hoặc
4 giờ (thật
xấu hổ, ham ngủ mà đòi tu thiền và mong
được giải thoát!).
Thay vì ngồi
kiết già thở 5 hơi thở rồi đứng dậy
đi kinh hành, chúng con làm biếng
(trong lòng thì
nghĩ rằng 5 hơi thở quá dễ, đứng lên ngồi xuống hoài mỏi
giò quá) tụi con ngồi
thở vài chục
hơi mới đứng dậy
kinh hành. Chúng
con tu tập như thế có được không?
Đáp: Hành
giả tu hành
phải theo đặc tướng
của mình, cho nên
thời khóa của
người này thì không nên
áp dụng cho người
kia. Vì thế đức Phật dạy
khi tu hành phải
thiện xảo, phải khéo léo trong sự
tu tập cũng giống như người lên dây
đàn, căng dây
quá thì không đúng âm,
chùng quá thì không
thành âm, chỉ có
căng dây vừa
thì phát âm đúng.
Người mới
tu tập thì
phải tu tập thọ Bát Quan Trai tức là tập sống như Phật để ly dục ly ác pháp. Ly
dục ly ác pháp là để tập tâm không phóng dật, tập tâm không phóng dật có nhiều
cách:
1/ Tập sống đúng tám giới (Thầy có gửi băng cho
các con tu tập thọ Bát Quan Trai Giới hãy nghe theo đó mà tu cho đúng).
2/ Sống đơn giản.
3/ Sống một mình.
4/ Tập tỉnh thức đi hoặc ngồi.
5/ Tập xả chướng ngại pháp.
6/ Tập phá hôn trầm.
Dựa theo
thời khóa tu tập trong
tập 8
Đường Về Xứ
Phật con nên sửa lại cho phù hợp với đặc tướng của mình.
Con không hiểu mục
đích tu 5 hơi thở rồi
đứng dậy đi kinh hành một vòng, đó
là sự
rèn luyện nghị lực, bền chí, kiên cường và sự tinh cần. Nếu người tu mà
không có nghị lực, không có bền chí,
không có kiên
cường và không
có tinh cần thì khó mà
thành tựu con đường
giải thoát của đạo Phật. Nó không phải dùng để ức chế vọng tưởng mà để phá tâm lười
biếng. Nếu không tu tập 5
hơi thở
cho quen như vậy thì sau này
gặp hôn trầm
thùy miên rất
khó phá,
còn tu tập 5
hơi thở đi kinh hành một vòng đã
thành thói quen thì hôn
trầm thùy miên đến
dẹp rất dễ dàng. Đây là pháp hành để phá tâm si mê của các con, giúp các con tỉnh
thức.
Đối với tâm
tham, sân người ta không sợ, mà chỉ sợ
tâm si, trạng thái của tâm si là hôn trầm, thùy miên.
Ăn, ngủ, độc
cư, ăn ngày một bữa người ta có thể ăn được, nhưng ngủ
không phải dễ, mọi người đều bỏ
cuộc tu hành do không phá được hôn trầm thùy
miên, còn nói đến độc cư
thì chưa có ai làm được. Phá được tâm si để có tâm tỉnh thức
đâu phải dễ,
có tâm tỉnh
thức mới sống độc cư
được, còn tâm
chưa tỉnh thức mà nói sống độc cư là người nói không thật.
Tỉnh thức trên hành động thân hoặc trên hành động hơi thở thì không khó chứ tỉnh
thức trên các chướng ngại pháp thì khó khăn vô cùng, nếu không tập 5 hơi thở rồi
đi kinh hành thì khó có tỉnh
thức, cho nên phương pháp
tu năm hơi thở
đi kinh hành một
vòng là một pháp môn rèn luyện nghị lực, bền chí,
kiên cường và sự tinh cần đệ nhất.
Nghị lực
giúp chúng ta vượt qua và diệt ác pháp
trong tâm; tinh cần
giúp chúng ta
ngăn
các ác pháp;
bền chí, kiên cường giúp chúng ta gặp khó không lui.
Ví dụ: Khi một
cơn sân nổi lên dữ dội, nếu không có nghị lực
chúng ta không thể nào dập tắt cơn sân được tức là diệt ác pháp, còn
nếu không có chịu khó tinh cần thì ác pháp sẽ xâm chiếm tâm
ta và như vậy chúng
ta phải chịu khổ
đau, cho nên
tinh cần là pháp
ngăn ác pháp và nghị lực là pháp
diệt ác pháp đệ nhất như trên Thầy đã dạy.
Tóm lại 5
hơi thở
đi kinh hành 1 vòng là một pháp
môn căn bản sơ
khởi cho người mới tu để rèn luyện thân tâm có một sức lực bền
bỉ dẻo dai để tiến tu trên đường đạo mà không sợ chùng bước
trước mọi sự
khó khăn, gian
khổ, v.v..
TƯỞNG TỨC
Thạch, Kim,
Tú thưa hỏi
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Có lúc
hơi thở sao quá nhẹ, tưởng chừng
như nó không có tựa vào đâu cả,
có lúc con lại
cảm thấy làm biếng
không muốn
thở nữa, mặc dù biết ngưng thở là mình sẽ
chết. Nhưng không biết tại sao con lại
thích muốn ngưng thở. Xin Thầy chỉ dạy cho.
Đáp: “Hơi thở
quá nhẹ tưởng chừng như không tựa vào
đâu cả”, đó
là con đã rơi
vào trạng thái “tưởng
tức”, hãy xả bỏ ngay
liền, đứng dậy đi kinh hành
vì tu như vậy là
tu lạc đường. Hằng ngày cố gắng
mà xem xét bốn chỗ “thân, thọ, tâm,
pháp” (Tứ Niệm Xứ)
có chướng ngại pháp
hay không? Nếu không
thì tâm con sẽ thanh thản, an lạc
và vô sự. Tâm con nó rất tự nhiên định vào thân con mà không bị ức chế tập
trung, nó định như thế nào?
Khi nó không
phóng dật theo
các pháp trần bên
ngoài. Vậy nó
đang biết cái
gì? Nó đang biết hơi thở bình thường
và hơi thở đó rất bình thường không
có một chút
gì thay đổi, vì nó
không bị ức chế. Nếu hơi thở có
thay đổi là do con gom tâm tập trung
trong hơi thở,
do gom tâm tập trung vào hơi thở nên con rơi vào tưởng tức,
thành ra tu sai,
các con tu tập
nên lưu ý điều này.
Khi nào tâm
không phóng dật là lúc bấy giờ tâm định trên hơi thở. Tâm định trên hơi thở tức
là tâm không những chỉ biết hơi thở
mà còn cảm nhận được toàn thân giống như đề
mục Định Niệm
Hơi Thở dạy: “Cảm giác toàn thân
tôi biết tôi
hít vô, cảm giác
toàn thân tôi biết
tôi thở ra”. Đó là tâm định trên thân. Tâm định trên
thân tức là tâm đang quán thân như trong kinh
Tứ Niệm Xứ
đã dạy: “Trên
thân quán thân để nhiếp phục
tham ưu”. Khi tâm đang quán thân
thì tâm không phóng dật. Tâm không
phóng dật là chứng đạt
chân lý. Vì thế
đức Phật
đã tuyên bố:
“Ta thành chánh giác là nhờ
tâm không phóng
dật”. Người tu hành đến đây là
xong mong quý vị lưu ý.
CHƯA ĐỦ
DUYÊN XUẤT GIA
Thạch, Kim,
Tú thưa hỏi
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Hoàn cảnh của
con (Thạch) thật khó khăn, con muốn về VN tu tập, nhưng
ai cũng can
gián, cho rằng
chưa chắc người ta để yên cho con tu. Bây giờ thì con hết mơ xuất gia ở
TV Trúc Lâm, mặc dù con đã được HT
Thanh Từ hứa khả. Con muốn tu
theo pháp môn của Thầy, nhưng thức dậy lúc 2 giờ sáng thì
con làm chưa được.
Với lại, như lời
Thầy dạy,
chưa xả tâm, chưa ly dục ly ác pháp mà đòi giải thoát luân hồi sanh tử là điều
khó thực hiện. Con hiện không có bị gia duyên ràng buộc, liệu con tu theo Thầy
và cô Út có được không? Hay là như một số người khuyên con, “ráng gieo
duyên để kiếp
sau tu sớm
hơn thì được, bây giờ tu rốt ráo
chưa được đâu”.
Xin Thầy từ bi chỉ dạy. Từ khi trở qua Mỹ, 3 tháng nay con tu tập theo
pháp môn của Thầy. Nhưng không có ai
nuôi cơm, không
có chùa để ở.
Chùa còn
phải tìm cách
thu hút Phật tử đến cúng
dường, và tu
hành không đúng pháp Phật.
Cuối cùng con đành
phải đi dạy học lại
mà trong lòng rất tiếc những ngày tháng được thong dong, an lạc tu tập xả tâm,
ly dục ly bất thiện pháp. Con đã
nhận lời dạy
ban đêm (kể từ ngày
19/6/2000), nên ban
ngày và buổi công
phu khuya con còn
giữ được. Con nhớ
lời Thầy dạy là:
“người cư sĩ
cũng có thể
tu hành như người tu
sĩ xuất gia”.
Xin Thầy từ
bi chỉ dạy cho con. Con định hè
năm 2001 thì con về tu viện
Chơn Như tu học một
tháng. Từ nay đến đó con sẽ cố gắng chuẩn bị thân tâm để
có theo kịp các huynh đệ bên nhà.
Đáp: Về vấn đề
tu hành của
con, con là người Việt Nam
nên trở về
quê cha, đất tổ để
tu hành, làm
sáng tỏ lại Phật Giáo Việt Nam, làm rạng rỡ Tổ Tiên nòi giống
dân tộc Việt Nam, như những bậc chân tu Việt Nam dám
ăn dám nói thẳng sự thật mà các con đã biết.
Ở đây
con nên tự xét
lòng con có quyết tìm tu
giải thoát hay không?
Nếu có thật
lòng quyết tìm tu giải thoát và quyết tâm dựng lại một nền đạo đức
nhân bản –
nhân quả làm người của Phật giáo có lợi ích rất lớn
cho loài người trên hành tinh này mà nó đã
bị dìm mất từ lâu. Khi có quyết tâm như vậy thì ngăn sông cách núi không
phải là một việc khó mà khó là ở chỗ lòng
con chưa quyết
tâm. Thầy chấp nhận những người quyết tìm tu giải thoát
cho mình và làm lợi ích cho người, cho Phật
giáo thì dù cho hoàn cảnh có
khó khăn nào, có đến đâu
Thầy cũng tìm mọi cách giúp cho người đó tu hành đến nơi đến chốn.
Đức Phật đã
dạy: “Được thân người là khó, khó
như con rùa mù
tìm bọng cây giữa biển, nhưng
gặp được chánh pháp còn khó
hơn”. Lời dạy này con cứ suy ngẫm
sẽ thấy rất đúng. Mất thân rồi khó tìm được thân con ạ! Gặp pháp tu hành giải
thoát cũng không phải dễ, nhưng con nên nhớ đạo đức nhân bản của đạo Phật không
cho phép chúng ta
làm khổ mình,
khổ người
nhất là những người
thân thương của
mình vì đó là duyên nghiệp nhân
quả phải trả mà phải trả trong thiện pháp, trong đạo đức làm người, chứ không
được làm khổ nhau trong ác pháp, làm khổ nhau trong ác pháp thì trả vay không
bao giờ hết. Cho nên,
chúng ta đi
tu không có quyền
làm khổ người,
nhất là những
người thân thương của mình trong
gia đình.
Từ khi có đạo
Phật xuất hiện trên đời này, đạo đức nhân bản làm người có mặt, thì sự cắt ái ly gia
là một điều
quan trọng, nhưng cắt ái
ly gia như thế
nào mà không
làm khổ mình, khổ
người thì mới được đức Phật
chấp nhận. Nó thuộc về ái kiết sử.
Trong thất
kiết sử, ái kiết sử là khó đoạn dứt nhất,
dứt ngang thì
nghiệp nhân quả không
tròn. Khi vào chùa
tu sống độc cư
một mình thì mới thấy
nghiệp nhân quả
ái kiết sử là
khó dứt, trốn
nó thì dễ, dứt
nó thì khó, chỉ có
làm hết bổn phận đạo đức nhân
quả thì ái kiết sử đoạn lìa. Nhưng không phải vì cớ
đó mà chúng ta không
có đường tu,
chính vì lý do đó mà đức Phật dạy chúng ta thọ Bát Quan
Trai Giới và hằng
ngày trong chiếc áo của
người cư sĩ áp dụng đạo đức không
làm khổ mình, khổ người, nếu chúng
ta thành tựu đạo đức
không
làm khổ
mình, khổ người thì chúng ta đã ly dục
ly ác pháp và vì
vậy mà
ái kiết sử
đã bị đoạn
dứt.
Người ly dục,
ly ác pháp là người có đầy
đủ phước
vô lậu nên
khi tâm họ khởi
muốn xuất gia tu
hành thì mọi người
thân thương trong gia đình đều
hoan hỷ và tán thán ca ngợi hạnh xuất gia của họ, họ ra đi
với lòng hân hoan của mọi người tiễn đưa một bậc Thánh
nhân mà
người trong gia
đình ai cũng
nhận thấy qua hành động đạo đức của người
này đã từng sống với mọi người.
Với chiếc
áo người cư sĩ, tu
xả tâm không có gì khó đâu. Các đối tượng là chướng
ngại pháp, nó đến với chúng ta đó là điều kiện để chúng ta diệt ngã xả tâm đẩy lui
các chướng ngại pháp, như đức Phật
đã dạy tu tập Định Vô Lậu, còn bình thường tâm không có ác pháp thì chúng ta
nên nhớ rèn luyện pháp hướng tâm để cho
tâm có một đạo lực, đạo lực ấy sẽ
giúp chúng ta nhập các định sau này còn hiện giờ nó là pháp dẫn tâm
chúng ta thường sống thanh thản, an lạc và vô sự.
Hiện giờ con
đang sống bên Mỹ, đừng đến các chùa tu
hành không đúng pháp đâu sẽ làm con mất thì giờ vô ích. Mỗi tháng con
nên chọn
một hoặc
hai ngày thọ Bát
Quan Trai tức là tập
sống như đức
Phật, ăn ngày
một bữa, không nghe
ca hát, không
nằm giường cao rộng
lớn, không trang điểm,
sống độc cư trầm lặng một mình, những hành động sống này là tập hạnh giải
thoát.
Thời gian
tu tập con thấy
thích sống như vậy tức là trong một
đời này con sẽ tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt
luân hồi, còn con không
thấy thích thì kiếp này
tu chưa xong.
Trong những
ngày thọ Bát
Quan Trai sống trầm
lặng độc cư
mà tâm con
không phóng dật, tâm thường tự nhiên định trên hơi thở thì con hãy
trở về Việt
Nam lập tức gặp
Thầy để
Thầy trực tiếp
hướng dẫn nhập
các định và Tam Minh.
Trong hoàn cảnh nào mà người quyết tâm tu hành tìm
sự giải thoát thì hoàn cảnh nào tu hành
cũng tốt, có thì
giờ rảnh
lúc nào thì chúng ta tu ngay lúc ấy dù là một phút
cũng đừng phí bỏ rất uổng.
“Tấc bóng thời
gian một tấc vàng, Tấc vàng tìm được
không gì khó Tấc bóng thời gian khó hỏi han”.
Các con đều đã lớn tuổi hết rồi,
năm
tháng còn lại
quá ít, phải tinh cần ly dục, ly ác pháp,
thường đẩy lui
các chướng ngại
pháp
trong
tâm và
đừng quên rèn luyện “pháp như lý
tác ý”. Một lần nữa Thầy xin nhắc
lại: “các con đừng quên,
thường nhắc tâm:
“Tâm như cục đất phải lìa tham,
sân, si cho thật sạch”. Đó là những điều cần thiết mà các con phải hằng
tu tập rèn
luyện từng phút từng
giây, tự thắp đuốc lên mà đi thì ngay đó là Niết bàn của các con, các con đừng
tìm đâu xa, đừng nghe lời lừa đảo của kẻ khác mà hãy tin tưởng, xưa kia đức Phật
đã thành tựu
cũng do pháp này, ngày
nay trong sáu
tháng Thầy cũng thành tựu nơi pháp ấy.
Từ lâu
các con đã tu theo
thiền theo kinh sách phát triển nó
đã trở thành thói quen hãy cố
mà bỏ xuống,
tu tập lại 5
hơi thở
đi kinh hành một vòng, nếu sức
các con khỏe thì nên tu nhiều một chút, còn sức khỏe các con kém thì nên tu ít
lại một chút, tu như thế
nào mà cảm giác toàn thân tâm được
thanh thản, an lạc chứ không phải tu mà làm
khổ thân tâm của mình quá mệt nhọc thì đó
là tu sai,
tu mà còn
làm khổ mình thì không đúng. Ví dụ:
ngồi thiền hai chân đau quá mà cứ ráng ngồi chịu đau đó là tu
sai.
Các con nên
nhớ pháp của đức Phật không tu thì
thôi mà
đã chấp nhận
tu là có
thanh thản, an lạc, vô sự, nhẹ nhàng giải
thoát ngay
liền trong đời
sống hiện tại, đó là một sự xác chứng cụ thể của đạo
Phật “Pháp của
Ta thiết thực không có thời gian đến để mà thấy…”.
Sau cùng Thầy
có lời thăm và
chúc cả gia đình
của các con được an vui
mạnh khoẻ, chúc các con tu tập xả
tâm tốt.
Kính thư
TẬP II (BỘ MỚI)
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Con vừa
nhận được tập 2 Đường Về Xứ Phật của Thầy nhuận lại và có bổ sung, con thắc mắc
tại sao tập 2 này lại khác tập hai cũ. Như vậy học giả sẽ nghĩ gì về bộ sách
này?
Đáp: Tập 2
Đường Về Xứ Phật vừa nhuận xong là nhuận lại trong tập 1 cũ, vì tập 1 cũ nhuận
lại cho rõ ràng, dễ hiểu và có bổ sung thêm được đầy đủ hơn thì gần 1000 trang
giấy, do đó Thầy chia ra làm ba tập, thay vì tập 2 đã
được nhuận
xong là tập A2 và kế nữa là tập A3 rồi mới đến tập 2 cũ.
Tập 2 và
3 cũ phần
nhiều thuộc về giới
luật, sau này tập 2 và 3 cũ sẽ được nhuận lại và đưa qua hệ thống giới luật thuộc
về bộ Giới Đức Làm Thánh và bộ Giới Đức Làm Người.
Những tập Đường
Về Xứ Phật cũ tập 1, 2,
3 được ra đời
là dựa theo băng giảng giáo án đường lối
tu tập của Phật giáo,
nên khi nhuận lại Thầy phải chỉnh
đốn bộ sách cho được hoàn chỉnh rõ ràng và cụ thể để đời sau khi có người
nghiên cứu không
còn gặp những
khó khăn nữa. Cho nên,
tập 2 này không
giống tập 2 cũ là
vì lý do trên.
Nhờ con khéo nhắc,
Thầy đã cáo lỗi trong tập 2 mới.
CÕI TRỜI
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Trong
tập 2 mới này ở trang 294,
khi đức Phật
chứng đạo Ngài quan sát thấy nghiệp lực của mẹ sanh lên cõi Trời và đến cõi Trời đó để dạy mẹ tu hành. Như vậy học giả
sẽ
nghĩ có sự mâu
thuẫn ở đoạn
sau Thầy giải thích không có cõi Trời và chư Thiên. Xin Thầy hoan hỷ giải cho con những thắc mắc này.
Đáp: Một lần
nữa Thầy xác định và quả quyết thế giới
siêu hình không
có, mà chỉ có
thế giới siêu hình tưởng. Đức Phật thể
hiện vào thế giới tưởng để độ mẹ. Thế giới tưởng của đức Phật chứ
không phải thế giới tưởng
của mẹ Ngài. Bởi vì đức Phật đã
xác định 33 cõi trời là
33 cõi tưởng,
mà cõi tưởng thì không ngoài con người
còn sống mà
có. Và như vậy cõi Trời
tưởng của đức Phật chứ không có cõi Trời tưởng của mẹ Ngài vì mẹ Ngài đã chết
thì thế giới tưởng của mẹ
Ngài cũng không
còn, mẹ Ngài chỉ còn là một trạng thái nghiệp thiện,
trạng thái nghiệp thiện đó không tái sanh làm người được, chờ
khi nào trạng thái
nghiệp thiện đó hết duyên
thì mới tái sanh
làm người, trạng thái nghiệp thiện đó là một từ trường,
nói một cách khác dễ hiểu hơn
là một luồng
khí, đây cũng chỉ là những ví dụ
cho dễ hiểu chứ kỳ thật trí hữu hạn của
chúng ta mà hiểu trạng
thái
của nghiệp
thì chỉ có tưởng tri4 chứ không phải liễu
tri5.
Một người
còn sống thì có ba thế giới: dục giới, sắc giới
và vô sắc giới. Sắc giới là cảnh
hiện hữu của chúng ta đang sống, vô sắc giới là cảnh mộng trong giấc chiêm
bao của chúng ta. Trong cõi sắc giới có dục giới,
cũng như trong cõi vô sắc giới
thì cũng có dục giới. Khi một người chết cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới
đều đoạn diệt, chỉ còn nghiệp lực tương ưng nơi đâu thì tái sanh về đó. Vì thế,
mà bảo rằng không có thế giới siêu hình
khách quan mà chỉ có thế giới siêu hình
chủ quan.
Đọc kinh
sách Phật, phần nhiều người ta cảm thấy
như đức Phật mâu
thuẫn, lúc thì đức Phật nói
có cõi Trời, lúc
thì nói cõi Trời
là cõi tưởng.
Đức Phật
không mâu thuẫn,
khi nói đến cõi Trời
là Ngài nói đến cõi tưởng tức
là cõi
4 Tưởng
tri là sự hiểu
biết không cụ thể, phần
nhiều tưởng tượng ra bằng những hình
ảnh trừu tượng nên nó không thật có.
5 Liễu tri
là sự hiểu biết một sự vật cụ thể có thật, không có tưởng tượng. Phần nhiều người
trên thế gian này sống trong tưởng tri ít ai sống trong liễu tri, vì thế mọi
người lầm chấp thế giới hữu hình và thế
giới vô hình là có thật nên đời đời chịu
nhiều khổ đau.
tưởng của
Ngài, chứ chúng
ta đừng hiểu
có cõi tưởng bên ngoài Ngài.
Trong bài kinh Giáo Giới Nandaka dạy: “- Thưa
không vậy, Tôn giả. Vì sao
vậy? Trước đây thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn với
chánh trí tuệ rằng: “Sáu
thức thân này là vô thường”.
“- Lành
thay, lành thay,
chư hiền tỷ! Chính
phải là như vậy, là
cái nhìn như
chơn, với chánh trí tuệ
của vị Thánh
đệ tử. Ví
như, chư Hiền tỷ, một ngọn đèn dầu
được đốt cháy: dầu là
vô thường, chịu sự
biến hoại; ngọn lửa
là vô thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường chịu sự
biến hoại. Chư Hiền
tỷ, nếu có ai nói rằng: “Ngọn đèn dầu này được đốt
cháy; dầu là vô thường, chịu sự
biến hoại; bấc
là vô thường, chịu sự biến hoại;
ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại nhưng ánh sáng ấy là thường còn,
thường trú, thường
hằng, không chịu sự biến
hoại”; chư Hiền tỷ nói
như vậy là có nói chơn chánh hay
không?
- Thưa
không vậy, Tôn giả. Vì sao
vậy? Thưa Tôn giả ngọn đèn dầu này được
đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự
biến hoại; bấc
cũng là vô thường
chịu sự biến hoại;
ngọn lửa cũng vô
thường chịu sự biến
hoại. Còn nói
gì đến ánh sáng cũng là vô thường
chịu sự biến hoại!”.
Cũng trong
bài kinh này còn
cho thêm một ví dụ khác nữa:
“Lành thay, lành thay, các
Hiền tỷ!
Chính phải là
như vậy, là
cái nhìn như chơn với chánh trí
tuệ của vị Thánh đệ tử. Ví như, này các Hiền tỷ, có một cây to lớn đứng thẳng, có
lõi cây cây
vô thường chịu sự
biến hoại, có rễ
vô thường chịu sự
biến hoại, với thân cây vô thường chịu sự biến hoại, với
cành lá vô thường chịu sự biến hoại, với bóng cây vô thường chịu sự biến hoại.
Nếu có người nói như sau: “Có cây lớn đứng
thẳng, có lõi cây này, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường chịu sự
biến hoại, với
cành cây lá vô
thường, chịu sự biến hoại, nhưng bóng
mát của cây ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu
sự biến hoại”,
này các Hiền
tỷ, người ấy có nói một cách chơn chánh không?
- Thưa không,
thưa Tôn giả.
Vì sao vậy? Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng có lõi cây
này, có rễ vô thường, chịu sự biến hoại, có thân cây vô thường
chịu sự biến hoại, có
cành lá vô thường chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến bóng mát, cũng là vô thường chịu sự biến
hoại!”.
Cho nên, thế
giới siêu hình là thế giới tưởng, thế giới tưởng là thế giới bóng dáng của thế giới
hiện hữu mà
chúng ta đang sống. Vì thế khi chúng ta còn sống là thế giới ấy
còn, chúng ta mất là thế giới ấy mất.
Hai đoạn
kinh trên đức Phật đã
xác định rõ ràng thế giới siêu
hình không có, nhưng khi
nghe Thầy
nói đức
Phật lên cõi Trời
Đâu Xuất để dạy mẹ tu
hành thì các con tưởng
là có cõi Trời thật.
Không đâu,
trong không gian
chúng ta có
33 từ trường thiện
(33 cõi Trời)
muốn tương ưng với từ trường nào
đó thì đức Phật nhập vào trạng thái từ trường đó ở tâm mình thì bắt gặp ngay liền từ trường thiện
đó. Từ trường
thiện đó không phải linh hồn của người chết. Xin đừng hiểu sai lệch, vì
không có ngôn ngữ nên chúng tôi không
thể giải thích
mà chỉ tạm dùng danh từ “TỪ TRƯỜNG” chứ chưa được đúng
lắm.
Thêm một lần nữa để chúng
ta hiểu cho rõ,
trong khoảng không
gian trên hành
tinh của chúng ta là một môi
trường sống, có nhiều từ trường thiện và ác. Những từ trường ác theo
nghiệp ác hợp thành thế giới khổ đau (sắc giới, dục giới
và vô sắc giới), còn từ trường
thiện theo nghiệp thiện
nên không hợp
thành thế giới được vì là một từ
trường đơn điệu.
Muốn thành
một cõi giới
thì phải có một sự hợp thành, không có một sự hợp thành
thì không có cõi giới.
Ví dụ: Một
cái nhà không thể lấy một cây cột hoặc một tấm tôn
mà cho là cái
nhà được,
cũng như một cái
xe không thể lấy một
cây căm hay một
cái đùm xe
mà bảo rằng
là xe được.
Thế giới
chúng ta đang sống mà đức Phật đã
xác định là thế giới duyên hợp, do 12 nhân duyên hợp lại mà tạo thành thế giới
này. Vì thế, một từ trường
đơn điệu không
thể tạo thành một thế giới được.
Sau này con có
dịp đọc đạo đức
nhân quả thì con sẽ rõ thế giới
siêu hình cụ thể hơn.
HỒI VỌNG
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Việc
này con
cũng như
Thầy hoài vọng
vào Thầy Minh Tông,
Mật Hạnh và Thiện Thuận
vì đã vào được Tam
Thiền, nhưng nay nghe ra quý Thầy
đã là số không, vậy chờ ai nữa cho mau hỡi Thầy? Con
lo quá! Không
lẽ Thầy dạy
cách hành rõ như vậy mà thời này không còn ai tu chứng để cùng Thầy tạo
chỗ đứng cho chánh pháp càng sâu rộng ra sao?
Mỗi lần
nhìn thấy một bậc gọi là Tỳ Kheo, Hòa
Thượng mà cung cách sống không hạnh không đức con cảm thấy xót xa. Vì nghĩ rằng
những người và vô số người theo họ, kính
phục họ phải bất hạnh biết
dường nào! Cũng
như con từ khi quy Y
Tam Bảo,
trải qua 20 năm, con cũng đã lầm đường
lạc nẻo, lang
thang từ vị Thầy này đến vị Thầy
kia những tưởng là chánh pháp đây
rồi, dừng chân
được rồi. Nhưng sau đó học, đọc những bài pháp, những kinh,
không phải cái “gì” sâu thẳm, nhiệm mầu mà con tìm. Con luôn nghĩ còn có cái pháp nào đó sẽ chỉ
cho con thấu suốt và làm chủ được cái tâm, chứ không phải nói chung chung và lập
luận, triết lý
nghe nhức cả đầu
mà không có mùi
vị giải thoát gì cả
của những và vô số bài
thuyết pháp mà con đã nghe.
Đáp: Từ ngày
mở tu viện để tiếp độ người tu
hành, cho đến nay
nhìn lại chưa có
người nào làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi, đó là một nỗi tư duy khắc
khoải trong lòng của Thầy. Phật giáo ra đời chỉ sống có 100 năm và sau đó chúng
tỳ kheo chạy theo dục lạc danh lợi, sanh ra kiến chấp rồi phân hóa giáo đoàn
thành nhiều bộ phái,
lợi dụng điều
này Bà La Môn
giáo biến
Phật giáo chân
chánh thành tà
giáo ngoại đạo.
Thầy là người
chịu khổ đau nhất trong cuộc đời tu hành của mình, là nạn nhân của các tà giáo ngoại đạo này, nỗi
lòng khắc khoải của Thầy từ khi tu hành xong cố hết mình tìm mọi cách để đào tạo những người tu hành
được như Thầy, ngõ hầu thắp sáng lại Phật
giáo khiến cho người
người đều được lợi ích
trong cuộc sống trên
hành tinh này. Khi đọc
bức thư của con, Thầy cảm thông được nỗi lo lắng ưu
tư của con như chia sẻ nỗi lòng của Thầy. Nếu Phật giáo không được chấn hưng trở
lại thì những người buôn Phật bán pháp có cơ hội phát triển và nhiều
thủ đoạn lừa đảo lường
gạt tín đồ Phật giáo,
trong khi tín đồ Phật
giáo làm sao biết được đâu là chánh pháp và đâu là tà
pháp.
Nếu Phật
giáo chấn hưng
được thì người ta phân
biệt Phật giáo
và ngoại đạo rất dễ dàng:
1- Phật giáo đời sống ly dục ly ác pháp.
2- Ngoại đạo đời sống không ly dục ly ác pháp.
Cho
nên, kinh sách phát
triển triển khai phi
giới luật nên dễ phát
triển theo sự sống
trong dục lạc,
nên tu sĩ
ưa thích hơn
còn Nguyên Thủy sống
khó phát triển
vì theo hướng giới luật ly dục
ly ác pháp.
Minh Tông, Mật Hạnh, Thiện Thuận v.v.. tuy có công tu tập,
nhưng đời chưa bỏ hẳn được, chưa đoạn dứt lòng
ham muốn, chưa ly dục
ly ác pháp trọn vẹn, vì thế làm sao nhập sâu vào thiền định và thực
hiện Tam Minh được, Thầy rất tiếc cho họ, số phận của họ chỉ là những
người còn nặng nghiệp nhân quả chưa chuyển được, dù muốn cho họ cao hơn nhưng họ
phải tự lực xả bỏ đời thường tình thế gian thì mới tiếp nhận một cuộc sống
cao thượng được.
Thầy cũng đành chịu thôi, nhìn số phận nghiệp báo của những
người đệ tử của mình
mà lòng bồi hồi
thương tiếc cho những tâm hồn lạc
lõng đang hướng về ngõ cụt của cuộc đời
và xót xa cho loài người trên hành tinh này còn kém
phước nên Phật giáo không có người đủ tài đức đảm đương việc
lợi ích lớn, nhưng
dù sao, tuy có chậm,
Thầy là người
đã thực hiện
được chánh pháp của đức Phật
thì những lời Thầy
dạy sẽ
có những bậc
vĩ đại tiếp nối, nhưng tuyên bố trước là
đem tai hại cho những người này, vì tà giáo quá lớn nó sẽ
diệt mất những mầm non của Phật giáo.
Các con mỗi người
khi nhận ra
chánh pháp của đức Phật thì các con hãy ráng mà cứu mình, hãy tự
thắp đuốc lên mà
đi, không ai đi thế con đường ấy
cho các con được.
Chánh pháp
là như thế, hãy tin vào mình mà đừng tin vào người khác, hãy thắp đuốc lên mà
đi cho mình và chính mình
làm sáng tỏ lại Phật giáo, đừng
hy vọng vào
người khác mà hãy hy vọng vào chính mình các con ạ!
NGUYỆN ƯỚC
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nhiều khi
con cảm thấy tại
sao con ít nói, tại sao con thích ngồi một mình trầm lặng, tại sao con thích chỗ vắng
lặng của cảnh
thiên nhiên mà
không thích chỗ ồn náo, có kiến
trúc cực kỳ văn minh,
sang trọng.
Và tại sao con
thích đơn giản, không
cầu kỳ hình
thức ngày nào
cũng như ngày này, không ngày nào
mà không thấy buồn khổ của mình và của tất cả chúng sanh, kể cả ngày Xuân (Tết).
Thưa Thầy
hiện giờ tâm
con là như thế, con thấy
biết Tứ Diệu Đế
rất
rõ, nhưng con chưa đủ duyên để thực hành thành công Đạo,
Diệt. Thầy bảo rằng con yếu
đuối không thể thực hiện đạo giải thoát bằng giai đoạn
2. Theo con nghĩ tại con chưa đủ duyên hay duyên chưa tới. Vì nếu tới thì rất dễ
như trở bàn tay.
Con xin Thầy
quán xét, con kiếp
nào mới thực hiện được nguyện ước
xuất gia tu hành chấm dứt sanh tử luân hồi ưu bi
khổ não. Con cũng xin Thầy
quán xét Nhựt
có bước vào Chánh pháp của Phật được không?
Đáp: Đạo Phật
tu không khó, ai có thân người đều có thể tu chứng được, chứ không như lý luận
của kinh sách phát triển: “Tu phải
trải qua nhiều kiếp”, nhưng người tu phải có quyết tâm xả bỏ cuộc sống tầm
thường, ích kỉ,
hèn hạ, nhỏ mọn
v.v.. thì mới tiếp nhận
được cuộc sống thanh khiết và cao
thượng.
Con đủ duyên
vì gặp được chánh pháp của
Phật, nhưng
duyên chưa tới là vì Thầy chưa có
một Cấp Cô Độc
cúng dường cơ sở cho chúng tỳ kheo tu tập để sống đúng Thánh hạnh.
Ví dụ:
Chương trình học và học sinh đã có sẵn,
nhưng trường ốc chưa có, đó là duyên chưa tới,
nhiều người hiểu sự tu
quá đơn giản họ
luận: “Tu thì ở đâu lại tu
không được, tu ở tâm chứ đâu phải là chỗ ở”. Đạo Phật không chủ
trương như vậy, mà chủ trương sống thành thói quen, cho nên có
môi trường tốt
thì con người sẽ sống thành
thói quen tốt, môi
trường xấu con người sẽ sống thành
thói quen xấu, đó là
một bằng chứng cụ thể hiển nhiên, cho nên đức Phật lấy giới đức làm đầu của sự
sống “sống là tu,
tu là sống
chứ không phải sống khác,
tu khác”.
Chỗ Thầy
đang ở là cơ sở của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, không phải là cơ sở chúng Thánh
tăng ở, trong cơ sở này Thầy đã chuyển
hóa rất nhiều, loại trừ những cúng bái tụng niệm, mê tín chỉ còn chưa tổ chức
cách thức về ăn uống cho trọn vẹn, ăn uống ở đây còn giống Đại Thừa (nấu ăn) mà
hạnh về ăn uống của đạo Phật rất là
quan trọng vì
nó là nuôi
chánh mạng cho các tu
sĩ, nếu không
tổ chức khâu này
thì đương nhiên sống theo kiểu Đại Thừa
là nuôi tà mạng,
mà nuôi tà mạng thì tu sĩ không bao giờ ly
dục ly ác pháp
được, nếu không ly dục ly ác pháp
thì tu sĩ không bao giờ nhập chánh định được.
Vì thế, con
có duyên với Chánh Pháp mà duyên tu chưa tới, nếu có cơ sở sống đúng phạm hạnh Thầy
hướng dẫn tu tập, đừng
tu sai lời dạy của Thầy thì quyết định trong một đời
này con sẽ thực hiện được nguyện ước xuất gia tu hành, chấm dứt sanh tử luân hồi.
Cháu Nhựt cũng vậy, chỉ
trong một đời
này mà thôi.
Con và cháu Nhựt đều có đủ duyên với
chánh pháp nên đã gặp Thầy và có
lòng tin những gì Thầy dạy, nhưng duyên
chưa tới nên cháu
Nhựt và con vẫn còn trôi lăn
trong việc kinh doanh.
Tám năm trời
Thầy giao cho Chơn Tâm lo liệu cơ sở tu
hành ở Phước
Hải, nhưng gặp nhiều
trắc trở khó
khăn cho đến
nay chưa xong. Âu
đó cũng là
duyên chưa đủ,
phước chúng sanh còn mỏng, nên Thầy bảo
con còn yếu chưa tu được ở
giai đoạn 2 là lý do
này để con yên tâm tu tập xả tâm trong
các đối tượng giao tiếp của gia đình và xã hội.
Vài hàng con
rõ, Thầy có lời thăm chúc cả gia đình
con được mạnh khoẻ an vui sống đúng đạo
đức nhân quả
không làm khổ
mình, khổ
người
Kính thư
XIN THỈNH
KINH
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xin Thầy cho con
Đường Về Xứ
Phật tập 4, 5, 7, 9, 10.
Đáp: Tập
4, 5, 7,
9, 10 khi nào
nhuận xong Thầy sẽ gửi đến con. Hiện giờ Thầy đang nhuận lại tập 3, tập
7 và sắp cho in tập 9.
Muốn cho bộ
sách có một giá trị về các pháp hành của Phật
giáo cụ thể
và thiết thực thì sự nhuận lại là một điều hết sức
quan trọng không thể thiếu
được. Trước kia Thầy nghĩ rằng chỉ cần giảng dạy sao cho người
nghe hiểu và tu tập được mà
thôi, nhưng sau khi đã
viết thành sách, nếu không cẩn thận chỉ dùng sai “từ” là
đã giết người
không những một thế hệ
mà nhiều thế
hệ. Tuy tuổi già sức yếu Thầy làm việc
22 trên 24 giờ, trừ ra lúc
nào quá mệt thì phải nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe để rồi
tiếp tục làm việc nữa vì Thầy cảm thấy bổn phận và trách nhiệm
của mình quá lớn đối với mọi người và tiền đồ của Phật giáo.
Sách chưa thể
cho ra đời mà lại muốn cho ra đời thì phải làm hết bổn phận và sức lực của
mình. Không thể
xem đời sống của
con người như cỏ rác được, khi cầm
cây bút viết
nhất là viết sách về đạo đức thì
phải thấy trách nhiệm, những gì mình đã
tu được thì mới dám nói, còn tu chưa được mà nói ra là giết người.
Viết một cuốn
sách là trải lòng thương yêu chân thật của mình
trên đó đối với mọi
người. Nếu một người
viết sách vì mọi nhu cầu khác thì ở
đây Thầy xin
không dám bàn. Đối với Thầy viết sách là đem lòng yêu thương đến
với mọi người, muốn
cho mọi người
đều cũng thương yêu nhau, đừng
làm khổ cho nhau.
TU SAO LÂU
QUÁ
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Cô Út tu thời còn đức Phật, đến nay vẫn chưa
xong, sao lâu thưa Thầy?
Đáp: Không
những riêng cô
Út mà còn biết
bao nhiêu người khác
chưa xong. Số đệ tử của
đức Phật rất
đông kể cả cư
sĩ và
tu sĩ, chỉ riêng tu sĩ là 1250 vị tỳ kheo còn cư sĩ
thì vô số kể mà thành tựu thì chẳng có là bao nhiêu.
Thời gian
2544 năm mà được
thân người trở lại là một sự may
mắn nhất và còn nhớ lại chánh pháp của đức Phật là một điều hy hữu.
Biết bao
nhiêu người trước
kia đã từng theo tu học với đức Phật mà hiện giờ là
hòa thượng, thượng tọa, đại đức tăng, ni và vô số cư sĩ học giả từng biên soạn
viết kinh sách thế mà chẳng nhớ đúng được chánh pháp của đức Phật trong khi kinh
sách Nguyên Thủy họ nghiên cứu
rất kỹ, còn
cô Út thì không
học kinh sách một
chữ nào mà
tu tập và thực hành
đúng chánh pháp, còn Thầy thì phải lặn hụp trong giáo pháp của kinh
sách phát triển
trên 30 năm rồi mới trở về đúng
chánh pháp của Phật.
Nếu đời nay
cô chỉ biết giúp người tu mà không
lo cứu mình
thì cũng còn trôi
lăn biết bao nhiêu đời nữa mới
xong.
CHẤN HƯNG PHẬT PHÁP
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Xưa đức Phật thường quan sát
chúng sanh nào đủ
duyên để độ, nay sao Thầy
không làm thế để cho chánh pháp của Phật được
chấn hưng nhanh?
Còn như quý vị đệ tử của Thầy
như thầy Minh Tông từng sống gần bên Thầy 3 năm, đáng
lẽ phải biết Thầy
nhiều và tin Thầy
hơn. Sao lại còn cho Thầy bịa lý “tịnh chỉ hơi thở”.
Đáp: Khi
tu xong, Thầy
đã quan sát chúng sanh thấy không có duyên, nên xin Hòa Thượng nhập diệt, Hòa Thượng
không chấp nhận yêu cầu Thầy ở lại giúp Hoà Thượng, cho nên Thầy ở lại chỉ có
trợ giúp cho Hoà Thượng để lôi họ về với
chánh pháp của đức Phật, nhưng
duyên chúng sanh
quá mỏng đối với
chánh pháp nên
khó tạo cho họ
có niềm tin,
còn bây giờ là Thầy tạo
duyên mới để
chúng sanh biết được chánh pháp của đức Phật.
Từ 8, 9 năm
nay Thầy nhận người
vào tu là nhận
theo cách miễn
cưỡng, chứ Thầy
đã biết rằng họ không tu được vì họ mang đầy những kiến chấp và những
thói quen tu tập sai nhiều đời, chỉ riêng có Mật Hạnh kiến chấp và tu sai pháp
thì không có nhưng nghiệp đời còn nặng.
Mật Hạnh giống
như Tỳ Kheo
Citta trong thời đức Phật ba lần hoàn tục và cuối
cùng chứng quả A La Hán.
May mà Thầy dạy những gì
trong kinh sách của Phật đều có dạy,
chứ nếu Thầy dạy ngoài kinh sách theo kinh nghiệm bản thân tu tập của
mình thì chắc chắn
không bao giờ ai tin Thầy,
dạy đúng trong
kinh như vậy mà
Minh Tông còn nói Thầy bịa. Khi tu hành có được chút ít kiến giải, có những thần
thông tưởng rồi tự cho mình là hơn Thầy, con người thời nay là vậy. Họ tu hành
không lấy sự giải thoát thân tâm, mà lấy thần thông và kiến giải cho là cứu
cánh. Đó là
cách thức đi ngược lại với
Phật giáo, đi ngược lại với Thầy
để rồi
sau này sẽ có những sự hối tiếc.
Minh Tông
có trình độ học thức trên đại
học, ham tu, tu theo Mật
Tông, Tịnh Độ Tông,
có nghiên
cứu kinh sách Phật
nhưng không nắm được yếu chỉ của
đạo Phật vì bị ảnh hưởng kinh sách phát triển.
Khi gần Thầy
còn mang bản
ngã rất lớn cho mình
có học cao nên
không nghe lời Thầy dạy
xả tâm cứ
tu ức chế
tâm cho hết vọng
tưởng nghe nói tịnh
chỉ âm thanh
và tịnh chỉ hơi thở thì cứ dùng pháp hướng tâm để tịnh
chỉ âm thanh và hơi thở cho đạt được. Do tu sai ức chế tâm
nên rơi vào tưởng pháp,
đưa ra nhiều tưởng giải, Thầy dùng lý chánh pháp của đức Phật bác sạch những
tư tưởng của Minh Tông, không ngờ
Minh Tông quá
cố chấp những tưởng
giải của mình nên mới nói Thầy bịa đặt
“tịnh chỉ hơi thở và không chấp nhận hạnh
độc cư”, thách thức với Thầy trong thời gian ngắn Minh Tông sẽ chứng
đạo bằng một lộ trình khác và thực hiện thần thông cho Thầy
xem, nào ngờ con đường
khác của Minh
Tông dẫn Minh Tông đi đến thổ huyết
một cách kinh khủng.
Khi bị ra
huyết như vậy phải đi bác sĩ trị bệnh một thời gian khá lâu. Do không tin Phật
pháp có lời phỉ báng chánh pháp của Phật, nên phải trả một quả nữa, sau khi được
con bảo
lãnh ra nước
ngoài thì lại té thang lầu gần như muốn chết. Thật đáng thương!
Bởi Phật
pháp là một chân lý của loài người, khi
tu hành
chưa chứng đạo, thì đừng nên
ăn nói một
cách bừa bãi
làm lệnh lạc nghĩa
lý của Phật
thì phải chịu quả báo
trong hiện kiếp, không thể nào tránh khỏi. Trên đây là một cụ thể
rõ ràng qua gương nói
sai nghĩa lý Phật pháp mà thọ quả
báo như vậy. Xin quý vị lưu ý cảnh giác, khi tu hành chưa tới nơi, tới chốn thì
nên im lặng như Thánh.
DÙNG THẦN THÔNG
ĐỘ CHÚNG SANH
Câu hỏi của
Diệu Tâm
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Thầy không dùng thần thông để độ Minh Tông và Mật Hạnh, để uổng phí công
lao tu hành mà không đến đích, để giúp Thầy chấn hưng Phật pháp.
Đáp: Có
chứ, Thầy đã
thể hiện thần thông
giáo hóa vào
mùa hạ năm
1995, ngồi suốt 15 ngày
đêm không ăn uống, tịnh chỉ
hơi thở hoàn toàn
và cuối năm
1999, sau khi làm
việc quá sức
bệnh phổi Thầy tái phát, vi trùng phổi đề
kháng thuốc nên uống và chích thuốc không thuyên giảm, bác sĩ và phật tử khuyên
Thầy nên
đi nằm bệnh
viện, mỗi lần
ho đều khạc ra máu.
Thầy xác định với phật tử: “Đã là một người tu thì không chấp nhận nằm bệnh
viện phải làm chủ bệnh tật như thế nào để mọi
người trực tiếp
nhìn thấy sự làm chủ đó qua Phật
pháp mầu nhiệm”. Thầy vào thất và xin cô Út mỗi bữa ăn ngọ cho Thầy thêm một ly
nước cam tươi, nếu không có thì cho Thầy một ly sữa, suốt 15 ngày Thầy dùng
tâm lực
của mình để hồi phục cơ thể, lúc bây giờ
Minh Tông cũng
đã chứng kiến
điều
này.
Về thần
thông có ba loại:
1- Thần thông giáo hóa
2- Thần thông ký thuyết.
3- Thần thông biến hóa.
Những thần
thông mà Thầy vừa thể hiện
ở trên
là thần thông
giáo hóa, vì thần thông này có lợi ích rất lớn cho người tu tập
như con đã thấy:
1- Để chứng minh Thầy nhập mười lăm ngày thử
không ăn uống hơi thở hoàn toàn tịnh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!