Trong khi đạo
Phật, không chấp nhận thế giới siêu hình;
không chấp nhận tụng kinh, cúng
bái, cầu nguyện,
tế lễ, thì cúng
bái tụng kinh, cầu khẩn và
tế lễ với
ai cho ai đây? Đạo Phật là Đạo vô ngã. Vậy, ngồi thiền
nhập định để kiến tánh
thành Phật là Phật gì?
Vô ngã sao lại còn có Phật?
Đạo Phật là một tôn giáo ra đời, để giải quyết bốn
điều khổ của kiếp người “sanh, già, bệnh,
chết”. Giáo pháp của Người
xây dựng trên một nền tảng
“Đạo đức nhân
bản – nhân quả sống không làm khổ
mình, khổ người”.
Pháp môn của
Người dạy tu tập tỉnh
thức là để ngăn chặn lòng tham muốn và ngăn chặn các ác
pháp, nhờ đó mới mang lại sự an
vui, thanh thản và hạnh phúc cho mình,
cho người. Một giáo pháp rất thực tế và cụ thể cho mọi người, nếu mọi người
ai cũng ý thức và hiểu
biết về pháp môn này, nỗ lực thực hiện sống đúng lời dạy của đức Phật, thì xã hội
loài người sẽ trở thành
Thiên Đàng, Cực Lạc, còn
có cần gì đi tìm cõi Thiên Đàng, Cực Lạc mơ hồ, trừu tượng kia, mà chẳng
bao giờ có.
Vừa rồi, chúng tôi được đọc một cuốn sách tựa đề “Sự
sống sau khi chết”. Đọc xong cuốn
sách này, nếu
người nào không có tu tập theo giáo lý Nguyên Thủy của đạo Phật và không có chứng nghiệm
pháp hướng tâm, thì
chắc chắn phải tin rằng
có thế giới
siêu hình. Toàn bộ
cuốn sách tác
giả đã lượm
lặt những mẩu chuyện “cận tử nghiệp”. Tác giả này chưa bao giờ tìm hiểu
Phật giáo và nếu bây giờ có tìm
hiểu và
nghiên cứu Phật
giáo thì ông ta
cũng vẫn hiểu lầm lạc, vì một đám
mây mù giáo pháp
phát triển đã che
phủ và
lấp kín lời dạy
của đức Phật.
Những mẩu chuyện cận tử nghiệp của bao nhiêu người lâm sàng trên giường
bệnh trong bệnh viện, tác giả đều cho đó là một trạng thái của cuộc sống sau
khi chết. Họ đâu biết rằng trong
thân tứ đại
này, khi con người còn sống
có cả
hai thế giới hữu hình
và vô hình,
nhưng khi thân tứ đại này chết, thì cả hai thế giới ấy đều diệt sạch. Khi thân
này còn sống,
cái gì hoạt động
trong thế giới hữu hình?
Và cái gì hoạt động trong thế giới vô hình?
Khi còn sống, con người hoạt động trong thế giới hữu hình bằng “sắc
thức”. Sắc thức gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức và
ý thức; còn hoạt động
trong thế giới
vô hình thì chỉ bằng một “tưởng thức”.
Bình thường hằng
ngày chúng ta sống làm mọi việc, thì
ý thức
điều khiển hoạt động do ý căn
(bộ óc và thần kinh).
Khi ý thức ngưng hoạt động giống như người đang ngủ, thì
tưởng thức hoạt động, sinh ra giấc mộng (chiêm bao), cũng do
ý căn (bộ
óc và hệ thần kinh) điều khiển.
Cho nên, một
người bị bệnh
tim, gan, phèo, phổi, v.v.. một
trong những bộ phận đó bị ngưng hoạt động,
được xem như chết, nhưng thật
chưa chết hẳn, ý thức ngưng
hoạt động, hơi thở dừng, tim không
đập, nhưng hệ thần
kinh tưởng còn hoạt động, tức
là tưởng thức hoạt
động (chiêm bao). Giấc
chiêm bao đó gọi là
“cận tử nghiệp”.
Hằng ngày trong
cuộc sống họ ưa thích
làm những điều
ác, thiện, đi chùa, nhà thờ, cúng bái, tụng niệm, ngồi
thiền, ước vọng được sanh lên Thiên
Đàng gặp Chúa, được vãng sanh về Cực Lạc Tây
Phương, gặp Đức Phật Di Đà, được
thấy hào quang ánh sáng của chư Thiên, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v.. Đó là những
người được theo các tôn giáo và được những giáo pháp của các tôn giáo đã ghi những
ấn tượng
vào đầu óc của họ bằng những
hình
ảnh Chúa, Phật,
ánh sáng, hào quang, hoa sen, thì cận tử
nghiệp sẽ thể hiện giấc mộng y như hình
ảnh đó.
Lợi dụng cận tử
nghiệp, Tịnh Độ
Tông sử dụng hộ niệm để giúp người
sắp chết, thực hiện giấc mộng trực
vãng Tây Phương.
Tịnh Độ Tông nghĩ
rằng: nghiệp cuối
cùng (cận tử
nghiệp) có thể thể hiện được những ước ao và ý nguyện lúc còn sống. Đó là về phần của những người có tôn giáo.
Còn những người
không tôn giáo,
thì cận tử nghiệp thực hiện giấc mộng theo tâm ham muốn danh,
lợi, thương, yêu, mến, tiếc,
giận hờn, tức tối, thù hận, căm
ghét, la hét, sợ hãi, v.v.. Đó là những điều làm ác, ngược lại làm thiện thì cũng
thấy cảnh vui
tươi, hoan hỷ, sung sướng v.v..
Vì huân tập
thành thói quen (nghiệp lực), lúc
sắp chết, tưởng thức hoạt động từa
tựa như giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao chỉ có sáu thức ngưng hoạt động,
còn toàn bộ cơ
thể đều
hoạt động bình thường.
Người sắp chết, cũng ở trong trường hợp này sáu thức ngưng hoạt
động nhưng lại
khác là do một tạng phủ
nào bị hư hoại
không hoạt
động được,
chứ không giống
như người ngủ chiêm bao.
Đó là trường
hợp người sắp chết tưởng thức
hoạt động, nên thấy mình
xuất hồn ra khỏi thân và thấy thân đang nằm trên giường
bệnh, các y, bác sĩ đang làm hô hấp cứu chữa. Nhưng cũng có
người lúc lâm sàng trên giường bệnh chết,
bấy giờ duyên
năm uẩn chưa phân ly, nên tưởng thức hoạt động, bệnh
nhân như nằm mộng, thấy
hào quang ánh
sáng, chư Thiên Thần, chư Tiên,
chư Phật, chư Bồ Tát, Ngọc Hoàng, Thượng đế, quỉ sứ, ngưu đầu, mã diện, vua
Diêm La, v.v.. Nhờ hô hấp,
cứu chữa của y, bác
sĩ, bệnh nhân tỉnh lại,
giống như một giấc mọâng và kể lại
cho những người thân nghe: “chắc chắn có sự sống
sau khi chết, có địa ngục hẳn
hoi”. Qua những hình ảnh
đó, con người không ngờ, đó là một hình
bóng, do tâm ước muốn mà tưởng thức thể hiện qua giấc mộng cận tử nghiệp.
Nếu thật sự
năm duyên ngũ uẩn phân
ly, tan rã thì chẳng còn gì
là của ta nữa hết, linh hồn, thần
thức, Phật Tánh
cũng tiêu tan hết,
chỉ còn lưu lại nghiệp thiện, nghiệp ác mà thôi và tiếp tục theo
nghiệp thiện, nghiệp
ác đó, tương ưng vô
minh theo hành động nhân
quả
của kẻ
khác tái sanh
luân hồi (Vô
minh sanh hành, hành sanh thức).
Từ vô minh, chúng ta tạo nghiệp thiện nghiệp ác, trong cuộc sống hằng ngày, đến khi chết rồi,
chỉ còn lại
nghiệp thiện, nghiệp
ác, rồi cũng theo
vô minh, tiếp tục tái
sanh luân hồi kiếp khác, cứ mãi
như vậy, trôi lăn trong dòng nước nghiệp muôn kiếp muôn đời.
Do thế, đức
Phật dạy: “con
người từ nhân quả sanh ra, sống
trong nhân quả và chết trở về nhân quả”, chúng ta biết rất rõ, chẳng có thế giới
siêu hình, chẳng có
đấng tạo hóa nào cả, chẳng ai
sanh chúng ta ra
cả và cũng chẳng có ai ban phước, giáng
họa cho ta được, mà chính chúng ta biết dừng dòng nước nghiệp, thì tất cả tai nạn,
bệnh tật, đau khổ và sự tái sanh luân hồi đều chấm dứt.
Trí hữu hạn của con
người không thấu suốt và không thấy rõ thế giới nhân quả,
nên lầm chấp có thế giới
này, có thế giới kia, rồi sanh ra dính mắc, cái này thường hằng,
cái kia vô thường, từ
đó tranh luận theo
tưởng giải, kiến chấp, ngã chấp của
mình, sản xuất ra biết bao nhiêu cái sai
lầm, sai lạc, tự cho cái này đúng, cái kia sai, rồi chia phe nhóm ra bài bác,
chỉ trích lẫn nhau,
loanh quanh, lẩn quẩn suy
tới, nghĩ
lui cũng chỉ ở trong
vòng tưởng thức mà
thôi, không thể
nào vượt ra khỏi
sự hiểu biết hữu hạn của ý thức
con người.
Đời sống của
con người, sự hiểu
biết lúc bình thường
là ý thức, đến khi
gặp thiên tai, hỏa
hoạn, sấm sét,
chớp giăng, lũõ lụt, bão tố,
tai ách, bệnh tật nan y, v.v.. Trước những cảnh quá khiếp đảm sợ hãi đó, ý thức
không thể nào hiểu nổi được,
nên tưởng thức bắt đầu hoạt
động, thì thế giới
siêu hình hiện
ra, có những vị Thần
trong tâm tưởng
của họ như:
Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Sét, Thần Núi, Thần Sông, Thần Cây, Thủy Thần,
Hỏa Thần, Thổ Thần, v.v.. Tất cả những
vị Thần này
có thể ban phước, giáng họa cho
loài người.
Với lòng thành
kính tin tưởng và
lúc nào cũng tựa nương vào những
đấng thần linh này, nên có việc lớn, việc
nhỏ gì cũng đều
van vái, cầu khẩn, cúng bái các vị thần linh, lòng tin tưởng đó bắt đầu
có hiệu nghiệm,
thấy có sự linh nghiệm rõ ràng. Cho
nên, người ta nói
rằng: gò
mối mà cứ đến thắp
hương cúng bái, thì gò mối
cũng linh hiển. Cái
linh hiển đó từ nơi đâu mà có?
Chưa có ai hiểu được, ngoại trừ những bậc chơn tu, thạc đức, tu hành đúng theo
đường lối của đạo Phật đạt đến Tứ Thiền, Tam
Minh mới biết rõ từ nơi tưởng ấm của con người
nhờ sức “ám thị” tạo
ra, hay nói một cách
khác, sự linh hiển
đó, do lòng tin tưởng của chúng ta, tự động đã ám thị trong tâm chứ không phải có các thần
linh trong thế giới siêu hình linh hiển
thật sự.
Từ sự linh hiển đó, khiến cho người ta tin rằng, có thế giới
siêu hình thật sự, có ma,
có quỉ, có linh
hồn người chết.
Tin tưởng vào những hình bóng như vậy, gọi là mê tín, tin mà quên mình dám hy
sinh cho những thần
linh đó, gọi là cuồng tín. Đó
là những giai
đoạn đa thần, do từ lòng quá sợ
hãi của con người sản xuất ra bằng tưởng thức, để an ủi tinh thần lúc quá khiếp
đảm sợ hãi.
Tôn giáo ra đời
cũng dựa vào lòng mê tín
đó, không bỏ bớt các vị thần kia nhưng lại xây dựng một thế giới siêu hình nhất
thần, do các đấng giáo chủ có đủ quyền
năng điều khiển và sai khiến được các vị
thần của dân gian đặt ra, họ có quyền năng tối cao hơn các vị thần khác, nên
con người tin theo và xin gia nhập vào tôn giáo đó để được các vị thần trên hết
ban phước cho mình.
Các nhà làm tôn giáo, chỉ cần thực hiện một vài thần
thông tưởng nho nhỏ, do sự tu tập
thiền định tưởng,
hoặc dùng tưởng lực bùa chú, tạo
ra những thần
lực mà con
người bình thường không
thể làm được,
thì mọi người sẽ theo tôn giáo mình rất nhiều. Ví như biến hóa, tàng hình, đi trên nước, đi trên lửa, đi trên hư không
như chim bay, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác, trị bệnh, trừ tà, ếm
quỉ, v.v.. Làm những việc như vậy sẽ có nhiều người theo tôn giáo mình rất đông.
Có một số tôn giáo lợi dụng sự trị bệnh và cứu trợ
tiền bạc, thực phẩm, gạo, sữa, đường, thuốc thang, v.v.. để lôi cuốn mọi người
vào tôn giáo mình, đó
là mánh khoé của các
nhà làm tôn giáo. Cho nên, Phật
giáo phát triển có Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp phục người khác vào tôn giáo mình.
Do dùng tưởng tập
luyện, nên tâm
danh, lợi, sắc dục vẫn còn, vì thế, khi có chút ít thần thông, thì lập
thành một giáo
phái, rồi hướng dẫn người theo giáo phái mình tu tập. Nếu
vị giáo chủ không sa ngã danh, lợi và sắc đẹp, có giới luật, có kỷ cương hẳn
hoi, có pháp hành và tu tập có kết quả, thì giáo phái đó được duy trì lâu dài,
còn ngược lại không có kỷ luật, vị giáo chủ đắm say danh lợi và sắc dục thì thần
thông
tưởng biến mất, vị
giáo chủ kia
đi ở tù
vì tội lừa đảo.
Trong đương
thời, phát triển đạo giáo, thì vị giáo chủ bày ra đủ thứ mê tín, khiến con người hao tốn
tiền bạc rất
nhiều, nhưng cũng có điều dạy rất tốt, dạy người làm lành,
biết thương yêu nhau, bố
thí giúp nhau trong cảnh hoạn nạn, tương thân tương trợ đoàn kết
với nhau. Nhưng rất độc tài
và bảo thủ
tôn giáo mình nên
sách động tín đồ
làm việc cực
ác. Phần nhiều có chiến tranh trên hành tinh này đều do tôn giáo gây ra,
máu xương con người chất như núi.
Bởi vậy, tôn giáo ra đời có lợi mà cũng có hại, lợi
là dạy người làm thiện, tu thiện, biết thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau; hại là tôn giáo này tranh giành tín đồ với
tôn giáo khác, vì hệ tư tưởng khác nhau. Nhưng xét cho cùng, tất cả
các tôn giáo khác
trên thế gian này đều lấy tưởng
thức tu tập,
thậm chí như:
Võ công, Khí công,
Khinh công, Nội
công, Yoga, Dưỡng sinh đều tập
luyện bằng tưởng lực, chỉ trừ ra có Phật giáo không dùng tưởng.
Phật giáo lấy
ý thức chủ động điều khiển, lấy đạo đức
nhân quả làm nền tảng
vào đời, nên không làm khổ
mình, khổ người, luôn sống
với trí tuệ
nhân quả, chuyển hóa được quả xấu
thành quả tốt, luôn tạo nhân lành bằng hành động thân, miệng, ý, tránh tạo nhân ác, khiến đời sống mình
và mọi người đều
được tràn đầy hạnh phúc, an vui,
chan hòa với nhau.
Những giáo lý và pháp môn đạo đức cao quý này,
đã bị những
giáo lý tưởng
giải, kiến giải của
các nhà học giả phát
triển triển khai ra và đã
tìm mọi cách dìm mất giáo lý của đạo Phật, nên hiện giờ
con người trên hành
tinh này đã đánh mất đi một nền đạo
đức nhân bản
– nhân quả tuyệt vời không làm khổ mình, khổ người.
Nếu các tôn giáo cho rằng: có đời sống sau khi chết
và lấy những
mẩu chuyện cận
tử nghiệp của nhà sưu tầm Raymono A-Moody cho là thật, thì chúng tôi xin
nêu một ví dụ.
Ví dụ, có một bệnh
nhân cần phải mổ,
trước khi mổ phải gây mê cơ thể cho người này. Khi bị gây
mê, người này
không còn biết
gì hết, giống như
người ngủ say, thì lúc
bấy giờ linh hồn người
này đâu bị
gây mê, sao họ
lại mất tiêu, không
xuất linh hồn ra ngoài
thân, để xem lại thân họ đang bị mổ, như các trường hợp trong
sách này thuật
lại. Trường hợp thứ
hai, trong các
nhà Thiền bảo rằng:
“thể
tánh
con người
hằng biết, hằng
nghe, hằng thấy. Vậy, sao lúc
gây mê chẳng còn nghe thấy biết gì cả?”.
Phật dạy: “cận
tử nghiệp”, người
sắp chết thường thể hiện cận tử nghiệp như giấc mộng, thấy cảnh giới
này, cảnh giới khác, có người thì mê man bất tỉnh chẳng biết gì cả, đó là tùy theo nghiệp (thói quen
do lòng ham muốn), tiếp tục
tái sanh luân hồi theo
nghiệp lực dục tương ưng với
đối tượng nghiệp lực dục
đó, ngay liền sau khi thân này không còn phục hồi lại được nữa.
Do đó, sự sống
sau khi chết không có, chỉ có một cuộc sống hiện hữu đang tiếp diễn
trong luật vô thường nhân
quả, từ thân này đến thân khác
liên tục mãi, tiếp nối nhau mãi không
bao giờ có kẽ hở, như ngọn
đuốc này tắt, tiếp nối ngọn đuốc khác.
Đó là một đạo luật nhân quả bất di bất dịch, muôn đời
muôn kiếp của loài người không có
ai thay đổi được, bởi
vì con người từ
nhân quả sanh ra, sống trong
nhân quả và chết trở về nhân quả.
TỤC LỆ
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Tại
sao người
chết, phải buộc tay chân vào hai bả vai?
Đáp: Theo
phong tục tập
quán của dân tộc Việt Nam có rất nhiều truyền thống mê
tín, dị đoan, kỳ lạ theo từng vùng địa phương. Đây cũng là một phong tục tập quán ở
miền Bắc, riêng ở miền Nam, khi nhà có người chết thì nhốt mèo lại hết. Những
ông bà xưa dạy: khi trong nhà có người chết,
không cột tay
chân vào bả vai
thì sẽ bị quỉ
“nhập tràng”, quỉ nhập
tràng tức là những linh hồn
người chết oan ức (chết bất đắc dĩ),
chết tức tối,
chết không kịp trối trăn gì cả, những linh hồn người này không
đi đầu thai
được, sống vất vưởng
theo đình, theo
miếu, theo cây
cao, bóng mát, thấy người nào hạp
với nó, thì bắt bệnh đau; thấy người nào chết, mà
hơ hỏng không
chịu cột tay chân, thì nhập vào, khiến cho thây ma bật dậy chạy điên
khùng, đụng vào
người nào thì người đó cũng chết
theo, khi đụng như vậy, dù vào
người hay cây cối thì thây ma cũng bật té chết
trở lại, do đó
người ta sợ trường hợp
này xảy ra,
nên mới cột tay chân vào bả vai để tránh
trước tai họa
cho gia đình
và những người khác.
Trong miền Nam,
khi nhà có người
chết, người ta không cột tay chân người chết lại, mà lại nhốt mèo, vì
trong những con mèo sẽ có con mèo gọi là
“linh miêu”. Nếu
con mèo này nhảy
ngang qua thây người
chết, thì thây ma đứng
dậy chạy và đụng ai thì
người ấy
chết, cho nên có người chết trong nhà đều nhốt
mèo lại hết, bây giờ không còn tục lệ đó nữa.
Trong kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo không có dạy những điều này, thường dạy
làm những điều
thiện tránh xa những
điều ác và đập phá những điều mê tín, dị đoan, nhất là
xóa bỏ
thế giới tưởng
siêu hình, hoàn
toàn không chấp nhận, cho nên những gì mê tín, dị đoan do các
phong tục truyền
thống của dân gian
có tánh cách
mơ hồ, trừu
tượng không thực tế thì đức Phật
nhẹ nhàng uốn nắn.
Chúng ta là đệ tử của đức Phật, ta phải nương theo
trí tuệ Phật, quán chiếu cái gì đúng, cái gì sai, để lần lượt dẹp bỏ, cho cuộc
sống bớt rườm rà và phiền toái,
vì những tục lệ không lợi
ích thiết thực.
Nếu chúng ta chấp nhận
khiến chúng
ta càng vô
minh hơn và càng lạc hậu hơn.
Nếu cuộc đời
còn chấp nhận
những điều mê tín, lạc hậu, còn
mang đầy ấp những truyền thống của tổ tiên mơ hồ, trừu tượng, có tánh cách vô
lý, mà không
chịu dứt bỏ,
mang cõng trên vai, trên cổ mãi,
mà không chịu bỏ xuống
thì chứng tỏ những hạng người đó quá u mê, vô minh và lạc hậu
không tiến bộ,
theo kịp thời đại khoa học, đang
hiện đại hóa cuộc sống loài người.
ÁO LỤC THÙ,
ÁO HÂI HỘI
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa Thầy! Chúng con tâm còn hoảng
loạn, trong lúc có người thân
quyến ra đi, thật là lưu luyến kẻ
ở người đi, lòng sầu bi, ũ dột.
Lúc còn sống phải chuẩn bị mua sắm áo chết để mặc, “áo lục thù,
áo hải hội” để
khi chết
mặc đi xuống địa ngục, quỷ sứ nhìn thấy, biết đó là đệ tử của
nhà Phật, mà không
hành án nặng,
giảm khinh tội. Thưa Thầy, con chưa hiểu,
xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Đạo Phật quả quyết và xác định không có thế giới
siêu hình, thì làm sao có linh hồn mặc
áo hải hội,
áo lục thù
đi xuống địa ngục.
Đạo Phật chỉ
có một thế giới con người đang sống, là thế giới tưởng tri,
con người đang lầm chấp cho đó là thế giới có thật sự, nên tạo biết bao nhiêu
nhân quả bất thiện, để rồi cũng phải chịu sống với bao nhiêu
quả khổ đau, vui ít, khổ nhiều, còn kẻ nào tạo những
điều cực ác, thì phải thọ lấy cảnh sống toàn khổ, đó là địa
ngục trần gian, chứ không có địa ngục nào khác nữa; còn kẻ nào làm toàn thiện,
không làm khổ mình, khổ người thì kẻ ấy
có một cuộc sống an vui, hạnh
phúc, đó là cảnh
giới của chư Thiên; còn kẻ nào
cũng sống toàn thiện như trên, mà biết xa lìa tâm ham muốn (dục), không
làm khổ mình, khổ người
thì tâm hồn thường
thanh thản, yên vui,
an lạc và vô sự, đó
là Niết Bàn tại thế gian.
Đối với đạo Phật, cảnh Thiên Đàng, Địa Ngục và Niết Bàn đều ở tại thế
gian không phải đi tìm nơi đâu xa
cả.
1- Làm ác chịu quả khổ, đó
là địa ngục tại thế gian.
2- Làm thiện
hưởng phước báo
an vui, hạnh phúc, tai qua nạn khỏi,
sống cuộc đời đầy đủ, không thiếu
hụt, muốn chi
có nấy, đó là
cảnh Thiên Đàng tại thế gian.
3- Sống ly dục
ly ác pháp, diệt
ngã xả tâm, tâm hồn vô sự, thanh
thản, trầm lặng, an lạc, đó là cảnh giới Niết Bàn tại thế gian.
Áo lục thù và áo hải hội là của các thầy cúng và
các thầy phù thủy, bày đặt chuyện
ra để lừa đảo, lường gạt những người không hiểu giáo lý đạo
Phật chơn chánh, họ dựa
theo một số kinh sách mê tín của Đại Thừa, mà bảo với tín đồ, đó
là lời Phật dạy: làm
như vậy, cúng bái như vậy, sẽ có lợi ích và phước báo
lớn.
Làm gì
có quỷ
sứ, ngưu đầu mã diện;
làm gì có mười vua Diêm Vương ở cõi địa ngục hành hạ linh hồn tội nhân. Đó là sự
giàu tưởng tượng của những nhà văn viết tiểu thuyết thuộc loại hoang đường hư ảo
như những tác giả kinh Địa Tạng, kinh Thập Vương, Tây Du Ký, Phong Thần, Hồi
Dương Nhân Quả, Liêu Trai Chí Dị v.v..
Trong kinh
sách Nguyên Thủy của đạo Phật, có nói đến quỷ
vô thường, quỷ la
sát,
là nói đến sự
vô thường của
thân tứ đại
và các pháp ác, chứ
không phải có con
quỷ vô
thường và con quỷ la sát thật sự, người đời không hiểu cho đó là
có quỷ thật sự, ở
cõi địa ngục Diêm
La.
Trong
kinh Thập Vương
diễn tả mười cảnh địa ngục, có mười vị vua Diêm
La Vương, có quỉ sứ, có ngưu đầu,
mã diện, có phán quan, v.v.. Đó là một thế giới tưởng được vẽ ra, để lừa
đảo tín đồ, khiến
cho tín đồ quá sợ
hãi. Do sự sợ hãi đó mà quý thầy Đại Thừa bảo tín đồ làm sao thì làm vậy,
không dám suy nghĩ đúng, sai những điều đã
được dạy bảo, nên phải chịu hao tài tốn của rất nhiều về vấn đề cầu
siêu, cúng vong, tiễn linh, trừ linh, trừ thần, v.v..
CHIẾC ÁO
KHƠNG
CHE ĐƯỢC MẮT THÁNH
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Lúc sống không tu
tập trau dồi
thiện pháp, không
sửa tâm tánh, những thói hư tật xấu,
sống không nhìn đời bằng đôi mắt nhân
quả, luôn luôn tạo khổ cho
mình và cho người khác. Đến khi chết, mặc
áo lục thù, áo hải hội có tác dụng gì không?
Đáp: Kinh sách phát triển thường soạn viết ra những
điều phi đạo đức, sống
làm điều ác, gian
tham, tật đố,
háo danh, tham của cải, tài
sản, đủ mọi
mánh khóe, thủ đoạn, giết người, cướp của, hại mạng chúng sanh, chẳng
chút lòng lành,
chẳng biết thương
xót ai hết, chỉ
biết có mình
là trên hết. Đến khi chết
chỉ cần mặc áo lục thù hoặc áo hải hội, đi xuống Diêm đình,
không ai bắt tội, vì quỷ sứ,
ngưu đầu, mã diện, ngục tốt đều biết đó là đệ tử của đức Phật nên vị
tình tha thứ.
Đó là một
hình thức trong
muôn ngàn hình thức lừa đảo,
lường gạt tín đồ
của kinh sách phát
triển, với những
người còn nhẹ dạ
non lòng,
trình độ hiểu biết còn thấp kém, chịu ảnh
hưởng sâu nặng
những phong tục hủ lậu tập quán lâu đời, đã biến thành thói quen, nên có hữu sự chuyện
gì, thì cứ theo lời dạy trong kinh sách đó
mà làm, chẳng
dám ném bỏ, dù
biết đó
là sai không
đúng, nhưng không
làm thì chịu không được,
hoặc sợ mọi
người lên án hay chê
cười, bất hiếu,
không thông kinh sách Thánh Hiền.
Đối với đạo đức nhân quả, là một đạo luật rất công bằng
và công lý. Giả thuyết nếu đức Phật có làm những tội ác mà đã đi xuống địa ngục
dù có mặc một trăm chiếc y hai mươi lăm điều thì luật nhân quả cũng sẽ không
tha tội ông, vẫn hành tội đúng như những người khác làm tội ác mà không có chút
nào thiên vị.
Cho nên, các cư sĩ đừng nghe theo kinh sách phát
triển, rồi chừng
đó sẽ hối hận, ăn năn không kịp, đừng lấy vải thưa che mắt
Thánh, đừng lấy
chiếc áo đạo,
che mắt luật nhân quả được hay sao!
Hãy sống đúng luật nhân quả, đừng làm khổ mình, khổ người, thì dù có sống trong cảnh giới nào,
thì cũng được an vui,
hạnh phúc, có chết
đi về cõi
nào thì cũng là
cõi Cực Lạc, Thiên
Đàng. Chẳng bao giờ
biết sợ đọa địa
ngục và chẳng
bao giờ có Diêm
Vương bắt nạt, có ngục tốt
la hét mắng chửi,
nạt nộ, hành hạ
v.v..
Thời đại khoa học hiện đại, sự hiểu biết quá rõ ràng, đâu còn mê tín, lạc hậu như
những ngày xưa, chết mà còn mặc những chiếc áo như vậy, đâu có tác dụng gì cả,
chỉ làm một trò cười lố bịch cho thiên
hạ. Bị kinh sách
mê tín, lừa đảo mà không biết, thật
là ngu si hết chỗ nói.
SÁT SANH SIÊU
CỰC LÄC
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Lúc chết vào giờ
xấu, cả gia đình lo cuống cuồng, nào là lễ bái, tụng kinh, trì chú
thật nhiều để trừ khử giờ
xấu đó.
Suốt ba ngày đêm phải giết một trăm con gà,
làm cỗ linh đình,
mời cả làng đến ăn
cỗ.
Sát sanh làm cỗ như thế, tụng kinh
trì chú, để chống
giờ xấu đó,
vong linh mới được siêu thoát và
người trong gia đình mới được lợi lạc, bình
an. Thưa Thầy,
có được như
vậy không ạ?
Đáp: Theo tinh thần của đạo Phật, đời người sanh
ra có tốt, xấu,
phước báo hay
tai nạn, đều do những
hành động nhân
quả của chính mình đã gây tạo ra, chứ không phải do ai ban phước,
giáng họa cho mình mà cũng không phải vì
tuổi tác xung khắc tốt, xấu hoặc ngày, tháng, năm tốt, xấu đem lại quả khổ cho
mình.
Bởi vậy, đạo Phật xem giờ, ngày, năm, tháng không có
xấu, tốt. Xấu tốt chính là hành động
thân, miệng, ý của chính mình tạo ra.
Tùy theo sự
văn minh của mỗi dân tộc
trên hành tinh này phát triển theo sự tiến hóa của môi trường sống. Lúc bấy giờ
các nước dân tộc
Châu Á triển khai
theo luật âm
dương, bát quái, ngũ hành,
dựa vào đó
biên soạn kinh Thái
Ất Dịch Số mới
có những ngày,
giờ, tốt xấu để con
người kiêng cữ biến thành một loại mê tín có sách vở, có nghiên cứu rất
tinh vi, khiến cho mọi người
có trình độ kiến
thức cao như những
nhà khoa học và
bác học vẫn phải
tin theo, không có một lý luận nào chống trái bắt
bẻ, dù dựa
vào khoa học
cũng không bài bác,
cho là mê tín được.
Nhưng chúng ta phải
biết đó
là một loại mê tín
của văn minh người xưa cổ có bài bản.
Đối với đạo đức
nhân bản - nhân quả, thì những văn
minh này đã khiến cho con người duy trì và
làm những điều
phi đạo đức. Một
người chuyên làm những điều ác đức, giết hại biết bao nhiêu
con người khác và
loài thú vật, vì tư
lợi cá nhân của mình,
vì chiếc ngai vàng của những nhà vua độc tài.
Nếu xem ngày giờ tốt, xấu trong mọi việc làm mà đạt được
như ý nguyện,
thì những người giàu
có và các
quan, vua chúa sẽ không
bao giờ có
tai nạn, bệnh tật, tử vong, mất nước v.v..
Nếu xem ngày, giờ, tốt, xấu trong mọi việc làm, mà đạt được
như ý nguyện, thì con người trên hành tinh này sẽ trở thành những ác
thú hung dữ. Tàn sát lẫn nhau mà
không gớm tay.
Ví dụ: Một
người ăn trộm
hoặc ăn cướp, giết
người cướp của,
chỉ cần đi xem
ngày, giờ tốt xấu, rồi đi ăn trộm, ăn cướp
sẽ không bị bắt và không bị
tù tội, thì thử
hỏi con người trên thế gian này, làm sao còn sống được nữa
vì nạn trộm cướp. Do vậy chúng ta biết đó là một loại mê tín có
sách vở, từ loại mê tín
có sách
vở này, mới sản xuất ra các loại sách bói khoa, chiêm tinh, tiên tri
v.v..
Phật
giáo ra đời không
chấp nhận những điều
mê tín phi đạo đức này,
vì đạo Phật
xây dựng giáo lý của mình trên một nền tảng đạo đức nhân bản –
nhân quả công bằng và
công lý. Một đạo đức không giai cấp, không quân tử, không anh hùng cá
nhân, chỉ biết sống bình đẳng với mọi con người và thương yêu tất cả chúng
sanh, không làm khổ mình, khổ người và
khổ tất cả chúng sanh, đó là một đạo đức công bằng nhất
trên hành tinh này.
Nếu mọi người đều
thực hiện và
áp dụng vào đời sống hằng
ngày thì hành
tinh này là một cõi Thiên Đàng của loài người.
Nếu đạo đức
này được áp dụng vào đời
sống của loài
người, thì thế
giới siêu hình không
còn có nữa, những
kinh sách xem ngày, giờ tốt, xấu
và những loại sách bói khoa chiêm tinh
tiên tri sẽ bị đốt sạch, vì con người không ai còn tin nữa.
Ngày, giờ, năm, tháng không có tốt, xấu; tốt, xấu là
do con người đặt ra để kiêng cữ thế này thế khác, nhưng kiêng cữ có tránh được
tai qua, nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ hay không?
Chắc là không
rồi, nhưng tại sao người ta lại tin?
Người ta tin chỉ
vì không hiểu
rõ, còn mờ mịt, u tối, vô minh
không thấy đó là những điều phi đạo đức,
làm lợi cho mình mà hại biết bao nhiêu
người khác.
Sanh ra làm
người, là do từ nhân
quả, sống trong môi
trường nhân quả,
chung đụng với các pháp nhân quả, nên luôn phải có những hành động nhân
quả để đối phó xử sự mọi sự việc trong thiện pháp, để biến cảnh sống “Địa Ngục”
thành “Thiên Đàng”, muốn được vậy con người phải thông suốt luật nhân quả. Có
thân này là thân nhân quả, thân nhân quả là vô thường, biến dịch thay đổi, thì
có ai tránh khỏi
bệnh tật, tai
ương trong môi trường
nhân quả này không?
Nếu biết rằng không ai tránh khỏi luật nhân quả,
sao lại còn bày
chi luật âm
dương dịch số, xem ngày, giờ tốt, xấu, tuổi tác, vận mạng, để lừa đảo,
lường gạt người
khác một cách vô đạo đức như vậy?
Rút ra từ kinh nghiệm
bản thân của cuộc
sống, mỗi người làm điều gì đều
phải xem tuổi tác và
ngày, giờ tốt, xấu, nhưng mấy ai
đã đạt được kết quả tốt đẹp hoàn
toàn bao giờ chưa? Có
ai đã xem tuổi tác
và ngày, giờ tốt, mà không xảy ra bệnh tật, tai nạn chưa?
Nếu xét cho kỹ, sự được, mất là do hành động nhân quả
thiện, ác của mình, chứ không phải do tuổi
tác ngày giờ tốt, xấu. Đây cũng là một trò tưởng giải của loài người tự gạt,
tự dối mình, tự lừa đảo
mình mà không
hay, không biết, nên người ta bảo
rằng: “Đây cũng là một văn minh của người
xưa”, nào ngờ trí hữu hạn của con người không giải quyết được
những điều không hiểu, mà lại đầy ắp tâm tham vọng, mong cầu, ao ước một cuộc sống
trên hết mọi người không có ai bằng mình
được về mọi mặt.
Vì thế, với tâm tham vọng đó, con người tưởng giải
ra các pháp mê
tín, để an ủi
tinh
thần
mình trong hy vọng về
tương lai, tạo cho con người có một
cuộc sống ảo tưởng, nuôi hy vọng lớn và nuôi bản ngã càng ngày càng vĩ đại
hơn.
Những giáo pháp này đã đưa con người sống không thật
với chính họ và với mọi người. Cũng vì thế, đời người vốn sanh ra trong môi trường nhân
quả đã đau khổ
lại càng khổ
đau
hơn.
Kinh sách
mê tín lừa đảo
người, đã biến thành
một nghề sống
cho những người
lười biếng muốn “ngồi trong mát ăn bát vàng”, bằng cách lường gạt người
khác, chỉ có những người vô minh, mê mờ, thiếu đạo đức nhân quả, đầy lòng tham
vọng thì mới tin theo.
Người đệ tử chơn chánh của Phật giáo không bao giờ
bị lường gạt, bởi họ được giáo dục và trang bị một “đạo đức nhân bản - nhân
quả” rất đầy đủ mọi hành động không làm khổ mình, khổ người, còn những kẻ tự xưng là đệ tử của đức Phật được học tập
giáo lý và
nghiên cứu kinh sách phát
triển mê tín, phi
đạo đức thì những tu
sĩ này lại
là những thầy
xem ngày, giờ tốt, xấu; còn tín đồ cư sĩ Phật giáo thì lại mê
tín, có điều gì thì đi xem tuổi tác ngày, giờ
để tránh tai
bay, vạ gió hơn những người
không
tôn giáo. Từ
đó những gì
mê tín, dị đoan, lạc hậu đều do trong nhà chùa bày vẽ
ra. Cũng từ đó đạo Phật mất
đi nền đạo đức nhân bản – nhân quả
quý giá nhất của loài người.
Đức Phật đã xác định: không có thế giới siêu
hình, không có ai cứu khổ, cứu nạn cho
ai, không có ngày,
giờ tốt, xấu. Lời dạy bảo
năm xưa của đức Phật còn vang mãi trong tai: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Ta
không cứu khổ các
con được”. Đây là lời di
chúc cuối cùng của đức Phật trước khi Ngài sắp nhập diệt. Thế mà, kẻ nào
đã dạy tụng kinh, trì chú, để trừ khử những giờ xấu đó hoặc cầu an, cầu siêu
cho gia đạo bình an và linh hồn được
siêu sanh Tịnh Độ? Kẻ
đó dám phỉ
báng đạo Phật như vậy, chuyện không có dám mạo nhận Phật
dạy như
vậy, thật là
gan dạ, nhưng
lần lượt người ta vẫn sẽ phát
giác ra sự gian xảo đó, không thể che giấu mãi được.
Lời dạy tụng
kinh, trì chú trên
đây, đối với Phật giáo là một điều
phi đạo đức, phi Phật giáo. Người tín đồ Phật giáo chân chánh sẽ không chấp
nhận những điều
mê tín, trừu tượng, mơ hồ, không rõ ràng, thiếu thực
tế. Chỉ có kẻ ngu si
mới
không biết đó
là thế giới tưởng
(thế giới do tưởng
ấm tạo ra).
Ngày, giờ
tốt, xấu
cũng do tưởng ấm tạo ra, dựa
vào sự hoạt động luân hồi (tuần
hoàn) của luật vô thường nhân quả để tiên
đoán quá khứ, vị lai và
hiện tại của kiếp sống
con người, có khi
đúng, cũng có khi sai. Đúng là nhờ tưởng ấm sử dụng không có thời gian và không
gian, giao cảm được mọi sự kiện nghiệp lực của nhân quả cũ; còn không đúng là
vì luật nhân quả di dịch thường hay thay đổi do hành động thiện ác của con người,
khiến cho nghiệp lực nhân quả cũ được
thay đổi liên tục theo
không ngừng nghỉ. Do
thế các nhà
tiên tri, không
thể nào tiên đoán
trúng được 100%. Mặc
dù kinh sách dịch số, chiêm tinh biên soạn rất công phu dựa vào luật âm
dương, bát quái tính toán
rất tinh vi, giống như
khoa học. Nhưng
nó không phải
là khoa học, nó chỉ là
khoa tưởng tri của
con người dựng lên để giải quyết những tham ước vọng và giải quyết sự
ngu dốt của con người. Càng giải quyết
tham ước vọng,
lại càng khổ đau hơn;
càng giải quyết
sự ngu dốt lại càng ngu dốt hơn, chỉ vì những điều được dựng
lên, đều do tưởng tri tạo ra. Việc làm đó chỉ là một nguồn an ủi tinh thần, chẳng
có gì ích lợi thiết thực cả, còn làm hao tài tốn của và công sức rất nhiều của
con người.
Khi sống làm những điều
ác đức, đến
khi chết nhằm vào giờ xấu, là để chỉ cho quả báo hiện tiền,
cớ sao lại trốn
chạy, tránh né bằng
cách dựa
vào thế giới
tưởng để tụng
kinh, trì chú cho tai qua, nạn khỏi. Đối với đạo Phật, những kẻ làm
như vậy là những kẻ không đạo đức, đó không phải là đệ tử của Phật,
mà là những kẻ hèn
nhát tự làm khổ mình
và làm khổ kẻ khác, đến khi gặp
khổ lại trốn chạy, tránh né.
Đứng trên lập
trường nhân quả, đạo Phật dạy ta:
khi ta làm một điều ác, điều ác
đó đã trở thành
quả, làm khổ
cho ta, tức là
ta phải thọ chịu lấy sự
đau khổ ấy,
chính ta đã vô
minh làm
điều khổ đau
cho ta mà ta
không biết. Ở đây, cần phải
hiểu chính ta
đã làm ác cho ta mà ta phải thọ lấy quả khổ đó, huống
là ta làm khổ
cho kẻ khác
và cho tất cả loài chúng
sanh thì ta phải
gánh chịu chứ
không trốn chạy.
Làm một điều ác, khiến cho người khác và chúng sanh
đau khổ, thì thời tiết
nhân duyên đủ, luật nhân quả xử
phạt công minh, không tư vị riêng ai, kẻ làm ác thì phải chịu lấy quả khổ, đừng hòng
chạy chữa nơi
đâu mà thoát
khỏi, chỉ có vui vẻ nhận quả khổ đó với lòng hối hận,
với những
việc làm ác
đã tạo khổ
cho mình, cho người và cho chúng sanh, để sau này không còn làm ác nữa, thì
sẽ chấm dứt quả khổ, chấm dứt quả khổ
không phải do xem ngày
tốt, xấu, hoặc trì chú, tụng
niệm mà chính
hành động làm thiện
“không làm khổ
mình, khổ người”.
Người đệ tử của Phật, trước cảnh khổ, vui vẻ đón nhận lấy, không hề than
thở, oán trách ai hết hoặc
chạy chữa cúng
bái, cầu khẩn,
van xin, cũng không đi xem ngày tốt,
xấu để tránh quả khổ
đó, mà đón lấy với sự hân
hoan để tư duy những điều ác của
mình đã
làm qua, rút ra những điều đó để tránh
hiện tại không
làm điều ác nữa.
Đó mới chính
là những điều
Phật dạy chân chánh,
con người đối
xử với con người,
con người đối xử với tất cả chúng
sanh, để thế gian này là Cực Lạc, Thiên Đàng.
Dạy trì
chú, tụng kinh, cầu
cúng để tai qua, nạn
khỏi, dạy xem ngày tốt, xấu để
mang đến phước báo, tài lộc đầy nhà. Đó là một giáo pháp phi đạo đức,
phi nhân quả,
không thấu suốt lý nhân quả nên dạy
những điều bất công, ngồi không mà muốn làm giàu; làm điều ác mà muốn
tránh quả khổ.
Đó là kinh sách
lừa đảo, lường gạt người
khác có bài bản, tạo ra
những
hình thức rất cụ thể, giống
như khoa học hiện đại, để dễ bề lừa
đảo người có học thức. Sự lừa đảo này chỉ
lừa đảo với những người
thiếu đạo đức nhân quả. Người có đạo
đức không bao giờ chấp nhận và làm theo
lời dạy trong kinh sách
này.
Nghề xem ngày,
giờ tốt, xấu
và chiêm tinh, bói khoa hiện giờ
cũng rất thịnh hành, không những với người ngu dốt
mê tín mà còn với những người có trình độ học thức vẫn
bị lừa đảo. Chỉ riêng
đối với những
người tu sĩ đạo
Phật chân chánh tu tập “giới, định, tuệ”, thì không bị lừa đảo,
còn ngoài ra phải
nói là tất cả
mọi người, không tránh khỏi loại
kinh sách
này.
Dạy sát sanh
100 con gà,
làm cỗ linh đình,
cúng tế, mời cả làng đến dự tiệc, để trừ
khử cái
giờ chết xấu
đó. Khi chết vào giờ xấu, chứng tỏ người này lúc còn sanh tiền đã
làm những điều ác đức, tạo khổ người, khổ chúng sanh. Muốn
chuyển quả khổ
đó, mà lại giết
thêm 100 con gà, tức là tạo thêm một trăm cái khổ nữa,
quả khổ chồng
thêm 100 quả khổ
khác nữa, thì làm sao gọi là trừ khử giờ xấu đó, để vong linh được lợi lạc.
Xét cho tận cùng, đó là một điều dạy ác đức, không thể giải khổ cho
người chết được, vô tình thiếu trí tuệ, phán xét bị lường
gạt làm điều
ác, đoản mạng
chúng sanh, do đó sự vô tình này lại tạo thêm tội khổ cho vong linh
và còn
phải đọa nhiều
kiếp khổ đau nữa.
Đứng trên góc độ nhân quả, hễ làm một điều ác thì
phải mang lấy một quả khổ, càng làm bao nhiêu điều ác, thì chồng lên bấy
nhiêu quả khổ, phải
chịu lấy, không
thể xem ngày, giờ tốt, xấu mà tránh được, cũng không
thể cầu cứu với ai, mà cứu khổ được.
Nhưng, cuộc sống hằng ngày cứ làm thiện, đừng làm khổ
mình, khổ người, cảnh giác từng hành động
thân, miệng, ý luôn thanh tịnh, thì chuyển tất cả quả khổ ở
quá khứ, mang lại
hạnh phúc an
vui cho mình cho người
trong cuộc sống hiện tại, mà chẳng cần xem ngày giờ tốt xấu,
muốn làm điều
gì, thì ngày giờ
nào cũng tốt, cũng
lành, cũng chẳng
cầu cúng ai hết,
cũng chẳng tụng
kinh, trì chú gì cả. Đó
chính là những điều Phật dạy, các Phật tử cần nên ghi nhớ, dù đệ tử cư
sĩ hay tu sĩ cũng phải ghi khắc trong lòng,
đừng nghe theo tà
thuyết ngoại đạo, làm những điều
phi đạo đức
nhân quả, không xứng đáng là đệ tử của Phật. Phải quyết tâm,
chặn đứng những
hành động lừa
đảo, gạt
người và thẳng
tay đốt sạch
những kinh sách mê tín, trừu tượng phi đạo đức, để tránh sự hao tài, tốn
của, của đồng bào Phật tử cả nước và mọi người trên thế giới. Luôn luôn phải sống
đúng đạo lý nhân quả, thiện ác phân minh rõ ràng, để đem lại mình vui, người khác vui. Đó là chân giải thoát của
đạo Phật.
Người giữ gìn và
sống đúng đạo đức nhân quả như vậy, thì đó chính
là dệ tử chân chánh của đức Phật, sống một đời sống trầm lặng,
thanh thản, an lạc và yên vui cho mình cho người.
BỐC MỘ
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Khi nhà có người
chết ba năm, sang cát xem ngày giờ tốt xấu, để bốc mộ,
khi đem thi hài
người chết lên.
Nhờ thầy địa lý cắm hướng
để mộ, cho con cháu, dâu, rể làm ăn hưng thiïnh. Như
vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Nếu
xem ngày tốt xấu, cắm hướng, để
mộ làm ăn
hưng thịnh, giàu
có, làm vua quan, học hành thi đỗ thì mấy ông thầy địa
lý, đã tự bốc mộ ông
bà mình, để hướng cho gia đình
và dòng họ mình
làm ăn hưng thịnh, con cháu đi học, thi đỗ làm quan, vua giàu có
không ai bằng họ được.
Trên đời này
chẳng có ai
muốn mình nghèo khổ cả, nếu làm
giàu dễ dàng, thì ai mà chẳng ham làm. Vậy sao mấy
ông thầy địa lý
không làm, để đi
làm thầy
địa lý có ra
gì, đời sống cũng nghèo khổ vất vả như ai vậy.
Trong đạo Phật, người thông suốt đạo lý nhân quả,
quán xét các ông thầy địa lý, chỉ là những
người hành nghề
mê tín, lừa đảo
người khác để kiếm tiền sống bằng một cách vô lương tâm, phi đạo đức.
Trong cuộc
chiến tranh bảo vệ tổ quốc quê hương, biết bao nhiêu chiến sĩ siêu mồ, lạc mả,
nhờ các thầy địa lý có khả năng siêu hình
hoặc đồng cốt chỉ chỗ hài cốt siêu lạc. Do việc
làm này có hiệu nghiệm, nên được mọi người rất tín nhiệm, nhưng vẫn
nghi ngờ không
biết cách nào mà họ hiểu được như
vậy. Họ nghĩ rằng chỉ có linh hồn người
chết về nhập đồng, cốt mới
báo đúng như vậy được.
Họ đâu biết rằng,
vốn trong mỗi người đều có thế giới siêu hình, không có không gian và thời gian
trải dài và
chia cắt (thế
giới tưởng ấm). Cho
nên, việc gì xảy ra trong
thời gian quá khứ xa xưa cũng như việc chưa xảy đến và bất kỳ
nơi đâu, chỗ
nào, tưởng ấm
cũng đều giao cảm và biết rất
chính xác, chỉ có điều sai, không đoán
được về tương lai, là vì luật nhân quả
di chuyển thay đổi từng
phút từng giây, theo hành động thiện ác của con người,
về chuyện quá khứ thì họ nói không sai một mảy. Do chỗ
tiên đoán đúng
này con người và các
tôn giáo mới
xây dựng thế
giới siêu hình, nhưng họ đâu biết rằng, họ đã bị tưởng ấm lừa đảo, vì thế giới siêu
hình không có.
Tin như vậy
mà không biết rõ, không xác định cụ thể được, thì gọi là mê
tín, dị đoan, còn nằm trong sự hiểu biết trừu tượng của tưởng thức. Theo đạo Phật
sự tin như vậy không đúng chánh
pháp, mặc dù
kinh sách địa lý của Vệ Đà kinh thuộc văn minh Ấn Độ và văn minh
Trung Quốc đã
có trước kinh
sách của đạo Phật,
những kinh sách này
không thấu triệt thế
giới siêu hình
còn lầm tưởng
trong tưởng tri, vì thế đức Phật
ra đời xác định lại trong những bài kinh: “Thế
giới siêu hình chỉ
là
thế giới tưởng
của loài người, do tưởng ấm của mỗi con người
tạo ra khi họ còn sống, đến khi
con người mất
thì thế giới này cũng mất theo”.
Chúng ta là đệ tử của Phật, không thể tin một cách
mù quáng như vậy, muốn tin một điều gì
thì ý thức phải
hiểu rõ ràng,
không được phép dùng tưởng thức để hiểu,
tưởng thức hiểu sự việc sẽ bị bóp
méo, không đúng thật sự và dễ bị kẻ khác lừa đảo.
Chúng ta tin là tin đúng lời Phật dạy, tin ở ta
không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh thì chắc chắn không ai làm khổ ta và không bao giờ có tai nạn,
bệnh tật hiểm nghèo xảy đến cho ta.
Người ở ngoài đời hay dễ tin, chỉ cần thấy những việc
làm ngoài sức tưởng tượng hiểu biết của mình như: biết chuyện quá khứ vị lai của
người khác và có một ít thần lực Khí
công, Nội công, Trọng công, Khinh công, v.v.. là tin ngay liền. Những
kẻ tà sư ngoại
đạo lợi dụng lòng
tin đó, dùng tà thuật, bùa
mê, thuốc lú, hoặc
những thủ thuật gian xảo bằng mọi cách giống như mình
tu hành đã có thần thông, để dễ làm tiền tín đồ một cách bất lương.
Sử dụng các khoa mê tín như: bói toán, cúng bái, tụng niệm,
vẽ bùa, đọc
chú, trù ếm, xem
ngày tốt xấu,
lên đồng nhập
xác, nói chuyện quá khứ vị lai của
người khác, nói đâu đúng đó, hoặc thể hiện những sự thần biến ảo thuật, làm trò
ma quái, khiến cho mọi người ai cũng tin
theo. Do những trò bịp người
lừa đảo này, mà thế giới
siêu hình đến
ngày nay vẫn còn chỗ đất đứng.
Những kẻ tà sư ngoại đạo, dựa vào lòng sợ hãi của
con người, dựng lên thế giới
siêu hình có Thần, Thánh, Tiên,
Phật, quỉ, ma, địa ngục, Thiên Đàng v.v.. Luôn luôn cai trị loài người
hành phạt đủ mọi cách
và cũng ban
thưởng; còn quỉ ma thì luôn luôn ám hại loài người, chỉ còn cách nhờ đến
sư, thầy cúng bái và dùng bùa chú ếm đối,
thì ma, quỉ tránh
xa, người mới được bình an, tai qua, bệnh tật tiêu trừ.
Thế giới siêu hình
được các tôn giáo và tà sư ngoại
đạo dựng lên
đã ngự trị được trong lòng
người, thì mặc tình những
kẻ này, ra oai tác phước, giáng họa trên đầu con người
một cách dễ dàng, làm tiền cỡ nào cũng được. Bởi vậy, mới có thầy cúng, thầy
bói, thầy phù thủy, thầy bùa, thầy ngải, thầy tụng, thầy pháp, thầy địa lý, đồng,
cốt, cô cậu v.v..
Do sự làm ăn
bất lương của các vị sư, vị thầy đã vẽ
ra bao điều mê tín lừa đảo, dần dần trải qua nhiều thế hệ con người, biến thành
phong tục tập quán dân gian. Bây giờ thấy biết đó là một điều
sai, không đúng sự thật,
một cảnh giới mơ hồ, trừu
tượng rõ ràng,
không chấp nhận muốn bỏ nó không phải dễ dàng, không phải một sớm một
chiều mà dứt bỏ được liền. Muốn dứt bỏ phong
tục tập quán
mê tín này thì mọi người
cần phải hiểu và
thông suốt lý nhân quả và còn phải hiểu mọi sinh vật trên hành tinh này
được sinh ra trong
môi trường duyên hợp. Trong các duyên hợp
“vô minh” là một
“duyên” đầu tiên trong các duyên. Nhưng vô minh nằm trong
định luật nhân quả,
vì có vô minh mới có thiện ác; có
thiện ác mới có sự khổ vui của vạn vật.
Các pháp đều
do duyên hợp
mà thành, nên phải chịu luật vô
thường biến dịch, không có một vật gì
thường hằng bất biến trong
thế gian này mãi
mãi. Cái gì
mà người ta
nghĩ rằng trên hành tinh này còn có một vật thường hằng bất biến thì vật
đó chỉ là sự tưởng tri của họ mà thôi, chứ không bao giờ có vật thường hằng bất biến được.
Nếu có vật
thường hằng bất biến thì các pháp
duyên hợp không bao giờ
có, các pháp
duyên hợp không có thì luật nhân quả không có,
luật nhân quả
không có thì luật âm
dương không có, luật
âm dương không có thì vạn vật không sinh nở. Nếu vạn vật
trên hành tinh này không có, thì đạo Phật không ra đời, ra đời để làm gì?
Xét tận cùng,
vì các pháp
do duyên hợp tạo ra theo vòng quay nhân quả, nên đạo Phật ra đời
giúp loài người
chủ động điều
khiển nhân quả, đoạn dứt các
pháp duyên hợp để
chấm dứt cảnh
luân hồi, khổ
đau của kiếp người.
Khi thông suốt lý nhân quả như trên đã dạy, mà
còn phải tu tập, trau dồi thân
tâm bằng cách sống
và đối xử với mọi
người đúng luật đạo đức nhân quả,
thì những phong tục tập quán mê tín này mới được dứt trừ.
Còn hiện giờ,
trước tiên chúng
ta phải sống tùy thuận theo các
phong tục hủ tục đó, nhưng khéo léo giảm thiểu:
1- Giảm
thiểu sự sát sanh tối đa.
2- Giảm thiểu
những sự mê tín có tánh cách phung phí nhảm nhí vô ích.
3- Giảm thiểu
những sự cúng
bái mê tín có tánh cách lạc hậu, lỗi thời.
4- Giảm
thiểu những sự tụng niệm,
trì chú có tánh
cách mê tín cuồng
tín của những tín đồ ngoan đạo.
Hằng
ngày thường tu tập pháp
hướng, nhắc tâm, dẫn tâm vào đạo,
trau dồi thân tâm sống đúng đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ
người, tạo nhân
thiện làm vui
lòng mọi người, để cuộc sống luôn hưởng quả lành (phước báo).
Do đó, thân
tâm cá nhân
được thanh thản, an lạc, gia đình hạnh phúc, an vui, xã hội có trật tự,
an ninh, đất nước thanh bình, phồn vinh, thịnh vượng.
NHÂN ÁC
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Lúc sống
không
tu tập đạo đức nhân quả, không tạo phước báo sau
này, toàn sống
theo lối thương
trường, không quân tử nhất ngôn, lật lọng (nay nói thế này mai nói thế
khác). Lúc nào cũng muốn hơn người, xem
mọi người dưới tầm tay, tầm mắt của
mình, chỉ có
mình là đúng,
là giàu có, là
quyền uy thế lực,
còn thiên hạ chẳng có
ai ra gì.
Họ sống như vậy, hậu quả như thế nào, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ?
Đáp: Người đang sống không lo tu tập đạo đức nhân quả,
không lo tạo phước báo sau này, toàn sống trong
các pháp ác, tạo ra những
nhân ác khiến cho những người ở chung quanh mình chịu gian nan, khổ đau thì hậu quả ấy không
thể nào tránh khỏi tai ương, khổ nạn, không những ở hiện tại mà còn kéo dài mãi
ở kiếp sau.
Hiện tại qua tức là ngày đã qua (quá khứ), vì vậy đối với những người
đang giàu có tỷ phú và có đầy đủ uy quyền thế lực, nhưng luật nhân quả không
tha cho kẻ
làm ác, dù họ có uy
quyền như vua chúa
và giàu có nhất thế
gian như Thạch Sùng, họ vẫn phải chịu những khổ đau, tai nạn, bệnh tật
như những người khác.
Sự thiếu phước,
người trong gia
đình, không người này đến người khác, tai nạn này đến xong, thì tai
họa khác lại đến, có khi
đến cả hai (phước
bất trùng lai, họa vô
đơn chí). Mới nhìn
vào bề ngoài
tưởng họ sống hạnh
phúc lắm, nào ngờ bên trong là cả mọât địa ngục đau khổ.
Nhưng vì vô
minh họ tưởng
họ là
người có hạnh phúc
hơn hết, uy quyền
thế lực hơn ai hết, giàu có hơn hết
v.v..
Sự vô minh
đã che mất họ
không thấy, nên tự cho
cuộc sống của họ như thế là
chơn hạnh phúc (giàu
sang và uy quyền nhất
thế gian). Sống như thế nào
là giả hạnh
phúc? Cuộc sống họ
đang sống là cuộc sống hạnh
phúc giả, họ là những con thiêu thân, chỉ thấy ánh sáng
ngọn đèn vật chất là bu
vào để
mà chịu khổ, chịu
chết, họ là con
chó ngu bỏ mồi bắt bóng, họ tưởng họ là kẻ trên hết,
nhưng không ngờ họ là người ti tiện, nhỏ mọn, ích kỷ, sống chỉ biết có
mình, chẳng còn biết ai nữa
hết.
Chuyên tự cao, tự đại, phách lối, ngã mạn, xem người
như cỏ rác, tham muốn, giận dữ chửi mắng,
la hét, đánh đập, làm
đau khổ, chạy theo danh lợi, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ, v.v.. Nói chung làm khổ mình, khổ người
điều đó ai làm cũng được. Chuyện tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng trước mọi
người, mọi hoàn cảnh, mọi sự việc và khắc phục
tâm tham, sân,
si của mình là một việc
khó làm, không phải ai cũng làm
được cả.
Cho nên, việc
chạy theo lòng dục vọng ham
muốn của mình
và các ác
pháp, làm khổ
mình, khổ người
thì rất dễ dàng,
không ai mà không
làm được, chuyện
sống đúng đạo đức
nhân quả luôn luôn làm vui lòng mình, lòng người là việc khó làm.
Việc làm khổ mình,
khổ người là việc đem quả xấu, khổ đau, tai ương, hoạn nạn, bệnh tật cho mình cho người. Dù người đó có sang trọng, giàu có
tột đỉnh, uy quyền, thế lực như vua chúa cũng
không tránh khỏi
quả khổ do mình
gây ra. Tuy có hằng
trăm vạn quân
lính, có tiền bạc
của báu chất
ngập cả không
gian cũng không làm sao tránh khỏi
tai ương, họa khổ. Kiếp này chưa trả xong, kiếp sau vẫn phải tiếp tục trả nữa.
Luật nhân quả công bằng không thiên vị một
ai, dù kẻ
đó là Ngọc
Hoàng, Thượng đế, chư Phật,
một khi đã tạo
ác làm khổ người
và chúng sanh,
thì luật nhân quả phán xét xử phạt họ rất công minh.
Các con hãy để mắt nhìn xem sẽ thấy quả báo nhãn
tiền, họ không
thể chạy đàng
trời nào thoát khỏi,
khi họ đang nằm
trong vòng tay của nhân quả,
không những trong kiếp hiện tại này mà còn phải tiếp tục trả ở kiếp sau nữa.
Các con
hãy tin nhân quả,
không bao giờ trên đời
này có sự ngẫu nhiên
vô tình của vũ trụ,
mà phải thấy sự vi diệu
sắp xếp của đạo
luật nhân quả
rất tuyệt vời, không sai sót một ly hào nào của mỗi
hành động thiện
ác, thân, miệng, ý của mỗi con
người.
SỐNG DỈU ĐÈN
CHẾT KÈN TRỐNG
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Lúc nhà có người chết phải mời trống kèn đến, thổi kèn và đánh trống ầm
ĩ, linh đình làm
cho người chết, lẫn người
sống quên đi sự đau buồn kẻ ở người đi, tục ngữ
có câu “sống
dầu đèn, chết
kèn trống”.
Thưa Thầy, lại có người bảo: “Thổi kèn trống gọi ma
về rủ
vong đi”, như vậy có
đúng không thưa Thầy?
Đáp:
Trong kinh sách Nguyên
Thủy của đạo Phật không có dạy điều
này thổi kèn đánh trống ầm ĩ, để quên đi sự đau buồn của cảnh tử biệt, sanh ly,
kẻ ở người đi còn đang nóng hổi, đó là sự an ủi tinh thần của người còn sống
thì đúng, còn rủ ma về gọi vong đi thì không đúng (mê tín). Nếu đứng về góc độ
thế gian, thổi kèn
đánh trống ầm
ĩ để quên đi sự đau buồn kẻ mất người đi thì
được tha
thứ, còn rủ
ma về gọi vong đi thì không được tha thứ, đó là tưởng
tri thuộc về mê tín, dị đoan.
Theo đạo Phật, đối với người chết là các duyên tan
rã hết
không còn tồn tại một vật gì
thì làm sao người chết
có đau buồn?
Chỉ có người còn sống thương nhớ,
thấy mọi kỷ niệm của người chết
còn lại thì lòng
đau như muối
xát.
Theo tinh thần
tự lực của Phật giáo,
mọi người đều nên trang bị một sự hiểu biết thấu suốt các pháp thế gian
trên hành tinh này đều do duyên hợp tạo
thành vạn vật, nên mọi vật đều bị luật vô thường chi phối, thường thay đổi
di dịch
nên có thành
phải có hoại tức là có
sanh thì có chết.
Vì thế, con người
sống trên thế gian này không ai
tránh khỏi điều đó (sanh tử). Người đệ tử của Phật đều phải chuẩn bị cho mình một tinh thần vững chắc, với một trí tuệ thông suốt
lý nhân quả, để ứng dụng đối
phó trực tiếp trước
mọi cảnh tai
ương, bệnh tật, gian nan, hiểm nguy không hề sợ hãi, sờn
lòng; trước cảnh ly tan
hoặc sum họp
cũng chẳng buồn cũng
chẳng vui; trước
cảnh tử biệt
sanh ly, cũng chẳng thương khóc nức nở. Với
trí tuệ
nhân quả của đạo Phật, mọi sự việc
trên đời này xảy ra
trước mắt họ, họ đều thấy rõ
ràng “Các pháp là
vô thường, nay còn
mai mất là lẽ đương
nhiên của các
pháp duyên hợp”.
Vì đã chuẩn
bị tinh thần vững
chắc với sức định tỉnh và trí tuệ
nhân quả, cuộc sống thường ở trong chánh niệm (niệm thiện), người đệ tử của Phật
thản nhiên trước mọi cảnh huống,
nên không làm khổ mình,
khổ người, thì có đâu trước cảnh
sanh ly, tử biệt lại cần gì đến trống kèn ầm ĩ.
Đám ma mà
làm giống như đám hát, thật là một
việc làm sai không đúng cách.
Nếu
chúng ta là những đứa
con hiếu tử, thì làm sao mượn
trống kèn làm
vui cho được, khi mà mất
cha mất mẹ, chúng
ta nên giữ im
lặng để hồi
tưởng lại công
ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ
cha. Mất cha mất mẹ
có vui gì, mà đánh
trống thổi kèn ca
hát. Một
người con hiếu được theo học đạo Phật, khi cha mẹ mất hoặc có người thân mất là một
điều nhắc nhở rất lớn cho họ, phải làm sao? Bằng cách nào? Giúp cha mẹ hoặc những
người thân của mình thoát vòng sanh tử
luân hồi, chấm dứt sự khổ đau của kiếp người.
Hiểu biết sự
báo hiếu của đạo Phật, người con phải
tu tập đạt được giải
thoát cứu cánh, thì mới đủ đạo hạnh làm gương sáng và
hướng dẫn cho cha mẹ tu hành theo giáo pháp và đường lối của đạo Phật, thì người
con phải có một ý chí sắt đá, một
nghị lực kiên cường, một lòng dũng cảm quả quyết, để thực hiện con đường của đạo
Phật rốt ráo, để làm tròn bổn phận của người
con hiếu, khi nhớ đến
công ơn sanh thành của mẹ cha nuôi
con lớn khôn rất là vất vả, như trời, như biển.
Vì muốn nuôi con lớn khôn nên người, không thua kém
ai, cha mẹ phải bao nhiêu lần làm điều ác, giờ đây đã trở thành nghiệp lực,
nghiệp lực ấy theo vô minh tiếp tục tái sanh luân hồi, thọ biết bao nhiêu là thứ
khổ đau của kiếp làm người, ngàn đời muôn kiếp chẳng bao giờ dứt.
Khi đã hiểu rõ Phật pháp, như lời Phật đã dạy, trong
nhà có người chết, chúng ta hãy làm lễ an táng đơn giản, không kèn, không trống,
không thầy chùa tụng kinh, niệm Phật, cũng không ai hộ niệm
cho ai cả, mà
hãy giúp tay nhau
với gia đình
có người chết đồng lo
chôn cất hoặc thiêu
đốt càng sớm
càng tốt, để lâu
mùi hơi hôi thúi người chết làm mất vệ sinh, ô
nhiễm môi
trường sống của
con người. Khi trong nhà có người chết ta nên tổ chức
đám ma âm thầm lặng lẽ, để hồi tưởng
lại những công ơn khi người còn sống.
Việc ma chay cần phải bỏ bớt, đơn giản để người sống
khỏi lo lắng nhiều, những việc cúng bái
có tính cách mê
tín, dị đoan thì cần dẹp sạch,
cốt sao cho giản dị nhất, khi đám
tang xong không nợ nần ai hết. Tẩm
liệm thây người chết đừng cột bó
như đòn bánh Tét. Hãy để người chết nằm trong
quan tài như
người nằm ngủ, phủ vải lại nhẹ nhàng,
đừng chèn nhét rơm rạ như
ép dầu, rồi đậy nấp
áo quan lại một cách giản dị, tự
nhiên v.v..
Bạn bè, thân quyến đến phúng điếu chia buồn, chẳng
nên làm ầm ĩ đánh trống thổi kèn làm mất
vẻ trang nghiêm thanh tịnh không đúng
cách đám ma,
mà còn làm
hao tốn tiền bạc vô ích.
Một đám tang
trong âm thầm
lặng lẽ trang nghiêm
có ý nghĩa
của sự chết
hơn là một đám
tang ầm ĩ
kèn trống, tiếng
hò hét tụng niệm giọng cao, giọng
thấp trầm bổng như ca ngâm vịnh hát. Thể hiện những điều này không đúng cách
đám ma, mà là một đám hát,
một trò chơi của những
người không có sự ưu sầu.
Vì người chết không thể
sống lại được, dù để bao lâu cũng
không sống, tốt hơn ta nên an táng sớm chừng
nào tốt chừng
nấy, để giữ vệ
sinh chung cho mọi người nhất là những
người thân trong gia đình và còn lo
những việc khác
nữa.
Phật dạy:
thân người bất tịnh hôi
thúi do bốn đại: đất, nước,
gió, lửa hợp thành
nên khi chết đất, nước, gió, lửa
tan rã, đất trở về đất, nước trở về nước, gió
trở về gió, lửa trở
về lửa, thọ, tưởng, hành, thức thì tan biến theo nghiệp lực nhân
quả, người chết
chẳng còn một
chút xíu nào cả.
Thổi kèn đánh trống để gọi ma về rủ vong đi, thì những
kẻ ca hát cũng
thổi kèn đánh trống, sao ma không về dẫn linh hồn họ
đi? Đó là một sự bịa đặt
vô căn cứ,
thiếu thực tế, chúng
ta không chịu
suy tư, nghe đâu
tin đó, bảo sao làm vậy,
thấy ai làm
xu hướng làm theo, chẳng biết đó là bị kẻ khác lừa đảo.
Khi đức Phật còn tại thế,
Ngài cảnh giác các
đệ tử của
mình, thậm chí
ngay lời Phật dạy, Ngài còn bảo: “Đừng
tin lời ta nói, mà
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!