Do đó, Phật giáo lấy tri kiến
giải thoát quán xét xả tâm
nên rất thực tế cụ thể, tâm hồn giải thoát thật sự, còn ngoại đạo lấy
tưởng tuệ nên mơ hồ trừu tượng ảo giác, không có giải thoát.
Trên đây
là những điều các
con nên lưu ý và để
tránh xa những sự
sai lạc nó
không tốt cho con đường tu tập
này.
LẠT MA TÂY TẠNG CÓ PHẢI LÀ PHẬT GIÁO KHÔNG
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Tại sao các
vị A La Hán không tái sanh để tùy
duyên hóa độ chúng sanh như các Lạt Ma Tây Tạng? Trong một số
phim sách mà
con được xem, ở Tây Tạng vẫn có một vài tu viện mà giới luật
và sự tu tập cũng rất nghiêm túc. Kết quả là họ cũng có một số vị chủ động
được cái chết
và sự tái sanh, chứng tỏ sức tỉnh thức của họ cũng
rất mạnh mẽ và phải chăng họ cũng làm chủ
được
sanh tử? Mật
Tông phần lớn là bùa chú mê tín, tuy
nhiên với cái
nhìn của đạo Phật đánh
giá các vị Lạt Ma này như thế nào?
Đáp: Cái
nhìn của Phật
giáo đối với
các nhà sư Tây Tạng là cái nhìn
huyễn hóa của những nhà ảo thuật chứ
không đem lại sự lợi
ích thiết thực
cho đại đa số con
người trên hành tinh này, tại sao
vậy?
Vì những
người thực hiện
được như các nhà
sư Tây Tạng
thì quá hiếm, hằng tỷ tỷ người trên hành tinh này mà chỉ được một
hai người. Cho nên, những
pháp này chẳng
có ích lợi thiết thực gì cho con
người, chỉ tạo thêm sự đau khổ cho họ vì
lòng tham muốn những điều này (thần
thông ký thuyết và huyễn hóa).
Giáo pháp
này không xây dựng cho loài người một nền đạo đức
nhân bản, vì nền đạo đức
nhân bản sẽ đem lại lợi
ích chung cho con người trên hành
tinh này, hơn là những bùa chú thuật tạo ra những trò huyễn ảo tái sanh
luân hồi, biết tiền kiếp.
Biết tiền kiếp
như các nhà sư Tây Tạng có ích lợi gì
cho ai, ngay cả bản
thân của họ hay
chỉ là một trò lừa đảo người để phổ cập giáo pháp Mật Tông khắp toàn cầu.
Đạo Phật
không làm điều đó, vì
đức Phật và các vị A La Hán đệ tử của
Ngài có thừa khả năng làm việc đó, mà không cần đến bùa chú thuật như các nhà
sư Tây Tạng.
Đạo Phật lấy đạo đức nhân bản nhân quả xây dựng cho con người có một
đời sống Thánh thiện, tạo cảnh sống thế gian thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc,
Niết Bàn, chứ không mơ mộng theo lối mòn của các tôn giáo khác xây dựng một cảnh
giới hư ảo dù bất cứ nơi đâu.
Đạo Phật sống thực tế, tu tập trong
thực tế, không sống trong hư ảo, tu tập trong hư ảo, chấp nhận những gì
có ích lợi cho mình cho người, không chấp
nhận những gì có hại cho mình, cho người, không
chấp nhận những
trò hư ảo huyễn giả hý luận.
Những trò
huyễn ảo của các nhà sư Tây Tạng để khoe khoang sự tái sanh luân hồi, biết tiền kiếp của mình
khiến cho thiên hạ phục
lăn, nhưng các con xét thấy có ích lợi gì không?
Vì không
ích lợi cho
nên Thầy trò đức
Phật không thấy
có ai làm điều này.
Trong kinh sách nói về tiền thân đức Phật
là người sau bịa đặt chứ đức Phật
đã dạy: “Nếu Ta nói một
điều mà người
khác không thấy,
không nghe,
không biết thì
có nói láo trong
Ta”. Lời dạy này chứng tỏ đức Phật không
bao giờ nói về tiền kiếp của mình.
Nói về tiền kiếp tức là
dùng thần thông ký thuyết,
mà thần thông ký
thuyết là một
trò huyễn ảo, mà đạo Phật không bao giờ chấp nhận, mà
không chấp nhận tức là
có nghĩa lý
gian xảo lừa đảo trong đó.
Các vị Lạt
Ma đứng trong góc độ năng lực làm chủ sự
sống chết thì có, nhưng đứng
trong góc độ lìa
tham đoạn ác
pháp thì chưa, vì vậy còn thực hiện
những trò ảo thuật lừa đảo không ích lợi thiết thực cho con người.
Có người bảo
rằng nhờ thực hiện những thần thông này là tạo duyên để độ chúng sanh. Điều này
sai, bởi vì thực hiện thần thông là tạo cho tâm
người ta không hướng đến chánh đạo, vì chánh đạo là phải
gợi tâm người hướng về chánh đạo, chứ
đã gợi người
ta về tà đạo làm sao lôi người ta về chánh đạo được.
Cũng như hệ
phái Phật giáo lấy sự mê tín của dân gian gợi ý cho người ta theo đạo mình, từ đó người ta
theo kinh sách phát
triển là theo sự mê tín chứ không
còn biết kinh sách phát triển có đúng của Phật giáo hay không?
Người ta tu
theo Mật Tông Tây Tạng là người ta ham
thích thần thông
chứ người ta đâu
biết đạo lý
làm người là
như thế nào để
mọi người sống được an vui giải thoát.
Người ta
tu theo đạo Phật vì đạo đức của
đạo Phật là một nền đạo đức nhân bản – nhân quả làm người, thường đem lại lợi
ích cho mình cho người nên không còn làm khổ đau cho nhau nữa, chứ không phải
người ta tu theo đạo Phật để được chư Phật gia hộ tai qua nạn khỏi bệnh tật
tiêu trừ; người ta tu theo đạo Phật không phải để ngồi thiền thấy tánh thành Phật,
hay được vãng sanh về cõi Cực Lạc, Niết Bàn v.v..
Từ ban đầu
tu sai thì cuối
cùng vẫn là tu
sai và khi đã tu sai thì rất là khó sửa.
Những tôn
giáo muốn đem lại lợi ích cho loài người thì không có pháp môn nào tuyệt vời bằng
pháp môn dạy đạo đức làm người. Làm người
không nên làm khổ mình,
khổ người, đó là thiện
pháp mà thiện
pháp tới đâu
thì ác pháp sẽ bị triệt tiêu đến đó.
Có được như vậy
con người mới
tìm được chân hạnh
phúc, và như vậy mới thật sự ích
lợi cho loài người. Còn tất cả các phương pháp khác dù là phương pháp dưỡng sinh
Yoga dạy người để trị bệnh thì đó chỉ là trị về nhánh lá của bệnh chứ
không phải
trị tại gốc bệnh,
gốc sanh muôn thứ bệnh khổ là ác pháp, muốn trị muôn thứ bệnh khổ mà
cứ trị bằng thuốc
thang và phương
pháp dưỡng sinh thì không thể trị
tận gốc bệnh được, vì thế trị giảm được bệnh này thì sanh ra bệnh khác.
Theo Phật
giáo muốn trị bệnh khổ tận gốc của con
người thì phải sống
có đạo đức
nhân bản - nhân
quả không làm
khổ mình, khổ người.
Không làm khổ
mình, khổ người
thì cơ thể phải vận động được điều hòa, tâm hồn phải sống an lạc, thanh
thản và vô sự. Và tất cả các chướng ngại pháp
không tác động đến thân tâm, nếu có đến họ đều có đủ khả năng đẩy
lui và diệt trừ tận gốc bệnh. Do sống trong thiện pháp nên người tu sĩ đạo Phật
có được một tâm hồn thanh tịnh.
Tâm hồn thanh
tịnh là một tâm
hồn trong sạch.
Một tâm hồn
trong sạch thì lại có một năng lực mầu
nhiệm nó hoàn toàn làm chủ được mọi bệnh tật khổ
đau và sự sống chết.
Đạo Phật
làm chủ được sự sống
chết là nhờ năng lực của tâm
thanh tịnh, chứ không phải nhờ vào năng lực bùa chú thuật của Mật Tông.
Mật Tông sống
có giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh
nhưng không vì giữ những
giới luật ly
dục ly ác
pháp, mà Mật
Tông giữ gìn giới
luật là để luyện bùa luyện chú tạo một năng lực siêu việt, nhờ
năng lực đó mới thu
hút người theo đạo mình
tu để có danh to. Và vì thế, các Ngài thể hiện
thần thông trị
bệnh và nói
biết chuyện quá khứ
trong một kiếp
hoặc hai ba
kiếp.
Trong câu hỏi của
con: ‚Tại sao các vị A
La Hán không tái sanh để tùy duyên hóa độ chúng sanh như các Lạt Ma Tây Tạng?‛.
Đức Phật đã dạy:
‚Một vị A
La Hán xuất
hiện ở trên đời
là một việc khó,
khó như hoa ưu đàm cả ngàn năm mới trổ hoa một lần‛.
Vả lại
khi một vị A La
Hán xuất hiện ở
đời là phải vào đúng thời kỳ của nó, có nghĩa một vị
A La Hán ra
đời là
quân bình trật tự
đạo đức
của loài người,
lúc xã hội
loài người đang đi
vào một sự
thay đổi lớn, nếu không quân
bình kịp thời thì sự
thay đổi ấy sẽ đưa con người vào trong đêm đen tối.
Một bậc A la
Hán xuất hiện ở đời là làm chấn động và rung chuyển cả trời đất cũng như khi đức Phật
xuất hiện ra đời
dựng lại những gì mà
lục sư ngoại đạo thời đó
đã ném bỏ và
bác sạch sáu mươi hai luận thuyết của kinh Vệ Đà mà người thời bấy giờ được xem bộ
Thánh
kinh
này là
một triết thuyết
tuyệt vời, là một
bộ chân lý văn minh của loài người, thế mà đạo Phật ra đời không chấp nhận nó.
Và như thế
không thể so sánh một vị Lạt Ma với một vị A La Hán được. Vị Lạt Ma dùng thần
thông huyễn hóa mà lừa đảo người gọi
là độ chúng sanh, chứ
chẳng có ích lợi
thiết thực gì cho con người, còn một vị
A La Hán xuất
hiện ở
đời là đem lại sự lợi ích lớn cho loài người tức
là mang lại
cho con người một nền đạo
đức nhân bản
– nhân quả
mà mọi người sống chung nhau nhưng không làm khổ
mình, khổ người.
Các con có
tin điều này không? Các con cứ nhìn các
vị Lạt Ma thì thấy rõ lời Thầy dạy. Lẽ ra các
ông có thần
thông thì phải có đạo đức. Sao các
ông không đem lại
cho con người một nền đạo đức? Quảng
bá một nền đạo đức. Nền đạo đức của các
ông là gì? Các ông chỉ
gây tạo sự ham mê ngu muội của con người bằng những thần thông tái sanh
luân hồi qua những quảng cáo phim ảnh
sách báo.
Những sự thể
hiện tái sanh luân hồi của các ông như vậy có ích lợi gì cho ai? Chỉ tạo ra một
trò hiếu kỳ của con người, trong khi con người đang cần có một nền đạo đức để sống
với
nhau mà không làm
tổn thương cho nhau, biết thương
yêu nhau, biết
tha thứ những
lỗi lầm của nhau. Còn các ông ăn
không ngồi rồi để tu tập thần thông
tưởng, như vậy phải tiêu
phí bao nhiêu mồ hôi nước mắt của mọi người nuôi dưỡng các ông.
Con nên đọc
lại bài kinh Channa đức Phật đã dám so sánh
mũi dao của tỳ
kheo Channa và sự tịnh chỉ hơi thở
của Tứ Thiền thì sự làm chủ sống chết
là một trò
huyễn hóa làm mê
mệt những con người còn sống trong giấc mơ.
Nếu đứng trong
góc độ của Phật giáo thì các ông Lạt Ma là những người phù thủy.
Sự quảng
cáo phim ảnh,
báo chí và
sách vở, không đủ chứng minh lòng tham danh đắm lợi của các vị phù thủy
Lạt Ma này sao?
Trong cuốc sống
trên thế gian này con người đang cần đạo đức,
chứ không phải cần
thần thông xin quý vị hiểu cho. Đạo đức
- món ăn tinh thần, loài người đang cần thiết như người đói cần thực
phẩm. Xin các vị Lạt Ma
hãy cho chúng tôi những món ăn tinh thần này chứ thần thông của các ông chỉ là một
trò ảo thuật mà thôi.
“NGỮ” VÀ
“NGHÏA”, CHÚNG
CON PHÂI HIỂU
NHƯ THẾ NÀO?
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Có vị giảng sư
thuyết: ‚Trong kinh
Nguyên Thủy Phật
dạy:
‚Chánh pháp
còn phải bỏ huống là
phi pháp‛ thì Lục Tổ triển
khai ‚Không niệm
thiện niệm ác‛, chỉ
khác nhau về
ngôn ngữ, cách diễn
đạt mà ý tưởng
không khác, phải
‚y nghĩa bất y
ngữ‛. Vậy thưa Thầy ‚ngữ‛ và ‚nghĩa‛ ở
đây chúng con phải hiểu như thế nào cho đúng?
Đáp: ‚Chánh
pháp còn phải bỏ huống
là phi pháp‛. Câu
nói này đúng
với người tu chứng,
còn người tu
chưa chứng mà dùng
câu nói này là người phi pháp.
Câu nói của Lục Tổ Huệ
Năng: ‚Chẳng niệm thiện
niệm ác‛ là
nói với người tu
chứng, còn những người
tu chưa chứng mà
dùng câu này để tu thì tu ức chế
tâm, tu sai đường.
Người tu
chưa chứng thì nên ngăn ác diệt
ác pháp,
sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp, còn ném cả thiện và ác thì e rằng họ sẽ
trở thành cây đá mất và họ đã
quên rằng họ là
người đang
tu mà bỏ
luôn chánh pháp
thì họ lấy cái gì để tu, nếu bỏ
luôn chánh pháp
thì cũng giống như người muốn sang sông mà bỏ luôn chiếc
bè thì làm sao họ
qua bờ bên kia được.
Chánh pháp
là một đối
tượng của phi pháp, nếu phi
pháp không còn thì chánh pháp
dùng vào đâu? Dù muốn để chánh pháp cũng phải bỏ. Nếu phi pháp có thì chánh
pháp là đối thủ của nó, còn phi pháp không thì chánh pháp là sự sống của
con người, chứ cần
gì phải bỏ phải
lấy. Câu nói
này là câu
nói thừa của những
người tu chưa giải
thoát; ‚Chánh pháp còn
phải bỏ huống
là phi pháp‛.
Ngược lại, câu nói này của đức Phật khuyên nhắc chúng ta tránh xa những
phi pháp.
Còn câu: ‚Chẳng
niệm thiện niệm ác‛ của Lục Tổ Huệ Năng là câu công án, mục đích của nó là nhằm khai
ngộ Phật Tánh,
có nghĩa là câu này giúp cho hành giả nhận ra Ý THỨC
không niệm chứ không phải để tu, người sau không hiểu lấy câu này làm chỗ tu,
nên tu sai, tu vào chỗ ức chế tâm, rơi
vào thiền tưởng chứ nghĩa của
nó không giống
câu: ‚Chánh pháp còn phải bỏ huống là phi pháp‛.
Ở đây con hỏi “Ngữ” và “Nghĩa”, ngữ là lời nói,
nghĩa là nghĩa lý của lời nói.
Một lời
nói có nhiều
nghĩa, trong Nho Giáo dạy: ‚Nhất tự lục nghĩa‛ một chữ có sáu nghĩa. Vậy con hiểu nghĩa nào
mà dám bảo: ‚Y nghĩa bất y ngữ‛. Cho
nên, con đã hiểu sai nghĩa của hai câu này khi áp dụng vào đời
sống tu hành. Hai câu này là hai câu hý luận chứ không thực tế cho sự tu hành của
các con.
HỶ CỦA SƠ
THIỀN
GẤP 16 LẦN HỶ VẬT CHẤT
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Có vị
nói rằng Hỷ của Sơ
Thiền gấp 16 lần hỷ mạnh nhất thuộc vật chất (nhục dục) đúng không
thưa Thầy?
Đáp: Quý vị có ly
dục ly ác pháp
chưa? Mà dám khẳng định gấp 16 lần.
Thật là xảo
trá, trạng thái hỷ do ly dục ly bất thiện
pháp làm
sao so sánh với hỷ dục lạc
và ác pháp được.
Hỷ ly dục và
hỷ dục là hai con đường cách biệt song song nhau làm sao gặp chỗ nào mà so
sánh được. Hỷ ly
dục có
mặt, thì hỷ dục phải
không có mặt, hai cái này cũng giống như đêm với ngày,
đêm có thì ngày
phải không, ngược lại cũng như vậy.
Người dạy điều
này là người sống trong tưởng tượng, trong mơ, không biết bốn Thánh Định là gì,
nhất là Sơ Thiền một loại thiền thuộc về giới
luật đạo đức
nhân bản của Phật
giáo.
Người tu học
theo Phật giáo cần phải hiểu cho rõ ràng
hỷ lạc
do ly dục sinh và hỷ lạc do dục sinh, hai trạng thái hỷ này không có
giống nhau. Cho nên,
lòng vui mừng
khi cha con chồng vợ gặp nhau
trong sự trùng
phùng, còn hỷ lạc do ly dục sinh
cũng giống như một người thích sống một
mình không muốn
tiếp duyên với mọi
người. Vui thích
sống một mình
là hỷ do ly dục sinh. Xin quý vị
nên lưu ý điều này để không lầm lạc.
Chỉ cần đắc
Sơ Thiền và đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Con được biết có
số vị
sư Nguyên Thủy quan
niệm chỉ cần đắc
Sơ Thiền và đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử để khi thân hoại
mạng chung từ cảnh giới
tương đương thể nhập Niết Bàn, như trong kinh Bát Thành,
Trung Bộ tập 2, kinh
Damasa Gia chủ Tăng Chi. Dựa
vào kinh mà
tu như vậy có
đúng không thưa Thầy? Kết quả ra sao.
Đáp:
Trong bài kinh này đức Phật đưa ra một
ví dụ: lỡ trong kiếp này tu chưa được hoàn thành viên mãn của con đường giải
thoát mà nhân quả đã đến thình lình thì phải đành chịu, nhưng nếu
tu tập đạt được Sơ Thiền
và đoạn được năm hạ phần
kiết sử thì không
còn tái sanh làm
người nữa, nghĩa
là sắc uẩn
đã bị hoại diệt
chỉ còn bốn uẩn kia trong
trạng thái của Sơ Thiền Thiên và
trạng thái đoạn năm hạ phần kiết sử, ở đó sẽ lần lượt quét sạch lậu hoặc và vào Niết bàn.
Trên đây
là một ví dụ bất đắc dĩ
trong kinh, chứ không phải người
tu ước ao như vậy. Bởi con đường tu của đạo Phật rất
khó là ở giai đoạn Sơ Thiền, vì Sơ Thiền chỉ
rõ sự sống của một bậc Thánh ở đây, cho nên từ phàm
phu chuyển lên một bậc Thánh không phải là một việc dễ
làm, dễ sống,
vì thế tu
sĩ thời nay không riêng gì tu sĩ Đại Thừa mà cả tu sĩ
Nguyên Thủy đều phạm giới,
phá giới, bẻ vụn
giới.
Sống phạm
giới, phá giới,
bẻ vụn giới mong
gì ly dục ly ác pháp
nhập Sơ Thiền và đoạn năm hạ phần kiết sử được như các sư ước
mong.
Các quan
niệm của một
số sư Nguyên Thủy như vậy là không đúng với tinh thần
giải thoát của đạo Phật. Mong cầu như vậy có nghĩa là các sư cảm thấy con đường
thiền định của Phật giáo quá khó khăn, nhưng không ngờ cái khó là chỗ Sơ Thiền (giới) còn đoạn đường thứ hai (Định, Tuệ) thì không
còn khó khăn gì cả.
Bỏ hết cuộc
đời đi tu mà không có ý chí quyết
tâm tìm cầu sự giải thoát
trong một đời này thì chẳng phí uổng một đời lắm sao.
Phật Pháp
chỉ khó ở
giai đoạn đầu giới
luật còn giai đoạn thiền định và Tam Minh thì
không có khó
khăn, không có mệt nhọc, thế mà đạt được ở giai đoạn đầu tức là nhập được Sơ
Thiền và đoạn được năm hạ phần kiết sử mà không
vào Nhị Thiền,
Tam Thiền, Tứ Thiền
sao? Khi nhập được
Sơ Thiền thì Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền không còn khó
khăn, nhập những loại định này như lấy đồ trong túi, vì năng lực của
tâm ly dục ly ác
pháp rất là mầu nhiệm, nếu nó không mầu nhiệm được thì
không thể nào ly dục ly ác
pháp được. Do mầu nhiệm mới làm
chủ sanh, già, bệnh, chết, mới chấm dứt tái sanh luân hồi.
Dựa vào
kinh mà tu như vậy là
không hiểu kinh và không hiểu kinh thì làm sao tu hành đúng được, kết quả
là một số không.
Những người
tu như vậy là không có ý chí, không có tự giác, không hiểu rõ Phật pháp và nhất
là pháp hành.
Ở ngoài
đời làm việc
gì gặp khó khăn thì chùng bước, trước gian nan thì ngã lòng, người như thế
thì không làm việc lớn được
huống là đi tu
còn gặp nhiều
khó khăn gấp
trăm ngàn lần hơn nữa.
Xưa đức Phật
nguyện: ‚Nếu không chứng đạo thề nát
xương không rời khỏi cội bồ
đề”. Do ý chí ngút ngàn tâm bất động trước các
ác pháp,
Ngài chứng đạo, để lại
cho loài người bốn chân lý tuyệt vời.
BÀ CHÚA BA
Câu hỏi của
Liễu Giác
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Câu chuyện Công
Chúa Ba
(chùa Hương Tích) có thật hay là chuyện
huyền thoại để
răn đời, mà từ xưa tới nay
mỗi năm vào đầu xuân
không biết bao nhiêu
người đổ về
chùa tham quan vãng cảnh. Điều này theo con nghĩ: vãng cảnh đẹp
thiên nhiên là đúng,
nhưng ngoài ra đa
số lại đi chùa cầu xin tài lộc, cầu tự... là do lòng
tin của mọi người đối với Bà Chúa Ba qua
đức nhẫn nhục và lòng hiếu hạnh. Vua cha đã làm nhiều điều ác độc, nhưng nhờ cô
con gái thứ ba tu thành chánh quả dùng tay mắt của mình làm thuốc chữa
trị bệnh cho cha, làm
như vậy có trái luật nhân quả thiện ác không thưa Thầy?
Đáp4: Câu
chuyện Bà Chúa Ba là câu chuyện truyền thuyết huyền thoại, chứ không phải chuyện
thật, câu chuyện
này cũng giống như câu chuyện Quan Âm Thị Kính vậy. Những nhân vật trong truyện là những
nhân vật tiểu thuyết giả tưởng của một tác giả xưa chịu ảnh hưởng Nho Giáo và
Phật Giáo Đại Thừa. Câu chuyện này là câu chuyện tội lỗi phi đạo đức là chuyện giả tạo chỉ để lừa đảo trong
Phật giáo mà từ
lâu chưa có ai
vén bức màn
đen tối này lên, nên mọi người
đều lầm tưởng Bà
Chúa Ba tu hành đã thành Phật.
Trang Vương
là một nhà
vua vào thời Đông Chu liệt quốc bên Trung Hoa tương
đương ở Việt Nam
vào thời Hùng
Vương vì xét
qua lịch sử khi Trưng
Vương nổi dậy chống quân xâm lăng vào thời nhà Đông Hán, như vậy
câu chuyện này xảy ra
trong lúc nước ta còn
trong giai đoạn bộ lạc.
Vua
Trang Vương có ba người con gái, hai đứa
con lớn đã lập gia thất, chỉ còn đứa con gái Út
thứ ba là Diệu
Thiện chưa lập gia
đình, vì
thế nhà vua
rất thương cô gái Út, nên khi nghe
4 Chơn Như,
ngày 6 tháng 1 năm 2001
Diệu Thiện
muốn đi tu
là ông tìm mọi
cách ngăn cản. Trước khi Bà Chúa Ba đi tu, nhà vua rất sùng
kính Phật giáo,
ông rất hiền
lành, sống có đạo
đức, lấy chánh
pháp trị dân, thương dân như con một. Sau khi nàng
Công Chúa Ba đi tu,
nhà vua trở thành
độc ác, ông nghĩ
rằng: Các tăng
trong chùa quyến
rũ con gái ông, khiến ông khổ đau vì thương nhớ con, ông căm tức ra lệnh
cho quân lính vây
chùa giết tăng và đốt chùa.
Do hành động
ác độc này, và sự buồn rầu nhớ
thương con nên
ông mang bệnh
và căn bệnh rất nặng không
có thuốc thang
nào chữa trị được,
đành phải chờ chết, trong
lúc đó có một vị tăng xuất hiện xin trị bệnh cho
vua. Sau khi xem xét bệnh tình vị
tăng kê toa,
nhưng còn thiếu hai vị thuốc là mắt và tay của con người được
đem nấu chung
với các vị thuốc
khác thì trị bệnh mới hết, nhưng mắt tay phải là của
con nhà vua thì mới hiệu
nghiệm, còn của người khác thì
không hiệu nghiệm.
Hai đứa
con gái đầu đã
có chồng con nên không
dám hy sinh mắt tay để làm
thuốc cho cha, vì thế
nhà vua không còn
hy vọng sống chút nào, chỉ còn chờ ngày chết mà thôi.
Tại động
Hương Tích nàng công chúa Ba được sứ thần đến xin mắt và
tay để về làm
thuốc cho vua cha. Khi nghe cha bệnh nặng và xin mắt tay, nàng bèn khoét mắt chặt
tay giao cho sứ thần mang về làm
thuốc trị bệnh,
lúc bấy giờ nàng đã thành Phật, nên mắt tay đều lành lặn trở lại như
xưa.
Câu chuyện
trên đây là câu chuyện cấu kết nhân vật
giả tưởng, mới nghe qua thì tưởng là đạo đức
nhưng sự thật
câu chuyện này
là phi đạo đức nhân quả và rất
nhiều điều tội lỗi.
1- Nàng Công
Chúa Ba chịu ảnh hưởng tư tưởng của Phật
giáo phát triển
nên bỏ cha đi tu, khiến cho vua cha buồn khổ thương nhớ, đó là tội thứ
nhất, làm khổ cha già là
người sanh thành dưỡng nuôi lớn khôn, công lao trời biển đó, thế mà nỡ
tâm, đành bỏ cha già đi tu thật là vô đạo đức bất hiếu thứ nhất.
2- Nàng Công
Chúa Ba tự ý đi tu thực bất hiếu khiến cho vua cha căm tức đốt chùa giết tăng tạo
tội ác tày trời, đó là hành động tội lỗi vô
đạo đức thứ
hai, nếu Công
Chúa Ba không bỏ đi tu thì người
cha đâu có làm nên tội lỗi tày trời như vậy.
3- Chặt
tay khoét mắt
mình, đó là làm
khổ mình tức là vô đạo đức với
mình, tội vô đạo đức thứ ba.
4- Dùng
thần thông lừa đảo người
(mắt tay lành lặn
như xưa) để mọi người
tỏ lòng cung kính ngưỡng mộ đó là háo danh, là tội lỗi phi đạo đức thứ
tư, không phải
là người tu hành chân chánh của đạo Phật.
Tóm lại,
Bà chúa Ba được thờ tại chùa Hương
Tích với một lịch sử tội lỗi
và phi đạo đức
như vậy thì có
xứng đáng gì cho chúng
ta thờ phụng và tỏ lòng tôn kính
không? Đó chỉ là một sự mê tín
trong dân gian
mà tác giả dựa
vào tư tưởng thần thông ngoại đạo vẽ rắn thêm chân, vì thế câu chuyện này vô đạo
lý nhân quả của Phật giáo.
Từ đây về sau
con người sẽ lần lượt
xác định rõ bộ mặt thật của
kinh sách phát triển để mọi người không còn bị lường gạt
nữa.
Đối với Phật
giáo Nguyên Thủy thì không chấp nhận những câu chuyện huyền thoại phi đạo đức
như trên, đi ngược
lại với đạo đức của đạo Phật.
Nhìn đời bằng
đôi mắt nhân quả thiện ÁC
THÌ CUỘC SỐNG MỚI CÓ HẠNH PHÚC, AN VUI
Câu hỏi của
Liễu Giác
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Y lời Thầy dạy,
nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả thiện ác, thì ngày nay ở đời thấy biết bao nhiêu sự bất công như: có kẻ chủ
mưu dao đâm gậy
đánh người và hay quậy
phá mất đoàn kết, chỉ vì
mưu đồ tham lam lấn chiếm
mọi mặt nhưng
lại được quan trên che chở, còn
những người hiền đức đang bị o ép đủ đường.
Xin Thầy từ
bi giảng dạy cho chúng
con sự nhẫn
nhục với những hạng
người này, như
thế nào để
khỏi ảnh hưởng về đường tu tập của
chúng con ạ.
Đáp: Trong
sự tu tập
theo Phật giáo với
đôi mắt
nhân quả nhìn đời thì các
con phải nhớ ghi khắc trong lòng ba điều kiện này:
1- Khi
tâm còn
yếu tức là sức tỉnh
thức chưa đủ và
pháp hướng tâm
chưa có lực
thì đương đầu đối với những người
thiếu đạo đức như du đãng côn đồ, thì chúng ta nên tránh xa
họ, đừng
làm quen thân với những người
này, vì đương đầu với họ xả tâm rất khó
khăn, nhiều khi bị ức chế tâm
thành ra tự mình làm khổ sở cho
mình vô
cùng vô tận.
Vì thế, đức Phật
dạy: ‚Sống với thiện‛,
sống với thiện
tức là sống với những người
có đạo đức,
những người có đạo đức là những người lành, ngược lại là những người ác.
2- Khi
tâm chúng ta
có phần xả nhiều có nghĩa là tâm tỉnh thức đầy đủ và pháp hướng
tâm có
hiệu quả tức
là tâm có đạo lực,
thì lúc bấy giờ chúng ta lấy những người ác làm đối tượng để tu tâm nhẫn
nhục, tùy thuận và bằng lòng thì kết quả giải
thoát ngay liền, tức là
tu tập tâm bất động trước
các ác pháp,
nếu tâm thật sự bất động
thì đó là chúng
ta đã nhập Bất Động Tâm Định. Bất động tâm định là
một loại thiền định giải thoát tâm hoàn toàn sống trong trạng thái Niết bàn của
chư Phật mười phương. Tâm trạng người thế gian không bao giờ sống
và vào đó được. Tại
sao vậy? Vì tâm người thế gian còn vọng động, ham thích.
3- Khi
đương đầu với
ác pháp gặp
các quan ăn lo của hối lộ, che chở
cho những kẻ làm ác hại dân hại nước
thì tìm mọi cách tố cáo
những kẻ này cho
các cấp
có quyền thế lo
cho dân cho
nước để trừng trị tội lỗi họ, chứ không được bỏ qua vì đây là làm lợi ích cho mọi
người, cho xã hội, cho dân, cho nước.
Do biết
tu tập
đúng như ba phương tiện ở trên thì không có ảnh hưởng vào đường tu tập
của các con, mà còn có nhiều lợi ích rất lớn cho đời sống, cho đạo của
mình, của người.
Có thờ
có thiêng, có
kiêng có lành
Câu hỏi của
Liễu Giác
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Người đời thường nói: ‚có thờ
có thiêng, có
kiêng có lành‛, vì thế ở đâu
cũng phải thờ
cúng thần linh, thổ
công (đất có Thổ
Công, sông có
Hà Bá). Vậy thờ
cúng như thế nào cho đúng chánh pháp?
Có người bị
bệnh ung thư gan; có người bị bại liệt; có người bị tóc kết rồng phượng trên đầu, người
đời cho đó
là Thần Thánh
phạt phải ra hàng đầu bốn phủ, có nghĩa là phải lên đồng, nhưng
những bệnh nhân
này đã làm
theo, kết quả
thực tế những bệnh nhân này đều chết hết, như vậy tiền mất tật
mang như lời Thầy đã dạy.
Sau khi những
thân nhân của các bệnh nhân này đã chết mà họ còn
không tỉnh ngộ, họ còn u mê, vì thế, mỗi năm cứ đến ngày
giỗ, họ làm cỗ
bàn linh đình giết
hại bao nhiêu sinh vật, đốt rất
nhiều đồ mã cho người quá cố. Như vậy có
lợi gì có hại gì? Xin Thầy giảng rõ cho
chúng con hiểu hiện giờ và mai sau con cháu của chúng con không còn lầm đường lạc
nẻo mê tín lạc hậu như vậy nữa.
Con thành
tâm sám hối Phật, sám hối
Thầy và cô Diệu Quang từ bi thương xót xá tội cho chúng con đã
thưa hỏi quá
nhiều, tuy biết rằng
tuổi già sức yếu của Thầy, nhưng
chúng con hiểu ngoài Thầy
ra không có vị Thầy nào giảng dạy cho chúng con được thân tâm an
lạc
và giải
thoát như Thầy.
Kính thư
Thay mặt một
số chị em
Con: Liễu
Giác
Đáp:
‚Có thờ
có thiêng, có
kiêng có lành‛, câu
tục ngữ của người
xưa đã dạy như vậy, câu này nó
đã trải qua biết bao đời người, người ta
rút ra được cái kinh nghiệm thiêng và lành
đó,
nhưng người
xưa đâu biết cái thiêng và cái lành đó ở đâu mà ra.
Cái linh thiêng
đó không phải ở chỗ thờ
phụng tức là không phải
ở chỗ tượng cốt, hình ảnh, bình vôi, ông táo, gốc đa, thổ công, thành hoàng,
thổ địa, hà bá, thủy long, ông địa, thần tài v.v.. mà ở chỗ tâm của con người.
Hằng ngày,
chúng ta thường
đến thắp hương lạy lễ dù là gốc
cây, cục đá, gò mối lâu ngày tâm chúng ta truyền cảm năng tín lực tưởng vào
đó biến gốc
cây, cục đá, gò
mối linh thiêng, ai
đi ngang qua
không tỏ lòng
cung kính, khạc nhổ, tiêu, tiểu
nơi đó sẽ bị nhức đầu, bệnh đau v.v..
có khi rối loạn
thần kinh giống như người điên.
Vậy cái
thiêng của gốc cây, gò mối, cục đá có phải tự
nó thiêng đâu, nó
thiêng là nhờ
tín tâm của chúng ta mà Đức Phật đã nói rằng: đó là năng lực tưởng của
con người.
Cho
nên, thế
giới siêu hình có là
do năng lực của tưởng chúng ta tạo thành, vì thế nó không thật có chỉ là
tưởng tri tạo ra mà thôi.
Chúng ta chớ nên tạo ra cái
thế giới siêu hình
đó, nó không ích lợi cho chúng ta
mà còn là một tai họa, một gánh nặng cho chúng ta.
Nhà thiền học
Suzuki nói: ‚Nếu chúng ta làm sống cái thế giới siêu hình là chúng ta đem đến tai họa cho
con người‛. Đúng vậy, từ bao
đời cái thiêng ấy đã khiến cho người ta tốn biết bao nhiêu tiền của về sự
cúng bái tế lễ cho cái thế giới ảo này. Cái thế giới này chẳng
giúp gì cho chúng ta
được, cuối cùng
tiền mất tật mang, bởi vì luật
nhân quả do mình tạo ra
thì mình phải chịu lấy, không có một
ai chịu thay hay phùø hộ cho
mình được. Nếu có ai chịu thay cho
mình hay
phù hộ cho mình
thì đó là một việc làm không công bằng, vô đạo đức.
Người ta đâu
ngờ rằng, những tai qua nạn khỏi của con người là nhờ hành động thiện của họ đã
chuyển hóa sự
đau khổ nạn
tai, chứ không phải
do cái thiêng của gốc cây, cục đá, gò mối mà chuyển họa thành phước được.
Bởi cái
thiêng đó do tâm
của các con tạo ra, nó là một năng lực của tưởng
thức các
con, chứ nó không thật có, nếu các con không tin tưởng, không thắp
hương, không cúng tế không lạy lễ... thì cái thiêng đó không còn thiêng nữa.
Các con cứ suy ngẫm
có đúng như lời
Thầy đã nói không? Nếu đúng thì
các con tin, còn không đúng thì đừng tin.
Có kiêng là
có lành, người ta nói: ‚Mùng năm, mười bốn,
hai mươi ba. Đi
chơi cũng lỗ lựa
là đi buôn‛.
Trong sách xem ngày
giờ tốt xấu cho
ba ngày ấy
trong tháng là
ba ngày “tam sát”, người đi đường
xa hay khởi công làm ăn một việc gì hoặc thưa kiện... mà chọn trong ba ngày ấy thì
trăm ngàn lần đều thất bại, từ đó
đã ghi nhận
vào tâm mọi
người một ấn tượng xấu
cho những ngày ấy và vì thế mọi sự tai họa xảy ra trong đời người đều xảy
ra đúng vào những ngày ấy, vì vậy người ta rất kiêng cữ vào những ngày xấu đó.
Người Tây
phương kiêng cữ ngày 13 trong mỗi
tháng, ngày đó họ ít đi
đâu cũng như chúng
ta kiêng ngày lẻ, đi đường vào những
ngày lẻ dễ xảy ra tai nạn, nên thường chọn vào ngày chẵn mà đi, làm ăn cũng như
đi đường xa vậy, người ta đều chọn ngày chẵn.
Như chúng
tôi đã nói ở trên
do lòng tin của chúng ta mà năng
lực tưởng tạo ra thế giới siêu hình biến thành một thế giới tai họa cho
loài người. Từ nơi
tâm của chúng ta tạo ra thế giới siêu hình thì cũng từ nơi tâm của chúng ta đã tạo ra
nhân quả thiện ác, do đó nhân quả thiện
ác cũng theo từng tâm niệm và
lòng tin đó của
chúng ta mà thực hiện
luật nhân quả
thưởng phạt rất công
minh, do thế con người lại
không hiểu, nên cho đó là có chư Phật, chư Bồ Tát, Bát Bộ Thiên Long cùng
chư Thần, chư Thánh hoặc Tam Bảo gia hộ, nói
chung là người của thế giới siêu
hình cứu khổ, cứu nạn chúng ta, nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng thế giới siêu
hình không có gia hộ cho ai cả, mà chỉ
có luật nhân quả
đang chuyển họa
thành phước, đang chuyển phước thành họa, chúng ta lầm tưởng những người
thế giới siêu hình cứu giúp chúng ta.
Ngày giờ, thời
tiết không có tốt hay xấu, ngày nào, giờ nào cũng như ngày nào, giờ nào,
ngày nấy, giờ nấy
cũng như ngày nấy giờ nấy, mà chỉ do lòng tin của con người đã biến
thành ngày giờ tốt xấu.
Vì lòng tin,
tức là
tâm linh của con người đã
tạo thành ngày
giờ tốt xấu ấy, từ
đó chúng ta gây ảnh hưởng
cho nhau để rồi có
ngày, có giờ phải kiêng cữ trong
tháng trong năm, đúng là chúng ta
đã tự tạo ra
cho mình nhiều thứ khổ, đi đâu hoặc làm cái gì đều phải xem
ngày giờ tốt xấu thật là phiền phức, sự phiền phức này do ai tạo ra cho chúng
ta, đó là sự vô minh tức là sự không hiểu biết, hiểu biết không rõ do
đó lòng tin
tạo ra thêm những sự rắc rối phiền phức này.
Do lòng tin ngày
tốt ngày xấu tự nơi
tâm chúng ta thì luật nhân quả cũng tự nơi tâm chúng ta mà thi hành, nên
luật nhân quả từng theo tâm niệm
và lòng tin của
chúng ta ban phát hành luật, vì thế có kiêng là có
lành.
Những người
hay kiêng cữ tin
vào ngày giờ tốt xấu khi nhân quả đến,
thường đến trong những ngày xấu giờ xấu là tại sao vậy?
Luật nhân
quả theo lòng
tin của người đó mà
trả quả như
trên chúng tôi
đã nói, và lúc
bấy giờ
người trả nhân
quả thì không còn nhớ đến ngày
giờ tốt xấu nữa và
cũng không làm chủ được ngày giờ tốt xấu đó.
Ví dụ: Một người
trộm cắp giết
người sau bao ngày trốn tránh
công an nhưng hôm đó nhằm ngày 14 anh ta lại ngủ quên công an bao vây mà
không hay nên anh bị bắt,
khi anh bị bắt thì anh nghĩ:
‚Ngày 14 là
ngày xấu‛. Do lòng
tin của anh ngày
14 là ngày xấu
thì luật nhân quả nó
rõ thấu tâm niệm anh
như vậy nên quả bị bắt
thì phải nhằm ngày
đó. Do đó, chúng ta mới thấy
rõ lòng tin tốt
ra tốt, lòng tin xấu ra xấu,
nhưng chúng ta phải hiểu hành
động chúng
ta xấu thì làm sao chúng ta tin nó tốt
được, vì nó là lương tâm của chúng ta.
Ví dụ: Hôm
qua chúng ta chửi mắng và đánh người khiến
cho họ khổ
đau, thế mà, chúng
ta tin mình làm tốt được
hay sao? Làm tốt sao lại chửi mắng đánh người, vu khống người, làm khổ
người?
Cũng như hôm
qua chúng ta bị người khác chửi mắng và đánh nhưng chúng ta nhẫn
nhục không chửi mắng, không đánh lại người, không tức giận, không phiền
não, khiến cho người này không giận dữ và bớt khổ đau. Những hành động như vậy
chúng ta có tin mình tốt được không? Những
hành động này chúng ta biết rất rõ không làm khổ mình, khổ người là những hành
động tốt, biết rất rõ là những hành động tốt thì chúng ta có lòng tin không? Chắc
hẳn là tin rồi phải không?
Cho
nên, lòng tin của
chúng ta là mọi sự quyết định cho cuộc sống vui hay buồn, khổ
đau hay an lạc.
Trong giáo
lý của nhà Phật, lòng
tin là trên hết, nhưng tin phải
tin đúng chánh pháp, tin đúng chánh pháp tức là tin vào thiện pháp, có tin vào
thiện pháp thì mới
có cuộc sống
trong thiện,
có cuộc
sống thiện thì mới có cuộc sống an vui, thanh thản, an lạc và vô sự.
Lòng tin ấy
khi được đặt vào tà pháp, tức là tin có thế giới siêu
hình, tin có ngày giờ tốt xấu, tin
có bản thể vạn hữu, tin có thần thông phép tắc, tin có
bùa chú linh thiêng, tin có cõi Cực
Lạc Tây Phương,
tin có Thiên Đàng,
Địa ngục v.v.. lòng tin như vậy sẽ đưa chúng ta đến muôn ngàn sự khổ
đau bởi chính lòng
tin ấy thúc đẩy chúng
ta đi vào
ác pháp, hành động
ác pháp, do đó mới tiền mất tật mang, khổ đau lại còn khổ đau
hơn, như vậy niềm tin đó không phải là niềm tin đúng chánh
pháp.
Như chúng
ta đã biết,
lòng tin tạo nên tâm lực con người. Vì thế, khi ở đâu có
lòng tin có ma thì ở đó
có ma, lòng tin có quỷ
thì ở đó có quỷ, lòng tin có thần
thì ở đó có thần... quỷ, ma, thần
có được là do
lòng tin của chúng
ta, ngoài lòng tin thì không
có ma, quỷ, thần
và như vậy lòng tin đã thị hiện
ma, quỷ, thần chứ không phải có ma, quỷ, thần thật, từ lòng tin sanh ra ma, quỷ,
thần, ngoài lòng tin thì không có
ma, quỷ, thần,
như trên Thầy
đã nói. Cho nên, thiêng hay không thiêng đều do lòng
tin của con người mà có.
THỜ CÚNG
ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Câu hỏi của
Liễu Giác
Hỏi: Thờ cúng
như thế nào cho đúng chánh pháp?
Đáp: Thờ
cúng đúng chánh pháp là thờ cúng đúng đạo nghĩa làm người. Vậy thờ cúng đúng đạo
nghĩa làm người là thờ
cúng như thế
nào?
Thờ cúng
đúng đạo nghĩa làm người tức là hành động cung kính tôn trọng tỏ lòng nhớ tưởng biết ơn của những
người đã khuất bóng.
Ví dụ 1:
Thờ cúng
Tổ, Tiên, ông,
bà, cha, mẹ là một hành động đạo
nghĩa để tỏ
lòng cung kính, tôn
trọng nhớ tưởng
đến ân đức, công lao khó nhọc của những người này đã
gây dựng một gia
đình êm ấm, một dòng họ tốt đẹp,
một xã hội
đoàn kết, một đất nước
phồn vinh thịnh trị,
đó là thờ
cúng đúng chánh pháp. Còn nếu như thờ cúng Tổ, Tiên,
Ông, Bà, Cha, Mẹ là để linh hồn của những người đã khuất bóng này về hưởng của
dâng cúng hay về để phù hộ cho con cháu mạnh khỏe bình an thì
đó là thờ cúng
không đúng chánh
pháp. Đó là thờ cúng theo mê tín, lạc hậu.
Ví dụ 2: Thờ
cúng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là để tưởng nhớ
công lao của
Người, vì loài người Ngài đã tìm
ra chân lý giúp con người thoát bốn sự đau khổ của kiếp làm người, đó là thờ
cúng đúng chánh pháp, còn ngược lại thờ cúng
Ngài để Ngài
phù hộ cho
tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ thì đó là thờ
cúng không đúng chánh pháp, thờ cúng như vậy là thờ cúng mê tín, lạc
hậu, đó là thờ
cúng theo kiểu Phật giáo phát triển
biến chùa- nơi tu hành của tăng ni và cư sĩ trở thành nơi hành hương mê tín.
Thờ cúng đúng
chánh pháp là phải thờ cúng những nhân vật có thật, là những con người được
sanh ra và lớn lên trên hành tinh này làm lợi ích cho gia đình, xã hội, tổ quốc và loài người.
Thờ cúng
đúng chánh pháp
không được thờ cúng những nhân vật
huyền thoại, những nhân vật tiểu
thuyết, những nhân vật bịa đặt
ra như: Phật Di Lặc, Phật
Di Đà, Quan
Thế Âm, Thế Chí, Tề Thiên
Đại Thánh, Sa Tăng, Bát Giới, Nhiên Đăng Cổ Phật, Tỳ Lô
Giá Na Phật, Phật Tỳ Bà
Thi v.v.. Tất cả những
nhân vật Phật và
các vị Bồ
Tát này là những nhân
vật huyền
thoại tiểu thuyết, thờ cúng những nhân vật này
là thờ cúng
mê tín, những nhân vật này thờ
cúng có thiêng cũng chỉ do tâm của chúng ta mà có thiêng chứ riêng các vị này
chẳng có thiêng gì cả vì nó là
những nhân vật không có thật.
Thần Sông,
Thần Núi, Thổ Công, Thổ Địa, Thần
Hoàng, Bổn Cảnh,
Thủy Long, Long Vương, Hà Bá, Diêm Vương, Ngọc Hoàng, Thượng Đế,
Nam Tào, Bắc Đẩu v.v..
đều là những nhân vật giả tưởng
không có thật, nếu thờ cúng những
vị này là thờ
cúng mê tín, lạc hậu, là thờ cúng không đúng chánh
pháp.
Sự thờ
cúng mê tín là
thờ cúng không đúng chánh pháp, thờ cúng làm hao tài tốn
của mà không có
ích lợi gì
cho mình, cho mọi
người, cho xã hội v.v.. và không nói lên được ý nghĩa cao đẹp của
lòng biết ơn
sâu xa của chúng
ta phải không
các con? Thờ
cúng như vậy là vô minh, là ngu
si bị người khác lừa đảo làm tiền mà
không biết tức
là tiền mất tật
mang.
Thờ cúng đúng
chánh pháp là các con nên nhớ kỹ: ‚Bệnh
tật tai nạn
là do hành động
thiếu đạo đức làm khổ mình, khổ người của chúng ta tạo ra, nếu muốn cho bệnh tật
tai nạn
không xảy ra
thì luôn luôn phải sống đúng đạo đức làm
người không làm khổ mình khổ người, chứ không
phải thờ cúng mê
tín cầu khấn
van xin với Thánh Thần, chư Phật,
chư Bồ Tát mà tai qua nạn khỏi bệnh tật tiêu trừ được‛.
Thờ cúng
đúng chánh pháp
là thờ cúng trong tinh thần đạo lý, đạo nghĩa, ân đức
và lòng hiếu sinh làm
người. Thì không
được giết hại sinh linh làm cỗ
bàn linh đình, ngày ấy chỉ nên cúng tế
trái cây thực phẩm thực vật, tránh những
sự khổ đau của
sinh linh, máu đổ, thịt
rơi của
loài động vật,
tránh cúng bông
hoa, có như vậy thì ơn
nghĩa của chúng
ta đối với những
người quá cố mới tròn đầy nghĩa
tình đạo lý làm người.
Ngày ấy, nếu chúng
ta cúng tế bằng sự giết
hại sinh linh làm
cỗ bàn linh đình,
tiếng kêu la đau đớn của loài vật trong tuyệt vọng trước những lưỡi dao
sắc bén của những con người ác độc,
những sự giãy
giụa run rẩy của loài
vật để mong thoát
chết nào có được đâu, đôi mắt chúng long lanh nhìn vào những
con người như tha thiết cầu xin tha cho mạng sống, nhưng con
người như vô tình
nào để
ý đến. Trước khi chết, đôi mắt
long lanh căm hờn khi mũi dao đâm vào cổ họng
chúng, nhưng lòng
thương đau của
chúng ta nào
có hay biết
gì? Chỉ biết ăn uống nhậu nhẹt vui chơi thỏa thích phải không?
Đạo đức
ân nghĩa không
thể lấy sự giết
hại, lấy sự chết chóc và lấy sự đau khổ của sinh linh, nói lên được ân nghĩa
sao?
Đạo đức
ân nghĩa thì phải
lấy sự an vui, hạnh
phúc của muôn
loài dâng lên
cúng tế những bậc
tiên Hiền Thánh
đức, Tổ tiên,
ông bà, cha mẹ của chúng
ta thì mới có
ý nghĩa tỏ hết
lòng tri ân chân
thành. Đó là sự thờ
cúng đúng chánh pháp, các con nên ghi nhớ và cố gắng nhẫn nhục, tùy thuận,
vui lòng thực hành cho đúng chánh pháp của Phật để mang đầy đủ ý nghĩa cao đẹp
của người đệ tử Phật phải không?
Đến đây Thầy
xin dừng bút thăm và
chúc các con vui mạnh
tu tập xả
tâm tốt và sống
một đời sống đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người.
Kính thư!)
HŨ HÀI CỐT
LÀ CON TIN TRONG CHÙA
Câu hỏi của
Liễu Thanh
Hỏi5: Kính bạch
Thầy! Con người ai rồi cũng phải chết. Khi chết ở từng vùng họ được thân nhân
đưa:
1- Hỏa táng
2- Địa táng
3- Thủy táng
4- Điểu táng
Hiện nay, một
số người giàu có tiền, muốn báo hiếu cho
thân nhân của
mình, đến các chùa có diện tích đất rộng, bỏ tiền ra mua một đám đất để xây một
cái mồ rồi đưa xác thân nhân về chôn cất ở đó hoặc gửi tro vào tháp hài cốt trong chùa.
Nhà chùa gặp cơ
may này làm giàu, tính giá ít nhất là từ 5.000.000 đ cho đến
10.000.000 đ
và có thể
còn hơn nữa,
nhờ đó
nhà chùa mới
làm lễ cầu siêu độ cho vong...
5 Chơn
Như ngày 8 tháng 1 năm 2001
Các người
này họ rất
vinh dự được
đưa thân nhân về chùa ‚nằm trong đất chùa, được nghe kinh, được theo Phật v.v..‛.
Kính thưa Thầy, với việc làm này người chôn trong đất
chùa có lợi
ích gì? Người con báo
hiếu đưa xác
hay hài cốt
người thân về chùa
có lợi ích
gì? Quý thầy trong chùa
nhận hài cốt và an táng trong đất chùa có lợi ích gì?
Chúng con
xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo phong
tục mê tín của
dân tộc Việt Nam xuất phát từ
trong các chùa cho rằng người chết được chôn trong đất chùa hoặc gửi nắm tro
tàn trong tháp hài cốt hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được siêu thoát lên cõi Cực Lạc, Thiên
Đàng... Do lòng thương yêu và sự hiếu hạnh khiến cho người ta không còn sáng suốt, nên nghe quý thầy,
quý cô trong chùa bảo sao làm vậy chứ không có tư duy, suy nghĩ chín
chắn, vì thế sự tin tưởng
thiếu thực tế, mơ hồ, không trí
tuệ của một số phật tử đã làm giàu cho
các chùa và biến các
chùa trở thành nhà mồ, trở thành
một nơi sinh hoạt mê tín chứ không còn là nơi tu hành của tăng ni và cư sĩ nữa.
Ở thành phố đất hẹp người đông, vì thế
chùa muốn kinh
doanh làm tiền
phật tử bằng sự lừa đảo mê tín
như chúng tôi đã nói ở trên. Chùa nào hiện giờ
cũng xây tháp
hài cốt, khi có
thân nhân chết,
người ta đem thiêu xác gửi
vào chùa
và khi gửi nắm
tro tàn như vậy thì phải
tốn bao nhiêu tiền
đóng vào và
còn phải cúng dường tiền cho chùa
rất nhiều hằng năm. Nếu thân
nhân không cúng dường
tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp
vào chỗ khuất lấp, còn ai cúng dường tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên
chỗ sang trọng trong tháp.
Trong chùa
các Thầy thường bảo nhau: Tháp hài cốt là núi tiền, là những mẫu ruộng mầu mỡ
xài hoài không hết.
Đúng vậy,
nhà chùa hiện
giờ lấy hài cốt
của những thân
nhân phật tử
làm con tin để làm tiền một cách
phi nhân nghĩa, phi đạo đức.
Ví dụ: Nhà
chùa muốn làm một việc gì thì nhắm vào những phật tử có gửi hài cốt hoặc chôn
những thân nhân trong đất chùa, họ kêu gọi đóng góp làm từ thiện hoặc xây cất
chùa và bất cứ một việc gì trong chùa v.v.. đều kêu gọi.
Nghe kinh
được siêu thoát
về Cực lạc, Thiên đàng đâu không thấy mà chỉ thấy những
người còn sống phải
gánh một gánh nặng của tôn giáo mê tín.
Cho
nên, chùa nào
có đất rộng làm
nghĩa địa hoặc xây
tháp hài cốt
là chùa đó
giàu to, giàu không
mất sức lao
động chút nào
cả. Chúng ta thấy tệ nạn lừa đảo phật tử
hiện giờ trong các chùa rất lộ liễu.
Bây giờ Thầy
sẽ hỏi quý phật tử, quý vị cứ vui
lòng nói thẳng
có sao nói vậy đừng tự dối
mình:
- Hiện giờ
quý phật tử thường đến chùa không những nghe thuyết pháp mà còn ngồi thiền, tụng
kinh, niệm Phật,
niệm chú, lạy hồng danh
sám hối v.v.. thế mà quý vị có thấy ai đã được lên Thiên Đàng, Cực
Lạc chưa? Có thấy hết khổ chưa? Có ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết chưa? Có thấy
sự giải thoát chưa? Quý vị cứ thành thật trả lời xem!
Trong lúc
quý vị còn sống mà
còn chưa biết được Cực Lạc, Thiên
Đàng ở đâu? Có hay không có? Huống
là người chết,
họ còn nghe thấy được những gì. Nếu quả chăng nghe
kinh được sanh về Cực Lạc Thiên Đàng thì người ta tu làm gì cho cực khổ phải
không quý vị? Đó là những mánh khóe lừa đảo của kinh sách
phát triển chúng ta nên cảnh giác.
Với tinh thần
tình cảm đạo nghĩa của cuộc sống dân tộc Việt Nam ‚Sống
cái nhà, thác
cái mồ‛, người sống dù nghèo hay
giàu đều phải có một ngôi nhà, dù là nhà tranh vách lá, chòi, lều... cho đến
nhà lầu, villa, biệt thự... cũng vẫn là một cái nhà mà thôi.
Vì đạo
nghĩa làm người
nên khi chết còn lại nắm xương hoặc nắm tro tàn người ta
xây một ngôi mộ nho nhỏ đủ để vùi lấp nắm xương và nắm tro trong lòng đất mẹ
quê hương, để đánh dấu ghi khắc một kỷ niệm
thăng trầm của một đời người.
Ngôi mộ
là nơi để
ghi nhớ lại
cho con cháu, cho người
sau một ân nghĩa
khó quên, chứ người chết còn gì nữa,
chết là mất đi một kiếp người.
Ngôi mộ là
nơi để cho con cháu tập hợp nhắc lại những
thành tích của Tổ tiên
ông bà cha mẹ.
Ngôi mộ là
nơi để cho con cháu đừng quên nắm xương tàn của những người thân thương.
Mỗi năm chỉ
có một lần về thăm mồ mả tổ tiên
ông bà cha mẹ
là chúng tôi cảm thấy
có một điều gì thương nhớ bùi ngùi trong tâm hồn của chúng tôi.
Bởi vậy, đối với người
Việt Nam có một
tình nghĩa sâu sắc
khó quên, những
nấm mồ của Tổ
tiên ông bà cha mẹ
còn đó là
tình cảm con người không bao giờ phai nhòa.
Có những
dân tộc khi chết
đi, họ đem thiêu
đốt và lấy
tro đem đổ xuống biển, bảo rằng đem tro đổ xuống biển cho mát mẻ, khi
thiêu xác sao không bảo rằng nóng? Việc an táng
này có lợi
nhưng có hại. Lợi là con
cháu khỏi quét mả (tảo mộ), hại là
lòng người ân nghĩa dễ quên, con cháu sau này không còn
chỗ để nhớ tưởng
Tổ tiên, ông
bà, cha mẹ
vì đã ném tro xuống biển làm ô
nhiễm môi trường sống.
Như chúng
ta đã biết
trên hành tinh này con người có nhiều kiểu an táng tùy
theo bản năng, tình cảm và
lâu rồi nó trở thành
dòng văn hoá mai táng của mỗi dân tộc. Hiện nay được chia ra làm bốn
cách an táng:
1- Địa táng
2- Hỏa táng
3- Thủy táng
4- Điểu táng
Những dân tộc có
tình cảm sâu xa như
dân tộc Việt Nam, Trung
Hoa thì địa táng xây
mồ mả giữ
gìn nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân thương của mình.
Những dân tộc ít tình cảm
hơn như dân tộc
Cam-pu-chia thì hỏa
táng lấy tro
đựng trong một cái ghè để dưới gốc cây lâm vồ, cây lâm vồ giống như
cây đa ở nước chúng
ta. Người Campuchia để tro hài cốt của ông bà cha mẹ như vậy rất
thiếu vệ sinh,
gây ra môi trường
ô nhiễm khiến
cho con người dễ bịnh
đau.
Những dân tộc ít tình cảm
hơn nữa như dân
tộc Tây Tạng
thì họ điểu táng,
khi người chết họ đem vào
rừng cắt ra từng
miếng thịt nhỏ quăng ném
khắp nơi để cho
loài chim bay đến ăn thịt.
Cách thức
điểu táng gây ra
môi trường ô nhiễm ghê gớm mùi tanh, hôi, thối bốc ra khắp
cả một
vùng rừng núi khiến cho không ai
dám đến nơi đó.
Tục lệ điểu
táng là một việc làm thiếu vệ sinh
gây ô nhiễm
khiến mọi người
dễ sanh bệnh tật khổ đau.
Thủy táng là
những người dân sống trên sông nước, họ không có địa táng, hỏa táng hoặc điểu táng,
khi có người chết họ an táng
bằng
cách neo vào
quan tài một tảng đá to dùng thuyền chở
ra giữa dòng sông họ dứt dây quan tài từ từ chìm xuống đáy sông. Lại
có một số người sống ven biển như
dân tộc Đại
Hàn, người chết đem thiêu xác rồi lấy tro đổ xuống biển đó cũng là loại thủy táng, thủy táng bằng
tro.
Loại thủy
táng nào cũng thiếu vệ sinh gây ra môi trường ô nhiễm cho cuộc sống của con người.
Trong bốn loại
an táng thì loại địa táng là tình cảm thiêng liêng nhất của loài người vì không
thấy thi thể của người thân của mình bị
hủy hoại
một cách tàn nhẫn. Vả lại địa
táng còn lưu lại dấu tích sau cùng để con cháu tưởng nhớ khó quên Tổ
tiên dòng giống, duy trì và truyền thống một nền đạo đức ân
nghĩa sâu
dày.
Địa
táng là
một sự giữ
gìn vệ sinh
môi trường sống rất tốt,
nhưng nó
không được trọn vẹn vệ sinh
bằng hỏa táng
cộng địa táng, nhưng
hỏa táng tình cảm
thiêng liêng của
con người không cho phép chúng ta và chúng ta không thể
không đau lòng
được trước cảnh thiêu xác người thân.
Nếu hỏa táng
đem tro hài cốt người thân vào chùa, điều này:
1- Mê tín (nghe kinh và siêu thoát).
2- Thiếu
vệ sinh môi
trường vì nắm
tro tàn vẫn còn bốc mùi
hôi khét khó chịu và để
khơi khơi trên bàn thờ tỏa ra mùi uế trược bất tịnh ghê gớm.
3- Tốn
hao tiền bạc phải cúng tế trong nhà chùa, nhà chùa lợi dụng tro hài cốt
kêu gọi đóng góp mọi thứ khi chùa
cần xây dựng,
làm từ thiện, hoặc tổ chức cúng tế, lễ lộc v.v..
4- Nắm tro tàn hài cốt của người thân là con tin
của nhà
chùa để họ
làm tiền phật tử,
nếu Phật
tử nào không
có tiền cúng
chùa thì tro hài cốt ấy được đẩy
lui vào hốc tháp, có khi bị dẹp bỏ, nếu con cháu không cúng dường tiền cho
chùa.
5- Nấm
mồ trong đất
chùa cũng vậy, cũng
chỉ là con tin để
chùa làm tiền
mà thôi. Vì thế chùa có mả mồ nhiều,
có tháp tro hài cốt to thì chùa ấy
giàu, quý phật tử có thấy điều này không?
Quý vị có
thân nhân được chôn trong đất chùa, quý vị đừng lấy làm vinh hạnh, nhà chùa họ
kinh doanh lừa đảo quý Phật tử đó, bán đất
chôn thì
quá đắt (tấc đất tấc
vàng) chứ họ chẳng cho quý vị đồng nào cả, họ cắt cổ
quý vị tới chết chưa thôi mà còn cắt cổ con cháu của quý vị nữa, được đem tro
hài cốt vào chùa thì phải có một số tiền mặt và từ đó về sau nhà chùa
ăn không tiêu,
tiểu tiện không
thông thì họ đều kêu quý phật tử
đó.
Quý vị đừng
tưởng rằng: thân nhân được chôn trong đất chùa hoặc nắm tro tàn hài cốt được đặt
vào ngôi tháp
xinh đẹp của
chùa là linh hồn được nghe kinh,
được siêu thoát về cõi Cực Lạc, Thiên
Đàng, Niết Bàn
v.v.. không chắc đâu quý vị ạ!
Điều này các
con đã bị lừa đảo lọt vào mê tín. Một đời
tu hành của chúng tôi hết sức giới luật
nghiêm túc, thực
hiện pháp ly dục
lý bất thiện pháp không lúc nào
nghỉ ngơi, thế mà chúng tôi đi tìm cái Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn... cũng chẳng
thấy ở đâu mà có, chỉ có là ở chỗ trạng thái tâm bất động trước các pháp lúc
chúng tôi còn đang sống, còn người chết rồi thì còn chi nữa nghe kinh, siêu
thoát. Chết rồi chỉ còn nghiệp lực
tái sanh luân hồi vào
thân nghiệp khác còn chi nữa, nắm xương tàn trong lòng đất
và nắm tro
tàn trong tháp
còn có nghĩa lý gì
trong cuộc sống
này nữa, thôi hết
rồi nếu lúc
sống không tu đến khi chết rồi còn gì nghe kinh siêu thoát được.
Chúng tôi
xin góp ý với quý phật tử, chúng ta là dân
Việt
Nam với tinh thần
đạo đức ân nghĩa sâu dày và tình cảm khó quên với
truyền thống ‚cây có cội nước
có nguồn‛ hay
‚ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước
nhớ nguồn‛.
Dân tộc Việt
Nam có cái nhìn sự sống và chết
không khác ‚sống
cái nhà, thác
cái mồ‛. Với tinh thần truyền thống
đạo lý này cụ Nguyễn Du nói:
‚Tiết
thanh minh trong lúc tháng ba,
Chị em ta rủ nhau đi
tảo mộ‛.
Đó là một
tục lệ truyền thống tốt đẹp của con người hằng năm đến ngày này mọi
người đều về thăm và quét dọn sạch sẽ mồ mả của Tổ tiên, ông
bà, cha mẹ...
đó là một
hành động tình nghĩa đạo đức làm
người, làm người không thể không có được đạo nghĩa này, nếu không có đạo nghĩa
này thì không xứng đáng làm người, nhưng
chúng ta đã thiêu xác
cha mẹ đã gửi vô
tháp nhà chùa, muốn vào thăm thì quý vị cũng phải có lễ lộc cúng bái... chứ
không lẽ đi không xem sao được. Và thăm như vậy thì đâu còn có nghĩa là đi tảo
mộ.
Đi vào chùa
thăm tro hài cốt của cha mẹ không còn ý nghĩa như đi tảo mộ ngày xưa nữa, nó chỉ
có nghĩa là đi cúng Phật lễ bái mà thôi.
Ngày tảo mộ
là ngày con cháu tụ họp về đông đủ, nói
lên tinh thần đạo đức ân
nghĩa, khiến cho dòng họ không còn xa lạ, con cháu gần gũi với nhau hơn,
do đó gia tộc có một tinh thần đoàn kết chặt chẽ.
Ngày nay đất hẹp
người đông, nên
người ta thiêu xác lấy tro bỏ vào
hũ, đem gửi
vào chùa làm mất ý nghĩa truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam và biến nhà chùa thành nhà mồ, không còn ý
nghĩa nhà chùa là nơi tu hành của
tăng ni và cư sĩ.
Theo chúng
tôi thiết nghĩ, nhà chùa là nơi thanh tịnh trang nghiêm để tu hành chứ không phải nghĩa địa nhà
mồ mà người
tín đồ có thể đem
sự bất tịnh
vào đó làm
cho ô uế môi
trường sống chung chỗ tu hành.
Thành phố hiện
giờ có rất nhiều chùa, mỗi chùa đều có
nơi để tro
hài cốt người
chết, mùi hôi của chất tro này bốc lên và lan rộng khắp cùng trong thành
phố làm cho bầu không khí ở đây rất
ô nhiễm, khiến
cho người dân thành phố
dễ bệnh hơn
dân chúng ở nông thôn. Ở
thành phố chỉ
có nhà chùa thì được lợi mà dân thành phố thì chịu thiệt thòi.
Theo sự suy
nghĩ của chúng tôi, một nhà chùa nên tổ
chức một nghĩa địa cách xa thành phố do phật tử tại
chùa hùn nhau mua một khu đất, rồi tất cả thân nhân
của các
phật tử chùa đó chết đều được đem về chôn cất, nhưng
nhà chùa không được bán, không được lấy tiền dù ít dù nhiều của một người nào cả,
vì đó là khu đất chung của phật tử, của chùa đó, cũng giống như bên đạo Công
giáo, nơi nhà thờ nào họ cũng tổ chức một nghĩa
địa, tất cả những tín đồ
chết đều được đem vào đó chôn cất một tập thể mồ mả của tín đồ Thiên
Chúa.
Nhà chùa
chúng ta cũng nên tổ chức như vậy nhưng không được bán lấy tiền như trên chúng
tôi đã nói, bán lấy tiến làm mất ý nghĩa
đạo lý
của tôn giáo.
Các nhà chùa ở miền Bắc
đã làm
sai không đúng
tinh thần đạo đức
làm người, đến người
chết, chúng ta
không dành cho họ một tấc đất để
gửi nắm xương tàn hay sao? Vậy mà
các chùa sao nỡ
nhẫn tâm làm tiền
người chết - cha mẹ
hay người thân của
phật tử sao đành?
Để xác định điều
này người chôn
trong đất chùa cũng
như gửi tro
hài cốt vào
tháp
T
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!