BẬC THÁNH A
LA HÁN
“Nếu không
có đạo đức, con người chỉ là một con thú vật thông minh, hung
ác, gian xảo, lừa đảo nhất trong các loài động vật”.
(Lời của Tu
viện Chơn Như)
Lời nói đầu
Từ ngày có chương trình vấn đạo đến nay, những người có đủ
duyên được đọc sách Đường Về Xứ
Phật, lần lượt họ đều hiểu thông đường lối tu hành của đạo Phật, và cũng
bắt đầu thấy được
những điều sai trái trong Phật giáo rất
nhiều hiện nay, nguyên do là những
ảnh hưởng tập quán dân gian và các
pháp môn của
ngoại đạo trà trộn
làm cho chánh
pháp của Phật biến
dạng, mang
đầy tính chất mê tín, dị đoan,
lạc hậu
v.v..
Phần đông số
tín đồ Phật giáo đang lầm lạc quay cuồng
trong các pháp môn của kinh sách phát triển và Thiền Tông Trung Hoa, cho đó
là pháp môn của Phật giáo, nhưng nào ngờ chương trình vấn đạo đã và sẽ lần lượt làm sáng tỏ,
pháp nào của Phật là của Phật, pháp nào
của ngoại đạo là của ngoại đạo
(Bà La Môn). Tà đạo
không thể ẩn núp trong Phật giáo, chuyên làm việc lừa đảo và lường gạt tín đồ
Phật giáo như vậy được. Đường Về Xứ Phật sẽ chỉ thẳng và vạch rõ giúp các bạn
không còn hiểu lệch lạc và sai lầm nữa.
Đã gần hai
mươi lăm thế kỷ nay con người đã bị giáo pháp này lừa gạt quá nhiều,
đến giờ này mà mọi người còn đang
sống trong giấc mơ của “Đại Thừa và Tối
Thượng Thừa”
là của Phật giáo ư!
Một giấc mơ
tuyệt vời, đưa con người vào cõi mộng của
thế giới siêu hình, “thường hằng, thường biết, thường nghe, thường thấy, bất biến,
hạnh phúc, an lạc (thường, lạc, ngã, tịnh)”.
Đại Thừa đã
xây dựng một cõi “Cực Lạc Tây Phương” để
thỏa mãn mọi nhu cầu dục vọng của con người thế gian, muốn chi được nấy,
do sự
diễn tả cảnh giới Tây Phương Cực
Lạc quá đẹp đẽ như trong kinh Di Đà. Một cảnh giới lý
tưởng, mà ai nghe đến cũng đều phải ham mê thích thú.
Vì thế, nên
hiện giờ có nhiều người do tâm tham đắm
cảnh giới Cực Lạc, sống đầy đủ và sung
sướng muốn chi có nấy, nên xúm
nhau niệm Phật
Di Đà cầu vãng
sanh Tây Phương.
Vả lại, các Tổ thường ca ngợi pháp môn Tịnh Độ rất dễ tu, phù hợp với căn cơ con người thời đại hiện nay, nghe những lời đường mật cám dỗ này ai mà không
ham thích. Phải không các bạn?
Vấn đạo sẽ lần lượt vạch
mặt, vạch tên từng pháp môn của ngoại đạo,
để cho tín đồ Phật giáo, thấy được bộ mặt
thật thâm độc của họ đã và đang cố tình dìm và giết Phật giáo, nhất là đạo đức
của đạo Phật. Hiện giờ người ta chẳng biết đạo đức
của Phật giáo cụ thể như thế nào? Hỏi đến ai cũng chung
chung chẳng rõ, dù bậc đó là những bậc Hòa Thượng, Thượng
Tọa, Đại Đức v.v..
Kinh sách
phát triển đã biến đạo đức
của Phật giáo
thành một thứ đạo đức “mê tín”, một thứ đạo đức thụ động, phi đạo đức, khiến cho Phật giáo
không có đạo đức làm người, chỉ biết tu
hành theo đạo Phật là làm
việc từ thiện, cúng bái, cầu khẩn,
van xin, ngồi thiền, nhập định, niệm Phật, niệm chú, bắt ấn, tụng kinh, tụng
kệ, sám hối, v.v.. Với việc làm này, mục đích sẽ được giải thoát và cuối
cùng thành Phật và ít nhất cũng được dự vào hàng Thánh nhân.
Hành động từ
thiện của giáo phái phát triển là Tứ Nhiếp
Pháp, dùng để khuyến dụ người theo đạo mình,
hơn là làm việc từ thiện. Với những lời
lừa đảo “Bố thí, cúng dường sẽ được phước báo vô lượng” như: cúng dường
xây cất chùa, tháp, đúc chuông,
đúc tượng và
cúng dường trai tăng tứ sự v.v..
sẽ được phước
báo vô lượng vô biên.
Trong khi đạo
Phật ra đời nhằm đem lại cho loài người
một đạo đức giải thoát, mang lại
cho cá nhân mỗi người được hạnh phúc, an vui, thanh thản, bình đẳng, sống hoà hợp, biết tha
thứ và thương yêu nhau, biết nhẫn nhục, tùy thuận, và đùm bọc lẫn nhau, chứ đâu có lường
gạt người như thế.
Vấn đạo sẽ
làm sáng tỏ lại pháp môn của đạo Phật và dựng lại nền đạo đức
không làm khổ mình, khổ người, mà từ hai
mươi lăm thế kỷ nay không còn ai nhắc nhở
và biết đến.
Vấn đạo sẽ
giúp cho quý vị giữ gìn giới luật nghiêm
túc, bằng cách hướng dẫn các pháp tu tập
cụ thể, thiết thực để quý vị thực
hành sống một đời sống đạo đức, đạo hạnh,
có một cuộc
sống không làm khổ mình, khổ người, an
vui, thanh thản và vô sự.
Vấn đạo giúp
cho quý vị suy nghĩ, lời nói và hành động luôn luôn buông xả,
cởi mở, ôn tồn, nhã nhặn, từ tốn, êm dịu để mang
lại cho mình một tâm hồn an
vui, thanh thản, và mang lại cho người một tâm hồn khoan dung, thương
yêu và đầy lòng tha thứ.
Vấn đạo giúp
cho các bạn biết rõ cách thức ngăn ác
pháp và diệt ác pháp, luôn sống trong
thiện pháp, an trú
thiện pháp, thường sống tu tập “Tứ Chánh Cần”.
Vấn đạo còn
giúp ta biết cách tu tập
“Tứ Niệm Xứ” rất cụ thể,
rõ ràng, để
khắc phục tâm tham
ưu ở đời bằng pháp
“hướng tâm
như lý tác ý”.
Vấn đạo giúp
ta rõ thấu cách thức tu tập rèn luyện đạo lực, để điều khiển nhập bốn định (Tứ Thánh Định),
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Vấn đạo còn
giúp chúng ta biết rõ cách thức tập luyện pháp hướng tâm để biết
cách thành tựu “Tứ Như Ý Túc và
Tam Minh”.
Vì vấn đạo
có lợi ích như vậy, chúng ta hãy đọc và nghiên cứu, cẩn thận, kỹ lưỡng từng
danh từ, ngôn ngữ, để chúng ta hiểu rất
rõ và nắm vững cách thức tu tập, không còn bị
ai lừa đảo được, do đó tu hành mới đạt được như sở nguyện.
Giáo lý
đạo Phật khó, chỉ vì ta chưa
thấu triệt
và từ lâu đời (1242 năm) đã bị giáo
lý ngoại đạo che khuất, bằng cách mạo
danh là Phật thuyết.
Đạo Phật
khó, chỉ vì ta chưa có nhiệt tâm, thiếu
lòng tin tưởng nơi Phật, Pháp, Tăng, vì thời nay Phật, Pháp, Tăng đều giả
hiệu, khiến Thầy Tổ chúng ta tu mãi mà chẳng ra gì, đến khi chết phải chịu quá nhiều bệnh tật nghiệt
ngã, khổ đau.
Đạo Phật
khó, chỉ vì ta chưa
biết đời sống con người khổ, khổ
như thật, nên còn đắm mê những vật chất dục lạc thế
gian, chưa chịu buông xả và dứt bỏ.
Đạo Phật sống
khó, chỉ vì tâm chúng ta chưa nhàm chán
các pháp dục lạc thế gian, mãi còn chìm đắm trong đó.
Đạo Phật khó, chỉ vì chúng ta bị lừa
đảo bằng các
pháp môn của Bà La Môn giả hiệu pháp môn của Phật, nên chúng ta tu sai pháp, lạc
pháp, không có kết quả cụ thể, phần nhiều là lý thuyết suông.
Đạo Phật
khó, chỉ vì chúng ta thiếu một thiện hữu
tri thức có kinh
nghiệm tu hành theo chánh pháp của
Phật, biết rõ đường đi nước bước chơn thật, không còn sợ bị lầm đường, lạc lối.
Đạo Phật
khó, chỉ vì từ lâu chúng ta hiểu
qua giáo lý của đạo Phật, bằng kiến giải của các nhà học
giả. Do đó, vấn đạo sẽ phơi bày các pháp hành cụ thể, thực tế để mọi người biết
rõ, dứt bỏ những điều sai quấy bất thiện,
biết xa lìa những sự cám dỗ vật
chất thế gian, biết ngăn chặn những pháp ác trong tâm, biết thương yêu đùm bọc
lẫn nhau
đúng cách, biết tùy thuận, tha thứ
những lỗi lầm của những
người khác, biết nhẫn nhục đoàn kết và xả bỏ lòng hận thù
riêng tư, biết làm vui lòng mình, vui lòng người.
Vì thế, đọc
vấn đạo quý vị đừng vội tin mà hãy suy ngẫm, càng suy ngẫm thì quý vị mới càng
thấm thía, có thấm thía quý vị mới tin sâu Phật pháp, có thấm thía quý vị mới
thấy đạo Phật ra đời là vì loài người, vì sự khổ đau của con người, vì sự
lầm chấp thế giới hữu hình và thế
giới siêu hình là có thật.
Lần lượt những
tập “Đường Về Xứ Phật” sẽ đến với quý vị,
tâm tình chia sẻ những nỗi u hoài, khắc khoải trên bước đường
tu tập thiền định của đạo Phật với quý vị.
Và những tủi nhục, xấu hổ khi thấy
những vị Tỳ
Kheo (tu sĩ Phật giáo) ngang nhiên phạm giới luật, xem thường giới luật, và bẻ vụn giới luật trước mặt tín đồ
mà chẳng hề có chút lòng hối hận, ăn năn. Những người không tôn giáo
và những tín đồ các tôn giáo khác sẽ phê bình
cười chê ra mặt, họ dùng những lời
châm biếm, chế giễu của
những người bình dân: “Thầy chùa
ăn vụng cá kho, bà
vãi bắt được đánh mo lên
đầu” hay
“Xoài cà lăm nhỏ trái mà chua, thầy
tu mê gái bỏ chùa không ai
coi”. Còn rất nhiều câu ca dao,
tục ngữ dân gian và các
thơ văn của các thi sĩ nổi tiếng nói về tu sĩ đạo Phật một cách châm biếm rất là đau lòng xót dạ mà chúng tôi không thể nêu ra đây hết được.
Không biết các bậc tôn túc Hòa
Thượng, Thượng
Tọa, Đại Đức Tăng và Ni trong cả nước khi phạm
giới luật của Phật, quý vị có buồn lòng tự xấu hổ với những việc làm của
mình hay không?
Vừa rồi,
chúng tôi có đọc một tờ báo ở Hà Nội nói
về vụ ăn cướp xe gắn máy là một tu sĩ Phật giáo. Nếu chúng ta không đọc báo chí
thì thôi mà theo dõi báo chí thì thỉnh
thoảng chúng ta đọc những tin tức về giới tu sĩ Phật giáo phạm pháp luật
nhà nước, thật là đau lòng. Đến đây xin
tạm dừng hẹn lại quý vị ở tập
sau.
Kính ghi
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc Tu Viện Chơn Như Ngày 18-12-1998.
THƯ GỬI QUÝ
BẠN
--o0o--
Kính gửi:
Quý bạn Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ thân mến!
Kính thưa
các bạn! Sau khi nhuận lại bộ sách Đường Về Xứ Phật tập 6 chúng tôi có bổ sung
thêm câu hỏi của những tu sĩ và cư sĩ. Vì những
câu hỏi này
có một giá trị lợi
ích thiết thực cho sự tu tập của
các bạn. Chúng
tôi sẵn sàng trả lời những
câu hỏi của những ai có
quyết tâm tìm đường thoát khổ của kiếp làm người theo đúng lộ trình của Phật
giáo Nguyên Thuỷ.
Chúng tôi
cũng sẵn sàng
trả lời những câu hỏi của những ai có tâm huyết muốn
xây dựng lại và làm sáng tỏ thêm nền giáo pháp chân chánh của Phật giáo Nguyên
Thủy.
Chúng tôi
cũng sẵn sàng
trả lời những câu
hỏi của những
ai muốn học hỏi đạo đức
làm người của đạo Phật, mà từ khi đức Phật nhập
diệt đến nay nó đã bị
chôn vùi trong lớp giáo pháp mê
tín, trừu tượng, ảo giác tưởng giải của các nhà học giả kinh sách phát triển.
Chúng
tôi cũng sẵn
sàng trả lời những
câu hỏi cho những ai đang thắc mắc về giáo lý Phật giáo dẫy đầy mâu thuẫn, dẫy đầy mê tín, dị đoan v.v..
Sau cùng
chúng tôi gửi lời thân mến nhất thăm
và chúc quý bạn mạnh
khoẻ, an vui để
tìm ra một lối đi chân chánh của Phật
giáo, để thực hiện hoài bão ra khỏi sanh tử luân hồi của mình.
Kính ghi
Tu Viện Chơn
Như.
TU TẬP ĐỊNH VƠ LẬU
CÓ BA VIỆC
CẦN PHÂI LƯU Ý
LỜ I PHẬT DẠY
“1- Phòng hộ
sáu căn
2- Sanh y là căn bản của đau khổ
3- Giải
thoát nhờ đoạn dứt sanh y”.
CHÚ GIẢ I:
1- Phòng
hộ sáu căn: Tức là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho
dính mắc sáu trần
là: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp.
Phòng hộ sáu
căn có nghĩa là giữ gìn tâm không phóng dật, giữ gìn tâm không phóng dật
là một việc làm thiện xảo và rất
khéo léo, nếu không thiện xảo và
khéo léo thì tâm dễ phóng
dật.
Phòng hộ sáu
căn còn có nghĩa là sống độc cư mà đức Phật
đã thường nhắc
đi nhắc lại
nhiều lần và
nhất là Ngài nhắc chúng ta phải sống độc cư như con tê ngưu một sừng.
Đúng vậy chỉ
sống như con tê ngưu một sừng thì tâm mới không phóng dật. Tâm không phóng dật, tức là
tâm bất động
trước ác pháp và
các cảm thọ,
như vậy chúng
ta đã đi nốt
quãng đường của đạo Phật.
2- Sanh y là
căn bản của sự
đau
khổ: Có nghĩa là những pháp chung
quanh ta tạo thành một đời sống, chính vì đời sống chung đụng với mọi người, mọi
vật và mọi loài chúng sanh mà
chúng ta
phải chịu nhiều
khổ đau, phiền toái, v.v..
khi mà chúng ta
không biết sử dụng
trí tuệ nhân bản - nhân quả, cũng như
không hiểu biết sống đạo đức làm người.
Sanh y
là căn bản của sự đau khổ, đây là lời cảnh giác khuyên nhắc của
đức Phật, chúng ta hãy đề cao
cảnh tỉnh mọi
sanh y đối với
người cư sĩ, còn với một vị Tỳ
Kheo thì sao? Xin các bạn vui
lòng đọc tiếp
thì sẽ rõ, có câu
trả lời cho các bạn.
3- Giải
thoát là nhờ đoạn dứt
sanh: Đây là lời
khuyên bảo chí
tình của đức Phật, nếu
muốn tìm tu sự giải thoát
mà không đoạn dứt sanh y thì
không bao giờ có giải thoát được.
Bởi vậy một vị Tỳ Kheo phải xả bỏ tất cả, sống
đúng đời sống phạm hạnh “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình,
không nhà cửa, chỉ còn ba y một bát, một đời
sống thiểu dục
tri túc, tâm hồn trắng
bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”. Chỉ có đời sống xuất gia mới tìm thấy
sự giải thoát chân thật của kiếp này.
TRÌ GIỚI LÀ LY DỤC
LỜ I PHẬT DẠY
1- Nói trì giới,
là để chỉ
cho tâm ly dục, ly ác pháp.
2- Nói dục,
là chỉ cho tâm
bất tịnh, cấu uế, ô trược.
3- Nói lậu hoặc, là chỉ cho tâm
đau
khổ.
4- Nói tịnh chỉ các hành trong thân, là để chỉ sự làm chủ sống chết.
5- Nói Tam
Minh, là chỉ cho tâm
vô lậu.
6- Nói
Niết Bàn, là chỉ cho tâm
vô dục, tâm bất động giải thoát.
CHÚ GIẢ I:
1- Nói trì giới: Là chỉ cho tâm ly dục ly
ác pháp, có nghĩa là
người tu sĩ
và người cư sĩ sống đúng giới luật nghiêm chỉnh không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt,
biết sợ hãi
trong các
lỗi nhỏ nhặt, biết xấu hổ dù là phạm một giới
luật nhỏ
hoặc một điều
ác nhỏû, người
như vậy là người đã ly dục ly ác
pháp, người đã ly dục ly ác pháp là người
đã sống trong trạng thái tâm
thanh thản, an lạc và vô sự, người đã sống được trong trong trạng thái tâm
thanh thản, an lạc và vô sự là người
tâm Bất Động
trước các ác pháp và các cảm thọ, người có tâm Bất Động
trước các ác
pháp và các cảm thọ
là người có đạo
đức nhân bản,
người có đạo đức nhân bản
là người không
làm khổ mình,
khổ người. Người không làm khổ
mình, khổ người là người giải thoát của
đạo Phật. Cho nên, người giải thoát của đạo Phật là người có tri kiến giải
thoát. Tri kiến giải
thoát tức làø đức hạnh,
tri kiến giải thoát
và đức hạnh
là giới luật của
Phật. Cho nên, đức Phật dạy: “Tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, giới luật ở đâu là tri kiến ở đó”.
Tóm lại,
người trì giới là người có trí
tuệ và đức hạnh,
người có trí tuệ
và đức hạnh
là người trì giới, người trì giới là người tu sĩ chân chánh của đạo Phật.
2- Nói dục:
Có nghĩa là nói nguyên nhân sinh ra đau khổ, sự đau khổ trong thế gian này được
đức Phật xem như là sự bẩn thỉu, ô trược,
hôi thối, bất tịnh có nghĩa là chẳng trong sạch,
bất tịnh còn có nghĩa là ác
pháp, nhưng chúng ta đừng vội vơ đũa cả nắm cho là tất cả dục là ác pháp,
là bất tịnh, là sai.
Mặc dù dục
là nguyên nhân sanh ra muôn thứ đau khổ nhưng
có loại dục
không đau khổ, đó là dục không làm
khổ mình, khổ người; dục làm lợi
ích cho người, cho mình,
dục làm chủ sanh, già, bệnh, chết thoát khổ của kiếp
làm người; dục chấm dứt luân hồi sanh tử
v.v.. Đó là những
dục thiện mà người tu
sĩ Phật giáo cần phải tăng trưởng.
Bởi vậy dục
có thiện dục và có ác dục nên đức Phật dạy chúng
ta diệt dục
ác không diệt dục
thiện. “Ngăn ác
diệt ác, sanh
thiện tăng trưởng thiện” là nghĩa ấy vậy.
Diệt dục thiện
lẫn dục ác thì chúng ta trở thành
cây đá còn
đâu gọi là
đi tìm sự giải thoát. Phải không các bạn?
Có người
nghe kinh Tứ Thánh
Đế, đến Diệt Đế họ tưởng
rằng diệt hết dục là giải
thoát, là Niết Bàn, sự hiểu biết như vậy là sự hiểu biết nông cạn, là sai, là
không hiểu Phật giáo.
Trong
kinh Tứ Chánh Cần đức Phật
đã xác định rõ
ràng: “Ngăn ác diệt ác
pháp, sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp”
như vậy chúng ta nên hiểu Kinh Tứ Diệu Đế dạy về Diệt Đế tức là diệt tâm
ham muốn ác, chứ
không có dạy diệt tâm ham muốn thiện, vì tâm ham muốn ác là tâm làm khổ
mình, khổ người. Tâm làm khổ mình, khổ người là tâm không có đạo đức
nhân bản, còn
ngược lại tâm
ham muốn thiện là tâm không làm khổ mình, khổ người, là
tâm làm lợi
ích cho mình cho người, là tâm giải thoát
của đạo Phật,
là tâm Niết Bàn, vì cuối cùng của con đường thiện
pháp không làm khổ
mình, khổ người
thì tâm ham muốn thiện kia cũng
không còn.
3- Nói lậu
hoặc: Là chỉ cho tâm đau khổ, có nghĩa là bất cứ một việc gì làm đau khổ nào
cho mình, cho người, cho chúng
sanh thì đều gọi là lậu hoặc chứ
không phải chỉ có khổ riêng cho mình mới
gọi là lậu hoặc.
Ác pháp
thường đến cho
mình và cho nhiều người, không bao giờ đến đơn điệu
cho một người, cho nên nói lậu hoặc, tức là nói một chùm nhân quả khổ đau, chứ
không phải nghĩa rò rỉ của các chữ nghĩa Hán ngữ.
Lậu hoặc là chỉ cho thân tâm đau khổ nên nó được
chia ra làm ba:
1- Dục lậu.
2- Hữu lậu
3- Vô Minh lậu
Người tu
hành theo Phật
giáo diệt trừ được ba lậu hoặc này liền chứng đạo.
4- Nói tịnh
chỉ các hành trong thân: là để chỉ cho sự
làm chủ sống
chết, tức là
nói về năng lực của pháp
Như Lý Tác
Ý điều khiển chủ
động bằng Tứ
Như Ý Túc tức là Tứ Thần Túc. Tứ Thần Túc gồm có:
1- Dục Như Ý Túc
2- Tinh
Tấn Như Ý Túc
3- Định Như Ý Túc
4- Tuệ Như Ý Túc
Do những
thần lực này
mà người tu sĩ
Phật giáo mới
làm chủ được
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
5- Nói
Tam Minh: Là chỉ cho tâm vô lậu dứt hết
nghiệp tái sanh
luân hồi (Lậu Tận
Minh), chứ không phải nói thần thông. Nói đến Lục Thông, Tam Minh theo như người
ta nghĩ tưởng và ưa thích
là nói đến thần thông.
Đạo Phật không có dạy tu tập để
có thần thông mà chỉ dạy đạo đức nhân bản nhân quả cho con người. Khi con
người sống đúng đạo đức
thì tâm thanh tịnh nghĩa là không còn tâm tham sân si nữa thì nơi
tâm thanh tịnh ấy lưu xuất
ra những thần lực trên. Những thần lực này có khả năng
nhập các định
và thực hiện
Tam Minh. Với khả
năng ấy mới
làm chủ sự sống
chết và chấm dứt luân hồi.
Cho nên, Lục Thông,
Tam Minh không phải
thần thông làm trò ảo thuật cho người
ta xem chơi như
các nhà Yoga,
mà Lục Thông Tam Minh là đạo lực
có công năng làm chủ sự
sống chết của con người.
Lục Thông
có:
1- Thiên Nhãn Thông
2- Thiên Nhĩ Thông
3- Tha Tâm Thông
4- Túc Mạng Thông
5- Thần Túc Thông
6- Lậu Tận Thông. Tam Minh gồm có:
1- Túc Mạng Minh
2- Thiên
Nhãn Minh
3- Lậu
Tận Minh.
6- Nói Niết
Bàn: Là chỉ
cho tâm vô dục, tâm
bất động giải
thoát, tức là
tâm đã lìa xa
lòng ham muốn và các ác pháp, tâm lìa xa lòng ham muốn
và các ác
pháp là tâm
thanh thản, an lạc và vô sự.
CÁC NHÀ HỌC
GIÂ DẠY NHẬP SƠ THIỀN
Câu hỏi của
Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Phương
pháp nhập Sơ Thiền
của nhà học giả dạy:
“Muốn nhập Sơ Thiền, thì mười
ác pháp đi lui,
năm thiện pháp đi tới. Vậy mười ác pháp là gì?
1- Mắt đắm sắc
2- Tai đắm tiếng
3- Mũi đắm hương
4- Lưỡi đắm vị
5- Thân đắm xúc
Cộng năm thứ ngăn
che (tham, sân, si, mạn, nghi) kể trên là 10 pháp ác.
Năm pháp thiện
là gì? Đó là:
1- Tầm
2- Tứ
3- Hỷ
4- Lạc
5- Nhất tâm
Kính thưa
Thầy, nhà học giả dạy như vậy có đúng không?
Đáp: Ở
đây nhà học giả dạy theo kiểu tưởng giải, chứ không đúng ý của Phật dạy.
Ác pháp gồm chung
có rất nhiều,
nhưng giới cư sĩ Phật dạy chỉ
có: Thập thiện
và thập ác. Thập thiện và
thập ác là các
pháp căn bản gốc đạo đức của đạo Phật để chỉ cho luật nhân quả thiện ác, tạo ra do
ba hành động thân, miệng, ý. Từ đó sanh ra vô lượng pháp ác và pháp thiện.
Nhà học giả, kể
ra mười pháp
ác cũng đúng, nhưng
lại sai, vì lấy ngũ
triền cái, cộng với
pháp phòng hộ sáu
căn, bỏ bớt một
căn để thành năm pháp
ác. Đó là sự nghĩ
tưởng của nhà học giả, chấp nối sai lạc kinh
sách của Phật.
Nhà học giả dạy tu
hành ở giai
đoạn này là giai đoạn ly dục, ly
ác pháp, nó còn để không xảy ra bệnh tật thần kinh tưởng. Nếu là giai đoạn tu tập
thiền định và Tam Minh thì không tránh khỏi
tai họa lớn cho hành giả. Cho
nên, nhà học giả kết hợp dạy như vậy, thì chỉ
có giết người, chứ
không phải dạy
tu thiền định như vậy.
Phật dạy: “ly dục,
ly ác pháp nhập
Sơ
Thiền”, chứ
không có dạy
“ly 10 pháp
ác,
nhập Sơ
Thiền”. Biết rằng
trong 10 pháp ác có dục là tham muốn, nhưng không phải vì vậy
mà gọi
là ly dục. Dạy
theo kiểu học giả thì người
ta không biết
đâu ly 10 pháp
ác. Đọc đoạn kinh này
ta thấy nhà học giả
không có thực hành pháp tu, chỉ
nghĩ tưởng ra nói suông mà thôi, chứ
không thấy trách
nhiệm lời nói của mình
đối với đoàn hậu thế mai sau.
Kinh điển, đức
Phật đã dạy rất rõ ràng: “Mắt đắm sắc, tai đắm âm thanh, mũi đắm mùi hương,
lưỡi đắm vị,
thân đắm xúc, ý
đắm pháp”. Đó là pháp dạy phòng hộ sáu căn, tức
là pháp giữ
gìn mắt, tai, mũi,
miệng, thân và ý,
không cho dính mắc sáu trần là: sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp. Phật không có dạy đó là
ác pháp, nhưng
chúng ta phải
hiểu khi mắt đắm sắc, tai nhiễm
âm thanh, mũi thích mùi hương, lưỡi ưa thích vị, thân đắm xúc, ý chấp pháp. Từ
chỗ đắm, nhiễm, ưa, thích, dính mắc, chấp kiến
pháp đó, mới
sanh ra có thương,
ghét, giận, hờn,
phiền não, đau, khổ v.v.. Các
pháp thương ghét,
giận, hờn, phiền não
đau khổ, mới chính là ác pháp, chứ
không phải mắt thấy sắc, tai nghe âm thinh, mũi ngửi mùi... là ác pháp.
Nhà học giả
đã giảng dạy theo tưởng giải của mình, khiến cho mọi người lầm chấp, tưởng đó là lời Phật dạy thật,
nên sự hiểu
biết vô minh lại
càng vô minh
hơn, sự sai lệch càng sai lệch hơn.
Nhà học giả,
dạy Sơ Thiền, không có pháp hành “Mười pháp ác đi lui, năm thiện pháp đi tới”. Nghĩa là
làm cách nào tu tập, để
mười ác pháp đi
lui và năm
thiện pháp đi tới? Ở đây
nhà học
giả chỉ có
nói suông, không
có cách thức hay pháp hành tu tập
cụ thể rõ ràng.
Nói về
pháp thiện và
pháp ác, Đức Phật
đã dạy rõ ràng: “Thập thiện
và thập ác”, thì không có người Phật tử nào không biết,
còn thiện ác của
nhà học giả viết ra, khiến
cho người Phật tử khó hiểu, lại thấy đạo Phật có thêm mười pháp ác lạ.
Như vậy,
nhà học giả
không dựa vào lời
dạy của
đức Phật, tự tưởng giải
theo sự hiểu biết
của mình giảng
ra, khiến cho sự tu tập
theo đạo Phật không còn đơn giản, rối rắm bởi nhiều danh từ, nghe
thì rất kêu, nhưng
làm mất ý nghĩa pháp hành, thành ra rỗng tuếch.
Dạy như vậy,
đi từ cái sai này đến cái sai khác. Từ
đó, kinh sách của các nhà học giả đã biến Phật giáo, thành một giáo phái ngôn
luận,
lý thuyết suông, khiến cho các thầy Tỳ Kheo tu
hành theo kinh
sách này chỉ
nói được mà không làm được.
TIẾNG ỒN
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa
Thầy, theo như nhà học
giả dạy:
“cái chướng ngại của Sơ Thiền là tiếng
ồn đi vào tai”, có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Không,
nhà học giả
đã hiểu sai những danh từ Phật dạy.
Phật dạy: “Tịnh
chỉ ngôn ngữ nhập
Sơ Thiền”, nhà học giả nghe chữ
“ngôn ngữ”, rồi nghĩ tưởng ra là tiếng ồn, vì tiếng ồn thường làm động thiền định
ức chế tâm, nên Ngài
luận: “Cái chướng
ngại của Sơ Thiền là tiếng động đi vào tai”.
Ngài không
hiểu thiền của đạo Phật là thiền gì? Ngài cho Sơ Thiền ngại tiếng đọâng cũng giống
như Thiền Đông Độ và Thiền Đại Thừa sao?
Sơ Thiền
là một loại
thiền xả tâm,
nên còn có rất nhiều tên như:
1- Tịnh chỉ ngôn ngữ
2- Ly dục, ly ác pháp
3- Sống trầm lặng
4- Sống độc cư
5- Sống phạm hạnh
6- Bất động tâm định
7- Vô tướng tâm định
8- Sơ Thiền
9- Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm
10- Giới luật
thanh tịnh
11- Tâm
không phóng dật
12- Tâm vô dục,
vô ác pháp
Từ xưa đến giờ, các nhà học giả
không có thực hành hoặc thực hành chưa đến nơi đến chốn, cho nên sự hiểu
biết của các Ngài bằng tưởng tri, không
phải bằng trí tuệ.
Xét lại sự hiểu
biết về Sơ Thiền
của các Ngài,
mà dạy như vậy thì kinh sách của
các Ngài
không còn có giá trị tu hành nữa.
Tịnh chỉ
ngôn ngữ, tức
là sống độc
cư, sống trầm lặng, như đức Phật đã dạy 42 bài kệ
sống độc cư và
thường ca ngợi cuộc sống trầm lặng của vị khất sĩ.
Nhà học giả
không có thực hành bốn thiền hữu sắc (Tứ
Thánh định), nên đã hiểu sai lệch quá nặng, gần như không biết về bốn
loại thiền
này.
Nên ở đời, mọi
người ít ai chịu
mình ngu dốt, cái không biết cứ
tưởng mình là biết, từ đó cái sai này dẫn
đến cái sai khác. Nhà học giả cũng vậy, không biết về loại thiền Tứ Thánh Định
này, dám viết ra sách dạy người tu thiền này,
xem thiên hạ đều là bọn ngu dốt chẳng biết gì về Phật pháp cả.
Sơ Thiền
không phải là một trạng thái thiền vắng lặng,
không có tiếng ồn đi vào tai, Sơ Thiền chỉ là một trạng thái an lạc,
thanh thản, có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc của tâm bất động. Nhà học giả chỉ luận
theo danh từ trong kinh nên chẳng rõ trạng
thái Sơ Thiền như thế nào? Thấy kinh dạy: “Tịnh
chỉ ngôn ngữ nhập Sơ
Thiền” nên tưởng nghĩ ra “Cái chướng
ngại của sơ thiền
là tiếng ồn đi
vào tai”.
Tịnh chỉ
ngôn ngữ, mà nhà học giả hiểu là tiếng ồn đi
vào tai, làm
chướng cho Sơ Thiền,
thì rõ ràng
nhà học giả chẳng biết
gì về Sơ Thiền
cả như trên
chúng tôi đã
nói, hiểu như vậy
thật là hiểu
sai ngàn vạn dặm. Nhà học
giả xưa đã hiểu
sai như vậy, nhà học giả ngày nay cứ theo lối mòn cũ mà giải
thích, khiến cho người đời sau chẳng biết đâu mà tu hành.
Ý của Phật dạy ở đây “tịnh chỉ
ngôn ngữ để nhập
Sơ Thiền”, tức là phòng hộ
sáu căn, phòng hộ
sáu căn, tức
là sống độc
cư, chỉ có độc cư mới
phòng hộ sáu
căn trọn vẹn, nhờ có phòng hộ sáu căn trọn vẹn, tâm mới
không phóng dật, tâm
không phóng dật, tức là tâm
mới ly dục ly ác
pháp, tâm ly dục
ly ác pháp, tức là tâm mới nhập Bất
Động Tâm Định. Từ Bất Động Tâm Định mới nhập được Sơ Thiền.
Vào thiền
thứ nhất mà
nhà học giả hiểu
sai, giảng sai thì làm sao giảng dạy Nhị Thiền, Tam Thiền,
Tứ Thiền và
Tam Minh cho được, nên đời sau không ai nhập bốn thiền
thuộc loại Tứ Thánh Định này. Kinh sách thì dạy rõ ràng mà người không tu lại
giảng kinh sách, đó là buôn Phật bán pháp, bán chữ bán nghĩa mà ăn, làm một nghề
bất lương, chứ không phải dạy người
tu hành. Mình
có tu được
chưa mà dám dạy người tu như vậy?
TẦM TỨ
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Nhà học giả
cho
chướng ngại của Nhị
Thiền là tầm1
tứ2, cho như vậy có đúng không
thưa Thầy?
Đáp: Nhà học giả
cho chướng ngại của
Nhị Thiền là tầm tứ,
cho như vậy
là đúng, nhưng Ngài
không biết cách tịnh chỉ tầm tứ. Tịnh chỉ
tầm tứ đâu phải tịnh tọa ức chế tâm như
tu tập thiền
tỉnh thức theo
hành động thân và hơi thở. Nếu tu
tập theo kiểu đó thì chẳng khác nào như tu pháp sổ tức quán, niệm Phật, các
phương pháp khác của kinh sách Đại Thừa
và Thiền Đông Độ, thì đó
là diệt tầm tứ
ức chế
tâm, đâu đúng
Nhị Thiền của Phật đã
dạy.
Nhị Thiền
diệt tầm tứ bằng cách
dùng pháp hướng tâm Tứ Thần
Túc theo đường
dây
hơi thở,
theo như phương
pháp Đức Phật
đã
1 Tầm là tư
duy suy nghĩ
2 Tứ là tác
ý
dạy: “Muốn
nhập Nhị Thiền
thì định niệm hơi thở khéo tác ý”.
Ở đây,
nhà học giả
không nói lên được
pháp hành tu tập Nhị Thiền mà
chỉ lờ và lướt qua một cách nhẹ nhàng, vốn là để
tránh né, vì chẳng biết cách tu như thế nào?
Như chúng
ta đã biết
Sơ Thiền là thiền định,
thiền định của
tâm, chứ chưa
phải là định của thân,
nhưng nó chính
là chánh thiền định của Phật
giáo, đi từ chỗ xả
tâm ly dục ly ác
pháp mà vào. Vì thế,
nhờ có thiền
này nên tâm được an lạc, thanh thản
và vô sự; nhờ có thiền này mà giới luật mới có thanh tịnh và nghiêm trì;
nhờ có thiền
này mà tâm mới an trú trong Phạm hạnh; nhờ có thiền này mà
oai nghi tế hạnh của người tu
sĩ mới xứng đáng là đệ tử của
đức Phật; nhờ có thiền
này chúng ta mới thấy tâm hồn giải
thoát thật sự.
Vì thế, mới biết
rằng Phật giáo
không dối người, không lừa đảo người, nếu không có loại
thiền định này (Tứ Thánh
Định), thì Phật giáo vẫn là
một tôn giáo dối trá, xảo quyệt,
lừa đảo lường gạt người v.v.. làm
chủ sanh, già, bệnh, chết.
LY HỶ
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Có
nhà học giả
dạy: “Chướng
ngại của Tam Thiền
là hỷ”. Có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Đúng,
nhưng nhà học giả không biết pháp
hành và không
biết hỷ là
cái gì sanh ra hỷ, ở
đây sự vui mừng của
ý thức không
còn nữa, vì sáu thức đã gom
lại vào
một tụ điểm, nơi
hành giả đang an trú
trong định, ở trạng thái này sáu thức không còn hoạt động,
vì thế tưởng thức bắt đầu hoạt động. Nếu
ai nhập Tam Thiền
mà không hiểu
chỗ này thì không nhập Tam Thiền được.
Nhà học giả
giảng chỗ này không rõ ràng, vì
không có kinh
nghiệm nhập định
nên nói loanh quanh:
“Chướng ngại của
Tam Thiền là hỷ”, mà không biết ly hỷ bằng cách nào? Và cũng không hiểu
hỷ này thuộc về ý thức, hay tưởng thức, hay là tâm thức?
Vào thiền thứ
hai và thiền thứ ba nhà học giả dựa vào những danh từ tịnh
chỉ tầm tứ, tịnh
chỉ hỷ mà dạy theo
kiểu kiến giải của
mình,
nhưng chẳng biết tịnh chỉ tầm tứ như
thế nào?
Và loại tầm tứ nào tịnh chỉ? Tầm tứ nội
hay tầm tứ ngoại? Và chẳng biết tịnh chỉ loại
hỷ nào? Tịnh chỉ
như thế nào?
Và khi ý thức ngưng hoạt
động thì hỷ này thuộc
về uẩn nào? Uẩn nào sanh ra hỷ
này? Những người không có thực hành Tứ
Thánh Định thì không thể nào hiểu nổi những trạng thái này. Muốn thực hành Tứ Thánh
Định thì phải có Định
Như Ý
Túc. Không có Định
Như Ý
Túc thì Tứ Thánh Định chỉ có đứng
ngoài cổng nhìn vào, chứ không
bao giờ nếm được mùi vị gì của
Thiền định cả. Định
Như Ý
Túc từ giới
luật sinh ra “Giới sinh định”, tức
là giới sinh ra Định Như Ý Túc. Có Định Như Ý Túc mới nhập Tứ Thánh Định được.
Cho nên, các bạn lưu ý ở chỗ này để tránh những thiền tưởng của ngoại
đạo.
Tầm tứ:
có tầm tứ thiện và
có tầm tứ ác,
có tầm tứ nội và có tầm tứ ngoại, còn hỷ thì có
18 loại hỷ. Vậy xả loại hỷ
nào và bằng
cách thức tịnh chỉ hỷ như thế
nào? Ở đây,
nhà học giả không nói ra được, tức
là không biết, không biết thì đừng luận về Tứ Thánh Định, mà luận về Tứ
Thánh Định thì chỉ có bậc A
La Hán, người
đã nhập xong bốn loại định này, mới
không luận sai.
SÚ TỨC
Câu hỏi của Diệu Quang
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Nhà học giả dạy
chướng ngại của Tứ Thiền là sổ tức
có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Không
đúng, nhà học giả đã hiểu sai danh từ Phật dạy, “tịnh chỉ hơi thở”, tịnh chỉ hơi thở không phải là
sổ tức; sổ tức, tức là đếm hơi thở, còn nếu cho chướng ngại của Tứ Thiền là sổ
tức thì không đúng. Sổ tức là một pháp môn
ức chế tâm,
diệt vọng tưởng,
bằng cách đếm hơi thở, còn tịnh chỉ
hơi thở là
hơi thở ngưng nghỉ, không còn thở
nữa, nếu chỉ còn thở một chút xíu hơi thở thì cũng chưa nhập Tứ Thiền.
Bởi vậy, Tứ
Thiền là một loại
thiền định, khi nhập định thân
tâm thành một khối, nên nó
còn có tên gọi là
“Tâm định trên
thân, thân định trên
tâm”. Các pháp
môn Thiền
định trên
thế gian này chỉ có thiền định
này làm chủ sự sống chết và chính
nó mà ngày xưa đức Phật đã đạt được đạo giải thoát, chứ không phải là một loại thiền tầm thường
như các Tổ đã gán
cho nó những
danh từ “Phàm
phu thiền, ngoại đạo thiền, Nhị Thừa Thiền”.
Ngưng đếm
hơi thở là một việc làm rất dễ, mà Tứ Thiền
chỉ có ngưng
đếm hơi thở
thì người tùy tức vẫn là nhập Tứ Thiền được sao?
Trạng thái của
Tứ Thiền là một trạng thái thân tâm bất động nên nó còn có tên khác như trên đã
nói: “tâm định trên thân, thân định trên
tâm”. Người tu thiền thời nay không hiểu định của Tứ Thiền, nên tưởng rằng tâm không vọng tưởng, thân ngồi bất động là nhập
định. Tâm thì không nhúc
nhích mà thân
thì không ngừng hơi thở, còn rung động thì làm sao gọi là nhập định trên
tâm được? Vì thế hơi thở phải ngưng nghỉ, các hành trong thân phải ngưng nghỉ,
thì mới gọi là nhập định. Các nhà học giả chỉ hiểu được tâm định ở chỗ ức chế
tâm, chứ không hiểu ở chỗ xả tâm là tâm không tầm tứ, tâm không nhúc
nhích, tức là tâm tịnh chỉ tầm tứ, “tịnh
chỉ tầm tứ”
là một tên
khác của “Nhị Thiền”.
Còn thân định
thì các Ngài
không
hiểu, tưởng là ngồi kiết
già lưng thẳng thân không rung động là định của thân.
Vậy người
nào muốn thực hiện nhập được định Tứ Thiền
thì phải tâm ly dục
ly ác pháp, tức là giới luật phải
thanh tịnh và pháp hướng tâm phải có hiệu quả, chứ không phải ngưng sổ tức mà
nhập được Tứ Thiền.
Các nhà học
giả không có tu hành làm sao biết được thân định trên tâm như thế nào? Thế mà các
Ngài dám dựa theo chữ nghĩa mà giảng thì các Ngài giết người không cần gươm
đao.
Đức Phật đã
dạy rất rõ ràng, muốn nhập Bốn Thánh Định và Diệt Thọ Tưởng Định thì phải tịnh
chỉ ngôn ngữ, phải tịnh chỉ tầm tứ, phải
tịnh chỉ 18 loại
hỷ tưởng, phải tịnh chỉ hơi thở và phải tịnh chỉ thọ tưởng. Các bạn
lưu ý những lời Phật dạy dưới đây:
“Tịnh chỉ tầm
tứ là ngưng khẩu hành. Tịnh chỉ hỷ là ngưng
tưởng hành.
Tịnh chỉ hơi
thở là ngưng thân hành. Tịnh chỉ thọ tưởng
là ngưng ý hành. Tịnh chỉ ngôn hành là
nhập Sơ Thiền.
Tịnh chỉ khẩu hành là nhập Nhị
Thiền.
Tịnh chỉ
tưởng hành là
nhập Tam
Thiền.
Tịnh chỉ
thân hành là nhập Tứ Thiền. Tịnh chỉ thọ
hành và tưởng
hành là
nhập Diệt Tận Định còn
gọi là nhập
Diệt
Thọ Tưởng Định”.
DỨT TIẾNG ỒN LÊN NHỊ THIỀN
Câu hỏi của
Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nhà học giả dạy trong Sơ Thiền ta cần chấm dứt tiếng ồn để
lên Nhị Thiền, như vậy có đúng không?
Đáp: Không,
Phật dạy diệt tầm tứ nhập
Nhị Thiền hay tịnh chỉ khẩu hành nhập Nhị Thiền, chứ không có
dạy trong Sơ Thiền chấm dứt tiếng ồn nhập Nhị Thiền. Nhà học giả lầm tưởng
khẩu hành là ngôn ngữ và ngôn ngữ là khẩu hành. Ngôn ngữ là lời nói, khẩu hành
không phải là lời nói mà hành động phát ra lời nói, hành động phát ra lời nói tức
là tầm tứ.
Tịnh chỉ tầm tứ, tức là tịnh chỉ ý thức, ý thức không
còn hoạt động
giao lại cho tưởng thức hoạt động, do thế
đức Phật dạy diệt
tầm tứ định sanh hỷ lạc, hỷ lạc ở đây do tưởng uẩn lưu xuất,
vì tưởng thức
thay thế cho
ý thức đang hoạt động, nên ta có
cảm giác hỷ lạc.
Ví dụ: Một người
đang ngủ thì mới
có chiêm bao, còn người thức thì không bao giờ có chiêm bao. Chiêm bao
là tưởng hoạt động.
Khi một người
có vọng tưởng, tức là ý thức câu hữu với tưởng thức. Cho nên, thế giới hữu
hình và
thế giới siêu
hình đều ở
trong ta và đang hoạt động từng phút giây, vừa hoạt động
kết hợp
với nhau mà
cũng có những
sự hoạt động riêng lẽ như trong
giấc mộng.
CHẤM DỨT TẦM
TỨ LÊN TAM THIỀN
Câu hỏi của
Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Nhị Thiền ta chấm dứt tầm tứ để lên Tam Thiền, có
đúng như vậy không thưa Thầy?
Đáp: Không, đức Phật dạy diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền,
chớ không có dạy dứt tầm tứ để
lên Tam Thiền. Nếu dứt tầm tứ còn lấy cái gì để lên Tam Thiền, nhà học giả tưởng rằng
ở trạng thái của Nhị Thiền chỉ cần lìa trạng thái hỷ là nhập Tam Thiền (ly hỷ
trú xả nhập Tam Thiền). Trong kinh
Phật dạy rất
rõ ràng: “xuất Nhị Thiền rồi mới nhập Tam Thiền”. Ly hỷ
trú xả là một tên
khác của Tam
Thiền chớ không phải là pháp hành. Nếu nói ly hỷ là ly được hỷ liền thì đâu
cần gì phải tu tập. Ly hỷ là một danh từ để chỉ trạng thái tịnh
chỉ tưởng thức, chứ không phải lìa sự vui mừng của cảm giác ý thức như nhà học
giả hiểu.
Người có
kinh nghiệm tu hành,
nói ly hỷ là họ biết ngay
phải tu tập những pháp
môn nào mới ly được hỷ tưởng.
CHẤM DỨT HỶ
LÊN TỨ THIỀN
Câu hỏi của
Diệu Quang
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong Tam Thiền ta chấm dứt hỷ để
lên Tứ Thiền,
như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Không,
đức Phật dạy ly hỷ trú xả nhập Tam Thiền, chứ không có dạy trong Tam Thiền chấm
dứt hỷ lên Tứ Thiền.
Chấm dứt hỷ đức Phật không
có dạy mà dạy
ly hỷ trú xả nhập được
Tam Thiền, đàng này hỷ chưa ly mà nhập trong Tam Thiền
được sao? Nhà học giả này lầm lộn quá, không sợ phạm tội Ba dật đề, đọa địa ngục
sao? Dám giảng sai ý của Phật như vậy, làm mất giá trị pháp môn tu hành của Phật
giáo.
Tóm lại,
muốn nhập Tam
Thiền người tu sĩ
phải lìa xa các
trạng thái (ly hỷ) tưởng,
khi đã lìa xa các trạng thái tưởng thì chiêm bao không còn, có như vậy mới
nhập được Tam Thiền.
Muốn nhập Tứ Thiền
hành giả phải xả
lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, tức là tịnh chỉ hơi thở,
đó là con đường
tu tập thiền
định mà
Phật đã dạy như vậy, còn
nhà học giả dạy
chấm dứt hỷ để lên Tứ Thiền, đó là thiền của các Tổ, chúng ta xin miễn bàn.
TRONG TỨ THIỀN NGƯNG
SÚ TỨC ĐẠT
KH×NG ĐỊNH
Câu hỏi của
Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Trong Tứ Thiền ta ngưng sổ tức để đạt tới Không Định,
như vậy có đúng không thưa Thầy?.
Đáp: Không,
đức Phật không có dạy trong Tứ Thiền
ngưng sổ tức để đạt tới
Không Định. Đức Phật dạy:
“Muốn nhập Không
Định thì phải dùng
“Tưởng Không” mà
tu tập”, như trong
kinh Tiểu Không đức Phật đã dạy.
Nhà học giả này
giàu tưởng tượng
tự đặt ra sự
nối tiếp giữa bốn thiền hữu sắc và bốn định vô sắc, chứ ông ta đâu
biết rằng bốn thiền hữu sắc và
bốn thiền vô sắc tu hành khác nhau, không giống
nhau chút nào.
Thiền hữu sắc
dùng ý thức mà
tu, còn định vô
sắc dùng tưởng
thức
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!