Thiền Thứ
Ba. Này Agivessana, như vậy
lạc thọ
khởi lên nơi Ta, được tồn tại
nhưng không
chi phối tâm Ta. Xả lạc xả
khổ diệt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú Thiền
Thứ Tư, không khổ không lạc xả
niệm thanh
tịnh. Này Agivessana, như vậy
lạc thọ
khởi lên nơi Ta, được tồn tại
nhưng không
chi phối tâm Ta”. Đến đây,
đức Phật
đã nhập xong bốn Thiền, tức là đức
Phật đã
thực hiện được Giới và Định.
Sau khi đức
Phật thực hiện xong Giới và
Định thì
Ngài tiếp tục thực hiện Tam Minh:
“Với tâm
định tỉnh thuần tịnh trong sáng,
không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu
nhuyễn, dễ
sử dụng, vững chắc, bình tỉnh
như vậy, Ta
dẫn tâm, hướng tâm đến Túc
Mạng Minh.
Ta nhớ đến các đời sống quá
khứ… Ta
dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về
sanh tử
của chúng sanh, Ta với thiên
nhãn thuần
tịnh siêu nhân thấy sự sống
chết của
chúng sanh… Ta dẫn tâm đến Lậu
tận trí,
Ta biết như thật: “Đây là khổ”, biết
như thật:
“Đây là nguyên nhân của khổ...”.
Sau khi tu
chứng xong, tâm đức Phật sẽ
an trú
trong định nào? Chúng ta sẽ nghe đức
Phật trả
lời: “Này Agivessana, sau khi chấm dứt buổi thuyết giảng như vậy, Ta an
trú
nọâi tâm,
làm cho tịnh chỉ, làm cho nhất
tâm, làm
cho định tỉnh trên định tướng
thứ nhất
ấy, và như vậy Ta sống an trú,
trường
cửu, vĩnh viễn”.
Sau khi
chứng đạo giải thoát, Phật và các
bậc A La
Hán đều giải thoát an trú giống như
nhau cả,
không có sự giải thoát trong Phật giáo
có cao, có
thấp. Không có sự tu hành giải thoát
lừng chừng
mà phải giải thoát tận gốc (Vô Lậu)
và sự
giải thoát lừng chừng là chưa giải thoát.
Ví dụ:
Một người giữ gìn giới luật nghiê m
chỉnh mà
không nhập định thì giới luật đó chỉ
là ức chế
tâm chứ chưa phải giải thoát, cũng
như một
người nhập Tứ Thánh Định mà không
thực hiện
Tam Minh thì cũng chưa được gọi là
giải
thoát, đó là ức chế tâm.
Bởi, đạo
Phật có một lớp vô lậu giải thoát
mà thôi,
không thể có hai ba lớp vô lậu, vì thế
ai tu vô
lậu là giải thoát, ai tu không vô lậu là
không giải
thoát. Người tu vô lậu là bậc A La
Hán nên
Phật cũng là A La Hán mà thô i, vì
thế Phật
và A La Hán không khác nhau.
BỒ TÁT
QUAN THẾ ÂM
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Có nhiều kinh
nói: “Thế
thế thường hành Bồ Tát Đạo” là chỉ
cho những
vị Bồ Tát phát tâm nhập thế tu
hành. Vậy
chư vị Bồ Tát, vì nguyện tu hành
thành Phật
mà xuống cõi ta bà này để độ
chúng sanh
không? Nhưng sao Thầy bảo Bồ
Tát Quan
Thế Âm do tưởng tượng chứ không có
thật. Vậy
xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con
hiểu ý
này?
Đáp: “Thế
thế thường hành Bồ Tát Đạo”
câu nói
này của kinh điển phát triển (Đạ i
Thừa). Bồ
Tát là vị tu hành chưa xong mà thể
hiện độ
chúng sanh, chẳng khác một người mù
mà dẫn
dắt một đám người mù, cũng như người
chưa biết
lội mà cứu người chết đuối, thì làm
sao mà cứu
được, chỉ có chết chung nhau cả
đám mà
thôi. Có người bảo rằng cứ theo kinh
sách có
sẵn của đức Phật mà cứ giảng ra có sai
đâu. Kinh
sách là pháp môn chết nên nó không
chỉ cho
chúng ta kinh nghiệm được, vì thế mà
các giảng
sư học giả dạy đạo cho người tu là
giết
người, bằng chứng Thầy Tổ của chúng ta
đã chết
một cách đau khổ bởi tu theo học giả. Bồ Tát Quán Thế Âm là một
sản phẩm
của kinh
Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn. Thể hiện
phá luật
nhân quả, phi đạo đức và phi giáo lý
của đạo
Phật.
Bồ Tát
chỉ là một tưởng tượng của người
tu chưa
chứng đẻ ra, để an ủi mình, để che đậy
việc phá
giới luật, để kinh doanh Phật pháp, để
làm giàu
trên xương máu của tín đồ, để đưa tín
đồ đến
chỗ mê tín, lạc hậu, luôn luôn chỉ biết
cầu cạnh
dựa nương vào tha lực , làm mất hết
nghị lực
tự lực cứu mình thoát cảnh trầm luân.
Câu nói:
“Thế thế thường hành Bồ Tát
Đạo” có
nghĩa là đời đời nguyện làm Bồ Tát độ
chúng sanh
như Bồ Tát Quán Thế Âm độ hết
nạn khổ
của chúng sanh mới thành Phật, Bồ
Tát Địa
Tạng độ hết tội nhân dưới địa ngục thì
mới thành
Phật. Chúng ta mới nghe lời nguyện
ước này
thật là vĩ đại, nhưng càng suy ngẫm
chúng ta
mới thấy là lời nói lừa đảo những tín
đồ mê tín.
Nạn khổ của chúng sanh do đâu mà
có? Có
phải do hành động ác của chúng sanh
đã tạo ra
không? Tội nhân dưới địa ngục có
phải do
làm ác của chúng sanh không? Muốn
thoát nạn
khổ và muốn không làm tội nhân
nữa thì
chỉ có duy nhất là tự chúng sanh đó
đừng làm
việc ác nữa, còn độ theo kiểu hai vị Bồ Tát này khiến cho chúng
sanh làm ác thêm
và thế
gian này càng thêm rối loạn vì nạn
trôïm cướp
và những kẻ hung dữ náo loạn gây
rối trật
tự an ninh.
Bồ Tát
trong kinh Nguyên Thủy chỉ là
một người
mới tu hành chưa chứng đạo, cho
nên chẳng
dám dạy ai tu hành cả. Đức Phật
răn nhắc
điều này: “Tu chưa chứng đạo mà dạy
người là
giết người”.
Bồ Tát
trong kinh phát triển là Bồ Tát
tham danh,
tu chưa tới đâu chỉ học trong mấy
bộ kinh
rồi tưởng giải ra làm lệch ý Phật đẻ ra
kinh sách
phát triển dạy người tu hành mê tín
trừu tượng
ảo giác, khiến người tu hành theo
Phật giáo
mà thành tu pháp môn ngoại đạo.
Cho nên,
quý Phật tử cần phải đề cao cảnh giác
những hạng
Bồ Tát danh lợi này.
Việc làm
của hai vị Bồ Tát Quan Thế Âm
và Bồ Tát
Địa Tạng giống như con dã tràng xe
cát, giống
như người lấp biển.
Bồ Tát
Quan Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng
là hai vị
thần của Bà La Môn, nó là một sản
phẩm tưởng
tượng hý luận của ngoại đạo tạo sự
mê tín phi đạo
đức trong dân gian mà hầu hết
mọi người
đều mê lầm.
CHƠN TÂM
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Ở Thường Chiếu có
Thầy nhập
thất trên 15 năm. Có phải vị đó ngộ
được Chơn
tâm và sống với nó? Hay nhập Chơn
tâm rồi và
nuôi dưỡng nó càng ngày càng sâu
mầu hơn?
Đáp: Lẽ
ra, câu hỏi này con nên hỏi Hòa
Thượng
Thanh Từ, vì đó là nguồn gốc của
Thiền Tông
Trung Hoa, chứ không phải của
Phật giáo
Nguyên Thủy. Chơn tâm là sự tưởng
giải của
kinh sách phát triển Ấn Độ, ảnh
hưởng Lão
giáo đẻ ra thiền Đông Độ.
Mục đích
của người tu thiền Đông Độ là
kiến tánh
rồi khởi tu (thấy tánh rồi mới tu) tu
như vậy
gọi là “bảo nhậm”, giữ “ông chủ” đó là
chỗ ngộ
được chơn tâm rồi mới sống với nó chứ
không phải
nhập chơn tâm vì đã nhập vào thì
đâu còn gì
phải nuôi dưỡng.
Mục đích
của thiền Đông độ không phải
làm chủ
sanh tử, chấm dứt luân hồi, mà chỉ
nhắm vào
bản thể bất biến thường hằng bốn
tánh Niết
bàn “thường, lạc, ngã, tịnh”.
Nhập thất
15 năm cho đến 1000 năm tu
theo Thiền
Đông Độ thì chỉ có triệt ngộ các công án tức là triệt ngộ các
pháp tưởng hay nói
cách khác
là nhập vào tưởng định, phát triển
tưởng tuệ,
tu đến đây hành giả không còn biết
đường nào
đi tới nữa, nên tâm tham, sân, si
của họ
vẫn như xưa, đụng chướng ngại pháp thì
hiện tướng
ra liền, do đó pháp môn Thiền
Đông Độ
không phải là Phật Pháp nên không
làm chủ
sự sống chết và chấm dứt luân hồi, tu
theo pháp
môn này chỉ uổng một đời tu hành
mà thôi,
chẳng có ích lợi cụ thể thiết thực gì,
chỉ là
một trò hý luận ảo tưởng thơ văn của
những tâm
hồn giàu tưởng tượng.
Còn nói
về sự làm chủ sanh, già, bịnh,
chết thì
một Thiền sư Việ t Nam danh tiếng
nhất vào
thế kỷ thứ XIII, Ngài Thường Chiếu
đã xác
định: “Đó là bọn đại bịp, một con chó
sủa một
bầy chó sủa theo”.
TƯỞNG UẨN
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Có lần Hòa
Thượng
nói, có vị Thiền sư khi chứng ngộ khóc
ròng, nhưng
cũng có vị Thiền sư khi chứng ngộ cười hoài. Có phải đó là cảm
xúc của người
thấy được
Chơn tâm không thưa Thầy?
Đáp: Khóc
ròng và cười hoài đó là những
người tu
rơi vào định tưởng, tưởng uẩn tác động
gây cảm
xúc tưởng mình đã ngộ nhập vào bản
thể Chơn
Như (chân thật có), nên mới có
những
trạng thái kỳ lạ.
Sự tu hành
này chính là sự ức chế ý thức
khiến cho
ý thức không khởi niệm thiện cũng
như niệm
ác, nên ý thức ngưng bặt làm cho
tưởng thức
bắt đầu hoạt động, khi tưởng thức
bắt đầu
hoạt động thì hành giả có những cảm
giác hỷ
lạc hoặc các sắc tưởng, hương tưởng, vị
tưởng,
thinh tưởng, cho đến khi pháp tưởng
xuất hiện,
pháp tưởng xuất hiện có nhiều
trường hợp
xảy ra khi tâm dừng bặt vọng
tưởng.
Có vị
pháp tưởng xuất hiện nhận ra Phật
Tánh bằng
một câu kinh, như Lục Tổ Huệ
Năng “Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, câu này
trong kinh
Kim Cang Bát Nhã. Mã Tổ ngộ
Phật Tánh
bằng câu kinh: “Tức tâm tức Phật,
Phật tức
tâm”. Có vị pháp tưởng xuất hiện ngộ
Phật Tánh
bằng một câu công án của Thiền sư
Triệu Châu:
“Con chó có Phật Tánh hay không? - Không”. Nhờ câu này mà Thiền sư Huệ
Khai
đã ngộ
được tâm “Vô, vô, vô, vô ..”.
Hoàng Bá
ngộ được Phật Tánh khóc mãi,
Linh Vân
ngộ được Phật Tánh cười hoài.
Tất cả
những sự ngộ này đều do ảnh
hưởng của
tưởng uẩn tạo ra khiến cho người
khóc, kẻ
cười, người la, kẻ hét, người đánh, kẻ
làm thinh,
gần như người điên, may là họ ngộ
pháp tưởng
còn như vậy huống là rối loạn thần
kinh thì
hết cứu chữa.
ĐỘ NGƯỜI
Hỏi:Kính
bạch Thầy! Xin Thầy cho con
biết con
của con, nó có thể thực hiện ý nguyện
lấy đức
độ người được không?
Đáp: Được,
lấy đức độ người có hai nguyên
nhân cần
phải làm:
1- Phải
trau dồi cho mình có đức hạnh.
2- Phải có
duyên với chúng sanh và chúng
sanh phải
đủ phước. Cháu có thể làm được nhưng phải có tâm
nguyện lớn
“Vì mọi người xả thân”. Lấy đức độ
người rất
khó vì mình phải là tấm gương đạo
đức sáng
chói, nếu có một vài hành động sơ sót
thì cũng
gặp khó khăn.
Tâm nguyện
độ chúng sanh là một điều
thiện rất
tốt nhưng phải biết giữ gìn tâm
nguyện đó,
do có sự quyết tâm và lòng thành
thì tâm
nguyện đó sẽ thành tựu.
Thầy rất
tán đồng ý kiến và nguyện vọng
của cháu,
nếu đủ duyên thời tiết đến Thầy sẽ
giúp cháu
bằng “Giáo trình đạo đức nhân bản -
nhân quả”.
ÁI KIẾT SỬ
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Người muốn đi tu
mà duyên
nghiệp cứ buộc ràng, không thể bỏ đi
được, là
do duyên gì, nhân gì, xin Thầy chỉ dạy
cho con
hiểu?
Đáp: Người
muốn đi tu mà duyên nghiệp
cứ buộc
ràng, không thể bỏ đi được, có ba
nguyên nhân
chính: 1- Nợ nhân quả quá nặng.
2- Thất
kiết sử quá dầy.
3- Ngũ
triền cái ngăn che.
Đó là ba
nguyên nhân khiến cho người
muốn đi tu
theo đạo Phật rất khó vượt qua, đó
cũng là ba
mạng lưới bao vây kiếp con người,
mãi mãi
trôi lăn trong biển sanh tử, luân hồi
và nhiều
khổ đau trong nhiều đời nhiều kiếp.
Chỉ có
người trí hiểu biết và còn phải có
đủ nghị
lực, can đảm, gan dạ, mới vượt ra khỏi,
mới biết
được những sợi dây xích kiết sử tuy vô
hình nhưng
nó chắc hơn những sợi dây lòi tói.
Con có
duyên với Phật pháp, nhưng tánh
con yếu
đuối không thể vượt qua bức tường
nhân quả,
vì thế con nên tu trong chiếc áo của
người cư
sĩ:
1- Tu tập
xả ly năm triền cái bằng đức
nhẫn nhục,
tùy thuận và bằng lòng.
2- Luôn luôn
trau dồi thân tâm trong mọi
hành động
thân, khẩu, ý bằng “Tứ Vô Lượng
Tâm”: Đức
hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả.
3- Dứt bỏ
10 điều ác và cố tăng trưởng 10
điều lành.
4- Cần phải thông hiểu và nghiên cứu
tường tận
đạo đức nhân bản nhân quả không
làm khổ
mình, khổ người.
5- Hằng
ngày phải nhớ dùng pháp hướng
tâm như lý
tác ý: “Tâm như đất, tham, sân, si
phải đoạn
diệt sạch”
Người cư
sĩ cần tu năm pháp môn này,
thân tâm
được an vui và hạnh phúc trong cuộc
sống,
chẳng có đối tượng, hoàn cảnh, sự việc
nào làm
dao động tâm được, đó chính là nguồn
giải thoát
của đạo Phật trong mọi người cư sĩ,
con hãy cố
gắng lên! Cố gắng lên tu tập con ạ!
Khi tu tập
xả tâm như vậy, tức là con tu
tập đạo
đức làm người không làm khổ mình,
khổ người,
không làm khổ mình, khổ người là
con đã trả
vay nghiệp nhân quả của tiền kiếp,
trả vay
nhân quả của tiền kiếp tức là con bứt
bỏ thất
kiết sử, khi bứt bỏ thất kiết sử thì con
không còn
phóng dật, tâm con không còn
phóng dật
tức là tâm định trong thân con, tâm
định trong
thân thì tâm thường thanh thản , an
lạc và vô
sự, tâm thường thanh thản an lạc và
vô sự thì
tâm luôn luôn biết hơi thở ra vô một
cách tự
nhiên không bị ức chế hay bị gom tâm
tập trung
vào một chỗ. Khi tâm định trên thân như vậy thì lúc
bây giờ là
lúc tu thiền định để nhập các định
sâu hơn và
khó hơn.
Còn nếu
con bứt bỏ ngang mà đi tu thì dù
con có tu
đúng chánh pháp của đạo Phật cũng
trở thành
tà pháp, tại sao vậy? Tại vì sự bứt
ngang bỏ
đi, đó là ức chế tâm, chứ không phải
xả tâm và
như vậy con sẽ bị rơi vào tà thiền, tà
định chừng
đó con sẽ sống trong Tà kiến của
ngoại đạo
rất là khó gở.
SÁT SANH MÀ
KHƠNG TỘI
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Thầy dạy đứng
trên công
lý được phép giết những loài sâu bọ
côn trùng,
chuột, v.v.. nhưng các loài đó sinh
ra là bản
tính của chúng như vậy. Cứ cho là
giết hết
chúng thì sẽ sinh ra loài khác tương tự
hoặc không
sinh ra loài khác thì mối tương
quan tương
sinh “có loài này thì sẽ có loài khác
là sự hỗ
tương trong môi trường”.
Phần này
đối với đời sống của con người
bình
thường là họ sẽ giết, song đối với đạo Phật có lòng từ bi “Tứ Vô
Lượng Tâm”, Phật
dạy không
được sát sanh dù là con vật nhỏ
nhất, kể
cả trực tiếp và gián tiếp. Con suy nghĩ
mục này,
nên để ở bộ sách Đạo Đức Làm Người
chứ ở bộ
sách Đường Về Xứ Phật thì nhiều
người sẽ
nghĩ là không có lòng từ bi. Vậy kính
mong Thầy
dạy cho.
Đáp: Bộ
sách Đường Về Xứ Phật là bộ
sách phá
những kiến chấp sai lầm trong đạo
Phật cũng
như ngoài đời. Vì thế , đời đạo phải
rõ ràng:
Đời là đời, đạo là đạo; đời có đạo đức
của đời,
đạo có đạo đức của đạo.
Đời có
đạo đức của đời, đạo đức của đời là
cách thức
và hành động trách nhiệm bổn phận
đối nhân
xử thế, phải sản xuất ra sự sống, phải
bảo vệ sự
sống, phải làm hết bổn phận làm
người đối
với gia đình và xã hội, quê hương xứ
sở, v.v…
Ai cũng
biết vị trí làm người là phải sản
xuất ra sự
sống và bảo vệ nó, chứ không được
quyền ăn
bám vào người khác. Nếu có kẻ nào
khác hay
những loài vật nào xâm phạm cướp
giựt, phá
hoại sự sống thì người đời phải có
quyền bảo
vệ cầm súng hay bất cứ một vũ khí
nào hoặc
bình xịt thuốc sâu rầy để diệt trừ
những côn
trùng phá hoại mùa màng và kẻ xâm phạm sự sống. Đừng lấy Thánh
hạnh hiếu
sinh của
người ly gia cắt ái mà áp dụng vào đời
thường thì
không đúng đạo đức làm người.
Những câu
trả lời trong bộ sách Đường Về Xứ
Phật là
trả lời chung cho người cư sĩ và người
tu sĩ, chứ
không riêng gì người tu sĩ đã ly gia
cắt ái.
Đạo đức
của người đời thì không được vô
cớ giết
hại người và tất cả chúng sanh dù là
loài vật
đó nhỏ như vi khuẩn, vi trùng.
Đạo đức
làm người không cho phép chúng
ta làm ngơ
nhìn giặc cướp nước mà không cầm
súng giết
giặc bảo vệ quê hương Tổ Quốc, để
nước mất
nhà tan là người không có đạo đức.
Vua Lương
Võ Đế vì tin Phật không đúng
chánh
pháp, mê tín không trí tuệ, giặc đến
cướp nước
mà cứ tưởng rằng mình có công với
Phật giáo,
bỏ tiền ra xây cất 72 cảnh chùa và
giúp đỡ
biết bao nhiêu Tăng chúng tu học. Do
công lao ấy
nên an nhiên tự tại ngồi gõ mõ
tụng kinh
cầu chư Phật đuổi giặc. Giặc không
đuổi được,
nước mất, nhà tan, chết một cách rất
thảm
thương.
Hầu hết
mọi người hiểu nghĩa Tứ Vô
Lượng Tâm
một cách sai lệch. Từ bi không
phải là
lòng yêu thương tầm thường, từ xưa đến nay mọi người đều hiểu như
vậy. Hiểu đúng
nghĩa “Từ
bi” là phương pháp buông xả để đối
trị tâm sân
hận, chứ không phải lòng yêu
thương bình
thường, nhưng chúng ta không có
danh từ
nào để diễn tả đúng nghĩa từ bi buông
xả với
một tâm hồn thanh thản. Từ bi cũng là
một pháp
độc nhất để đi đến cứu cánh hoàn
toàn, cho
nên lấy tâm phàm phu của con người
mà hiểu
từ bi Tứ Vô Lượng Tâm thì làm sao
hiểu được.
Tứ Vô
Lượng Tâm là pháp không phóng
dật, là
pháp tâm bất động, còn thương yêu là
còn động
tâm. Như vậy Từ, Bi, Hỷ, Xả là mộ t
trạng thái
Niết Bàn, chứ không phải từ bi là
yêu thương
theo kiểu giáo pháp phát triển.
Từ bi của
giáo pháp phát triển là một
trạng thái
tiêu cực, chịu đựng ức chế tâm, chứ
không phải
từ bi không phóng dật.
Người tu
sĩ Phật giáo sống ba y một bát,
không nhà,
không cửa, không làm một nghề
nghiệp nào
cả chỉ có đi xin ăn ngày một bữa
thì làm
gì có diệt sâu rầy, thì làm gì mà không
tỉnh thức
để đến nỗi vô tình sát sanh, hại
mạng chúng
sanh.
“Bộ sách
Đường Về Xứ Phật là trả lời
chung cho
tất cả những câu hỏi về đời, về đạo chứ không phải chỉ có riêng
trả lời về
đạo mà
thôi”.
Từ bi của
đạo Phật là một pháp môn độc
nhất tu
hành từ tâm phàm phu đến tâm vô lậu,
nó luôn
luôn được áp dụng cho sự tu tập của tu
sĩ, hơn là
áp dụng nó cho cư sĩ, vì áp dụng cho
người cư
sĩ thì nó trở thành lòng yêu thương
tầm thường
nên rơi vào pháp đối đãi, do đó bị
chướng
ngại khi nghe nói hay thấy người cư sĩ
bảo vệ
mùa màng hoặc cầm súng giết giặc thì
bảo rằng
không lòng “Từ bi”. Ấy là hiểu và sử
dụng lòng
từ bi không đúng pháp, đúng chỗ,
đúng
người.
Đọc sách
Đường Về Xứ Phật có nhiều chỗ
không phải
khó hiểu, nhưng vì bị những kiến
chấp sai
lầm từ lâu của kinh sách phát triển
thành ra
khó hiểu, nên hiểu không đúng ý
nghĩa
chánh pháp của Phật, đâm ra nghi ngờ
tác giả
dạy sai.
Trưởng
lão THÍCH THÔNG LẠC
ĐỆ TỬ VI PHẠM
NĨI XẤU THẦY TỔ
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Với trí tuệ Tam
Minh Thầy
có thể hiểu mọi việc, mọi sự vật
không hạn
cuộc. Ở đây có hạng đệ tử tu không
được, sau
khi ra ngoài nói xấu Thầy như thầy
Minh Tông
nào đó mà con không biết, chỉ đọc
trong sách
Những Lời Phật Dạy.
Thưa Thầy,
nói xấu với người bình thường
còn bị
tội đọa, huống là với bậc A La Hán thì
tội rất
nặng và không biết địa ngục nào sẽ đọa
vào.
Với trí
tuệ của Thầy là vô hạn, con nghĩ
ngay từ
đầu Thầy quan sát và không nên nhận
họ để họ
đỡ bị tội nặng như thế có được không?
Thầy có
thể từ bi vị tha song luật nhân
quả có tha
cho họ đâu. Mong Thầy dạy cho con
hiểu.
Đáp: Đề
Bà Đạt Đa đến với đức Phật xin
tu hành.
Đức Phật chấp nhận, nhưng sau này
Đề Bà Đạt
Đa chống lại đức Phật, tìm cách giết
Phật, lăn
đá, cho voi say, v.v.. Như vậy các bạn
hiểu như
thế nào? Với trí tuệ Tam Minh đức Phật có biết Đề Bà Đạt Đa chống
lại mình
không?
Biết, sao đức Phật lại chấp nhận?
Đó là
duyên nhân quả, nhưng nhân quả
chỉ có
chuyển hóa chứ không phải tu hành
chứng đạo
là không còn nhân quả nữa. Vì còn
mang thân
này là còn có nhân quả . Lăn đá, cho
voi say để
giết Phật là quả; không hại được
Phật là
chuyển nhân quả.
Thầy cũng
vậy, nhờ có Minh Tông mà mọi
người mới
biết tu sai tu đúng chánh pháp của
Phật, nhưng
tất cả đều do phước báo nhân quả
của chúng
sanh. Vì thế, không ai sống trong vũ
trụ này
mà ra khỏi qui luật của nhân quả, làm
ác phải
gạt quả dữ. Minh Tông té thang lầu,
chết đi
sống lại chịu biết bao nhiêu khổ sở. Đấy
không phải
là địa ngục vô gián sao? Xưa, Đề Bà
Đạt Đa
cũng rơi vào địa ngục ấy. Phước còn quả
báo chưa
đến, phước hết quả báo sẽ không tha
thứ một
ai, nhân nào quả ấy, không trốn chạy
đâu khỏi.
CHÙA TO
PHẬT LỚN
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Trong nhiều sách
Thầy nói
về chùa to Phật lớn và có ví dụ như
nước
CamPuChia có chùa Đế Thiên, Đế Thích
và tháp
Angkor. Về phần này có hai cách hiểu
khác nhau:
Thưa Thầy,
Thầy dạy những bậc tu Phạm
hạnh của
đạo Phật là ba y một bát nay đây mai
đó. Chùa
càng to Phật càng lớn thì càng bận
tâm. Có
đúng như vậy không thưa Thầy?
Hiện nay
về phương diện lịch sử, kinh tế,
du lịch,
mỹ quan thì người ta cho đó là những
kỳ quan cả
thế giới công nhận, tuy nhiên khi
làm ra nó
thì vất vả tốn kém, song hiện nay
người ta
thu lợi rất lớn về du lịch và mọi người
họ tự hào
vì đã được Unesco công nhận lịch sử
văn hóa
hàng đầu của thế giới trong tám kỳ
quan. Vậy
Thầy có thể dạy trong sách việc xây
chùa tượng
bằng hai cách:
- Một là
đối với tu sĩ chuyên tu thì nên
sống đơn
giản.
- Hai là
đối với tu sĩ đã tu xong thì có thể
đến nơi đó
để thuyết pháp, vì những người này chùa nào họ cũng không động tâm.
Nhờ nơi đó
người dân
dễ tập trung nghe pháp, nó sẽ làm
tăng giá
trị lịch sử của Phật giáo. Các thế hệ
sau này
cũng tự hào về tôn giáo của họ. Vậy,
Thầy có
thể giảng cho con tường tận vấn đề
này được
không?
Đáp: Ai
đọc kinh sách Phật giáo Nguyên
Thủy đều
phải công nhận giáo lý của đạo Phật
là chân lý
của loài người. Nói chân lý loài người
là nói
đến một sự thật không hề có một chút
xíu không
đúng. Chính vì vậy nó là đạo đức
nhân bản –
nhân quả, nên đức Phật đã xác
định:
“Thiên
thượng thiên hạ
Duy ngã
độc tôn”.
Đạo Phật
chủ trương nhân bản, lấy con
người làm
trụ cột, biến cõi sống thế gian thành
cảnh Cực
Lạc, Thiên Đàng, chứ không có hình
thức mơ
mộng, ảo tưởng Thiên Đàng, Cực Lạc
hoặc Thần
Thánh, Tiên Phật, Ngọc Hoàng,
Thượng Đế,
Chúa Trời, v.v…
Do chủ
trương nhân bản – nhân quả nên
Phật giáo
lấy đức hạnh (Giới luật) làm chỗ
nương tựa,
làm thầy hướng dẫn, làm cuộc sống
cho mình.
Vì thế, xây chùa to Phật lớn là sai. Gương hạnh đức Phật ngày xưa
còn đó. Thành
đạo dưới
cội cây Bồ đề. Chết dưới cội Sa La
song thọ.
Thế mà ngày nay chùa to Phật lớn
khắp nơi,
lại còn có những ngôi chùa, tháp được
mọi người
công nhận là kỳ quan đệ nhất thế
giới thì
thử hỏi những việc làm này đi ngược lại
tinh thần
“xả phú cầu bần” của Phật giáo thì
còn gì là
Phật giáo nữa. Phải không các bạn?
Vì lấy con
người làm gốc nên Phật giáo
phải xây
dựng con người. Xây dựng con người
để trở
thành những kỳ quan thế giới bằng chất
liệu đức
hạnh không làm khổ mình, khổ người
và khổ
tất cả chúng sanh. Theo chúng tôi thiết
nghĩ đó
là một kỳ quan thế giới tuyệt vời xứng
đáng để
con người tự hào hãnh diện về con
người thì
mới đúng nghĩa. Còn xây chùa to
Phật lớn
lấy chất liệu đất đá mô phỏng theo
hình thức
vạn vật vũ trụ thiên nhiên tạo ra rồi
tự hào
bảo nhau đó là kỳ quan thế giới. Thực tế
trên hành
tinh này vũ trụ đã xây dựng biết bao
nhiêu kỳ
quan đẹp đẽ gấp trăm ngàn lần
những kỳ
quan của loài người: như Vinh Hạ
Long, Phong
Nha, v.v… Trước những cảnh này
con người
có làm được như vậy không?
Những kỳ
quan thế giới hiện giờ chỉ là
những sự
mô phỏng bắt chước thiên nhiên vũ trụ, vẻ hùng vĩ đẹp đẽ của nó
còn thua xa vũ
trụ gấp
trăm ngàn lần như trên đã nói thì có gì
mà chúng
ta tự hào?
Những vật
chất này đều vô thường, không
bền chắc,
không giữ gìn được lâu dài, chỉ một
trận động
đất những kỳ quan này còn bảo tồn
được nữa
không?
Một kỳ
quan của loài người, lấy chất liệu
đạo đức
xây dựng thì động đất không làm hư
hoại, lũ
lụt không trôi, bão tố không làm sụp
đổ, hỏa
hoạn không thiêu đốt được, đi khắp bốn
phương
ngược gió không trở ngại. Phật giáo
chủ trương
như vậy, vì lấy con người làm gốc,
nên người
nào đi ngược lại xây dựng chùa to
Phật lớn
là không phải Phật giáo là Thần đạo,
là đạo mê
tín, là đạo lường gạt con người.
Tôn giáo
có thế giới siêu hình là tôn giáo
phi khoa
học, phi nhân bản, vô đạo đức nhân
bản - nhân
quả, v.v.. Phần đông những tôn giáo
này đều
có chùa to Phật lớn.
Đệ tử của
đức Phật ngày xưa được sự chỉ
đạo của
Ngài nên không cất chùa to Phật lớn,
chỉ am
tranh vách lá cúng dường Phật và chư
Tăng để
tránh mưa ẩn nắng tu hành, chứ
không có
thờ phượng như chúng ta ngày nay.
Những nơi
ở ấy được gọi là “TỊNH XÁ”. Tịnh xá có nghĩa là ngôi nhà ở thanh
tịnh. Trong kinh
sách Nguyên
Thủy thường nhắc những tịnh xá
như: Tịnh
xá Kỳ Hoàn, tịnh xá Trúc Lâm, v.v..
Hòa Thượng
Huệ Quang, Hòa Thượng
Khánh Anh
tổ chức những chuyến hành hương
về thăm xứ
Phật. Trước mắt các Ngài tịnh xá
Kỳ Hoàn
và tịnh xá Trúc Lâm chỉ còn là một
khu rừng
hoang vu không tìm ra một cục đá,
một viên
gạch, chứng tỏ ngày xưa đức Phật và
chúng
Thánh Tăng sống dưới bóng cây, dưới
túp lều
tranh lá hay trong hang hóc… Những
nơi Thánh
địa ấy chứng tỏ Phạm hạnh của tu
sĩ thời
đó rất cao.
Tất cả
các tôn giáo trên hành tinh đều
nhắm vào
sự xây dựng cơ sở đồ sộ vĩ đại để lại
như: Tòa
Thánh La Mã (Thiên Chúa), Đế
Thiên, Đế
Thích, đền Angkor (Phật giáo Nam
Tông), tòa
Thánh Tây Ninh (Cao Đài Giáo) v.v…
Còn cơ sở
Phật giáo Nguyên Thủy chỉ còn
là một khu
rừng hoang vu. Chính khu rừng
hoang vu ấy
mới nói lên ý nghĩa đạo đức nhân
bản - nhân
quả không làm khổ mình, khổ
người, khổ
tất cả chúng sanh. Đó là tòa Thánh
của Phật
giáo, là một kỳ quan thế giới đẹp
nhất của
mọi người.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!