thiện; nếu
huân tập điều
ác thì thói quen làm việc
ác sẽ thể hiện trước
giờ phút lâm
chung cận tử nghiệp ác. Đó là một lẽ công bằng, công lý và rất hợp lý của
đạo Thánh Hiền.
Kinh
sách phát triển
dạy không hợp
lý, phi đạo đức
Thánh Hiền, có ngụ ý
gian xảo lường gạt mọi người.
Suốt đời sống làm điều ác
gây biết bao tang
tóc đau khổ cho người
và muôn vật, đến
khi sắp chết thì mới thỉnh các sư thầy và cư sĩ đến hộ niệm để cho người tỉnh
táo niệm Phật theo mà quên đi những hành động ác, do quên đi những
hành động ác mới tạo ra
cảnh giới cận tử nghiệp thiện, từ đó
thoát cảnh đọa sáu nẻo luân hồi để về Cực Lạc Tây Phương.
Kinh
sách phát triển rất xảo trá dạy
cho chúng ta tạo cảnh cận tử nghiệp một cách lừa đảo, gian xảo lường
gạt người trần tục của chúng ta. Nếu có
cõi Cực Lạc
Tây Phương thật sự thì chắc gì kinh sách phát triển lừa đảo được đức Phật
Di Đà.
Nếu theo
giáo lý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni
mà tu
tập ‚Tứ Chánh
Cần‛ ngăn ác, diệt
ác, sanh khởi
thiện, tăng trưởng
thiện pháp, thì suốt đời chẳng làm khổ mình, khổ người, khổ
chúng sanh, thì cận tử nghiệp
phải
là thiện, cần gì phải nhờ người khác hộ niệm.
Còn làm
ác, chuyên làm khổ
mình, khổ người, khổ
chúng sanh thì dù có rước hàng
trăm vạn tỳ kheo
cho đến các vị Phật
ở khắp mười phương đến để hộ niệm cho người sắp chết,
thì người ấy vẫn đọa địa ngục như thường. Vì luật nhân quả rất công bằng và
công lý.
Những kinh
sách phát triển dạy phi chân lý,
phi đạo
đức như vậy, thế mà người ta nghe danh từ “xe lớn’’, thì ai
cũng tưởng mình tu theo pháp xe lớn là ‚ngon‛ là ‚vĩ đại‛
là ‚cao thượng‛, nào ngờ bị lừa đảo mà không biết.
Kinh sách
phát triển là một loại
kinh sách tưởng, kinh sách không đáng tin cậy, kinh sách nói mơ hồ trườn
uốn như con lươn, nói hai mặt để khiến
cho người ta không
bắt bẻ được.
‚Kinh sách
nói như vậy, chứ không phải nghĩa như vậy‛.
Tin hay
không tin là quyền
của quý vị, nhưng
ít ra quý vị đừng để kẻ khác lừa đảo mình,
quý vị hãy
suy nghĩ đi. Đạo Phật dạy người không nên lừa đảo, chân thật, tự lực cứu mình
chẳng cần ai hộ niệm cho mình cả,
chỉ có mình mới giải quyết
sự đau khổ
cho chính mình. Nên những
bài pháp trong kinh Nguyên Thủy dạy tự
mình sửa sai và khắc phục
những
điều ác để đem lại sự
an vui cho mình,
cho người trong hiện tại thì có
lo gì ai hộ niệm để tạo cận tử nghiệp tốt cho mình. Quý vị còn nhớ lời Phật dạy hay không? ‚Hãy
thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người hướng đạo chứ Ta
không thể đi thay thế
cho ai cả‛. Vậy mà mọi
người hộ niệm
cho người khác thì có
sai với lời dạy của Phật chăng? Câu trả lời này xin nhường lại quý vị trả
lời!!!
TIẾP DẪN VỀ CỰC LÄC
Câu hỏi của
Liễu Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trước lúc hấp hối và sau khi tắt thở, phải nhờ bạn đồng đạo (hay mời
sư thầy) về tụng kinh niệm Phật để trợ
duyên cho người bệnh đang hôn
mê. Nhờ có tụng
niệm âm thanh
niệm Phật, tụng
kinh khiến cho người bệnh tịnh tâm nhớ Phật, niệm Phật, nhờ
đó sẽ dứt được nghiệp,
được Phật đón về Tây
Phương Cực Lạc (mặc
dù người đó là đại ác).
Đáp: Kinh sách phát triển nhất là dạy về phần Tịnh Độ,
có nhiều phần rất là
vô lý và phi đạo đức hết sức:
1/ Lúc hấp hối (sắp chết)
rước Sư, Thầy hay các đồng đạo về tụng,
niệm để trợ
duyên nhớ Phật, niệm Phật để sẽ được Phật rước hồn về cõi Cực Lạc Tây
Phương, thật là phi lý vô cùng. Khi còn sống mạnh khỏe đến chùa lạy Phật, tụng
kinh niệm chú mà nghiệp vẫn chưa tiêu được, huống
là lúc bệnh tật sức yếu và nhất là lúc hấp hối thì còn sức đâu mà chiến
thắng lại nghiệp
ác. Nếu có cố gắng tỉnh thức để
niệm Phật cũng
không nổi, vì
thân tứ đại sắp
tan rã thì đau nhức tận cùng, còn sức chịu đựng sự đau khổ
của thân và tâm. Lúc bây giờ còn
sức đâu chịu nổi những
cơn đau tận cùng của thân mệnh,
tinh thần thì rối ren, phần đau đớn, phần sợ chết, phần thương con cháu thì làm
sao còn bình tĩnh đâu mà niệm Phật.
2/ Nhân quả
do mình tạo ra thành nghiệp, thì phải
chính mình tu tập sửa đổi tâm tánh đi vào thiện
pháp, thì nghiệp kia mới
tiêu trừ. Chứ đâu có niệm Phật
sám hối mà tiêu tội, tiêu nghiệp được. Nếu niệm Phật,
sám hối, ngồi thiền
mà tiêu tội
tiêu nghiệp, thì đó
là lối lừa đảo, lường gạt người của kinh phát triển
Bà La
Môn giáo, của
những ông thầy kiến giải học giả lừa đảo người để ngồi mát ăn bát vàng.
3/ Người đại
ác nhờ hộ niệm mà
tiêu tội tiêu nghiệp
được và được đức Phật
Di Đà đón về
Cực Lạc Tây
Phương, thì ông Phật
Di Đà chắc ông là người điên, sao
dám rước người đại ác về nước
mình để biến
hoa sen làm tù ngục để nhốt họ trong đó rồi còn phải cho
lính canh gác. Một đất nước thanh
bình, có trật tự an ninh
thì bây giờ biến đất nước
có nhà tù có
lính gác, làm cho cực khổ biết
bao nhiêu người như vậy mà biết
có cảm
hóa giáo huấn được ai chăng hay chỉ là một ảo tưởng do con người dựng lên để an ủi tinh thần
người còn sống trong khi quá đau khổ trước cảnh chia ly
người sống kẻ chết
Đất nước nào
không có trại giam, nhà tù là đất nước đó hạnh phúc
nhất của toàn dân. Đất nước
Phật Di Đà nghe
nói hai chữ ‚Cực Lạc‛
có nghĩa là rất
vui thế mà còn có kẻ bị nhốt trong hoa sen thì có vui gì, đó là
hình thức một cái
nhà tù ở cõi ấy.
Bên cõi Tây
Phương Cực Lạc còn có nhà tù thì có gì
là Cực
Lạc nữa đâu?
Phải không quý vị?
Cuối cùng cảnh
giới Cực Lạc đều do sự
tưởng tượng của con người tạo ra nên giống như
sự ước muốn chạy theo dục lạc thế gian. Phỏng chừng đức Phật Di Đà có tâm đại từ đại bi cứu độ tất cả chúng
sanh mà rước những
linh hồn người ác đức về
cõi nước
mình thì đức Phật
Di Đà trở thành một tòa án thượng thẩm, hàng ngày chỉ chuyên lo xử án
thì có đâu mà lo niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Còn nếu rước về Cực Lạc nhốt trong
hoa sen dù hàng triệu
vạn năm mà
không có pháp tu xả tâm, chỉ có
niệm Phật thì cũng chẳng hết tham,
sân, si, nếu thả ra thì tánh
nào tật nấy vẫn còn, thì đất nước Cực Lạc lại trở
thành địa ngục chứ không còn được gọi là Cực Lạc nữa, nó chẳng khác nào như ở
cõi thế gian của chúng ta vậy. Vì những tay đại gian ác ở thế gian có địa vị,
có tiền của nhiều, lúc sắp chết rước nhiều thầy
tỳ kheo và Phật tử đến hộ niệm
thì chắc chắn phải được
rước về Tây
Phương. Và như vậy, cõi Tây Phương Cực Lạc là nơi dung
chứa bọn nhà giàu
ác đức, bọn
tham quan vô lại và
bọn đầu trộm đuôi cướp...
Từ cõi tưởng tri ‚Cực
Lạc Tây Phương‛ của con người, để sau khi chết có một
đời sống đầy đủ hơn ở thế
gian, nhưng lại
xài tiền giả và mặc quần áo giấy, hưởng đồ ăn thực phẩm
ở
thế gian, thì quý vị nghĩ như thế nào? Có phải
là thế giới tưởng không?
Toàn bộ những loại
tưởng mê tín này đều do kinh sách
phát triển sản xuất để lừa đảo lường gạt người một cách đại gian ác, tín đồ Phật
giáo hãy sáng suốt cảnh giác đừng để bị lừa đảo. Đây không phải là đức Phật
Thích Ca Mâu Ni dạy,
vì kinh sách
Nguyên Thủy đã chứng minh rõ ràng không có đời sống sau
khi chết. Khi chết thì toàn
thân ngũ uẩn đều tan rã, mất hết. Mười hai duyên không còn
duyên nào cả, chỉ còn lại hành động thiện ác được gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực
ấy tiếp tục tái sanh luân hồi.
Với trí hữu
hạn của chúng ta hiện giờ, chỉ có thể biết
được đó là một cuộc sống hiện tại
trên hành tinh này, còn có sự sống ngoài hành tinh này thì chúng
ta chưa khám phá ra
được, nếu có khám
phá ra được thì nó
cũng chẳng phải là Cực Lạc
hay Thiên Đàng.
Còn trong kinh sách Phật dạy: Cực
Lạc, Thiên Đàng, Địa Ngục, Niết Bàn
cũng ở nơi
đây, tại thế
gian này không cần phải đi tìm
nơi đâu
cả. Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy:
‚Đứng lại
thì chìm xuống,
Bước tới thì
trôi dạt
Chỉ có vượt qua‛
Cho nên đức
Phật nhấn mạnh: ‚Không đứng lại, không
bước tới, chỉ có
vượt qua‛. Chừng nào chúng ta tu hành có được trí tuệ vô hạn thì thế giới
nào chúng ta cũng thấy biết cả, thì đó
là thế giới
chân thật không
bị tưởng thức lừa gạt.
Bây giờ chúng ta
nghe theo kinh
sách phát triển và tà giáo ngoại đạo thì đó là chúng ta đã bị lường
gạt vào một thế giới
tưởng tri như Phật đã dạy trong
bài kinh Pháp Môn Căn Bản.
KHI TẮT THỞ
MÀ CỊN SÂN HẬN
Câu hỏi của
Liễu Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Mẹ con mất ngày
19-04-1998 tại bệnh viện, con đã mang mẹ con về sau khi tắt thở, con ân hận nếu mẹ con sân lên mà bị rơi
vào sáu nẻo
luân hồi, con phải làm
gì để mẹ con
thoát khổ, xin Thầy từ bi
giảng dạy cho con hiểu sai đúng chỗ nào?
Đáp: Như trong kinh ‚Nhập Tức Xuất Tức‛ Phật dạy:
‚Hơi thở là thân,
là thọ, là tâm,
là pháp‛. Vậy
khi hơi ‚tắt‛ tức
là hơi thở ‚dừng‛, dừng tức là
hơi thở diệt, hơi thở diệt, tức thân diệt, thân diệt tức ‚chết‛.
Hơi thở ‚tắt‛
tức hơi thở ‚diệt‛, hơi thở diệt thì
thân diệt, thân
diệt thì tâm diệt, tâm diệt thì pháp diệt, pháp diệt thì
thọ diệt.
Ở đây
con lưu ý: Mẹ con
đã tắt
thở trong bệnh viện,
con mang về nhà.
Lúc bấy giờ mẹ
con chết toàn bộ thân, thọ, tâm, pháp đều diệt, tâm đã diệt lấy cái gì mẹ con
biết đau mà sanh tâm sân hận để đọa
vào sáu nẻo
luân hồi. Vả lại thọ cũng diệt thì lấy cái gì gọi là
đau.
Như vậy,
trong kinh phát triển dạy không đúng
và còn vô
lý không hợp
khoa học, thiếu logic.
Khiến người không
rõ Phật pháp
sanh tâm dao động
và hối hận
đau khổ đối
với những người thân.
Con ước muốn
mẹ con thoát khổ khi bà đã chết và đã
tái sanh nơi
khác rồi, hoặc
làm chúng sanh hoặc
làm người. Duy chỉ có điều
thiết thực mà không bị kẻ khác lường gạt gây mê
tín, lạc hậu, thì con nên
xin ấn tống
kinh
‚Thập Thiện,
Đạo đức nhân
quả, Đạo đức
giải thoát, Đạo đức không làm khổ mình khổ người,
Bài học ngàn vàng, Hành Thập Thiện Tứ Vô Lượng Tâm‛.
Khi thỉnh những
loại kinh trên 80 cuốn hoặc 100 cuốn thì
con gửi cho bà con, anh em, chị em, bạn bè, thân hữu trong
ngày làm tuần, ngày giỗ cha mẹ, và
thành tâm hồi hướng cho cha mẹ hay những người thân yêu của
mình đã quá cố.
Trong kiếp tái
sinh họ sẽ được đọc những
loại kinh sách này
thì tâm họ sẽ được
khai ngộ thiện ác, sống một đời sống đạo đức nhân bản -nhân quả không làm khổ
mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sanh thì cuộc sống ấy tức là Niết Bàn tại thế.
Hành động ấn tống
kinh như vậy là
lòng hiếu thảo, không có sự hiếu thảo nào hơn được. Vừa giúp
xã hội có đạo đức vừa tỏ được lòng hiếu
thảo của một người con hiếu vừa chứng tỏ là một
người đệ tử cư
sĩ của
Phật chân chánh, không gây hoang
mang dao động mê tín cho kẻ khác.
Trong thế
gian hiện giờ
có biết bao pháp môn
mê tín, dị đoan,
phi đạo đức
gây hoang mang dao động, sợ
hãi cho mọi người.
Vậy các con là đệ tử của Phật,
phải sáng suốt đừng
nghe theo
tà giáo ngoại
đạo tự làm khổ mình, khổ người.
Ý THỨC
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính
mong Thầy từ bi chỉ dạy cho con được rõ, nhà khoa học cho rằng thân con người
nhờ bộ não điều khiển hoạt động.
Một em bé
lấy đồ chơi
ra chơi rồi xếp trở
lại, khoa học cho đó
là bộ não điều khiển
chứ em bé không biết gì?
Đáp: Não bộ
của con người là ý căn, ý căn hoạt động sinh ý thức. Khoa học bảo rằng, bộ não
điều khiển chứ em bé không biết là sai.
Bộ não
(ý căn) hoạt động sinh
ra ý thức, tức là em bé biết việc
làm của em bé.
Ý thức, tức
là sự hiểu biết của con người. Nhưng
ý thức chỉ
là cái biết của thân
chứ không phải cái biết của tưởng, của
tâm. Cái biết của tưởng
là khi chúng ta nằm ngủ
chiêm
bao. Cái
biết của tâm
là khi chúng ta nhập
định Tứ Thiền và thực hiện Tam Minh.
Ba cái
‚biết‛ này đều
do bộ não hoạt
động, khi thân hoạt động bình thường như
mọi người thì một số tế bào não bộ làm việc còn các tế bào não bộ khác đều
ngưng nghỉ. Khi chúng ta ngủ các tế bào não ý thức làm việc bình thường, nó
ngưng nghỉ nhường
lại cho các tế bào
não tưởng hoạt động tạo thành giấc mộng. Trong giấc mộng chúng ta cũng nghe thấy biết, đó gọi
là ‚tưởng thức‛.
Khi
chúng ta
nhập định Tứ Thiền
thì số tế bào não bộ tâm thức làm việc, thì lúc bây giờ các tế
bào não ý thức
và tưởng thức đều ngưng nghỉ, do đó
chúng ta nhập định tịnh
chỉ hơi thở mà không chết và thực
hiện Tam Minh.
Ý căn, tức là
não bộ, não bộ rất
quan trọng cho cuộc sống con người, vì nó là bộ máy chỉ huy và điều khiển
toàn thân tâm theo dục vọng. Ngược lại,
người biết tu
hành, biết sử dụng nó
không theo dục vọng lại càng được lợi ích và
quan trọng hơn
nhiều, tức là
làm chủ được sự sống chết và chấm
dứt sự tái sanh luân hồi; giải phóng được sự khổ đau, chấm dứt mọi phiền toái
và lợi ích nhất
là có một cuộc sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Tóm lại, người tu sĩ theo đạo Phật mà biết sử
dụng bộ óc của mình, chủ động điều khiển hành
động thân, miệng,
ý, lúc nào
cũng thể hiện trong
thiện pháp thì tâm
sẽ được thanh tịnh
hoàn toàn ly dục,
ly ác pháp. Nhờ
đó mà nhập các loại định để đi đến
chỗ làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt
luân hồi. Ngược lại, không biết sử dụng bộ óc, để bộ óc
tự động điều khiển theo tâm dục thì muôn vàn ác pháp và khổ đau đưa đến cho
mình và cho mọi người.
TÂM LINH
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Khoa học
chưa tìm ra “tâm linh vi
diệu” của con
người, chỉ biết con người do bộ
não điều khiển và còn biết một số tế bào não chưa làm việc. Có phải vậy không
thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, nếu
khoa học nghiên cứu tìm cách đánh thức số tế bào não chưa hoạt
động, để
được hoạt động
thì sẽ thấy được
tâm
linh vi diệu của con người hoạt động rất là
siêu việt.
Nói tâm
linh nhưng sự thật
ra nó chẳng linh hiển gì cả, chỉ
vì nó hoạt động ở trí vô hạn nên
không còn không
gian và thời
gian chi phối, đó cũng là
do tế bào não hoạt động, điều khiển tạo ra những năng lực siêu
việt kỳ lạ.
Hiện giờ tế bào
não hoạt động
trong trí hữu hạn mà chúng ta gọi
là ý thức. Ý thức là sự hiểu biết bị hạn chế trong không gian và thời gian, nên
con người sống không nhìn hiểu biết
rõ sự
vật và các
pháp thường lầm chấp, sống với
tưởng tri, nên
cho thế giới hữu
hình và vô hình
là thật có. Vì thế, mới đắm đuối dính mắc chạy theo cái bóng giả tạo
này, cho mọi vật và mọi sự việc
là đúng sai, phải trái, tốt
xấu v.v.. rồi sanh ra
ham thích dính
mắc, giận hờn, thương ghét, đau khổ, phiền não... Cũng
chỉ vì tưởng tri cái
thế giới này
có thật, trong
con người có cái vĩnh hằng. Cái vĩnh hằng đó được gọi nhiều
tên khác nhau: linh hồn, Phật
tánh, Thể tánh, Bản
thể vạn hữu,
Nhất nguyên, Tánh không, Bát Nhã
Ba La Mật, Chân không, Chân như, thần
thức, thần hồn
v.v.. Từ chỗ hiểu
sai lầm đó mới sanh ra chấp ngã do
chấp ngã nên làm việc gì
cũng tích lũy
cho ngã,
thậm
chí tu hành cũng tu cho ngã
tức là tu để
kiến tánh thành Phật, tu để trở về Nhất nguyên... Đó là một tư tưởng điên đảo
mà đã truyền thừa từ khi con người có mặt trên hành tinh này và sự
điên đảo tưởng tri này vẫn còn kế
tiếp nhau mãi mãi.
MẠC NA THỨC
VÀ A LẠI DA THỨC
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Mạc na thức như người
giữ kho. A lại da thức ví
như cái kho chứa nhóm tất cả chủng tử thiện ác.
Khi người chết,
thân, thọ, tâm, pháp đều hoại diệt chỉ còn Mạc na thức và A lại da thức đi đầu
thai. Có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Đó là
những danh từ trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự
huân tập
thành khối nghiệp
lực (A lại da thức và Mạc na thức), được xem là người giữ
kho và cái kho tích trữ tạo thành nghiệp lực.
Theo kinh Nguyên Thủy, nghiệp lực không có thức,
tức là không có cái biết. Do sự vô minh tương ưng nghiệp tái sanh luân hồi, chứ
không có cái thức đi tái sanh.
Các nhà
duy thức học,
chỉ tưởng ra mà thôi, nên tưởng ra người
giữ kho và cái
kho đi tái sanh
(Mạc na thức và A lại da thức
đi tái sanh).
Sự thật
trong kinh Nguyên
Thủy dạy không có thức nào đi
tái sanh luân hồi, chỉ có nghiệp thiện, ác đi tái sanh mà thôi. Nghiệp thiện ác, tức là do
hành động nhân
quả thiện ác tạo thành nghiệp.
Kinh sách
Phát triển đã lầm lạc vì bị thế tục
hóa, nên biến
linh hồn mê tín trong
dân gian thành thần
thức và khéo
lý luận đặt
tên là Mạc na thức và
A lại da thức
đi tái sanh luân
hồi để xây dựng thế giới linh hồn
người chết, để sanh
ra cái nghề
tụng niệm, nếu không
có linh hồn
thì các Thầy
đều thất nghiệp.
Phật giáo
nguyên thủy đã dạy: “Trong thân người gồm có 5 uẩn: 1 - sắc uẩn;
2 – thọ uẩn; 3 – tuởng uẩn; 4 – hành uẩn; 5- thức uẩn”.
SẮC UẨN còn gọi là sắc ấm họat động gồm có sáu
thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân
thức, ý thức.
Gọi chung là SẮC
THỨC. Khi một người
sống bình thường
suy nghĩ, nói nín
hay họat động
làm bất cứ một
việc gì, nói bất cứ một điều nào
hay suy nghĩ bất cứ một điều gì
thì sắc thức họat động tức là nhóm sáu thức trong đó có ý thức họat động. Ý thức
còn gọi là TRI THỨC là TRI KIẾN.
TƯỞNG UẨN họat
động khi nào lục thức ngưng hoạt động. Lục thức
ngưng hoạt động là lúc chúng ta
đang nằm ngủ chiêm bao. Trong giấc
chiêm bao chúng ta cũng nghe, thấy,
biết, ngửi, cảm giác
rõ ràng. Cái biết trong
chiêm bao gọi là TƯỞNG
THỨC. Như vậy,
tuởng thức và ý thức là hai thức
chỉ giống nhau là cái biết, nhưng cái biết này có
thì cái biết kia dừng lại. Có
đúng như vậy không quý vị?
THỨC UẨN họat động chỉ khi nào sắc uẩn và tưởng
uẩn ngưng họat động.
Muốn sắc uẩn và
tuởng uẩn ngưng
họat động thì phải
nhập định thứ tư. Nhập định thứ
tư là phải tịnh chỉ hơi thở. Khi tịnh chỉ hơi thở thì thức
uẩn hoạt động. Thức uẩn họat động tức là
Tam Minh. Tam Minh gồm có:
Túc mạng minh,
Thiên nhãn minh, Lậu tận Minh.
Tam Minh còn gọi
là “TUỆ”.
Tuệ Tam Minh là một cấp học thứ ba, cấp học cao nhất của Phật giáo. Phật
giáo có ba cấp học gồm có: “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ”. Như vậy, Phật giáo
không có Mạc
na thức và
A lại da thức. Có đúng như vậy không quí vị?
THỌ UẨN là sự
cảm thọ của ba thức, khi các thức họat động thì thọ uẩn có mặt.
HÀNH UẨN
là sựï họat động của ba
thức, khi ba thức họat động thì hành uẩn có mặt.
Cho
nên, Mạc
na thức và A lại da thức là tưởng
tri của kinh sách
phát triển tưởng
ra, vốn để chia chẻ tâm thức con người ra nhiều mảnh. Đó là ý đồ làm lệch
hướng của Phật giáo chân chánh, để biến tôn giáo Phật giáo thành một tôn
giáo mê tín, đầy
lý luận, đầy ảo giác tưởng tri.
TU SAI HAY
ĐÚNG
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Cứ theo lời
Thầy dạy con tu như vậy, thời
gian sau Thầy bảo
rằng con tu sai, thì con cũng hơi buồn.
Đáp: Đúng lời Thầy dạy thì các con chỉ tu
đúng được phân nửa, còn một phân nửa thì tu chưa đúng.
Thầy bảo các
con ăn ngủ và độc cư cho nghiêm chỉnh thì các con lại không sống đúng. Ăn ngủ
thì còn tạm được,
độc cư thì không trọn, cứ phóng
tâm hết chuyện này đến chuyện khác. Từ
khi về tu viện đến giờ
các con không sống độc cư, tự để
tâm phóng dật hội họp nhau nói chuyện mà bảo rằng
tu đúng, thì đúng
chỗ
nào?
Người mà
không phòng hộ sáu căn, không chấp nhận sống độc cư thì dù
có tu ngàn
kiếp cũng chẳng đi đến đâu được, chỉ
hoài công vô ích mà thôi.
Dạy xả tâm
ly dục, ly ác pháp, thì các con lại ngồi thiền nhiều để ức chế tâm. Như vậy có
tu theo đúng lời Thầy dạy không?
Thiện hữu
tri thức nhắc nhở
cho mình tu tập, thì lại hờn giận,
oán trách, nói xấu, khiến cho Thầy không muốn dạy ai cả.
Vậy có thể
buồn Thầy hay buồn chính bản thân con,
không hành đúng theo lời dạy của Thầy?
Đáng trách nơi
con hay là Thầy?
Các con tu tập
không thấy trách
nhiệm và bổn
phận của mình,
khi về đây tu tập chính là mục
đích phải đạt được là tâm bất động trước các pháp và
các cảm thọ;
là làm chủ
sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt
tái sinh luân hồi.
Ý THỨC PHÂN
BIỆT
VÀ TỈNH GIÁC
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Ý căn tức là não
bộ cộng
với thức điều
khiển mắt, tai,
mũi, miệng, thân, ý
sanh ra phân biệt mới có dục,
do dục mới có tham, sân, si, phiền não.
Tỉnh giác là
đang sống với thức hay là trí. Tỉnh giác trong mọi hành động, việc làm, có phải
đó là ý thức hay tri thức.
Con chưa rõ
cái nào là thức, cái nào là trí, kính
mong Thầy chỉ dạy cho con hiểu?
Đáp: ‚Ý
căn‛ tức là
não bộ. Não bộ hoạt
động tức là ‚ý thức‛. Ý thức là một trong sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức và ý thức. Thân tứ đại hoạt động nhờ sáu thức này nên gọi
là ‚sắc thức‛.
‚Sáu
căn‛ tiếp xúc
‚sáu trần‛ sanh
ra
‚sáu thức‛,
sáu thức dính mắc sáu trần sanh ra dục, từ dục
sanh ra các ác pháp (tham, sân, si), do nguyên nhân này tạo (tập họp)
ra muôn thứ khổ.
Tỉnh giác tức
là ý thức không bị tưởng xen vào, chứ không phải tỉnh giác sống với thức mà tỉnh giác
là tỉnh táo
trong các niệm,
biết rõ ràng các niệm không bị ảnh
hưởng những sự hiểu biết sai lầm ảo tưởng,
hư tưởng của người khác; không bị những
hiểu biết do ngũ
dục lạc sai bảo, cám dỗ và lôi cuốn
vào ác pháp.
Tỉnh giác
trong mọi hành động và việc
làm là ý
thức đang sống trong hiện tại với
các đối tượng và việc làm.
Tỉnh giác là
ý thức không bị mê mờ trước các
pháp và bị
lung lạc trước
các cảm thọ do
dục. Tỉnh giác
là trí thức tỉnh
táo sáng suốt. Trí
thức tỉnh táo
sáng suốt chính
là chánh niệm.
Chánh niệm tức
là sự hiểu biết rõ niệm thiện niệm ác
đó, biết rõ niệm thiện
niệm ác đó là do trí thức.
Tỉnh có
nghĩa là bình tỉnh, giác
có nghĩa là đang quan sát, nó chỉ biết
trong hành động
đang làm và
đang quán xét để phân loại hành động thiện
hay ác. Cho nên, trí thức là sự hiểu biết
đã thấu suốt niệm thiện ác, nên thường ở trong chánh niệm.
Tóm lại,
trí không phải là
thức, thức không phải là trí. Thức
là sự hiểu biết, nhưng chưa có sự phân biệt, còn trí là sự hiểu biết có phân biệt thiện ác rõ
ràng. Trí tức là chánh niệm, còn thức
chỉ là tỉnh
thức, tỉnh táo chứ
chưa có trí tuệ Tam
Minh. Nếu trí hiểu về Tứ
thiền sinh là trí
tuệ thuộc về
Tam Minh, còn trí hiểu về giới
luật là
tri thức trí tuệ tri kiến giải thoát. Trí tuệ tri kiến giải thoát tức là tri kiến tỉnh thức
thuộc về tri thức
mà đức Phật đã xác định trí tuệ tri kiến như sau:
‚Trí tuệ ở đâu thì giới
luật ở đó,
giới luật ở đâu
là trí tuệ ở
đó; trí tuệ làm
thanh tịnh giới luật, giới
luật làm thanh tịnh
trí tuệ. Ở đâu có trí
tuệ thì ở đó
có giới luật‛.
Như vậy trí tuệ của giới
luật là
tri kiến giải thoát. Phải không
các con?
Ở đây nếu các con hiểu rõ tri thức là TRÍ TUỆ
TRI KIẾN GIẢI
THOÁT do từ giới luật sinh
ra thì không còn hiểu lầm trí tuệ
Tam Minh do định sinh ra như đức Phật đã dạy:
ĐỊNH SINH TUỆ.
ĐÐNH NIỆM HƠI THỞ
CÂU HỮU VỚI
PHÁP HƯỚNG TÂM
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con ngồi kiết già
30' tu Định
Niệm Hơi Thở câu hữu pháp hướng tâm:
Ly tham, sân,
si, vô ngã,
vô thường, bất tịnh. Tu
như vậy thời
gian bao lâu hết
tham, sân, si?
Thân bị bệnh
đau kinh niên hướng tâm xả thọ có hết
đau không?
Đáp: Tu Định Niệm
Hơi Thở câu hữu với pháp
hướng xả tâm ly
dục ly ác pháp,
mà hỏi Thầy thời
gian lâu mau thì các
con nên tự hỏi mình
tu hành con có quyết tâm xả, ly dục và ly ác pháp
hay không. Còn thời gian
tu tập lâu mau
là do người
tu tập có giữ gìn giới luật nghiêm
túc hay không,
chứ hỏi Thầy
thì làm sao xác định đúng được. Các con mãi phạm giới ăn uống
phi thời và
phá giới hạnh độc cư thì làm sao xác định được thời gian.
Muốn tâm ly
dục ly ác pháp
nhanh chậm là còn tùy ở mức độ giữ
gìn giới luật có nghiêm chỉnh hay không?
Nếu có quyết
tâm xả ly, từ
bỏ dục và
ác pháp thì giới luật là thước đo cho
tu tập
nhanh hay chậm và thời gian ngắn hay dài. Ngược lại, không có quyết
tâm xả ly chỉ hướng tâm cũng
giống như người
niệm Phật tụng kinh
cho hết thời công
phu thì tu chẳng bao giờ
xả ly được. Tu như vậy
mất thì giờ vô ích,
chẳng có kết quả gì,
tâm nào tật nấy,
không bao giờ thay đổi.
Khi có ý muốn
tu tập xả tâm ly dục, ly ác pháp thì phải có quyết tâm xả bỏ.
Ví dụ: Khi tâm
khởi muốn ăn, thấy bụng
đói mà chưa tới giờ ăn thì nhất định không ăn; đó là
ly dục, đó là giữ giới,
còn ăn là
không ly dục, không
giữ giới. Tâm khởi
muốn nghe băng hoặc lấy
kinh sách ra đọc thì nhất định không nghe băng, không đọc kinh; đó là ly dục,
đó là giữ giới, còn nghe băng và đọc kinh là
không ly dục, không giữ giới v.v.. Khi bị
người khác chửi mắng mạ nhục mình,
mà mình tức giận là không ly ác
pháp, là không giữ giới; còn không tức giận mà biết thương người chửi mắng
mình là ly dục, ly ác pháp, là giữõ giới.
Dùng pháp hướng
tâm là để pháp hướng tâm nhắc nhở
tâm mình ly thì mình
phải ly, nếu mình
không ly mà nhắc nhở
thì cũng như
nước đổ trên
lá sen, tu như vậy
uổng công mà thôi.
Pháp hướng
tâm chỉ giúp
ta thấm nhuần lý giải thoát để không chấp nhận dục và
ác pháp. Đã không
chấp nhận thì quyết
định xa lìa. Do quyết định xa lìa
thì tu rất nhanh,
còn tu lừng khừng, không quả quyết xa lìa thì tu chẳng có kết quả gì.
Thân bệnh
đau, muốn hướng tâm xả thọ cho hết đau thì người ấy thấu suốt lý
nhân quả, không sợ chết, không sợ đau bệnh thì pháp hướng tâm hỗ trợ,
tâm người ấy
không dao động và cảm thọ sẽ chấm dứt không
còn đau khổ.
Còn người ấy
sợ chết, sợ đau, hở ra một chút là cảm thấy đau khổ vô cùng, thì pháp hướng tâm
không có hiệu
quả, thọ không
đẩy lui được, đầu
óc suy nghĩ lăng
xăng, tâm khởi đi bác sĩ này, đi bác sĩ khác, uống thuốc
này, uống thuốc khác.
Thì người ấy bệnh đau còn mãi mãi khó mà hết được.
Dùng pháp hướng
mà tâm dao động như vậy thì pháp hướng không kết quả. Người dùng pháp hướng là
người phải có ý chí, phải có nghị lực mạnh mẽ. Khi hướng tâm thì giống như lấy
đinh đóng cột,
nhất định là
tâm không dao
động, quyết chiến quyết thắng, có như vậy mới
đẩy lui được bệnh khổ. Có như vậy, mới thấy pháp như lý tác ý của đức Phật rất
mầu nhiệm mà trên đời
này không có một pháp
môn nào hơn được,
một phương thuốc
hay hơn được. Pháp
như lý tác
ý của đức Phật là một thần dược, nếu ai biết cách sử dụng.
NGỒI THIỀN
NHẬP ĐỊNH
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con được theo Thầy tu học nhiều năm, chỉ thấy Thầy làm việc nhiều để
chúng rảnh rang tu học, Thầy thì chẳng thấy ngồi thiền nhập định ngày nào hết.
Vậy sao mà
Thầy nhập định
tháng này qua tháng khác được?
Đáp: Từ khi
làm Phật sự giúp đỡ người tu, Thầy không có
thời gian ngồi thiền nhập
định một vài tháng,
chỉ ngồi nhập định 1,
2 giờ khuya để dưỡng sức lo cho
chúng.
Tháng 8 cuối
năm 1991 Thầy vào thất với chúng tu tập, lúc bấy giờ Thầy mới có dịp nhập
định được 7 ngày và đến 15 ngày để làm gương
cho chúng và cũng
không còn có thì
giờ nhập định lâu hơn,
vì phải ở ngoài để
lo sự tu tập
của chúng. Lỡ chúng tu sai, điên khùng Thầy chịu trách nhiệm nên không dám lơi
lỏng.
Nhưng đó là nhập định chơi cho quý Thầy biết mà
thôi, chứ nhập định không
phải tập ngồi nhiều
mà chỉ tập
pháp hướng cho có hiệu quả để truyền
lệnh nhập định, chứ không phải ngồi lim dim
như con cóc từ giờ này đến giờ khác.
Người tu thiền
định, muốn nhập định mà không tập luyện
pháp hướng tâm, chỉ tập ngồi thiền cho nhiều
thì sẽ nhập định con cóc,
chứ không có nhập định nào được cả. Vì thiền định của Phật từ giới sinh
ra định chứ không phải từ định sinh ra định.
Người muốn
nhập các định thì tu tập pháp như lý
tác ý (hướng tâm)
mới điều khiển nhập được các định. Bởi
vì, các loại định
đều có
sự tịnh chỉ các
hành trong thân
khác nhau như
sau:
1- Sơ Thiền, tịnh chỉ ngôn ngữ.
2- Nhị Thiền, tịnh chỉ tầm tứ.
3- Tam Thiền, tịnh chỉ tưởng (hỷ).
4- Tứ
Thiền, tịnh chỉ hơi thở.
Người tu tập
pháp hướng tâm chỉ cần ra lệnh tịnh chỉ trạng thái nào hoặc hành tướng nào ở định
đó, thì trạng thái hay hành tuớng ở định
đó liền tịnh
chỉ (ngưng), nhập
vào định
đó.
Đừng hiểu lầm
là phải tập ngồi thiền cho nhiều, ngồi
nhiều từ từ sẽ nhập định này rồi
đến định khác, đó là người không hiểu thiền định. Thiền định không thể tu tập
nhập theo kiểu đó được, tu tập theo kiểu đó chỉ rơi vào các loại tà định (tưởng
định). Tu như vậy, chẳng ích
lợi gì, không
bao giờ làm chủ
sanh, già, bệnh, chết được, mà
ngược lại chỉ nuôi thiền miệng, thiền lưỡi, chỉ nhập thiền tuởng.
Điều quan trọng
của sự tu tập thiền
định là phải tu tập ‚xả tâm diệt ngã,
ly dục ly ác pháp‛, nhờ
đó tâm thanh
tịnh. Tâm thanh tịnh mới chỉ tịnh chỉ được các hành thì
mới nhập các định, nhất là nhập Tứ Thiền hơi thở phải tịnh
chỉ. Do đó,
an trú trong
định 1, 2 ngày rất dễ dàng mà không thấy đau nhức, mỏi
mệt gì cả.
Khi tập luyện
pháp hướng có đạo lực thì hành giả muốn nhập định lúc nào cũng dễ dàng và nhập
bao lâu cũng được tùy theo loại định.
Vì thế, đức Phật mới gọi đó
là: ‚Định Như Ý Túc‛. Cho nên khi
tâm ly dục, ly ác pháp xong thì mới tu tập thiền
định, còn tâm chưa ly dục, ly ác
pháp mà tu thiền định thì đó thiền cóc, thiền ngồi, thiền tưởng.
Cho nên, muốn
tu tập nhập định cho đúng thiền của Phật giáo như trên đã nói thì phải tu tập
giới luật và giữ gìn giới hạnh cho nghiêm chỉnh không hề vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt
nào thì mới nhập định được. Rất mong quý
vị hiểu cho.
TIẾNG KÊU CỨU GIỮA BIỂN KHƠI
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Thầy dạy
không có thế giới
siêu hình. Sao có
người vượt biển, chỉ còn thấy trời nước mênh mông không
biết đường nào đi cả. Quá sợ hãi trước cái chết giữa biển khơi
nên mọi người
đều niệm Quan
Thế Âm Bồ Tát,
nhờ Ngài cứu khổ và dẫn đường thế mà đã vượt qua tai nạn.
Những người
này họ thuật lại
khi ra giữa biển lúc ban đêm nhiều
tiếng kêu cứu cho lên tàu, đợi đi với! Có người bệnh đi bệnh viện, bác sĩ cho uống
thuốc không hết lại chỉ
nghe lời dạy của mấy ông thầy cúng,
địa lý dời mả đi chỗ khác thì hết bệnh.
Theo những
điều trên đây con tự nghĩ, không có thế giới siêu hình đối với người đã tu chứng vì
đã vượt qua cảnh giới
tưởng, còn những người
phàm phu còn sống trong tưởng thì phải
có thế giới
siêu hình, cho nên
không thể trả lời
đúng hay không
thưa Thầy? Xin Thầy chỉ dạy cho con rõ.
Đáp: Tiếng
kêu cứu
giữa biển khơi không phải là những
linh hồn người vượt biên chết giữa biển mà
tiếng kêu thanh tưởng trong tâm của
mọi người đang
quá sợ hãi,
đang gặp tai nạn
trên biển thì tưởng
của họ phát
ra tiếng kêu cứu, khiến
cho sự khiếp
đảm của họ lại
càng khiếp đảm hơn.
Lúc bấy giờ,
mọi người trước cái chết quá khiếp đảm, không còn biết nương tựa vào đâu,
chơi vơi. Vì thế, mọi
người trên tàu đặt hết trọng
tâm nương tựa
và an ủi
tinh thần của mình, nhất là từ lâu đã được nghe về đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu
nạn.
Do đó, chẳng ai bảo ai mọi người đều tự động dồn hết lòng tin bám vào chiếc phao đức Quan Thế Âm,
nên nó trở
thành một sức lực
rất mạnh to lớn (gọi là tín lực). Nhờ tín lực của mọi người dẫn đường thoát
nạn, hoặc ghe tàu hư hỏng mà nước không tràn vào. Chúng
ta không hiểu điều đó, nên cho rằng: có
đức Quan Âm Bồ Tát gia hộ cứu nạn. Sự thật không phải vậy, mà
là nhân quả của chúng
ta chưa hết nên khiến trước cảnh
quá khiếp đảm lòng tin của chúng ta tập họp trỗi dậy
thành một tín lực dẫn dắt chúng ta thoát nạn mà thôi.
Chúng ta
có biết bao
nhiêu người vượt biên
đã chết giữa biển khơi? Họ phần đông là Phật
tử chắc làm
sao họ cũng biết được
Quan Âm Bồ Tát
là một vị Bồ Tát cứu khổ cứu nạn do các
kinh sách phát triển
dựng lên và gieo rắc vào tư tưởng của họ. Trước những giờ
phút sắp chết chắc họ sợ lắm, nên niệm Quan Thế Âm không
dứt. Thế sao họ
lại chết, tại
sao Quan Thế Âm không cứu khổ họ mà lại cứu những người khác?
Kẻ sống thì nhờ
niệm Quan Thế Âm cứu
khổ, còn kẻ chết cũng niệm Quan Thế Âm
sao lại không cứu khổ.
Người vượt biên mà thoát nạn là nhờ nghiệp thiện,
chứ không phải
nhờ ai cứu khổ.
Vì cứu
khổ như vậy
là một việc
làm phi đạo đức. Tạo
nhân ác phải gặt lấy quả khổ tai nạn đi đến tử vong. Tạo nhân
ác mà cố trốn tránh quả khổ là một việc làm vô đạo đức.
Ngoài biển
khơi, tiếng kêu của loài cá heo, cá
ông rền rĩ. Nếu người
quá sợ hãi
thì tiếng kêu ấy trở thành tiếng ma kêu quỷ khóc, chứ không phải linh hồn
người chết oan kêu gọi.
Dời mồ mả mà hết bệnh, tức là
nhân quả thiện của cả hai người:
1- Là người bệnh.
2- Của ông thầy.
Nhân duyên của
nhân quả, do duyên dời mả hết bệnh
thường trong Đông
y có nói:
‚Phước chủ
may thầy‛, hay sách
đông y có câu: “Vận
bĩ hoài sơn
năng sát chúng‛,
‚Thời lai bạch
thủy cứu nhân gian‛.
Ở đây,
chúng ta phải
hiểu không phải
vì dời mả mà hết bệnh, mà do phước của người bệnh sắp hết nên gặp cái
may của ông thầy
cúng chỉ vạch mê tín mà
hết bệnh. Ấy cũng là duyên nhân
quả giữa ông thầy và người bệnh ở tiền kiếp.
Người tu theo đạo Phật phải tin sâu nhân quả. Vì con
người sanh ra từ
nhân quả, sống trong
nhân quả và chết trở về nhân
quả, thì mỗi sự việc xảy ra trong
cuộc sống này đều do nhân quả. Nếu ta biết cứu mình thoát tai nạn
bệnh tật, thì luôn sống trong mọi hành động thiện ‚không làm khổ mình, khổ
người‛ thì không có bệnh tật tai
nạn nào mà không qua được.
Tin nhân quả thì thế giới siêu hình không có, thế giới siêu hình không có thì không có sự mê tín dị
đoan và không
ai lường gạt
mình được.
Tin nhân quả, tai
nạn, bệnh tật đến, tâm bất
động không hề sợ hãi. Nhờ đó mà
tai nạn, bệnh tật đều qua
Tin nhân
quả, sẽ mang
cho ta một tâm hồn
giải thoát an lạc, thanh
thản, yên vui, hạnh phúc của cuộc sống.
Tin nhân
quả, sẽ không
làm khổ mình, khổ người, mang lại hạnh phúc cho mình
cho người, tạo thế
gian này là cảnh Thiên
đàng, Cực lạc. Ngược
lại, người không
tin nhân quả thì thiếu đạo
lý công bằng,
thường sống trong cảnh
thế giới siêu
hình, cúng bái, cầu khẩn, van xin, mê tín
dị đoan, lạc hậu,
phi đạo đức,
thường làm khổ mình,
khổ người, tạo cảnh
sống thế gian thành cảnh địa ngục.
Tóm lại, tất
cả những chuyện ma quái xảy ra, đều do năng lực tưởng tạo ra, chứ không có ma
quái thật sự bên ngoài, mà chỉ có ma quái bên
trong của mọi người
do tưởng ấm của họ
tạo ra. Vì thế, đức Phật gọi là: ‚ngũ ấm ma‛. Trong ngũ ấm gồm có 5 lọai ma:
1- Sắc ấm ma.
2- Thọ ấm ma.
3- Tưởng ấm ma.
4- Hành ấm ma.
5- Thức ấm ma.
• Sắc ấm ma gồm có: Tất cả các bệnh nơi thân, tất
cả các dục nơi tâm.
• Thọ ấm ma gồm có các cảm thọ nơi sắc uẩn, nơi
tưởng uẩn, nơi tâm uẩn.
• Tưởng ấm
ma gồm có 18 loại
hỷ tưởng
ma.
• Hành ấm ma gồm có các hành nơi thân,
nơi tưởng và
nơi tâm.
• Thức ấm ma gồm các ma của thức ấm. Cho
nên, trong năm loại ma này
thường
tác động
và tạo nhiều
điều đau khổ những
ai
tìm đường tu
hành cầu giải
thoát. Đó là 5
loại ma ngũ ấm trong thân tâm của mỗi con người, chứ không có thế giới ma
bên ngoài. Xin quý vị lưu ý.
Muốn biết thế
giới linh hồn của con người có hay không,
thì nên đọc Đường
Về Xứ Phật tập 3 bộ mới thì sẽ rõ.
THỜI KHĨA TU
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Hiện nay, chỉ
có buổi khuya con ngồi tu Định Niệm Hơi Thở 30' gom sáu thức
và hơi thở
vào tụ điểm, không thấy
nặng đầu và mệt nữa. Nếu bỏ
qua lâu ngày không
tu gom tâm sẽ mất tụ
điểm xin Thầy chỉ dạy cho con rõ.
Mỗi ngày buổi
sáng và chiều ngồi 30' tu Định Niệm
Hơi Thở câu hữu pháp
hướng tâm để xả tham, sân, si, mạn,
nghi.
Pháp Tứ
Chánh Cần con nhớ luôn luôn ngăn
pháp ác diệt
pháp ác trong tâm
và kiểm
soát tâm
mình rất kỹ để xả
và diệt ác
pháp liền, con tu như vậy có được không?
Hiện giờ
con muốn tu xả
tâm cho rốt ráo như lời Thầy dạy, nhưng thời khóa phải tu như thế nào?
Đáp: Theo lời
khuyên của Thầy tuổi con cũng già yếu, nay đau, mai ốm không chừng, từ trước con
đã tu pháp ức chế
tâm nên tâm không
có xả tham,
sân, si vì thế tới
nay vẫn chưa viên mãn giải thoát.
Trải qua một
thời gian dài
tu tập pháp môn ức chế tâm, là một bài học kinh nghiệm
sống, pháp nào tu có giải thoát, pháp nào tu không giải thoát, con đã
biết tất cả mùi vị cay
đắng ngọt bùi của các pháp môn của kinh sách phát triển và kinh sách các Tổ sư
Thiền.
Bây giờ là
lúc con trở về với pháp môn của Phật.
Ngày đêm con chia
làm bốn thời,
mỗi thời tu tùy theo sức khỏe, thời gian còn lại của con thì phải tu tập
cho hợp với đặc tướng. Thời công phu nào, con cũng câu hữu với pháp hướng xả tâm ly
tham, đoạn diệt
ác pháp. Luôn luôn phải giữ tâm sống một mình, không
lý luận thuyết pháp cho ai hết mà phải lo cứu mình trước đã, sống luôn
luôn để tâm hồn thanh thản,
an lạc, trầm lặng độc cư. Tới
giờ đi xin
cơm để ăn, hết
giờ ngồi chơi và tu tập
xả tâm. Cứ tu như vậy, thời
gian ngắn con sẽ thấy kết quả tâm
sẽ không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm giải thoát hoàn toàn thanh tịnh,
tức là tâm ly dục, ly ác pháp. Đến giờ phút lâm chung, con sẽ nhẹ
nhàng và tự tại không
còn đau khổ nữa.
Nếu pháp
hướng có đạo lực,
con chủ động điều khiển
theo ý muốn của mình
đi tái sanh, chứ
không bị nghiệp
lực dẫn đi.
Nói như vậy, chứ
tâm không phóng
dật là không
còn tái sanh, tâm không phóng dật
là Niết Bàn, chứ không còn Niết Bàn nào khác nữa.
Điều quan trọng
nhất là con nên xả tâm, còn tụ điểm gom tâm không có mất đâu mà con sợ. Chỉ cần con cố
gắng tu tập, để có đạo lực của pháp hướng tâm, thì mọi sự làm chủ đời
sống của con hoàn toàn chủ động. Tụ điểm không quan trọng đâu, có hay không có
cũng không sao. Tụ điểm
gom tâm chỉ là
giai đoạn mới tu mà thôi, còn hiện
giờ chỉ có xả tâm cho thật sạch là quan trọng. Vì chính xả sạch sẽ chứng đạt
chân lí.
ĐỀ TÀI THIỀN
QUÁN
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nay con tu Định Niệm
Hơi Thở không
được, xin Thầy
cho con một đề tài thiền quán để tâm chuyên nhất cảnh mới mong
thanh tịnh.
Đáp: Muốn
xin đề tài thiền quán để tâm chuyên nhất cảnh,
thì phải sống độc cư
trọn vẹn, mới thực hiện được đề tài thiền quán này. Phải giữ gìn tâm không được
phóng dật, sống đúng giới hạnh,
đời sống thiểu
dục tri túc, ít muốn, biết
đủ thì mới tu tập
đề tài thiền quán này. Từng phút, từng giây, hàng ngày ngăn ác, diệt ác, thì kết
quả sẽ nhập
được bốn thiền và thực hiện được
Tam Minh không có khó khăn không có mệt nhọc, không có phí sức.
Muốn được vậy
con nên tu tập xả tâm vô lượng có nghĩa
là tất cả
các niệm sinh
khởi trong tâm cũng
như các cảm thọ nơi
thân thì con nên dùng tri kiến hiểu
biết Chánh kiến và Định Niệm Hơi Thở xả sạch và đẩy lui
các bệnh khổ. Đó là xả tâm rốt ráo. Khi xả tâm rốt ráo thì tâm
sẽ được định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
sử dụng,
dễ sai khiến
thì lúc bây giờ,
con sẽ thực hiện được Tứ Như
Ý Túc và
như vậy con làm
chủ sự sống
chết và chấm dứt luân hồi
dễ như trở bàn tay.
ĐỪNG MẤT HY
VỌNG
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Theo lời Thầy
dạy, thân định trên
tâm, tâm định trên
thân tức là nhập Tứ Thiền. Như
vậy cơ thể con bây giờ không làm được điều đó. Xem như đời
sống của mình vô dụng.
Bây giờ con
về thất, phát nguyện giữ gìn sống đúng giới luật, thà chết trên giới luật,
không hề vi phạm và bẻ vụn giới luật.
Thỉnh thoảng
con về thăm Thầy, và chúng huynh đệ. Nhờ Thầy ban bố cho những lời pháp bảo sách tấn để thời gian còn lại
con cố gắng tu hành cho đến hơi thở cuối cùng.
Đáp: Giới luật
nghiêm túc thà chết không vi phạm, đó là con đã
thân định trên tâm, tâm
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
định
trên thân, tức
là con đã nhập Tứ
Thiền rồi. Sợ e
giới luật không
nghiêm chỉnh thì dù con có đủ sức ức chế tâm
con cũng chẳng nhập được.
Con đừng bi
quan, mà phải cố gắng tu xả tâm, chỉ một thời gian tâm con như cục đất thì Tứ Thiền
nhập như trở
bàn tay. Sợ e
con xả tâm không được mà thôi. Phải bền chí cố gắng xả tâm, đó là chánh pháp
thiền định của Phật. Con nên nhớ kỹ mà
tu cho đúng. Không
trễ đâu, đừng mất hy vọng, hằng ngày cố nhớ xả tâm! Chỉ
có bền chí
là thành công,
chấm dứt một đời người đau khổ
không còn tái sanh luân hồi nữa.
Xả tâm rất dễ con ạ! Chỉ ngồi chơi không làm
gì hết, có niệm
thì dùng câu tác
ý mà xả; có
thọ thì dùng định niệm
hơi thở mà đẩy lui các
cảm thọ. Như vậy, ngày
nào cũng tu tập
như vậy
thì tâm con sẽ thanh
thản, an lạc và vô sự tức là tâm con không phóng dật.
TỰ TẠI RA ĐI
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Sau này Thầy tự
tại ra
đi, cô Út Diệu Quang
có tự tại
hay không, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con rõ?
Đáp: Thầy
luôn nhắc nhở cô Diệu Quang cố gắng tu tập để xả tâm, bởi vì cô
cũng đang trên đường tu tập như các con. Theo Thầy thiết nghĩ: Trên đường
tu tập muốn xả tâm cho thật rốt ráo thì các
con phải thường dùng Định
Vô Lậu, quán xét duyên nhân quả của mình.
Ai nói xấu các con, các con không thù hận họ và ghét bỏ họ,
ai làm các
con đau khổ, các con xả
bỏ tâm đau khổ để cứu mình
không còn khổ
đau. Dù họ đối xử với
các con tàn nhẫn,
nhưng các con vẫn đối xử tốt và
thương yêu họ khi họ gặp tai nạn. Mặc họ đối xử với các con như thế nào
cũng được, chê
cũng được, khen
cũng được, các con
chẳng vui, cũng
chẳng mừng chỉ
lo tâm mình thanh thản và thương yêu mọi người. Các con
làm việc và sống cho mọi người, nhưng các con cố giữ tâm mình luôn thanh thản,
an lạc, không để bị đối cảnh
chi phối khiến
tâm các con đau khổ thế là đủ lắm
rồi. Theo Thầy nghĩ,
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
tâm Phật
toàn thiện (sơ thiện, trung thiện, hậu thiện)
thì tâm các con cố
gắng tu tập
như vậy mà thôi. Phật dạy thân tứ
đại này giả hợp, do duyên đất, nước, gió, lửa mà thành không
có gì của các con cả.
Cho nên, sự tu tập làm chủ nó để tâm thấy được Phật giáo không dối người.
Phải không con?
Theo Thầy
nghĩ, mọi việc khổ đau của con người trên đời này, đều do hành động ác của họ
là làm khổ mình, khổ người.
Vì thế, tu
theo đạo Phật là tu tập hành động thân, miệng, ý thiện là tạo quả giải thoát
cho kiếp người hiện tại và
mai sau không còn khổ đau.
Tu tập gọi
là làm chủ nhân quả, tức là làm chủ
hành động thân,
khẩu, ý của
mình, đừng làm khổ mình, khổ người
và làm khổ tất cả chúng sanh. Là làm chủ sanh, già, bệnh, chết của mình và cũng chấm dứt luân hồi.
Dục không
có, ác pháp cũng không có thì cuộc sống là toàn thiện, là Thánh nhân.
Tâm sống như Thánh, thì xác thân tứ đại bất tịnh sống chết mặc nó, có lo
gì mà ta chẳng có thân Thánh nhân sao? Tâm Thánh thì phải
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
được sống
trong thân Thánh.
Vậy thân Thánh nhân đâu phải là thân tứ đại.
Hết duyên
nhân quả, bỏ thân tứ đại này chắc chắn là sẽ có
thân Thánh nhân.
Vậy các con tu tập
làm chủ thân tứ đại để làm gì
khi các con còn phải xả nhiều
nữa để trở
thành tâm Thánh nhân thực sự.
Thân tứ đại có
làm chủ nó rồi cũng
phải bỏ, vì nó là thân duyên hợp, giòn bở không bền chắc.
Theo Thầy hiểu
đạo Phật mục đích là phải làm chủ được
tâm, đừng để cho
nó sai
khiến mình chạy theo dục lạc mà sanh tâm ác. Cho nên, giáo pháp của Phật
dạy sơ thiện, trung thiện và hậu
thiện là để điều khiển
tâm quay về hành
động thiện, tạo
nhân thiện, sống thiện,
hưởng quả thiện.
Mà thiện thì không làm
khổ mình, khổ
người, thì đó là giải thoát khổ, đó là Niết Bàn.
Nếu các
con muốn làm chủ điều này
cũng không phải dễ, phải sống cho đúng giới luật, phải biết xả tâm, diệt
ngã, phải biết xa lìa lòng ham muốn của mình, phải nhận cho được các pháp ác.
Được như vậy,
không muốn làm Thánh cũng phải làm
Thánh, không muốn giải thoát
cũng phải giải
thoát. Bây giờ
cô Diệu
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
Quang cũng
đang trên đường tu tập xả tâm, cô cũng rất cố gắng để xả các chướng ngại
nơi tâm của mình và cố giữ gìn tâm bất động.
Mục đích
giải thoát của đạo Phật
là tâm bất động
trước các pháp
và các cảm thọ,
đó là tâm Thánh thì cần tu cái gì nữa?
Giải thoát
được tâm là giải thoát được tất cả, cần gì phải tu tập ngồi
thiền nhập định cho
mệt.
Làm chủ được
tâm là làm chủ được tất cả, cho nên muốn nhập định nào thì nhập định rất dễ
dàng, thì có gì phải tập thiền định cho uổng công.
Tóm lại,
chỉ có ly dục,
ly ác pháp là làm
chủ tất cả, tức là tâm không phóng dật. Chúng ta nên nhớ lời Phật đã căn
dặn chúng ta:
‚Ta thành Chánh Giác
là nhờ tâm
không phóng dật, muôn
pháp lành đều nhờ đó mà ra‛.
PHÁP HƯỚNG TÂM
Câu hỏi của
Diệu Thành (Minh Cảnh)
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Pháp hướng
tâm do tưởng thức hay do ý thức hay do tâm thanh tịnh mà có lực mạnh như vậy?
Như con vừa
tác ý, sáu thức gom vào
hơi thở là có một cái lực vô
hình gom vào rất
mạnh. Con tác ý nhĩ thức nghe vào trong, nghe sự yên lặng của tâm là ngay đó có
một sức hút mạnh làm cho thân con rối loạn,
các cơ ép cho tim mệt, chuyển động não đầu. Như vậy là
do tưởng lực hay do cái gì mà nguy hiểm như thế, xin Thầy chỉ dạy cho con rõ để con dùng pháp hướng
cho đúng cách, nếu không rõ mà tu pháp hướng thì rất là nguy hiểm cho tánh mạng.
Đáp: Đến giờ
này con mới rõ được lực của pháp hướng siêu
việt như vậy,
nhưng con nên lưu ý:
1/ Dùng
ý thức
tu tập pháp hướng tâm
để xả tâm ly dục, ly ác pháp thì không nguy hiểm cho người
mới tu. Và người mới
tu chỉ được dùng
pháp hướng tâm ly
dục, ly ác pháp
mà thôi, chứ không
được dùng tịnh
chỉ, vì dùng
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
tịnh chỉ sẽ
rơi vào các trạng thái tưởng thì rất nguy hiểm.
2/ Ức chế tâm
như các con tu
tập dừng vọng tưởng
mà dùng pháp
hướng thì đó là
tưởng lực của pháp hướng, chứ không phải ý lực của pháp
hướng. Tưởng lực
này rất nguy hiểm cho người tu tập, nó sẽ làm rối loạn cơ thể,
có khi bị bệnh rối loạn chức
năng của cơ thể,
có khi rối loạn chức năng thần kinh sanh ra điên khùng. Rất nguy hiểm, cần
nên đề phòng cảnh giác, người tu thiền định ức chế tâm như: Lục Diệu Pháp Môn,
Sổ Tức Quan, Tùy tức, Chỉ tức, nhiếp tâm niệm Phật, Tri vọng, Tham công án,
Tham thoại đầu v.v.. không được dùng pháp hướng tâm.
3/ Tâm thanh
tịnh, tức là tâm hết tham, sân, si thì mới
được dùng pháp
hướng tâm nhập định vì lúc này
tâm rất định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Cho
nên, lúc này
dùng pháp hướng để
tu tập Bốn Định
Hữu Sắc
và Tam Minh, vì lúc này tâm có đủ Tứ Như Ý Túc thì sự tu tập không còn
khó khăn, mệt nhọc.
Khi tâm chưa ly dục,
ly ác pháp mà sử
dụng pháp hướng để gom tâm, để tịnh chỉ các hành trong
thân là một sự việc rất nguy hiểm như trên Thầy đã nói.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khi tâm chưa ly dục,
ly ác pháp, thì chỉ được
quyền sử dụng pháp hướng tâm ly dục, ly ác pháp
mà thôi. Chừng
nào tâm ly dục,
ly ác pháp xong, thì mới được sử dụng pháp hướng tâm tịnh
chỉ các hành
trong thân thì mới
không nguy hiểm.
Người tu
tà thiền, tà định dùng
pháp hướng tâm là
nguy hiểm tính mạng,
tốt hơn hết là dùng pháp hướng xả
dục và ác pháp.
Dùng pháp hướng,
thư giãn thân tâm, để trở về trạng thái bình
thường, an lạc, vô sự và thanh thản thì tốt.
Chỉ khi nào
tâm thanh tịnh hoàn toàn, không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa, thì dùng pháp
hướng tâm tịnh
chỉ tầm tứ,
gom tâm, tịnh chỉ tưởng thức,
tịnh chỉ hơi thở và tịnh chỉ âm thanh, tịnh chỉ thọ v.v..
Lưu ý: Khi
tâm chưa hết tham,
sân, si, mạn, nghi
mà dùng pháp
hướng tịnh chỉ là
nguy hiểm cho
tánh mạng, cần
nên tránh. Pháp hướng
tâm là một
pháp rất mầu
nhiệm, có một năng lực rất mạnh, như một sức hút của đá nam châm.
TRỌNG NAM
KHINH NỮ
Câu hỏi của
Liễu Tâm
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có người nói theo kinh
phát triển, người
nam có bảy
báu kể từ khi mới sanh ra đời, còn người nữ thì không có báu
nào? Do vậy
mà người nam giới lúc
nào cũng hơn hẳn phụ nữ trong bất kể lĩnh vực nào và trong bất kỳ người
nam giới nào cũng có bảy báu đó. Thưa Thầy chỉ dạy cho con việc trên có đúng
không?
Đáp: Không
đúng, kinh sách phát triển là kinh sách
tưởng triển khai
pháp tưởng trong bối
cảnh phong kiến ‚trọng
nam khinh nữ‛, mới cho người
nam có bảy
báu và người
nữ không có báu
nào, đây là sự bịa đặt của
vua quan phong kiến.
Con người,
nam cũng như nữ từ nhân quả sanh
ra thì luật nhân quả
công bằng, không thể nam ưu tiên hơn nữ được.
Người ta đã
khôn khéo gieo vào đầu óc người nữ một sự thấp kém, từ đó người nữ cũng tự thấy
mình thấp kém. Nhưng xét cho cùng, người
nữ cũng thông minh đâu kém người nam.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Người nữ
cũng năng nổ làm việc cũng đâu thua kém người nam chỗ nào.
Về tu tập thì người
nữ cũng tu tập chứng quả
A La Hán, giải thoát hoàn toàn như người nam, có thua kém chỗ nào đâu?
Đạo Phật là
đạo bình đẳng, dựa trên nền tảng đạo đức công bằng và công lý của đạo đức
nhân quả, của
xã hội loài
người thì người nam và
người nữ phải
được hưởng quyền
bình đẳng như nhau.
Từ những chế
độ bộ lạc đến những chế độ phong kiến, đế quốc v.v..
phân chia bốn
giai cấp, cho đến việc
trọng nam khinh nữ của đất nước
Ấn Độ bây giờ, đạo Phật ra đời
xóa sạch bốn giai cấp
trong xã hội
đó và nâng
cao sự bình đẳng nam, nữ. Vì thế, đức Phật chấp nhận cho giới nữ xuất
gia và thành lập Giáo đoàn nữ do bà Di Ái làm trưởng đoàn.
Đọc trong
Trưởng Lão Ni Kệ,
chúng ta thấy những
bậc Thánh Ni đâu
có thua kém gì
những bậc Thánh
Tăng. Họ đều chứng quả A
La Hán rất nhiều.
Cho nên, nam
cũng như nữ, không thua kém nhau (nam nữ tu
hành đều thành
Phật như nhau cả).
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VII
Trong khi giới
luật của kinh sách
phát triển có bịa ra câu chuyện trọng nam khinh nữ rõ ràng như sau:
Khi bà Ma Ha
Ba Xà Ba Đề, cùng với 500 người nữ dòng họ
Xá Di đến xin Đức
Phật cho xuất gia. Đức Phật không
chấp nhận phải đợi ông A Nan đến xin mới cho và còn đặt ra ‚Bát Kỉnh Pháp‛.
Đó là một điều phỉ
báng đạo Phật trọng
nam, khinh nữ của
kinh sách phát triển lồng
vào để biến
Phật giáo cũng
giống như giáo pháp của Bà
La Môn ‚trọng
nam khinh nữ‛.
Trong lúc
hàng đệ tử của Phật xuất gia: Thánh
Tăng và Thánh
Ni không thua
kém nhau, bên nào
cũng có nhiều
người tu hành xuất sắc và đều chứng quả A La Hán giải
thoát như nhau.
Và cũng
trong kinh giới phát
triển, khi đức Phật
cho người nữ xuất
gia thì tuyên bố:
‚Nếu cho người
nữ xuất gia thì Đạo
Phật chỉ trụ thế
có 500 năm,
thay vì 1000 năm‛. Đó là những điều
do các Tổ bịa đặt
nói sai không đúng sự thật,
làm cho Phật
giáo mất niềm tin và
sự công bằng,
bình đẳng đối với
con người trên hành tinh này. Chúng tôi không tin lời này
là Phật dạy.
Vì chúng tôi biết đạo
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!