THÂN HÀNH NIỆM
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Con
kính xin được thưa hỏi:
Tối và khuya
2 giờ sáng, con thực hành “Thân Hành Niệm”. Con ngồi kiết già rất vững chắc, vậy
mà có một lực đẩy cái thân của con nằm sát chiếu, và khi đó con tác ý rằng:
“Cái thân phải ngồi dậy, thẳng
cái lưng lên”,
thì cái lực đó, nó đẩy tiếp,
rất nhanh đến nỗi con không
cự lại được,
giống như là một bài thể
dục và
con thấy vui quá!
Và con cứ để cho
cái lực đẩy đó,
nó đẩy cái
thân con, con theo dõi nó, càng mỗi
lúc càng mạnh, sau rồi con tác ý: “Cái
thân phải đứng
yên không được
nhúc nhích” thì nó dừng lại, khi nó dừng lại, thì bắt đầu,
cái đầu trọc của con xoay liên
tục, huyệt bách hội hoạt động rất mạnh (Luân xa số 7) và con tác
ý: “Cái đầu phải đứng lại không
xoay nữa” thì nó hết xoay, khi
con đứng lên đi kinh hành
thì ôi thôi!
Không thể đứng vững có một
cái lực đẩy cái thân của con nhào té, hai cái chân của con nhẹ hẫng. Con phải cố
gắng bám
chặt hai
bàn chân xuống
nền thì mới đứng
vững, và
khi con tác ý: “bước” thì ôi
thôi! Một tiếng bước là cái thân
của con giống như là bay luôn, con không ám thị tác ý nữa, và đứng một chỗ tay
vịn vào cửa sổ để làm điểm tựa, không thôi con sẽ bay ra khỏi thất, một cái lực
khủng khiếp chưa bao giờ con cảm
nhận như thế.
Và khi con ngồi xuống
ghế nó đẩy
cái thân của con, con tác ý:
“Thôi đừng có đẩy nữa”
tác ý xong nó hết,
khoảng một phút
sau nó đẩy tiếp và
giờ đây khi viết như thế này
nó cũng đẩy con
luôn. Thật kỳ lạ! Con để ý,
lúc ăn cơm cũng
thế, lúc con ngồi
rửa chén, và đi
toilet cũng thế! Con giữ cái
tâm của mình
thanh thản, chánh niệm thì nó hoạt động rất mạnh.
Con kính
xin Thầy từ
bi hoan hỷ giảng
trạch cho con được hiểu
cái lực đó,
nó xuất phát từ
nơi đâu và
nó có lợi
hay có hại
cho con???
Khuya
nay con
dậy 2 giờ 30’
con tu chỉ có
một tiếng thôi,
không hề có một niệm
xen vào và cái lực đẩy nó đến hỏi
thăm con như thế đấy.
Vì hồi hôm
con thức đến gần một giờ
sáng, con ngồi kiết già với hai
câu tác ý: “Tâm như cục
đất từ bỏ
tham, sân, si”, “biết rõ
toàn
thân” rất
là tuyệt vời!
Tâm của con
nó im lặng
không cự nự!
Con
không có
buồn ngủ, không
mệt nhọc, cơ thể của con nhẹ
nhàng lắm. Mặc dù con ngủ chỉ có hai tiếng trong một ngày. Con thấy trong con
có một cái gì vui lắm…
Con cảm nhận trái
tim con thương yêu cuộc
đời này quá…!
Sự tu hành rất khó,
gian nan vô cùng.
Nên con rất thương
kính Thầy, bởi vì
con đường tu
hành rất khó…
mà Thầy đi qua được.
Thầy thật vĩ đại và cao
thượng biết bao…! Vì thế, con cũng
sẽ nối gót của Thầy, quyết chí cũng sẽ đi qua được. Và cuộc
đời của con cũng sẽ
nói lên những
gì Phật đã
nói, những gì Thầy đã nói và sẽ làm những gì Phật đã làm và những gì Thầy
đã làm. Con sẽ sống như Phật đã sống, như Thầy đã sống v.v..
Đôi dòng con
kính dâng lên Thầy.
Con kính
chúc Thầy luôn
được mạnh khỏe.
Kính ghi
Con của Thầy
Nguyên
Thanh.
GIÂI TRÌNH
NHỮNG TRẠNG THÁI
Đáp: 1/
Trong thân ngũ ấm có “sắc ấm, tưởng ấm và thức ấm”.
Lực của sắc ấm
là lực ám thị của ý thức (Ý thức lực).
Lực của tưởng ấm
là lực của ma
ngũ ấm (Tưởng thức lực).
Lực của thức
ấm là lực của 7 giác chi (Tâm thức lực).
Lực của tưởng và lực của
tâm không có liên quan nhau.
Khi tu tập
tâm chưa ly dục
ly ác pháp hoàn toàn thì lực của
tưởng thường xuất hiện phá lực của
ý thức
làm cho chúng ta khó phân
biệt.
Cho nên, các
huyệt trên thân khai mở tức là dao động thì lực tưởng xuất hiện mà hầu hết ngoại đạo
thường tu tập để khai mở những huyệt
đạo này khiến
cho năng lực
này trở thành thần thông.
2/ Có
chánh niệm, tức
là ý thức
thanh tịnh, chứ không phải tâm thanh tịnh.
Có đủ
7 năng lực
giác chi thì thân
tâm mới thanh tịnh
hoàn toàn, nhưng
phải biết do ý
thức thanh tịnh
thì mới có 7 năng
lực giác chi xuất hiện. Có chánh
niệm thì ý thức mới thanh tịnh, chưa có
chánh niệm thì coi
chừng có tưởng lực xuất hiện.
Có tưởng lực xuất hiện thì cần phải dẹp. Một người tu khi chưa
có Bảy Năng lực Giác
Chi thì không làm
sao nhập được Sơ Thiền. Chưa nhập được Sơ Thiền thì làm sao
làm chủ thân
tâm cho được.
Phải không con?
Cho
nên, hiện giờ con đang tu tập
thì chỉ có ý thức thanh tịnh, chứ không có tâm thanh tịnh. Ý thức thanh
tịnh lúc ban đầu là nhờ xả tâm
ly dục ly ác pháp
thô kế sau đó
mới dùng pháp Thân Hành Niệm tu tập
để thực
hiện Tứ Thần Túc, Có Tứ Thần Túc mới nhập các định. Đó là đường đi của Phật
giáo từ thấp đến
cao, con nên lưu ý.
a/ Cái đầu
con quay, tức là huyệt bách hội khai mở,
lúc bây
giờ ý thức
con bất động vì bị ức chế bằng
pháp Thân Hành Niệm. Ở đây con đã tu
sai pháp Thân
Hành Niệm, biến
pháp môn Thân Hành Niệm trở thành pháp ức chế tâm. Con nên hiểu Pháp môn
Thân Hành Niệm là pháp tu lệnh tác ý để sau này truyền lệnh thân tâm
con làm theo. Đó là Pháp
môn Tứ Như Ý Túc.
Ngoại đạo tu
tập muốn cho ý thức thanh tịnh bằng cách
dùng pháp ức chế, nên tạo cơ hội khai mở các huyệt đạo. Ngoại đạo không
có ý thức thanh tịnh do ly dục ly ác pháp hoàn toàn, vì thế mà không có tâm
thanh tịnh.
b/ Huyệt
bách hội không có liên quan đến
Bốn thiền và
Tam Minh.
Huyệt bách hội
có liên quan với ngũ thông của ngoại đạo.
Con
đang nhận lầm
ý thức và
tâm thức. Khi nào con nhập
Bốn thiền thì tâm
thức con mới trỗi dậy, còn bây giờ
con đang tu tập, toàn là dùng ý thức.
Cho nên, hiện
giờ tu tập là tu tập ý thức thanh tịnh, ý thức chánh
niệm, ý thức tỉnh
giác, ý thức định tỉnh, chứ không phải ức chế ý thức. Chỗ này các con nên lưu
ý: Pháp của Phật tu tập xả tâm, chứ không có ức chế tâm. Vì vậy, trong khi tu tập
các con hãy coi chừng, tu sai là ức chế tâm đó, ức chế tâm thì tưởng lực xuất
hiện. Cho nên, tu tập theo pháp của Phật thì tu tập một
cách rất tự nhiên theo
từng đặc tướng riêng của
mình, không được
chịu đựng, gồng mình,
gò bó thân
tâm bất cứ một sự việc gì đang
xảy ra trên thân,
thọ, tâm và
pháp mà đức Phật gọi là đẩy lui
các chướng ngại
pháp.
Chỉ trừ khi chúng ta tu hạnh nhẫn nhục, lúc ác
pháp quá cực mạnh rất khó nhẫn thì Phật mới dạy: đưa lưỡi lên nóc họng và cắn
chặt hai hàm răng để kham
nhẫn cho bằng được
lúc ấy ác pháp đang diễn biến tới tấp.
Những lực xuất hiện
nơi thân tâm
con hiện giờ chưa đủ 7 lực, thì nên coi chừng là lực của tưởng,
mà lực của tưởng là lực của ma ngũ
ấm.
Ta biết sử dụng
lực ma chứ đừng để lực ma sử dụng ta.
Biết sử dụng lực ma để tạo thành lực Bảy Giác Chi. Vì
lực Xả Giác Chi sẽ giúp cho ý thức ly dục ly ác
pháp hoàn toàn.
Nhờ đó tâm ta
mới không phóng
niệm và phóng
dật, nhờ không phóng
niệm, phóng dật
nên tâm mới được
định tỉnh. Tâm được định
tỉnh thì Trạch Pháp Giác Chi mới xuất hiện.
Trạch Pháp Giác Chi xuất hiện, nhờ
nó mà ta nhập được
Sơ thiền, Nhị thiền,
Tam thiền và Tứ thiền, không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Nhờ nhập Tứ thiền ta mới đánh thức tâm thức, nhờ tâm thức hoạt động ta mới hướng
tâm đến Tam Minh chứng quả A La Hán.
PHÁP THÂN
HÀNH NIỆM
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Tại
sao con phải thực hành, Thân
Hành Niệm bằng
phương pháp là đi nửa
tiếng mà chỉ
có 4 vòng hoặc 3
vòng thôi!
Bởi vì thở
5 hơi đi kinh hành
20 bước để có được sự định tỉnh
trong mỗi thân hành rất khó. Bởi vì từ cảnh tịnh (thở 5 hơi) bước sang cảnh động
(kinh hành 20 bước)
để có sự định
tỉnh rất
khó, nó đòi hỏi hành
giả phải tập trung ức
chế một cách cao độ trong khi
tu tập, vì thế con suy nghĩ phải
tìm ra 1 phương cách để trị lại vọng
tưởng mà không bị ức chế, là khi thực hành mỗi vòng không được có niệm khởi. Và
con thực hành mỗi vòng trong 7 phút và con theo dõi rất kỹ lưỡng miên mật trong
mỗi vòng thì có kết quả niệm không khởi, nhưng nếu sơ suất, lơ đễnh một chút
xíu là có niệm liền như khi nó được thuần
rồi (Định Giác
Chi xuất hiện). Ôi
thôi! Thật là
hay!… Đi rất
thoải mái, con không phải tác ý,
mà là
cái tâm của nó
tự
điều khiển, nó tự tác ý hay lắm! Vui lắm Thầy ơi!
Nhưng bây
giờ con chưa đủ nội lực để Trạch
Pháp Giác Chi xuất hiện
trọn vẹn, còn rất yếu, vì chưa đủ lực. Con tư duy rằng:
tu rất khó, để có được sự định tỉnh trong thân hành, nhất là khi xả thiền con nghĩ rằng: nếu
con thiếu sự kỹ lưỡng, kín đáo, dè dặt, cẩn thận thì con sẽ không
tu nổi, và
phương châm của
con mỗi ngày là phải: cẩn thận, dè dặt, kín đáo, kỹ lưỡng
trong khi tu tập hoặc đối cảnh tiếp
xúc với mọi người
để khỏi phải
làm khổ mình
và khổ người.
Đôi dòng
con thành kính
gửi đến bậc Thầy tôn kính nhất, con kính chúc Thầy luôn khỏe mạnh
và mau bình
phục để chúng con được thưa hỏi trong pháp tu của mình.
Kính ghi
Con của Thầy:
Nguyên Thanh
10-7-2002.
TB: KÍNH BẠCH
THẦY!
Con
kính xin Thầy đọc kỹ lại bài viết thực
hành của con và chỉ dạy cho con, những sai sót trong bài thực hành.
ĐỂ XÁC ĐÐNH SỰ TU TẬP CỦA CON
Đáp: Sự
tu tập của
con đã trình bày
ở trên là tu tập rất đúng pháp Thân Hành Niệm. Nhưng các con cần lưu ý khi tu tập pháp Thân Hành
Niệm thường hay có những trạng thái tưởng xuất hiện, nếu thấy nó xuất hiện thì
phải dùng ý thức ngăn và diệt nó.
Và đây là Thầy
khuyên chung các con cần phải tu tập pháp Thân Hành Niệm đúng như vậy, vì
có tu tập
đúng như vậy
thì mới thấy được tâm định tỉnh
trên thân hành.
Tâm có định tỉnh trên
“Thân Hành” thì Bảy
Giác Chi mới xuất
hiện trọn vẹn.
Khi có đủ Bảy
Giác Chi thì lo gì mà chẳng nhập được Bốn Thiền và Tam Minh;
thì có lo gì
không làm chủ được
sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Nhưng các
con nên nhớ! Còn phải chịu nhiều
gian nan cực khổ và
còn biết bao nhiêu sự thử thách đang chờ đón các con,
nếu các con chỉ cần có một niệm
thối chuyển thì bao nhiêu
công phu
tu tập của
các con như dã
tràng xe cát.
Hỡi các
con! Sanh tử
là một chiến
trận cam go nhất của đời người, nếu
không đủ nghị lực, kiên cường,
gan dạ, bền
chí dũng mãnh,
cảm tử... Một
là chết, hai
là sống, nhưng
sống phải chứng quả A
La Hán. Đó là một sự quyết
tử:
buốt
“Chẳng phải
một phen xương
lạnh
Hoa mai đâu
dễ ngửi mùi hương”
Như vậy các
con mới biết giá trị quả
vị A
La Hán không có vật gì mà đem sánh được. Nó rất
tuyệt vời các con ạ!
Hỡi các
con! Hãy tu tập
dũng mãnh, gan dạ, bền chí, kiên cường và bất
khuất trước bất cứ
một cảm thọ
nào; trước bất cứ một
chướng ngại pháp nào, các con đều phải vượt qua, vượt qua một cách
anh dũng, đều phải giành
cho được chiến thắng về mình.
Chúc các con thành công tốt đẹp.
Kính ghi
Thầy của các
con
DỪNG CÁI Ý
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Tập dừng
cái ý có phải: đó là chánh niệm tỉnh
giác không?
Con tư
duy rằng: Nếu
chánh niệm tỉnh giác không đủ lực thì rất khó có được sự
tỉnh giác, đó là cơ bản để bước vào chánh định, như thế có đúng không thưa Thầy?
Kính bạch
Thầy: Những điều
con thưa hỏi, con kính xin Thầy viết cho con đôi dòng để sự thực
hành của con được sung mãn.
Con đã có được sự định
tỉnh trong khi tu tập pháp Thân Hành Niệm, dường như Trạch
Pháp Giác Chi có xuất hiện nhưng còn rất yếu.
Ví dụ: Cánh
tay của con nó đưa lên, là con phải
tác ý đến 3 lần, mới thấy
nó tự động đưa cánh tay lên, như
vậy con mới biết con chưa đủ nội lực hay nội lực con còn yếu.
Kính bạch
Thầy! Tập dừng
cái ý có phải:
đó là chánh
niệm tỉnh giác không?
ĐỂ TRÂ LỜI
NHỮNG CÂU HỎI CỦA CON
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC
Đáp: Pháp
môn Chánh Niệm Tỉnh Giác Định
là pháp môn tu
tập “dừng cái
ý” đúng như con đã tư duy. Muốn dừng
ý mà không tỉnh giác trên thân
hành thì không bao giờ
dừng ý được. Thân hành thì có:
thân hành nội và thân hành ngoại. Nếu
hành giả tu tập mà cứ trên thân hành tập trung tâm
thì sẽ bị ức chế,
tâm bị ức chế
thì sẽ rơi vào
thiền tưởng và
tu tập như vậy chẳng bao giờ có ly dục
ly ác pháp, có nghĩa là chẳng bao giờ
lìa hết tâm
tham, sân, si. Vì thế, muốn tỉnh
thức trên thân hành thì phải dùng ý thức điều khiển tâm (Như lý tác ý) cho tâm
ly dục ly ác pháp lìa hết tham, sân, si. Tâm
lìa hết tham,
sân, si thì ý
thức dừng, tu tập như vậy thì không bị ức chế tâm.
Vấn đề này cần
phải lưu ý: Dừng ý thức không có nghĩa
là dừng vọng
tưởng. Dừng ý thức là phòng hộ sáu căn, do đó ý thức
không phóng dật.
ĐỊNH TỈNH
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: 2/
Con tư duy rằng: Nếu
chánh niệm tỉnh giác không đủ lực thì rất khó có được sự tỉnh
giác, đó là cơ
bản để
bước vào chánh định, như thế có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Tâm
chánh niệm tỉnh giác là cơ bản để bước vào “định tỉnh” của tâm, chứ không phải là
“chánh định” vì
“chánh định” là Bốn Thiền, như đức Phật đã xác định: “Chánh Định là Bốn Thiền”. Muốn vào Bốn Thiền thì phải có Bảy Năng Lực Giác
Chi. Có Bảy
Giác Chi mới nhập được Bốn Thiền. Hành giả tu tập không có Bảy Năng Lực Giác
Chi thì đừng mơ nhập Bốn Thiền và Tam Minh.
Con nên lưu
ý những điều sau đây:
1- Có Chánh
niệm tỉnh giác
thì tâm mới ly dục ly ác pháp.
2- Có
tâm ly dục ly ác
pháp thì mới có định tỉnh.
3- Có định tỉnh
thì tâm mới không phóng niệm, phóng dật.
4- Tâm
không phóng niệm, phóng
dật thì mới có Bảy Năng Lực Giác
Chi.
5- Có Bảy Năng Lực Giác
Chi thì mới nhập được Bốn Thiền.
6- Có Bốn
Thiền thì mới có Tam Minh.
7- Có Tam Minh
thì mới có chấm dứt tái sanh luân hồi.
Kính ghi
Thầy của con
NGŨ ẤM MA
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính
Bạch Thầy Tôn
Kính! Con chiến đấu với “ngũ ấm ma” bằng pháp
môn Thân Hành Niệm kết hợp rất thiện xảo với Tứ Niệm
Xứ sáng, chiều, tối, khuya. Hôm
nay con đã chiến thắng được nó với pháp hành Thân Hành Niệm, nó đánh
con, bây giờ con đánh lại nó bằng phương pháp
“như lý tác ý” khắc
phục cho bằng được.
Khi con bắt
chân lên ngồi kiết già, con tác
ý: “cái đầu không
được xoay” 3 lần,
nó nằm im
lặng, có
nhúc nhích, lực rất yếu, con tác ý bằng
lời nói luôn, không tác ý bằng tâm, hai con mắt của con mở to ra và cương quyết,
quyết chí điều khiển nó cho bằng được.
Con tư duy rằng: con sẽ
khắc phục được nó bằng pháp hành,
Thân Hành Niệm, con ôm chặt pháp và điều khiển nó. Mới đầu khó khăn lắm,
nhưng với sự quyết chí của con, cái lực
đó nó giảm dần dần… Trước
khi vào thực
hành, con quỳ trước tấm ảnh của Đức Phật
và của Thầy (trong
thất của con,
có treo hình
Đức Phật và Thầy), con nguyện rằng, con sẽ khắc phục nó cho bằng được, bằng
pháp hành: Thân Hành Niệm, phải điều khiển cái thân này cho được, phải làm chủ
nó, từ thân cho đến tâm. Những tư tưởng và ý tưởng của mình, con ước nguyện như thế, và
lúc đó nước mắt của
con tuôn rơi ra...
Bởi Đức Phật
và Thầy làm được,
tu được, làm chủ sanh tử được, thật là vĩ đại và cao thượng quá!
Nguyên Thanh con quyết
chí chiến đấu đến tận cùng,
dù con có chết
con cũng sẽ ôm
pháp Thân Hành
Niệm. Và thế là
con vào tu với trái tim đầy nhiệt huyết
nóng bỏng, cố gắng nỗ lực khắc phục “ma
lực” đó bằng pháp hành “Thân Hành
Niệm”.
Hồi con còn đi học, con tâm đắc nhất
câu nói của Bác Hồ: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không
bền, đào núi
và lấp biển
quyết chí sẽ thành công”.
Và thế
là con ôm pháp
Thân Hành Niệm với
vũ khí sắc bén nhất là
“như lý tác
ý” để khắc phục nó
bằng những câu tác ý sống
động và sáng tạo của con. Cái thân của con nằm im, lực yếu dần, cái đầu trọc của
con nó bớt xoay. Mỗi lần nó
nhè nhẹ xoay hoặc
lắc, con nhắc một câu:
“thôi đừng có
xoay hoặc lắc nữa, nằm im
đi!” nó dễ thương lắm, nó nằm yên liền, con mừng và vui quá!
Khi con
đi kinh hành, con
tác ý “bước” trước
khi tác ý “bước”
con nhắc liền,
“không được đẩy cái thân, đôi chân phải bám chặt nền nhà vững
chắc lên” và thế là
con bước. Ma lực
đó có đẩy nhưng rất yếu, nhè nhẹ thôi.
Con đi Thân
Hành Niệm rất thoải mái, và con cảm nhận vui ơi là vui! Vì con đã chiến thắng
được nó bằng pháp hành Thân Hành Niệm. Với
vũ
khí sắc bén “như
lý tác ý” và
bây giờ đây con
không sợ gì hết, tâm
con vững mạnh, sau khi vượt qua được
chướng ngại, con nhìn thấy trong
con trưởng thành lên một chút xíu. Con
không sợ một chướng ngại nào hết, bởi
vì
con có Thầy,
có pháp hành của Phật,
có những vũ khí sắc
bén nhất đó
là “như lý
tác ý” của Phật của Thầy để lại…,
cho nên Nguyên Thanh con, vững tin để tiến lên.
Nếu con khắc
phục “ma lực ngũ ấm” bằng pháp môn Tứ Niệm Xứ đẩy lui chướng ngại pháp ra khỏi
thân tâm. Con tư
duy rằng khắc phục bằng pháp môn Tứ Niệm Xứ nó dễ… cho
nên con khắc phục nó bằng pháp môn: Thân Hành
Niệm, vì con tu
Thân Hành Niệm
nó xuất hiện “ngũ ấm ma”
thì bây giờ đây
con sẽ sử dụng
Thân Hành Niệm để khắc
phục cho bằng được, bằng nghị lực, gan dạ,ï quyết chí của con để đẩy
lui chướng ngại pháp
ra khỏi than tâm.
Và con thắc
mắc rằng: tại
sao lại do ngũ ấm ma tạo
ra (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức) cái lực đó do ngũ ấm tạo thành nó có liên
quan gì đến Thất Giác Chi không?
Và tại sao
khi tâm thanh tịnh có chánh niệm thì nó
mới xuất hiện, còn nếu cái tâm không thanh
tịnh nó không xuất hiện???
Còn cái đầu
trọc của con nó xoay, tức là huyệt bạch hội hoạt động khai mở, tâm thanh tịnh
thì huyệt bách hội nó mới hoạt động.
Con
kính xin Thầy cho con thưa hỏi là: Huyệt
bách hội nó có liên quan gì đến Bốn Thiền, Tam Minh không?
Và con thắc mắc rằng: tại
sao với tâm thanh tịnh thì
cái “lực đẩy”
đó mới có? Còn với cái tâm
không định tỉnh thì
ôi thôi, nó
không bao giờ xuất hiện???
Có nghĩa
là khi tâm
con, không phóng tâm, không phóng dật “cái lực đẩy” nó mới
xuất hiện, và huyệt bách hội hoạt động (cái thân thì nhẹ nhàng, cái đầu
thì rỗng suốt) nhưng vì cái lực đẩy đó, nó mạnh quá cho nên làm
chướng ngại trên thân
và tâm, vì thế con mới
dùng pháp hành “Thân
Hành Niệm” để khắc phục nó, khắc phục nó cũng không phải dễ
dàng. Với sự quyết chí con cũng
làm được, nhắc
nó bằng những câu tác ý sáng tạo
của mình. Thì nó yếu dần thôi và giờ đây thân và tâm của
con yên ổn rồi, không còn bị lực đẩy đó
làm chướng ngại, lực đẩy yếu dần.
Con
kính gửi lên Thầy bài viết nhỏ bé của
mình khi con vượt qua được những chướng
ngại trên pháp hành của mình. Bằng trái tim đầy nhiệt huyết,
cố gắng nhiệt
tâm tinh cần, quyết chí và dũng mãnh.
Con thành
kính dâng lên Thầy, người
đã trao truyền cho con sự
dũng mãnh tràn đầy
nghị lực, kiên
cường, gan dạ, bền lòng vững
chí, khi
gặp khó khăn
lòng không lo sợ, tâm phải luôn định tỉnh, kham nhẫn…
Con thành
kính tri ân.
Kính ghi
Con của Thầy:
Nguyên Thanh
Ngày 12
tháng 7 năm 2002.
NÊN PHÂN BIỆT BA LỰC
Đáp: Nên
phân biệt ba lực trong thân ngũ ấm. Ba lực đó là:
1/ Ý thức lực
(sắc ấm).
2/ Tưởng thức
lực (tưởng ấm).
3/ Tâm thức
lực (thức ấm).
Trong ba lực
đối với đạo Phật chỉ được quyền sử dụng
ý thức lực,
tâm thức lực
còn tưởng thức lực
thì luôn luôn phải đề cao cảnh giác, để ngăn và diệt trừ nó, không
cho nó phát triển, nếu nó phát triển sẽ đưa hành giả vào tà định. Vì lực của tưởng ấm là lực của
ma ngũ ấm. Lực của ma ngũ ấm thì
lấy dục mà tăng trưởng, tức là lấy lòng ham muốn của con người
làm gốc mà
phát triển. Vì thế, khi lực này phát triển
thì tâm tham, sân,
si càng gia
tăng, ngã càng to lớn nhưng rất thiện
xảo tinh vi lừa đảo trong lối lý luận bưng
bít khiến ngay chính hành giả cũng lầm
lạc. Lực này rất nguy hiểm trên đường tu tập xả tâm ly dục ly
ác pháp. Vì nó không xả
tâm dục và
ác pháp mà lại nuôi lớn ngã và lòng tham dục danh lợi to lớn.
Lực của thức ấm
là lực của Bảy Giác
Chi
(lực của
tâm).
Lực của tưởng và lực của
tâm không có liên quan nhau.
Khi tu tập
tâm chưa ly dục
ly ác pháp hoàn toàn thì lực của
tưởng thường xuất hiện phá lực của
tâm làm cho chúng
ta khó phân
biệt.
Cho nên, các
huyệt trên thân khai mở tức là các huyệt
dao động khi dao
động thì lực tưởng xuất hiện. Ngoại
đạo thường tu tập khai mở những huyệt
đạo này để có thần
thông. Có thần thông để lường gạt
người làm danh,
làm lợi trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Những người tu tập có thần
thông tưởng không bao giờ giải thoát.
Có chánh niệm, tức là ý thức thanh tịnh chứ
không phải tâm thanh tịnh.
Có đủ Bảy
Năng Lực Giác Chi thì tâm mới thanh tịnh, nói cách khác tâm thanh tịnh thì mới
có Bảy Năng Lực Giác Chi.
Ý thức
thanh tịnh thì có
chánh niệm, có chánh
niệm thì coi chừng
có tưởng lực xuất
hiện, có tưởng lực xuất hiện là do tâm ly dục ly ác pháp chưa thật sạch.
Khi chưa có
Bảy Năng Lực Giác Chi thì không làm gì con nhập được Sơ Thiền. Chưa nhập được
Sơ Thiền không làm gì có thân, tâm được thanh tịnh; thân tâm chưa thanh tịnh
thì làm sao nhập lưu được quả Tu Đà Hoàn.
Cho nên, hiện
giờ đang tu tập thì chỉ có ý thức thanh tịnh chứ không có tâm thanh tịnh.
Cái đầu con
quay là huyệt bách hội khai mở, tức là ý thức bị ức chế không vọng tưởng, chứ
không phải ý thức thanh tịnh. Vì thế, con nên
ngăn và diệt
tưởng lực đó để con tu
tập Thân Hành Niệm
cho tâm thật định tỉnh trên thân hành
thì Xả Giác Chi sẽ xuất
hiện, Xả Giác Chi xuất hiện
thì mới giúp con xả
sạch tâm tham, sân,
si... tức là
trên pháp Thân Hành Niệm ly dục ly ác pháp để vào Bất Động
Tâm Định. Bất động Tâm Định là một trạng thái
tâm không phóng niệm và không phóng dật, như Đức Phật đã dạy: “Ta thành chánh
giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Ngoại đạo
tu tập dùng mọi pháp
môn để ức chế
ý thức, khiến cho ý thức
không có vọng niệm. Không có vọng
niệm ngỡ rằng cách thức tu tập
như vậy làm cho ý
thức thanh tịnh,
nói cách khác là làm cho tâm thanh tịnh, nhưng nào ngờ
khi ý thức bị ức chế, không hoạt
động được, nhờ ý thức không hoạt động được, do đó tưởng thức
hoạt động nên mới khai mở các huyệt đạo. Tu theo kinh sách phát triển
thì không có tâm thanh tịnh, mà chỉ có tâm chạy theo dục lạc
vật chất thế gian. Con cứ
nên suy ngẫm lại xem (lời các học giả kinh sách phát triển) thì lời Thầy
nói không sai. Chỉ khi nào ý thức ly dục ly ác
pháp thì ý thức mới thanh
tịnh.
Cho nên,
tất cả các
pháp môn Thiền: Thiền Đông Độ, Đại Thừa, Tịnh Độ
Tông, Mật Tông, Minh Sát Tuệ, v.v.. đều là pháp môn ức chế tâm, do đó
các vị thiền sư này tu sai pháp
Phật nên
đều nhập định
tưởng, do nhập vào định tưởng nên không bao giờ có
ý thức thanh tịnh, ý thức còn chưa thanh tịnh thì
còn nói gì
đến tâm thanh tịnh được. Do đó, các vị tu lâu
năm thì danh lợi càng nhiều, nên đời sống các vị giống như những
nhà giàu tỷ phú.
Huyệt bách hội
không có liên quan đến Bốn Thiền và
Tam Minh. Huyệt
bách hội có liên quan với ngũ thông của ngoại đạo, vì
nó thuộc về thiền tưởng.
Con đang nhận
lầm ý thức thanh tịnh và tâm thức thanh tịnh. Ý thức thanh tịnh chỉ là một sự khởi đầu
cho 7 năng lực giải
thoát của Phật giáo
(Thất Giác Chi)
xuất hiện để thực
hiện tâm thanh tịnh.
Khi nào con nhập
Thiền Thứ Tư thì tâm thức con mới trỗi dậy, còn bây giờ
con đang dùng dụng cụ rốt ráo
Thân Hành Niệm để tu tập ly dục ly ác pháp, đó là ý thức thanh
tịnh.
Hiện giờ con
tu tập là để cho ý thức chánh niệm, ý thức tỉnh giác, ý thức định tỉnh, ý thức
thanh tịnh, chứ làm gì có tâm thanh tịnh ở chỗ này được.
Hiện giờ
con đang dùng
ý thức tu tập
pháp Thân Hành Niệm để ý thức thanh tịnh, nhưng
ý thức của con có
xả ly rất nhiều
vì thế mà nó có được một ít
thanh tịnh, nhờ vậy mà con đã
nhận thấy những lực xuất hiện của Bảy
Giác
Chi nhưng chưa đủ
trọn vẹn, thì lúc
này con nên coi chừng sẽ có lực tưởng và lực này nó thoát ra khỏi sự điều
khiển của ý thức con, nếu con không cảnh giác nó sẽ dẫn con vào thế giới
Ma. Khi tu tập thấy có xuất hiện một trạng thái vượt ra ngoài pháp ý thức dẫn tâm
của con thì nên cảnh giác và tìm mọi cách ngăn và diệt nó thì sự
tu tập của con mới
có đi đúng hướng và đúng đường thì sự tiến bộ nhanh chóng, mà Thầy bảo rằng sử dụng lực
Ma chuyển thành Bảy Giác Chi
là vậy. Nếu theo lực đẩy này thì con bị Ma xỏ mũi. Thầy thường gọi
nó là Ngũ Ấm Ma có nghĩa Ma lưu xuất từ thân ngũ uẩn của con.
Lưu ý: Nên Cảnh
giác những loại Ma chướng này. Đối với
những Ma chướng này. Ta phải biết sử dụng lực
Ma, chứ đừng để lực Ma sử dụng ta. Vì ta có pháp “Như Lý Tác Ý”ù,
tức là ta có phương pháp sử dụng lực của ý thức để đối trị lực của tưởng thức và
nương vào lực của tưởng thức để dùng
nó chiến đấu với ngoại pháp.
Biết sử dụng
lực Ma để tạo thành lực Bảy Giác Chi. Vì trong Bảy Giác Chi có lực Xả Giác Chi,
Xả Giác Chi sẽ giúp cho ý thức ly dục ly ác pháp hoàn
toàn. Nhờ ý thức ly dục
ly ác pháp
hoàn
toàn thì ý thức
thanh tịnh, ý thức thanh tịnh thì Trạch Pháp Giác Chi mới xuất
hiện. Nhờ Trạch Pháp
Giác Chi thì mới
tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử
dụng hoàn toàn, do đó ta mới nhập được Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền.
Nhờ nhập được Tứ Thiền ta mới đánh thức tâm thức (thức uẩn). Nhờ tâm thức hoạt
động ta mới hướng tâm để thực hiện Tam Minh, chứng quả A La Hán vô lậu.
NHỮNG
KINH NGHIỆM
THƯ
Câu hỏi của
Nguyên Thanh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Con có cảm nhận rằng: những lá
thư Thầy viết cho con, là bằng những
kinh nghiệm, tu tập của
chính Thầy, bằng những tháng năm
khó nhọc nước mắt và máu đã rơi…
Vì thế, khi nhận
được những lá
thư này, trái tim con, trân quý
và sung sướng, hạnh phúc… vì đã
được Thầy tin
tưởng và trao truyền.
Con xin ước nguyện sẽ nỗ lực nhiệt tâm tu tập theo như
Thầy đã chỉ dạy cho con, để
đền đáp công lao khó
nhọc của Thầy,
trái tim của con luôn tri ân trong muôn một.
Tâm hồn và
trái tim của con thương kính Thầy
nhiều lắm… bởi
vì con đường
tu hành rất gian
nan khó khăn
vô cùng, gặp
chướng ngại rất nhiều…
Vậy mà Thầy,
đi qua được,
Thầy làm chủ được
sanh tử. Ôi! Thầy
thật là vĩ đại
và cao thượng quá!
Và con cũng sẽ
noi gương theo hạnh của Thầy, con cũng
sẽ quyết chí đi
qua cho bằng được, làm chủ bốn nỗi thống khổ này: sanh, lão, bệnh, tử và cuộc
đời
của con sẽ sống như Phật đã sống, như
Thầy đã sống. Và con sẽ nói lên những gì Thầy đã nói,
và con sẽ làm những gì Phật đã làm, những gì Thầy đã làm. Con
thành kính gửi đến bậc Thầy tôn kính
nhất của cuộc đời con.
Con
kính chúc Thầy luôn khỏe mạnh.
Kính thư Con của Thầy, Nguyên Thanh.
PHẬT
PHÁP KHÔNG CÓ GÌ
BÍ ẨN KÍNH GỬI: NGUYÊN THANH
Đáp: Pháp của Phật
không có gì
là bí mật, bí
truyền cả, mà
là những phương
pháp chỉ dạy cụ thể
rõ ràng sờ sờ trước mắt,
nhưng vì bản chất con người
cẩu thả, thiếu
cẩn thận, thiếu kỹ lưỡng, lười biếng
v.v.. rồi tự mình kiến giải, tưởng
giải chế ra pháp
tu tập mới,
theo kiểu tự hiểu biết trong danh từ chữ nghĩa hoặc được thừa truyền những
nghĩa lý sai mà không qua kinh nghiệm tu hành thực tu, thực chứng của những bậc
đã đạt đạo.
Đạo Phật lấy “THÂN
HÀNH” mà tu tập,
tu tập cho tâm được tỉnh
thức, nhờ tâm tỉnh thức mà thấu suốt được
lý nhân quả vô thường, do thấu suốt được lý nhân quả vô thường nên các pháp ác
không tác động vào thân tâm được. Do các pháp ác không tác động vào thân tâm được
nên tâm định tỉnh, tâm định tỉnh tức là tâm không phóng dật. Khi tâm không
phóng dật là tâm giải thoát, tâm giải thoát là tâm có đủ Bảy Giác Chi. Bảy Giác
Chi là bảy năng lực giúp chúng ta làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi.
Cho
nên, pháp Phật
đâu có gì là
bí mật mà gọi
là: “Giáo ngoại
biệt truyền bất lập
văn tự”.
Pháp của Phật
là pháp dạy trực
tiếp lìa tâm tham,
sân, si, mạn,
nghi, cho nên gọi là: “Ngăn ác diệt ác pháp”, chứ có đâu đi
tìm những pháp mơ hồ “Chân
Không diệu hữu”, cảnh giới ảo tưởng “Tây Phương Cực Lạc”.
Thế mà chúng
ta lại tu lòng vòng loanh quanh ức chế tâm, cuối cùng nhìn lại thì chẳng có ai giải thoát chỉ toàn là lý
thuyết suông.
Chúng ta nên
nhớ pháp
của Phật là pháp xả tâm, ly dục, ly ác pháp chứ không phải
pháp tập trung tâm để nhập định. Chánh định của Phật muốn nhập được là phải có
Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi có được là nhờ ý thức ly dục ly ác pháp, tức là ý thức
thanh tịnh.
Có hiểu rõ
được như vậy thì sự tu tập của chúng ta không có hoài công, vô ích.
Kính ghi
Thầy của
con.
BÐ NGỘI ĐÄO
KHIÊU KHÍCH
Câu hỏi của
Chơn Đức
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Con là Chơn Đức xin Thầy hoan hỷ
chỉ dẫn cho con hiểu những điều dưới đây:
1/ Khi bị
ngoại đạo khiêu khích bằng lời nói nhạo báng nói xấu xa hoặc bằng vũ lực, thì
chúng con phải giải quyết xử trí như thế nào?
Đáp: Chúng
ta nên noi theo gương hạnh của đức Phật ngày xưa, khi đứng trước ác pháp thì phải
“Im lặng như Thánh”.
Trước những
lời khiêu khích, cũng như những lời nhạo báng
nói xấu, cho đến họ dùng vũ lực để đánh chúng ta, thì chúng ta cứ nhẫn nhịn và
chạy tránh là hay nhất.
Đức Phật thường
răn nhắc chúng ta:
“Nó mắng
tôi, đánh tôi Nó hại tôi, cướp tôi Không ôm ấp niệm ấy Hận thù sẽ tự nguôi”.
Lời dạy này trong kinh Pháp Cú, chúng ta
nên áp
dụng vào đời sống hằng
ngày, thì lời khen cũng
như lời chê, lời khiêu
khích, lời nhạo báng,
nói xấu xa cho đến
dùng vũ lực để
đánh, chúng ta đều hóa giải được.
Một hôm, có
một vị Bà La Môn đến chửi mắng Phật, Phật vẫn im lặng, người ấy chửi mắng đã, rồi
bỏ ra về. Thấy thế ông A Nan hỏi Phật: “Sao Đức Thế Tôn không có lời nào?”
Đức Phật bảo:
“- Như người
mang bánh đến cho ta, nhưng ta không
nhận thì người ấy làm
sao? Họ đem bỏ hay mang về?”
Ông A Nan
nói:
“- Bạch Thế
Tôn, họ mang về”.
Phật đáp:
“- Cũng vậy
họ chửi ta mà ta không chửi lại và không hờn giận họ thì cũng giống như một người
mang bánh cho ta
mà ta không nhận thì họ phải mang về
nhà”.
Cách thức im
lặng như Thánh là chúng ta không nhận những lời mắng chửi nhạo báng trên, còn
chúng ta mở lời nói trái, phân phải là
chúng ta đã
nhận những lời mắng chửi nhạo báng
đó. Cũng giống
như người ta
mang bánh cho mình vậy, không nhận
thì họ mang về. Lối nhẫn nhục trên
đây thật là tuyệt vời,
nhưng nếu chúng ta không rèn luyện tu tập đầy đủ sức định tỉnh thì cũng
khó im lặng như Thánh.
Xưa, ông Phú
Lâu Na xin Phật đi vào một xứ xa để độ họ tu tập thiện pháp, nhưng người dân ở
đó rất là hung dữ. Phật hỏi ông:
- Khi người ta chửi ông.
Ông đáp:
- Người ta còn thương con.
Ví dụ:
Khi người ta chửi
con nói con là ngoại đạo thì con
nên thương họ, vì họ nói như vậy
chính họ là ngoại đạo.
Chỉ có ngoại
đạo mới tâm hung dữ chửi mắng người như vậy.
Phật hỏi:
- Khi người ta đánh ông.
Ông Phú Lâu
Na đáp:
- Người ta còn thương con.
Phật hỏi:
- Khi người ta giết ông.
Ông đáp:
- Người ta thương con.
Pháp sai chứ người
đâu có sai,
pháp có pháp ngoại đạo, chứ người
đâu có người ngoại đạo, chỉ vì người
theo pháp sai mà không biết, cho nên chửi mắng người khác là
ngoại đạo làm sai. Vì biết đâu vui kia mất nọ, vui nọ mất kia, người bỏ
pháp tà tu lại đúng
chánh pháp thì sao gọi họ là ngoại đạo được.
Cho nên, khi
người ta mắng chửi mình thì mình chỉ
nên im lặng
như Thánh và
nên thương họ vì họ là người đáng thương.
THANH MINH
Câu hỏi của
Chơn Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có những điều vu khống sai sự thật, có cần phải thanh minh
làm sáng tỏ không?
Đáp: Có
lúc cần thanh
minh nhưng cũng có lúc không cần thanh minh.
Nếu chung
quanh chúng ta toàn là những người ác thì chúng ta không nên thanh minh vì
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!