hãy suy nghiệm lời
ta nói có lợi ích
thiết
thực cụ thể hay không, rồi hãy tin”.
Thật ra từ ngàn
xưa đến giờ, Tổ
tiên của chúng ta
đã để lại
cho chúng ta một
gia tài trong đó sự
mê tín chiếm một nửa,
cũng chỉ vì cuôïc sống ngoài sự hiểu biết
của con người, nên dùng tưởng mà tạo ra,
bây giờ đã biến nó thành một truyền thống thế giới siêu
hình thật sự, muốn bỏ nó hiện giờ đây
đâu phải dễ. Lợi dụng lòng mê tín
này, con người sản xuất ra tôn
giáo, để dựng lên một
thế giới mê tín
siêu việt hơn, độc đáo hơn, tối thượng
hơn, cao hơn các thế giới
siêu hình khác,
khiến cho con người
với trí hữu hạn
không thể hiểu
rõ được nên đắm mê tập trung theo
tôn giáo đó, trở thành một giáo phái có uy quyền có thế lực. Từ đó lớp
mê tín cũ chưa bỏ
lại chồng thêm một
lớp mê
tín mới, trên đầu
và đôi vai phải đội, mang,
cõng biết bao nhiêu
thần linh, ma, quỷ rồi bây giờ phải
đội thêm một ông Ngọc Hoàng, Thượng Đế, Tiên, Thánh, Chúa, Phật v.v..
Bây giờ là thời đại khoa học hiện đại, dân trí con
người đã nâng lên khá cao, thế mà giới
trí thức hiện nay có kiến thức sâu rộng về khoa học vẫn bị
thế giới siêu
hình lừa đảo một cách đáng thương và đáng trách.
Đạo Phật
ra đời quyết đập
tan phá sạch thế
giới siêu hình,
để đưa con người thoát
ra khỏi vòng mê tín
lẩn quẩn. Trong
thời điểm của đức Phật, con người
còn đang sống trong những bọâ lạc,
dân trí trình độ còn thấp kém, khó
nâng cao sự hiểu
biết, mặc dù
giáo pháp của Ngài dạy
rất rõ
và xác định cụ
thể về thế giới
siêu hình, nhưng
người ta vẫn
không tin, nên sau khi Ngài tịch các
đệ tử của Ngài
nhất là những ngườøi tu chưa chứng đắc, họ đã
thêm bớt vào giáo
pháp của Ngài
biến thành một giáo pháp mê tín và sản xuất ra có vô lượng
cõi siêu hình.
Bốn mươi chín năm thuyết pháp, thời gian quá ngắn,
Ngài chưa kịp đập
tan và phá sạch
thế giới
siêu hình thì Ngài
lại thị tịch,
để lại một sự nghiệp rất khoa học,
một đạo đức tuyệt vời, mà không
có vị đệ tử nào thừa kế.
Ngài phải đành di chúc lại cho người
sau: “Hãy lấy giáo pháp
và giới luật của ta làm
Thầy”. Nhưng giáo pháp và giới luật
của người còn đó, người tu theo đạo Ngài
thì chẳng tu theo,
mà lại tu theo giáo pháp và giới luật của ngoại đạo. Bây giờ giáo pháp của
Ngài đã trở thành giáo pháp mê tín, còn
Ngài thì trở thành
ông thần phò trợ
ban phước lành cho chúng
sanh. Chùa
là nơi cúng bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, cầu
phước, cầu tự v.v..; chùa cũng là nơi tập ngồi thiền trị bệnh, biến thiền định
của Phật thành một thứ thiền
dưỡng sinh trị
và ngừa bệnh, thật là đau lòng.
Mục đích của Ngài là muốn con người hiểu thật sự, thật
rõ cái thế giới mà con người đang sống,
có đúng với sự hiểu biết của mình hay không?
Hay là sự hiểu biết
mơ hồ trừu tượng rồi tưởng ra, do sự hiểu biết không
đúng đắn, nên con người lầm chấp sai lạc mà phải chịu khổ
đau muôn vàn, cũng chính do sự
lầm chấp thế giới hữu
hình và thế giới siêu
hình là thật có, do đó con người
tạo biết bao nhiêu nhân ác để rồi gặt lấy quả khổ và
tiếp tục mãi mãi luân hồi sanh tử.
Bây giờ tất cả mọi
người không riêng
tín đồ Phật giáo, ai ai cũng cho những sự mê tín là của Phật Giáo, thật
là đau lòng xót dạ, biết nói làm sao bây giờ, vì các bậc tôn túc Thầy Tổ của
chúng ta
đã làm như vậy. Đọc lại những
bài kinh Nguyên Thủy, lời Phật năm xưa, khi hiểu ra chúng
ta phải rơi nước mắt.
Tâm nguyện Ngài muốn
đem lại cho loài người
một sự hiểu biết
chân thật, chỉ
có sự hiểu
biết chân thật, thì con người không
còn khổ đau nữa
và cũng
chấm dứt luân hồi. Sự hiểu biết chân thật đó sẽ
không còn bị
ai lừa đảo lường gạt được về thế
giới hữu hình và siêu hình nữa.
Hồi tưởng lại
cách đây 2548 năm
có một con người vĩ đại, xuất hiện
ra đời, chỉ vạch cho con người biết rõ rằng không
có thế giới
siêu hình thật sự, mà
thế giới siêu
hình chỉ là một thế
giới tưởng của
loài người mà
thôi. Một số bài
kinh trong tạng
kinh Nguyên Thủy của
Phật Giáo đã xác định rõ ràng như: Kinh Tứ Diệu
Đế, kinh Thập
Nhị Nhân Duyên,
kinh Ngũ Uẩn, kinh Pháp Môn Căn Bản, v.v.. Trong những bài kinh này, lời
nói của Đức Phật rất hùng hồn và cả quyết: “Thế giới siêu hình không có, chỉ có
thế giới tưởng mà thôi”.
Tại sao
trong tạng kinh
Nguyên Thủy lại có
những bài kinh nói
về thế giới
siêu hình? Đức Phật nói về thế giới
siêu hình, 33 cõi trời, cõi địa ngục,
chư Thiên và ngạ quỷ là nói đến cảnh giới tưởng của con người, chứ Ngài đâu có
nói đó là cảnh thật. Vì thế Ngài xác định: “Tưởng tri chứ không phải là liễu
tri”.
Bây giờ, quý vị đã rõ rồi phải không? Vậy, từ đây
quý vị còn mê tín nữa
không? Còn tin theo kinh sách phát triển nữa không?
Nói thế, chứ
đó là quyền
của quý vị,
tin hay không tin là
ở quý vị, chứ không
phải ở chúng tôi,
chúng tôi chẳng
có quyền và chẳng
có trách
nhiệm gì cả, trong
vấn đề mê tín
của quý vị.
Mất tiền, mất của là mất tiền của
quý vị, chứ chúng tôi chẳng có
hao tốn gì cả, nói để cùng nhau suy ngẫm cuộc sống con người, đâu đúng, đâu
sai, đâu tà, đâu chánh, đâu thật, đâu giả v.v..
BIẾN ĐỔI LUẬT NHÂN QUÂ
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con
người lúc mới sanh ra, cũng
xem giờ tốt xấu, nếu giờ tốt thì vui vẻ, còn giờ xấu thì buồn phiền,
phải nhờ Thầy ở Tháp
Tràm làm lễ đổi giờ xấu ấy, để
cho đứa
trẻ lớn lên được mạnh
khoẻ và học hành
giỏi giang làm
nên người hữu
ích trong xã hội.
Thưa Thầy, họ
không hiểu nhân
quả, nên đi làm những
việc đổi giờ xấu thành
giờ
tốt. Đó
là một điều
mê tín lạc hậu phải
không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, người đó không hiểu luật nhân quả và
đang bị người khác lừa đảo bằng cách thay giờ xấu đổi giờ tốt, như thế có nghĩa
là thay đổi luật nhân quả, thay đổi luật nhân quả tức
là thay đổi mạng
số của con người. Kẻ làm
điều này phải
là đấng tạo
hóa, nhưng ở đây không có đấng tạo hóa, chỉ có luật nhân
quả, mà luật nhân quả rất công bằng và công lý thì làm sao đổi giờ xấu thành giờ
tốt được?
Vậy từ đây về sau các
con là đệ tử của
Phật không nên
nghe và chạy
theo những lời dạy về sự mê tín, lạc hậu như vậy, mà hãy
thấy mọi sự việc trên đời đều do hành động thiện ác của mình mà có tốt xấu, do đó không có ai thay
ngôi đổi
vị được. Đừng để kẻ
gian manh xảo trá, dùng mọi thủ đoạn, tà thuật lừa dảo,
gạt gẫm mình cũng
như người khác,
khiến cho mình mê mờ ngu
si, tiền mất tật mang
mà chẳng có ích lợi gì.
Còn làm “cò mồi” cho những người làm ăn không lương thiện.
Tóm lại, nếu
trên đời này
có những vị Thầy
thay đổi được
nghiệp nhân quả
thì tốn bao nhiêu tiền thì ai ai cũng không tiếc.
Ví dụ: Có một người sắp chết đến nơi, đến nhờ một vị Thầy
cao tay ấn đến tụng niệm hoặc đọc niệm thần chú hoặc làm bùa
phép, người kia sống lại được
không còn chết.
Đó là sự lường gạt của một số thầy
như: Thầy xem ngày giờ tốt xấu, thầy
bói, thầy địa
lý, thầy bùa, thầy tụng, thầy
ngải, đồng, cốt
v.v.. Xin các bạn đừng nên
tin những vị thầy
lường gạt lừa đảo này, nếu thay đổi
được nghiệp lực nhân quả thì các thầy
này đã tự đổi nghiệp
cho mình, chứ đâu để cho mình
là một vị thầy vô minh
ngu muội lừa đảo lường
gạt người khác như thế này, trong khi mình cũng nghèo xơ, nghèo xác, cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, phải đi làm cái
nghề không có
giá trị gì trong xã
hội. Có ai lại muốn
cho mình nghèo, các vị
thầy ấy cũng vậy. Phải không các bạn?
SÁT SANH CỈU HÄNH
PHÚC
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nuôi con đến khi khôn lớn, dựng vợ gả chồng, làm lễ cưới thật to
linh đình,
cũng phải giết
thật nhiều chúng sanh, liệu làm ác như vậy, hạnh phúc của
đôi uyên ương có được phúc báo không thưa Thầy?
Đáp: Theo luật nhân quả, giết hại chúng sanh làm cỗ
linh đình để đãi tiệc mọi người, khiến
cho mọi người ăn uống, vui cười, thỏa thích, trong lúc bao nhiêu con vật phải
chịu đau khổ và chết một cách thảm thương. Trước cảnh đau khổ và chết thảm
khốc của loài vật như vậy,
nếu một người
có lòng thương
yêu mọi người và mọi vật,
thì ta thử hỏi họ nhìn
trước cảnh đó, họ có hạnh phúc an vui không? Họ có nỡ ăn thịt chúng sanh
và vui cười được không?
Một ông vua lấy
đức trị dân,
thương dân như con của mình thì ngai vàng rất vững chắc, chẳng có
ai chống đối
và họ còn
dám chết hy sinh
vì nhà vua, nhà
vua sống rất an lạc và hạnh phúc; ngược lại, một ông vua lấy uy
quyền trị dân, thường nghi ngờ bắt dân ra giết hại hoặc tù tội giam cầm về tội
trộm cướp, nhưng không chịu tìm nguyên
nhân trộm cướp
đó do từ đâu
sanh ra. Nhất là
do sự bất
công của quan liêu bóc lột và
hà khắc dân chúng. Từ
đó dân chúng thường
nổi lên chống
đối lại nhà vua,
nay chỗ này,
mai chỗ khác,
thì thử hỏi ngai vàng của nhà vua
có vững chắc không? Và
nhà vua ngồi
trên ngai vàng có giống như ngồi trên đốùng
lửa không?
Làm ác, làm
đau khổ chúng
sanh, thì không có ai mà hưởng hạnh phúc, an vui được, dù là vua
chúa có đầy đủ uy quyền, vẫn phải sống thọ khổ, huống là những người dân tầm
thường như chúng ta làm sao thoát khỏi được.
Từ xưa đến giờ, xét lại trong đời sống con người có
cặp vợ chồng nào sống an vui, hạnh phúc trọn vẹn đâu? Họ đều có sự vui, sự buồn,
nghịch ý, trái lòng, bất toại nguyện, họ cũng chẳng biết nguyên nhân nào mang đến
sự vui buồn này, họ không có lối nào thoát ra, vì cuộc sống là
như vậy, nên
đành phải tùy
thuận, nhẫn nhục để sống với
nhau cho đến ngày đầu bạc răng long, nằm xuống lòng đất mà chưa có phút
nào gọi là được thanh thản, an lạc nhất.
Chỉ vì mọi người
chưa thông suốt lý nhân quả, chưa biết đạo đức nhân quả, nên mọi
hành động làm theo lòng ham muốn của mình,
tạo ra biết bao nhiêu điều
làm ác, để rồi phải
gánh chịu quả khổ do
chính mình tạo
ra, suốt đời này đến đời khác,
mãi mãi cứ
loanh quanh trong vòng nhân quả
luân hồi, mà chẳng biết đường nào ra, mù
mịt như người đi
trong đêm tối, như người đi lạc
trong rừng sâu.
Chỉ vì không
thấu rõ luật
nhân quả, nên thế
giới của loài người
là thế giới
đau khổ, vui đó rồi buồn đó, cười đó rồi khóc đó v.v..
Cha mẹ
làm đám cưới
linh đình cho con, giết hại
chúng sanh rất
nhiều tưởng làm
như vậy là tạo hạnh phúc,
vinh hạnh cho mình
và cho con cái, nhưng nào ngờ những việc làm này đã mang lại cho con cái
những nỗi bất hạnh
mà chúng phải chịu lấy sau này, không thể nào tránh khỏi, vì luật nhân quả có
vay phải có trả. Vì thế, không có cặp vợ chồng nào gọi là hạnh phúc như trên
đã nói. Đám cưới giết hại chúng sanh mà
gọi là hạnh phúc thì làm sao có được. Phải không các bạn?
MƯỜI HAI BÀ MỤ
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Miền Bắc chúng con nặng về thủ tục
ma chay, cưới xin và sanh con ra, phải
cúng các bà mụ, lấy bộ kinh Khoa Bà ra tụng. Một bà chúa mụ
và 12 bà mụ phụ
để các bà dạy
cháu bé ăn, ngủ, cười và làm các động tác, như thế có đúng không thưa Thầy?
Đáp:
Không đúng, một đứa bé
khi đã sinh ra, nó đã
mang theo những thói quen của kiếp
trước: ngủ, vui,
buồn, cười, khóc,
đưa tay, đưa chân, đều do nhân quả đã thành nghiệp lực trong đời sống
quá khứ trước kia, nên khi cháu bé ngủ,
mới có
những hiện tượng như vậy, chứ không phải có bà mụ nào dạy cả, chỉ có
nghiệp nhân quả đời trước mà thôi.
Nghiệp lực theo
nhân quả do
duyên vô minh biến
ra hành động tạo ra
thức, từ
thức mới có danh sắc (thân
tứ đại và tưởng), có tứ
đại mới có hành động nghiệp lực, do hành động nghiệp lực, cháu bé đang ngủ mới
có cười, mếu, khóc, giận dữ, giẫy nẩy, đưa tay, đưa chân v.v..
Một bà mụ chúa và 12 bà mụ là sự mê tín trong dân
gian, không thấy có kinh nào dạy, nếu có thì chỉ có kinh sách phát triển mà thôi. Khi thấy cháu bé đang ngủ,
cười, khóc, đưa tay, đưa chân v.v.. cho là 12 bà mụ dạy cháu bé, chứ các con
đâu biết rằng đó là nghiệp báo thể hiện sự
đau khổ, buồn vui của kiếp người
kế tiếp và kế tiếp mãi mãi.
CẦN XÃ BỈ MÊ
TÍN
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Đời
thường của cư sĩ tại gia, chúng
con thường xuyên phải va chạm nhiều vấn đề, nếu
không cẩn thận thì phạm giới.
Hiện giờ, chúng
con cứ lo
tu tập sống đúng
đạo đức nhân
quả, những việc
ma chay và cưới xin, nói chung là tất cả phong tục, tập quán đều có thể ảnh
hưởng đến việc tu tập của chúng con không ít, mà trong giáo án của Thầy không
có dạy. Vậy cúi
xin Thầy từ
bi lân mẫn chỉ dạy cho chúng con.
Đáp: Là đệ tử của Phật, dù cư sĩ hay tu sĩ đều phải
theo lời dạy của đức Phật, lần lượt xả bỏ không những thế giới siêu hình mà còn
xả luôn cả thế giới hữu hình.
Bởi vậy, nếu đúng theo tinh thần của Phật giáo, thì trong
gia đình người
cư sĩ đệ tử của
đức Phật, việc
ma chay và cưới xin phải giản đơn và không sát sanh, không nên tổ chức
linh đình, vì chung
quanh chúng ta
còn biết bao nhiêu người bất hạnh thiếu cơm ăn, áo mặc.
Tổ
chức đám
tiệc thực phẩm
trai tịnh, thanh khiết, trang nghiêm, thanh tịnh, không
được làm ồn náo, ầm ĩ,
ca nhạc phải
khéo chọn những bài hát có ý
nghĩa sâu kín của người Á Đông, nói lên được sự hạnh phúc của đôi
tân hôn với truyền thống Việt Nam, phải trang hoàng, thanh nhã, lịch sự,
không quá cầu kỳ.
Tiệc ma chay không được trống kèn, ầm ĩ, ca, xướng, hát,
táng tụng, hò
hét, đàn địch, phải
giữ gìn im lặng, trang
nghiêm, cúng bái, tế
lễ phải có
ngăn nắp hết sức, phải
có tôn ti trật
tự hẳn hòi, cấm rượu
chè bê bối
say sưa trong đám tang cũng như trong đám cưới.
Tổ chức đám cưới, tuy
có ca hát như
trên đã nói, nhưng không được ca
hát quá trớn, biết rằng đám cưới
là đám vui,
vui trong đạo đức
lành mạnh của người dân Á Châu, cho nên phải chọn những
bài ca chúc tụng,
những bài ca có tình, có nghĩa, ca ngợi những lòng chung thủy,
không được dùng
những bài ca nhảm nhí, thương
vay, khóc mướn, tình tứ
bi thảm. Điều cấm
kỵ nhất trong đám cưới cũng
như đám tang, không được chè
chén, say sưa, tiếng qua, tiếng lại, tranh luận hơn thua, hoặc la hét chửi
mắng hoặc đấm đá
nhau v.v.. Phải giữ gìn im lặng,
trang nghiêm để bầu không khí thiêng
liêng trong
những giờ phút
chia vui đám cưới,
chia buồn đám tang.
Nếu tất cả mọi
việc đều
giữ được sự trang nghiêm, thanh
tịnh và không
làm theo sự mê
tín, dị đoan của kinh sách phát triển dạy và phong tục tập quán dân gian, thì sự
tu tập theo đạo Phật rất dễ dàng.
Nếu việc ma chay và
cưới xin, đừng
giết hại chúng sanh làm cỗ bàn, thì sự tu tập rất là an tịnh, tinh thần
thoái mái, thanh thản và an
lạc.
Do sự tổ chức ma chay và cưới xin đúng cách theo đạo Phật,
thì mọi người trong
gia đình đều được an vui, hạnh phúc. Vì tạo nhân làm điều
thiện và đơn giản nên
sau khi đám tiệc xong rồi, người trong nhà không có ai nợ nần và không có thấy máu chúng sanh đổ, nên tâm hồn thảnh thơi.
Vì tổ chức
làm đám giản đơn nên mọi người không mệt nhọc, không
bề bộn cả nhà đều được khỏe khoắn, an vui.
Ở đời, người
ta chạy theo những lời khen, chê
ngoài miệng “Nhà
đó tổ chức
đám tiệc linh đình ầm ĩ
không có gia đình nào hơn được”,
chỉ những lời
khen rỗng tuếch
đó, mà cả mọi
người trong gia
đình đều mệt nhọc và khổ
sở, lại còn
mang nợ nần
khác nữa. Đám
tiệc xong
có khi mọi người trong gia đình phải đau bệnh. Thật là vô minh, u tối chỉ có
một lời khen hão mà con người từ xưa cho đến nay đều ngu si chạy theo danh hão
đó, nên bảo sao đời người khổ là vậy.
Theo đạo Phật chỉ cầu sự giải thoát,
còn tất cả phong tục
tập quán, dù
có truyền thống lâu
đời thì cũng vẫn tổ chức rất đơn giản,
không chạy theo xu hướng của người khác, cứ làm
y theo sự
đơn giản mà đức Phật
đã chỉ dạy, còn tất cả những
phong tục nào mê tín, lạc hậu thì mạnh mẽ, cương
quyết không chấp nhận,
đình chỉ, phá bỏ, nhất định không
tổ chức những điều mê tín đó. Mục
đích đập, phá như vậy là để giúp cho con cháu đời sau đỡ hao tài, tốn của một
cách vô ích và phi lý.
Người cư sĩ, đệ tử của Phật, phải sáng suốt nhận định
cái nào đúng
có lợi ích
cho mình, cho người và những
việc làm nào
không làm khổ mình, khổ người thì hãy duy trì và giữ gìn bảo vệ những phong tục đó để
mang lại cho cá nhân, gia đình,
xã hội và đất nước một sự an
vui, thanh bình,
trật tự, hạnh
phúc và phồn vinh.
Ngược lại, những
phong tục mê
tín, lạc hậu nào làm hao tiền, tốn
của, chẳng ích lợi gì mà còn gây
tai hại tạo
nhân ác làm
đau khổ
mọi người và
chúng sanh thì ta phải phá bỏ và dẹp sạch để làm lợi ích cho con cháu về sau,
không bị
ảnh hưởng cha truyền,
con nối hoặc theo kiểu “Tổ tổ
truyền nhau”.
CÁCH THỨC TU TẬP
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa Thầy! Theo trong thời khoá con đã
ghi sự tu tập của
con, như vậy có đúng chưa, xin Thầy chỉ dạy cho con được
rõ?
Đáp: Về phần tu tập con nên đọc kỹ lại những bài vấn đạo, thì sẽ
biết rõ cách
thức tu hành, Thầy xin tóm lược lại:
1- Ngồi nhiếp
tâm trong hơi thở, phải ngồi kiết già, lưng thẳng, mắt nhìn xuống chóp mũi, mở một phần ba mắt.
2- Khi sức
gom tâm, tập trung
chưa cao, con nên kèm theo
pháp hướng tâm, để nhắc nhở và dắt tâm: “Tôi thở, tôi biết tôi
đang thở”, lượng với sức của
mình tu tập từ 1 phút đến
5 phút, rồi xả nghỉ đi
kinh hành; khi đi
kinh hành cũng
tu từ 1 phút
đến 5 phút tỉnh thức trong bước đi.
3- Đợt thứ hai,
con cũng tiếp tục
tu tập như trên. Nên nhớ kỹ, Định
niệm hơi thở mới đầu chỉ tu từ 10 hơi
thở, rồi tăng dần lên 1
phút, từ
một phút tăng
lên 5 phút,
từ 5’ tăng lên 15’,
tăng dần lên đến
30’ rồi 1 giờ. Khi đến
1 giờ không nên tăng lên nữa, chỉ ở trạng thái
trong 1 giờ
đó, tập luyện pháp hướng tâm điều khiển sự sốùng, chết.
Đi kinh
hành cũng vậy,
khi đi 50 bước tỉnh thức, trong đó 10 bước có hướng tâm
một lần: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đang
đi kinh hành”, khi mới
tu tập đi
kinh hành, cũng nên đi với sức
tu tập của
mình, đừng đi quá sức, đi khoảng độ 1’, rồi dần
quen mới tăng lên đến
30’, đến 1 giờ. Xả nghỉ 2’ hoặc 5’ rồi
ngồi thiền trở lại, nương hơi thở tu tập,
khi tu tập hơi thở
xong, rồi lại tiếp tục đi
kinh hành
50 bước nữa, cứ
như vậy tu tập cho đến
đúng
30’ mới xả nghỉ luôn.
LẠC HẬU MÊ
TÍN TIỀN MẤT TẬT MANG
Câu hỏi của Liễu Tâm
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con có
một việc xin trình lại
Thầy, mong Thầy từ bi chỉ giáo cho con được rõ.
Thưa Thầy, một
việc vừa xảy ra trong gia đình của người anh ruột người bạn đời của con.
Tháng
chín năm ngoái
anh này có làm
một gian
nhà cho con trai anh,
móng nhà có sẵn, chỉ cấy thêm và bổ túc xây lên hai tầng
và một tum nhỏ ra
sân thượng. Năm
ngoái anh này 71 tuổi
và con trai là 40
tuổi. Cháu này đến
gặp con và có
trình bày hai tuổi
này, con theo sách nhà Phật dạy
con bảo: Theo cô thì ngày nào cũng tốt, năm nào cũng tốt, giờ nào cũng tốt,
cô thấy như vậy, mà
có sao thì do nhân quả
thôi. Bố cháu
già rồi lo gì Kim
lâu? Thế là cháu
nó nghe lời con bảo
thì cũng cho qua Kim
lâu và bắt tay vào
làm, đến tháng 12 là vừa
xong nhà. Cháu
có bảo mời
cô lại lễ Phật
cho, vì nhà cháu
có thờ Phật,
chính do con chỉ dẫn thờ Phật.
Tất cả từ nhỏ đến lớn và
cháu trai này đều
tin tưởng nơi
con và thành
tâm lễ bái, nhưng
trong thành tâm cháu
còn mê tín xen vào
như: phù hộ, cầu khẩn,
v.v.. đã có nhiều
lần con giải thích
với cháu là
không nên mê tín, nhưng kết quả cũng chưa giác ngộ là
bao nhiêu.
Sự việc xảy ra
trong khi con đi Sài Gòn (về
tu viện) lúc trở về
Hà Nội thì bố của
cháu đã đi nằm viện được
10 ngày… Bệnh
tình càng ngày càng nặng, thấy thế con góp ý là nên lo thuốc thang
và thầy giỏi,
nếu còn duyên
thì khỏi mà chẳng may bố cháu hết duyên, chẳng làm thế nào được cả?
Nhưng các cháu cuống cuồng đi xem bói, chia ra ba ngả:
1- Ngả đi
hỏi cô đồng.
2- Ngả đi hỏi
ông thầy ở Huế gọi điện
thoại vào.
3- Ngả đi
gọi ông thầy địa lý về xem đất
cát xây nhà…
Thưa Thầy,
trong vòng một tuần con thật sự mất bình
tĩnh vì nghe
các cháu kể
là bố cháu tự nhiên sốt xong,
chân phù nề, bụng to lên, da vàng, đi làm
xét nghiệm thì bác
sĩ đều nói là
chưa tìm ra bệnh gì cả.
Sốt do đâu thì không rõ? Càng ngày bệnh càng tăng lên,
cháu phải đi xem lễ may ra khỏi.
Lúc này con
khuyên các cháu
nên bình tĩnh, việc gì nó đến phải
bình tĩnh giải quyết. Cuối cùng các
cháu và các chị gái
và em dâu của ông
này đồng tình
đi xem và làm lễ. Họ
đều nói
giống nhau là nếu ông sống qua ngày
30 đến sang
ngày mùng 1 tháng
tư này thì sẽ
qua khỏi. Và
ông thầy địa
lý bảo động
long mạch vì làm nhà và họ đều
nói với lý do
là ai làm nhà
vào hai tuổi
Kim lâu cơ chứ
cả bố và
con
Thưa Thầy, kết quả là tiền mất
và ông anh con vẫn
ra đi trong đau đớn trên
giường bệnh, kéo dài thêm một tuần nữa sau khi các vị làm ba cái
lễ, bác sĩ họ tạm kết luận
là bệnh
gan.
Lúc mất rồi lại đi xem ngày mất có phạm vào đâu
không? Hai nơi họ nói giống nhau là ông này chết có 3 nhập mộ (có nghĩa là có
ba người chết theo).
Nhưng họ không quên bảo cháu của con phải mua bùa
về yểm. Ở
Hà Nội có
chùa Liên Phái, ở phố Bạch Mai chuyên bán bùa yểm, đến đây mua về yểm
vào quan tài
và mộ, vì năm
nay vợ ông này hạn nặng lắm, con trai cả cũng thế.
Đến khi chết được ba ngày, lại mời ông sư về nhà tụng
kinh cầu
siêu cho vong và cứ như
thế bảy
ngày một lần
cúng, cho đến 7 tuần
là
49 ngày thì mới xong.
Thưa Thầy, con chỉ
còn biết im lặng và tùy thuận để các cháu làm. Việc làm của
con từ đầu (xây nhà)
cho tới cuối cùng
im lặng như thế con có lỗi gì với đạo Phật hoặc với
gia đình không thưa Thầy? Con mong Thầy từ bi thương xót chỉ bảo cho con để
thân tâm con được
an ổn, đây là
bài học bổ
ích cho con về sau này thưa Thầy, con phải làm như thế nào
cho đúng pháp của Phật?
Đáp: Hoàn cảnh xảy đến của gia đình anh con, con không có lỗi gì cả với Phật giáo
và gia đình mà khả năng con không đủ lôi kéo mọi người ra khỏi bàn tay ác độc của
tà giáo.
Nó đã truyền
thừa những điều mê tín, phi đạo đức đã ăn sâu vào cốt tủy của con người, trường hợp
như gia đình
ông anh của
con và còn biết bao nhiêu
gia đình khác nữa. Nó đã
mang đến cho xã hội một ít
tốt đẹp
để làm bề mặt
đạo đức giả,
ngõ hầu để
không ai thấu
rõ sự lừa đảo của nó
mang lại cho xã
hội trùng
trùng đau khổ,
như gia đình
ông anh của
con chẳng hạn.
Các nhà học giả kinh sách phát triển lợi dụng gia cảnh
người khác đang gặp nhân quả khó
khăn, làm tiền bất chánh.
Tuổi 71 và 40 cất nhà làm sao bị Kim lâu, những kẻ này
xem sách nào gạt người như thế?
Dương Trạch, Bát Trạch, Thông Thư, Ngọc Hạp, Trần Tử,
v.v.. Tất cả sách xem ngày, giờ, tốt, xấu; dựng vợ, gả chồng, cất
nhà, xây mồ mả v.v.. Sách nào dạy điều này?
Theo
kinh sách coi
ngày giờ tốt xấu thì tuổi
40 cất nhà được “tứ tấn tài”,
tuổi 71 cất nhà
được “đại kiết lợi”,
sao quý thầy
này lại bảo là “Kim lâu” sách vở
nào? Ở đâu?
Khi nào cất
nhà bị Kim
lâu là nhà cất đủ bốn dài, còn
hai dài, ba dài, năm dài thì không bị
Kim lâu. Vả lại, cất
nhà theo kiểu
thời đại hiện giờ,
vila, biệt thự,
phố v.v.. thì không
bị Kim lâu, vì không đủ bốn dài.
Còn ông thầy
nào dám bảo
động long mạch, khi mà nền móng
đã có sẵn làm sao mà động long mạch được.
Phải chi nền móng chưa có, động thổ làm
nền móng thì động long mạch
có lý. Toàn bộ
các cháu đều bị bọn thầy tà giáo
lừa đảo “tiền mất tật mang”.
Nhân quả ác đã đến thì không có Thần, Thánh nào cứu
mạng được, nhân quả ác chưa đến còn chút phước thừa thì uống nước lạnh cũng hết
bệnh. Đông y có câu:
“Vận bĩ hoài sơn năng sát chúng
Thời lai bạch thủy cứu nhân gian”.
Cho nên, vận bĩ tức là
nhân quả xấu
ác, thời lai tức là nhân quả tốt thiện. Vị thầy thuốc và bệnh nhân đều
có sự tương quan nhân quả thiện, ác nên bệnh hết
hay chết đều do
nhân quả.
Tất cả sự việc xảy ra
trong gia đình
anh con là vì tinh thần
các cháu quá yếu và
chưa được trang bị đạo đức
nhân quả đầy đủ, lòng tin đối
với luật nhân
quả chưa sâu và
còn bị ảnh hưởng truyền thống mê
tín lâu đời chưa cởi bỏ.
Bởi vì, Đại Thừa Giáo đã truyền thừa giáo pháp của họ vào đất nước Việt
Nam cuối thế kỷ thứ hai đầu thế kỷ thứ ba, tính ra có hơn
hai ngàn năm. Vì thế, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng mê tín
sâu dày
và đối với thế giới
siêu hình tinh thần càng lúc càng
yếu kém, chỉ còn
biết tựa
nương vào tha lực của Thần Thánh, nhưng
cuối cùng chưa có
ai tránh khỏi
nhân quả khổ đau.
Cho nên, chúng
ta mạnh dạn chỉ mặt, vạch
tên để cho mọi
người hiểu biết
rõ, không bị quý thầy
tà
giáo lừa đảo lường gạt,
nhờ đó đời sống mọi người bớt khổ
đau.
Lại nghe lời các thầy tà giáo đem bùa yểm cha thì
còn nghĩa lý gì đạo đức làm người. Rước thầy
tụng kinh cầu
siêu cho cha mà cha đã
bị bùa yểm thì còn siêu cái gì?
Bảy mươi mốt chết là
cung khảm, đó là cung tốt để lại cho con cháu làm giàu có,
có đâu tam liên tử, có nghĩa là ba người chết theo nữa (3 nhập mộ). Ba người chết
theo nữa là chết nhằm cung càn, còn nếu 72 chết
thì cung cấn theo sách vở thì chết theo một người nữa. Đó là xem
đúng sách vở của Đại Thừa.
Còn các thầy này không theo sách vở, bịa đặt xảo ngôn
hại người vừa vừa,
có đâu lại
khiến cho người ta bất
nghĩa bất hiếu
đem bùa yểm cha, lại
còn bày trò cầu siêu hiếu hạnh.
Nếu quả có ba người chết theo nữa, thì đâu phải cha
mình chết tạo ra cái chết đó, mà do số
phận nhân quả của những
người này đã tạo
ngắn số ở tiền kiếp.
Tại sao các
cháu không thấy
chánh kiến, mà lại thấy và
theo tà kiến
như vậy, để làm
một lỗi lầm rất lớn, một tội bất hiếu không tha thứ được.
Các thầy tà
giáo dạy người bất nghĩa, bất
nhân, bất hiếu,
phi đạo đức.
Bây giờ các
cháu đem bùa yểm
cha, sau này con của
các cháu cũng đem bùa yểm các
cháu, hành động của các cháu làm là hành động phi đạo đức, nhân quả này đời đời
vay trả biết bao giờ dứt.
Các cháu phải
bình tĩnh và
sáng suốt, đừng nghe theo những
thầy tà giáo ngoại đạo làm điều không
tốt về sau phải
gánh chịu luật nhân quả.
DI CHÚC CỦA LIỄU KIM
GỬI LẠI CHO CHỒNG VÀ CÁC CON
Tâm nguyện của Liễu Kim
Con là Liễu
Kim viết những
dòng chữ này bên hành lang phòng
xét nghiệm bệnh viện K – Hà Nội.
Trong lúc chờ đợt xếp hàng lần lượt, Liễu Kim con sợ
phí uổng thời
gian quí báu còn lại
của cuộc đời, với thân bệnh nan y hiểm nghèo nên lúc
này là lúc
giành giật thời
gian quí hiếm ở cõi đời còn lại.
Liễu Kim
con vội chợt nghĩ đến công
việc của người ra đi phải nói gì cho người còn ở lại?
Thân mến gửi
anh và các con ! Hạnh phúc là cái gì ?
Tìm được
nó chúng ta phải
tốn bao công
lao?
Bảo tồn được
nó chúng ta phải tốn
bao
công nhẫn nại?
Rồi đến khi
mất nó! Chúng ta sẽ đau khổ biết chừng nào?
Vậy anh ơi!
Biết được chân giá trị của nó, mỗi chúng ta phải biết trân trọng, giữ gìn nó từng
phút, từng giây?
Có phải vậy không
hỡi anh và
các con? Năm mươi
năm qua rồi, hạnh phúc vỏn vẹn được hơn 30 năm, với thời gian này quá ngắn
ngủi đối
với em và sắp sửa chúng ta phải chia tay vĩnh viễn rồi.
Vì thế,
đức Phật mới dạy cho chúng
sanh biết rõ hạnh phúc này là hạnh phúc giả không có thật, nó là vô thường,
là vô ngã.
Bởi vậy,
chính vì thế mà em khát khao đi tìm đến chân hạnh phúc, hạnh phúc vĩnh viễn,
không còn bị
chi phối vào
không gian và thời
gian. Đó là con đường đưa em đến cửa của
đạo Phật.
Theo cách
nhìn của
thế gian thì
chúng ta đã có một gia
đình hạnh phúc lắm rồi phải
không hỡi anh? Nhưng anh a! Chúng ta có
yêu thương nhau bao nhiêu
đi nữa, thì tình yêu ấy
vẫn không thể
che chở cho
chúng ta khỏi những
đau khổ của cuộc đời.
Thực tế là như
vậy, lúc
này chúng ta
đang phải chứng kiến cảnh sắp chia ly đau khổ.
Ngay bây giờ tuy
có hơi muộn
xong vẫn còn thời gian để chúng ta biến tình yêu thương này trở
thành tình yêu
thương cao thượng và thanh
tịnh, đó là tình
anh em, tình huynh
đệ, tình đồng đạo để sách tấn nhau,
để động viên tạo duyên lành cùng
nhau tu hành theo pháp “Đường Về Xứ Phật” mà Thầy Thông
Lạc đã dày công tìm
thấy. Nay để lại cho tất cả muôn
người có pháp tu, để cuộc đời hết khổ. Trong đó có gia đình nhà mình
phải không anh?
Em đã có đủ duyên phước gặp Thầy Chân Sư, Thầy đã quy
y cho cả gia đình mình.
Nay gia đình ta bảo nhau mà tu tập
Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện, không làm khổ mình,
không làm khổ
người, sống theo mười điều
thiện, luôn giữ
gìn năm
giới.
Em mong
anh và
các con lúc em ra đi về cõi vĩnh hằng
rồi, thì hãy
luôn nhớ đến lời di chúc này nhé!
Tủ sách quí
“Đường Về Xứ Phật”, là kho báu vô giá anh và các con giữ gìn và bảo vệ hết đời
này qua đời khác, lưu truyền đạo đức làm người, đạo đức nhân bản cho muôn đời
sau không bao giờ mất. Đó
là điều ước
nguyện của em trước giờ phút ra đi mãi mãi không có ngày trở lại,
mà có trở lại nữa
thì điểm hẹn của
chúng ta
đó là quê
hương của Đức Phật cùng các vị chư Hiền Thánh Tăng. Ở điểm hẹn là mùa xuân vĩnh cửu. Cả gia
đình ta nhé!
Vắng em,
anh và các
con khéo thu xếp
công việc gia đình, làm việc và học tập
cho thật tốt.
Trong
ngôi nhà
nhỏ bé của
chúng ta lúc nào
cũng toát ra hương
sắc của một
mùi hoa
thơm.
Đó là hoa vô
sắc của mùa
xuân vô lậu vĩnh cửu thường hằng mãi mãi anh nhé!
Chào vĩnh biệt
anh và các con, hẹn ngày gặp lại tại đất Thánh
Trảng Bàng, tỉnh
Tây Ninh. Đó là trụ xứ của vị Thầy của chúng
ta. Nơi đó có Phật, có Thầy và
có cô út Diệu
Quang là biểu tượng của mùa xuân vĩnh cửu đó anh ạ! Nếu muốn
tìm em thì đến
đó là thấy liền.
Chào anh và
các con.
Liễu Kim
TB: Trong
lúc đứng ở hành lang chờ xét nghiệm con chợt nghĩ về Thầy và con viết:
Kính thưa Thầy!
Trải qua thời gian
thân bệnh khổ.
Thầy đã cứu con vượt
qua từng cơn đau như
ai cắt ruột gan.
Thầy không
phải là giáo sư hay tiến sĩ y khoa, nhưng
con thấy Thầy còn hơn thế nữa, là vì
Thầy là y đức
tuyệt vời nhất
trên thế gian này, vì Thầy đã loại bỏ những ung nhọt
trong tâm mà không cần phải phẫu thuật, không cần phải dùng thuốc (đó là các
câu pháp hướng tâm để xả thọ khổ, xả đau, xả nhức...) mà con đã dùng hằng
ngày, hằng giờ, hằng phút,
hằng
giây, là phao cho con đi biển trong cả thời
gian con bị trả nghiệp thân đau đớn.
Con cúi xin cảm tạ ơn
Thầy, ơn này đời sau con xin cố gắng tu hành để mau chóng đến ngày làm chủ bốn nỗi
khổ của kiếp làm
người. Con xin tri ân công đức Thầy.
Con của Thầy
Thích Nữ Liễu Kim
TÂM THANH TỊNH
LÀ NHỜ
LY DỤC LY ÁC
PHÁP, CHỨ KHÔNG PHẢI CHẲNG NIỆM
THIỆN NIỆM ÁC
Pháp thoại
Chơn Như
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Các nhà học giả cho
bài kinh Pháp
Cú “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,
tự tịnh kỳ ý, thị
chư Phật Giáo” có hai phần:
1/ Tu thiền
quán
2/ Tu thiền
định
Như vậy có
đúng không? Xin Thầy dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Dục
và các ác
pháp làm cho
tâm mình động, chứ đâu phải không
động. Khi tâm bị động thì mình
phải quán xét.
Quán xét thì phải
dựa theo lời đức Phật dạy: phải ở trên Định Vô Lậu quán xét để đẩy lui những
chướng ngại pháp ấy ra khỏi thân, thọ, tâm, pháp của mình,
thì gọi là ly dục, diệt ác pháp. Vừa ngăn dục, vừa diệt dục; vừa ngăn
ác, vừa diệt
ác xong, thì mới nhìn thấy
được tâm mình
thanh thản, an lạc
và thanh tịnh.
Tâm thanh thản, an
lạc và thanh
tịnh là thiền
định, chứ đâu phải mình
ngồi thiền, ức chế tâm cho hết vọng tưởng là thiền định
là tâm thanh
tịnh đâu? Cho nên, bài kệ trong
kinh Pháp Cú, Đức Phật
dạy:
“Chư ác mạc
tác
Chúng thiện
phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật
giáo”
Bài kệ
này các nhà học giả
phát triển tự phân ra làm hai vế:
- Vế thứ nhất
họ cho rằng: “Chư ác mạc tác,
chúng thiện phụng
hành” là mình
tu
theo pháp thiện, nhờ pháp thiện mà mình diệt được
ác pháp, giữ
gìn được thiện
pháp, do giữ gìn được
thiện pháp mà
chính mình bị
dính mắc vào thiện pháp đó. Vì thế, tâm ý của mình chưa thanh tịnh vì
còn pháp thiện. Hai câu này họ cho đó là tu “thiền quán”.
Vế thứ hai họ
cho rằng: “Tự tịnh kỳ ý” là pháp môn
“thiền định”. Muốn tu thiền định thì mình
phải tu một pháp khác hơn là pháp “ngăn
ác diệt ác
pháp” thì tâm mới được
thanh tịnh, mới được định.
Vì hiểu như vậy
nên các nhà học giả mới chế ra một pháp
môn khác để tu tập thiền
định như: đếm
hơi thở, theo hơi thở, phình xẹp nơi bụng, niệm Phật, niệm chú,
chăn trâu tri vọng,
công án tham thoại đầu v.v.. Tất cả các pháp khác đó
là pháp giữ tâm, để
tâm mình không
có niệm thiện niệm ác, không có niệm thiện niệm ác
thì tâm mới thanh tịnh. Đó là những sự nghĩ tưởng của các nhà học giả. Vì vậy,
câu kinh Pháp Cú này họ đã hiểu sai. Họ
hiểu sai đã khiến cho nhiều người hiểu
sai. Do đó, Phật pháp đã biến thành tà pháp.
Qua kinh
nghiệm tu hành của chúng
tôi thì bài kệ chỉ có một ý, chứ không thể chia làm hai ý được.
Lưu ý: “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành”
nghĩa là: Các
pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện.
Hai câu
trên là chỉ cho pháp
hành, tức là gieo nhân
thiện, diệt nhân
ác. Gieo nhân thiện, diệt nhân ác tức là hằng ngày phải
sống bằng những hành
động thiện. Sống
bằng những hành động thiện như thế nào? Luôn suy nghĩ những điều thiện
và ngăn chặn những ý niệm điều ác; luôn nói
những lời lành và ngăn chặn những
lời nói ác;
luôn làm những
việc lành và ngăn
chặn làm những
việc ác. Có thường
xuyên huân tập
như vậy mới có lợi ích rất lớn cho đời sống.
Câu dưới “Tự tịnh
kỳ ý” là chỉ
cho kết quả của hai câu pháp hành
ở trên. Có nghĩa là khi không làm
và không sống
trong các ác pháp
và thường làm
thường sống trong
các pháp thiện thì tâm
ý của mình tự nó
thanh tịnh. Do mình sống
trong các pháp
thiện này thì cái ý của mình
nó thanh tịnh,
chứ không cần phải tu một pháp
khác nào cả.
Bây giờ Thầy đặt lại vấn đề cho
nó rõ ràng và dễ hiểu
hơn, để thấu
lý của bài kệ
pháp hành này trong kinh Pháp Cú.
Đức Phật dạy Thập Thiện, tức là dạy 10 điều
lành. Chúng ta không nói đến thiện nhiều mà chỉ cô đọng gom lại mang đầy đủ
tính chất của gốc thiện, theo như đức Phật đã dạy mười điều lành
trên. Mười điều
lành là mười
điều thiện gốc, từ mười điều
lành gốc đó
mà phát sanh ra muôn vạn điều
lành khác. Cho nên, chúng ta giữ gìn được mười điều lành này là giữ gìn được
muôn vạn điều lành khác.
Ví dụ: Mười
điều thiện trên đây mà Thầy chỉ mới có tu được năm điều thiện, còn 5 điều thiện nữa
chưa tu xong, 5 điều
thiện chưa tu xong tức là còn 5
điều ác. 5 điều ác là đối tượng của 5 điều thiện này. Nếu Thầy chấp giữ năm điều thiện
này để tu tức là để diệt
các đối tượng của nó là 5 điều
ác. Và như vậy thì Thầy còn bị kẹt trong
năm điều thiện này. Cho nên, Thầy phải cố gắng tu năm điều này cho nó toàn thiện, cho nó
không còn ác
pháp nữa, nếu nó
còn ác pháp thì nó chưa phải là toàn thiện. Khi Thầy tu thiện rồi
thì nó hết sạch
các ác pháp, tức là tâm Thầy không còn có đối tượng,
đối đãi của tâm thiện nữa, thì lúc bây giờ tâm thiện đó nó còn thiện nữa hay
không hỡi quý vị? Còn có ác thì còn có thiện, lúc
ác hết sạch
thì thiện vẫn là thiện,
nhưng vì không có
ác nên chúng
ta vẫn thấy không có thiện. Có phải vậy không
quý vị?
Cho nên, nó không
còn cái đối tượng
đối đãi
thì thiện ấy mới thật sự
là thiện toàn diện. Thiện toàn diện thì tâm ý nó thanh
tịnh. Nên kinh dạy: “Tự tịnh kỳ ý”, phải không
quý vị? Cái ý của mình nó thanh tịnh
là do mình sống trong thiện pháp, toàn thiện, không còn một chút
xíu các ác
pháp. Còn bây giờ mình mới sống được phân nửa thiện còn phân nửa
là ác. Còn có ác pháp là còn đối tượng của thiện nên thiện chưa toàn thiện,
chưa trọn vẹn thiện thì còn kẹt trong
pháp thiện. Nếu
chúng ta kiến giải,
tưởng giải ra bài
kinh Pháp Cú này phân
làm hai vế.
Và như vậy chúng
ta đã làm lệch ý của Phật,
do đó dẫn đến
chúng ta tu hành sai lạc. Do hiểu sai lệch này chúng
ta rơi vào thiền tưởng mà không biết, thấy tướng tưởng mà cho
là định tướng, cũng
như gặp ma mà cho là Phật.
Còn bây giờ
chúng ta đang giữ thiện, ly ác pháp, nên tâm
chưa toàn thiện, tâm chưa toàn
thiện thì tâm còn đang kẹt ở giữa cái thiện và ác, vì thế tâm
chúng ta chưa thanh
tịnh như trên chúng
tôi đã dạy.
Thiền định của Đạo
Phật chính là
tâm toàn thiện. Tâm
toàn thiện là tâm định chứ không phải thân định xin quý
vị lưu ý đừng hiểu tâm định và thân định giống
nhau. Vì thế, đức Phật xác định cho chúng ta hiểu rõ: “Tâm định trên thân, Thân
định trên tâm” là hai loại thiền định rõ ràng:
1/ Tâm định
(Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý), kinh Pháp Cú.
2/ Thân định (Không
thở ra thở vào,
tâm trú vào thiền định), kinh Tương Ưng.
Người kiến
giải sai lệch câu kinh này, nên dùng pháp khác để tu tập cho nó thanh tịnh, bằng cách ức chế
tâm của mình, không
cho nó khởi niệm thiện,
niệm ác. Và khi
niệm thiện, niệm ác không khởi thì chắc
chắn nó sẽ thanh tịnh chứ gì? Tu như vậy, sự thật nó không đúng nghĩa ở trong
bài kệ của kinh Pháp Cú. Tu theo đạo Phật chúng ta phải hiểu rằng: tu là phải xả
tâm, có nghĩa là ly dục ly ác pháp.
Đức Phật
đã nói: “Ta
nói giới luật,
tức là nói ly dục, ly ác pháp”. Chỉ có người sống đúng giới luật thì mới
ly dục, ly ác pháp được.
Bây giờ Thầy lấy một ví dụ khác:
như ngày ăn ba bữa cơm: sáng, trưa, chiều. Thì thử hỏi Thầy có ly tham chưa? Nếu một người sống
phá giới
thì luận rằng: “Tôi
ăn tôi biết
tôi ăn vậy chứ
tôi đâu có cần nghĩ đến tham
hay
không tham?”. Đó là lý luận suông của những
nhà học giả. Nhưng thật sự ra sáng và chiều không ăn thì người ta cảm thấy muốn
ăn, thèm ăn, cảm thấy
đói. Và như vậy là
không tập sống ly tham dục. Không
tập sống ly tham dục thì làm sao gọi là ly
dục. Còn
muốn ăn, thèm ăn, còn đói bụng tức là còn tham dục.
Một người
ngày ăn 1 bữa, thì buổi sáng người
ta ly tham
được buổi sáng.
Người ta không ăn buổi chiều
thì người ta ly tham được buổi
chiều. Vì thế, người ta chỉ còn
ăn để sống trong một ngày,
chỉ có ăn
vào buổi trưa
mà thôi. Nhiều khi buổi trưa đôi lúc chúng ta thấy đồ ăn ngon mà chúng ta ráng ăn nhiều cho no
căng, thì đó chúng ta vẫn chưa ly dục. Chưa ly dục ly ác
pháp, tức là
chưa giải quyết
tâm tham, sân, si.
Cho nên, ngon hay dở chúng
ta chỉ ăn để sống mà
thôi. Khi tâm mà đang còn tham
ăn, mặc dù
ăn ngày 1 bữa nhưng
còn tham, chứ đâu phải hết
tham. Cho nên, đức
Phật dạy: phải
quán thực phẩm bất tịnh,
để sanh ra tâm nhàm chán.
Nếu chúng ta
quán thấy thực phẩm hoàn toàn bất tịnh,
thì chúng ta ngán
ngẩm và sợ hãi, chúng ta ít muốn tham ăn. Còn nếu chúng
ta dùng
tưởng quán thực
phẩm bất tịnh,
khi
quán
sâu quá thì chúng
ta không muốn
ăn do đó cơ thể chúng ta sẽ bị bệnh.
Bởi vì không ăn thì cơ thể phải bệnh
chứ gì? Nên khi quán thực phẩm bất
tịnh đến mức độ vừa đủ để nhàm chán
thì dừng lại, chứ không được quán đến ghê gớm đến không muốn
ăn thì sai. Cho nên, Phật pháp mà không có người dạy kinh nghiệm tu hành thì
chúng ta tu quán cũng vẫn sai.
Quán đến mức độ
chúng ta tưởng
ra thực phẩm quá ghê gớm, là tự giết mình trước lúc thành đạo.
Cũng như quán
thân vô thường, quán đến mức độ thấy cái thân này vô
thường hoàn toàn thật sự thì chừng
đó mình cầm
dao đâm mình mà
không có chút sợ hãi.
Thì đó là mình
đã tu sai
pháp Phật. Cũng
như bây giờ Thầy cho ví dụ: Một đống rác đang ở trước
mặt các Phật tử, các Phật tử khởi ý muốn hốt đống rác cho sạch, nhưng vì Thọ
Bát Quan Trai nên không hốt rác. Không hốt đống rác, tức là quý Phật tử
đang bị ức chế tâm.
Chỉ một hành động nhỏ như vậy là chúng ta đã tu sai.
Pháp của Phật là pháp xả, chứ không phải pháp ức chế, thấy đống rác muốn hốt
mà nghĩ rằng mình là người tu thiền, chỉ biết có thiền
chứ không khởi niệm đống rác, đó là bị ức chế tâm,
không
có xả. Trái lại, một
người muốn xả tâm
thì ngay đó người ta đi hốt đống rác là xả tâm. Bởi vì, tâm
mình đã phóng
ra đống rác, muốn xả niệm
đó thì phải xả đống rác
cho sạch. Xả xong bây giờ tâm sẽ nhẹ
nhàng, thoải mái. Cũng
như khi mình ngồi
thiền hai chân bị
tê, thì đó là bị chướng
ngại pháp rồi,
bây giờ chúng ta nói còn tu 30
phút nữa mới hết giờ thiền, ta hãy ráng ngồi cho đúng giờ. Và như vậy, rõ
ràng mình đã ức chế
thân của mình. Pháp
tu như vậy đối với đạo Phật
là sai, cho nên ta hãy xả hai chân bị tê đi, xả hai
chân bị tê thì nó đem lại sự
an lạc giải
thoát bình thường cho ta chứ gì?
Muốn chân hết tê, chúng ta tháo chân
tréo ra và xoa bóp,
rồi đứng dậy đi thì thấy hết tê liền, đó là hoàn toàn
cách tu xả. Cái gì
làm khổ chúng
ta là chướng
ngại pháp, là ác
pháp. Đạo Phật
là đạo giải
thoát ngay liền, khi chúng ta
tu theo pháp Tứ Niệm Xứù. Còn bây giờ chúng ta cứ ngồi ức chế
thân tâm làm cho thân
tâm của chúng
ta khổ đau thế này hay bằng thế khác mà gọi là tu
theo Phật giáo thì quý vị đã lầm.
Bây giờ
quý vị ăn
ngày ba bữa đã
thành thói quen mà bắt buộc quý vị ăn ngày một bữa,
tức là quý vị đã bị ức chế thân tâm rồi đó, quý vị sẽ bị bệnh
và khổ đau.
Đức Phật dạy:
Các cư sĩ muốn
tu thì nên tu tập Thọ Bát
Quan Trai. Một
tháng chỉ 1 ngày,
1 ngày đó thật sự mình
có ức chế
thân tâm, nhưng chỉ ức chế thân tâm cho nó quen dần. Tập dần cho nó
quen, chứ chưa tu tập gì
hết mà vội xuất gia, thì mình sẽ bị ức
chế thân tâm trong giới
luật. Và như vậy mình sẽ bị bệnh, không bao giờ mình tránh khỏi. Xuất gia tu hành để cầu giải thoát,
cớ sao mình lại tạo
cho mình thêm khổ,
chứ có giải
thoát gì đâu. Chỉ có một ngày Thọ
Bát Quan Trai, mà chúng ta còn cảm thấy khổ thật. Ngày ăn có một bữa, ngồi dưới
đất ăn không được nghe hát, trang điểm, cái
ham muốn của mình bây giờ bị dừng lại hết, nó không còn ham muốn được
cái gì cả, cho nên nó rất khổ. Chỉ mới có một ngày Thọ Bát
Quan Trai. Rồi ta so
sánh như
cuộc sống thế gian và cuộc sống
trong ngày Thọ Bát Quan Trai thì thấy khổ,
quá khổ. Nhưng
sau ngày Thọ Bát Quan
Trai, mình tư
duy, suy nghĩ: sáng mình khỏi ăn, trưa mình mới ăn, rồi chiều tối mình cũng
không ăn, mình
thấy thực sự rảnh
rang, vô sự,
sung sướng thật, chứ
không có khổ cực gì
cả. Từ
sự suy nghĩ đó
mình mới
thấy được sự giải
thoát trong ngày
Thọ Bát Quan Trai của đạo Phật.
Cuộc sống ngoài
thế gian hằng ngày bận rộn suy tư chuyện này, chuyện nọ,
tính toán buôn bán
ngày kia, ngày nọ, quá cực khổ, lao tâm, tổn trí. Ngày
Thọ Bát Quan Trai mình bỏ xuống sạch,
chỉ ôm bát đi
xin ăn như Phật, thật là hạnh
phúc. Trong lúc Thọ Bát
Quan Trai, mỗi tâm niệm gì khởi
lên thì mình quán xét, đẩy lui
nó hết, khiến
cho tâm mình thanh
thản, an lạc
và giải thoát. Như
vậy là giải
thoát thật sự phải không?
Tại sao có sự tham dục? Tham
ái cái này
cái kia, tham nói chuyện này,
chuyện kia. Đó là tâm phóng dật, do phóng
dật tâm mới
lăng xăng, tâm lăng xăng chúng ta
mới có cảm thấy khổ.
Như vậy, từ chỗ tư duy mình
mới thấy rõ và
hiểu biết. Đây thật sự
là con đường
giải thoát. Có Thọ
Bát Quan Trai tu tập một
ngày thì mới thấy được sự giải
thoát của ngày
đó, thân và tâm của mình mới thanh
thản, an lạc và vô sự. Cho nên
mình thích thú
và ham tu. Mình
nghĩ rằng sau ngày
Thọ Bát Quan Trai mình xin tu
thêm một ngày nữa.
Mình thọ
rồi mình ước nguyện giải thoát
và có sự giải thoát thật sự.
Nhờ tu tập như vậy, tâm không có động, không
có ai làm động tâm mình được và không thấy
mình có khởi niệm tham, sân, si, phiền não, bất toại nguyện gì trong ngày này hết.
Ngày đó mình sống như Phật, mình làm như Phật,
mình thấy tâm
mình rất an ổn, từ đó
mình suy tư và
nói: “À! đúng rồi, sau này mình sẽ tập
hai ngày, ba ngày
liên tục”. Bởi vì có thích tập
tu, cảm thấy có thoải mái dễ chịu. Nếu mình
không thích tu tập, sẽ thấy khổ sở.
Còn ép buộc
tu tập thì nó
không thích, nó không
thích thì tâm bị ức chế,
tâm bị ức chế
thì sự tu tập sẽ dễ đổ vỡ.
Cho nên mình càng tu
mình càng thích,
càng hăng hái
tu thì tu đúng. Bởi vì
tu hành
là phải tìm thấy
kết quả của sự giải thoát. Cho
nên càng ngày càng sống đúng giới luật,
sống đúng giới
luật tâm càng ham thích, do đó không bao giờ phạm giới.
Trái lại không có tu tập, không có rèn luyện đúng cách, mà cứ ôm giới
giữ gìn, thì bị ức chế tâm. Đến
khi không còn giữ
gìn được nữa,
thì bắt đầu lén lút làm những chuyện không đúng giới
luật.
Ví dụ: Ăn
ngày
một bữa mà
không tập Thọ Bát Quan Trai cho
quen, ép mình vô tu, ăn ngày một bữa như
những người tu lâu, đã thuần
quen,
thì mình chịu không
nổi nên bắt đầu
mình lén lút để lại bánh trái, ăn uống
phi thời. Ăn uống phi thời là một tội lỗi
rất lớn, tội đọa, rồi bây giờ lại thêm một cái tội nữa
là ăn lén lút, đó là tội gian xảo dối trá không thật.
Cho nên ở đây, thật sự ra có một số người nói tôi cũng ăn cơm ngọ, chứ sự thật
lại ăn phi thời. Trước mặt khác,
sau lưng khác. Trước
mặt với Phật tử thì
nói tôi
là ăn ngọ
nhưng mà sau lưng
không phải ăn ngọ. Đó
là điều tệ hại
trong Phật giáo hiện nay.
Có một số tu
sĩ sáng còn ăn bánh mì uống sữa, hoặc không ăn chỉ uống sữa, nước ngọt, nước
trái cây, v.v.. cũng bảo rằng mình ăn ngọ.
Đó cũng là một điều sự dối trá
trong đạo Phật mà chúng ta cũng đã từng thấy và nghe trong các chùa.
Chúng ta ăn
ngọ thì biết đó là lối sống của các bậc Thánh, lối sống như vậy gọi là Thánh hạnh.
Hạnh của một bậc Thánh Tăng. Hạnh đó là
hạnh ly tham, thế mà người tu
sĩ theo Phật giáo lại
không muốn ly tham
thì còn tu hành cái gì?
Cho nên,
chúng ta sống đúng hạnh đó, trước mặt cũng như sau lưng không bao giờ làm
sai, có
nghĩa là ngày một bữa
không ăn uống
lặt vặt phi thời. Những giới luật của Phật dạy
chúng ta cách sống Phạm hạnh làm một bậc Thánh
và cách sống làm một
con người có đạo đức. Nhờ sống có ly tham thì chúng ta mới
vào được thiền định.
GIỚI LUẬT
Đọc trong
kinh giới, Thầy
thấy cách sống làm một con người
mà đức Phật
đã dạy cho người cư sĩ
rất nhiều giới
luật, chứ không phải có 5 giới của bậc Thánh. Năm giới
này người tu sĩ giữ gìn còn chưa trọn vẹn huống là cư sĩ. Thầy, Tổ
dạy 5 giới cho người cư sĩ là quá cao. Nó
là giới đức
Thánh. Năm giới của người cư sĩ là năm giới đức Thánh, năm giới
đức này đâu phải đức hạnh tầm
thường. Cho nên hầu hết
quý cư sĩ đều thọ năm giới, nhưng
chưa chắc ai đã giữ
trọn
5 giới này.
Nên bây giờ Thầy
dạy những giới đức
làm người cho người cư sĩ là phải giữ
gìn 100 giới
chúng học của Phật.
Những giới đức
cho người cư sĩ gồm có
như: phải giữ gìn vệ sinh, một nắm rác không được ném
ngoài đường hoặc
ném vào chỗ bụi
cây hoặc ném
trên bãi cỏ,
thì làm cho sự sống trên
đám cỏ khi bị
rác đè, lá bị úa
vàng chết đi. Đi đại tiểu
tiện, khạc nhổ phải có
nơi có chốn. Khi đi đại tiểu tiện
có nơi có chốn, đó là đạo đức vệ
sinh mà cũng
là đạo đức
lòng hiếu sinh, không
có thương sự sống của
loài vật khác, không có giữ vệ
sinh chung là người thiếu đạo đức. Bởi
vì trong sự sống của
chúng ta là môi
trường sống chung, mọi vật đều sống.
Nếu không có đạo đức hiếu sinh và đạo đức vệ sinh thì chúng ta sẽ hủy diệt sự sống chung nhau trên hành tinh này.
Tại sao chúng
ta vì sự sống của mình
mà hại đến sự sống của các
loài vật khác. Lòng từ bi của chúng ta đâu? Chúng ta
phải thương yêu sự sống, chúng
ta phải bảo vệ sự sống. Một nắm rác chúng ta ném ra không biết giữ
gìn vệ sinh, khi nắm rác mục nát
nó trở thành
một lớp bụi, lớp bụi đó nó sẽ hại chúng ta, tức là nó làm khổ
mình, khổ người.
Do đạo đức vệ
sinh, giữ gìn môi
trường sống trong
sạch và thanh tịnh
nên đức Phật cấm chúng
ta không được tiêu, tiểu, khạc nhổ, xả rác trong nước,
trên cỏ, nơi đông người v.v.. Bởi
vì nước sẽ lôi các chất dơ ấy và làm cho môi trường sống ô nhiễm. Có nhiều người
không biết nước
đang bất tịnh uế
trược bẩn thỉu
mà ăn uống
vào rất làø
nguy hiểm. Tiêu tiểu, khạc nhổ,
những rác bẩn phải đem bỏ
có chỗ nơi
kín đáo hẳn
hoi. Bởi vì khi mình
đại tiểu tiện
khạc nhổ ném
rác bừa bãi, thì mùi
hơi hôi hám sẽ bay lên,
làm ô nhiễm bầu
không khí của
chúng ta không
còn trong sạch nữa. Một ly nước lớn
chúng ta bỏ một hạt muối vào thì không thấy mặn nhưng nó vẫn có muối trong đó
chứ không phải không. Phải không hỡi quý vị? Chúng ta thường hay sợ mất công
cho nên đi tiểu tiện thì cứ đi ra ngoài, chỗ nào vắng vẻ
thì tiểu tiện đại, nhưng phải
hiểu đó là không giữ gìn vệ sinh chung. Đối với đạo Phật không chấp nhận
những hành động thiếu vệ sinh này. Đức Phật nói giữ gìn vệ sinh, thì trước mặt
cũng như sau lưng, luôn luôn giữ gìn vệ
sinh nghiêm túc, chứ không như chúng ta trước mặt khác sau lưng khác.
Có bao giờ
chúng ta thấy
trong các chùa dạy chúng ta đạo đức vệ sinh không? Một
trăm giới chúng học này đức Phật đã dạy để làm gì đây? Một trăm giới chúng học
là những hành động đạo đức làm người đấy các bạn ạ! Trong một trăm giới chúng học
có dạy chúng ta đạo đức vệ sinh, đạo đức hiếu sinh.
Kinh sách phát triển cho những đạo đức này là
những giới nhỏ nhặt nên các vị Tỳ Kheo xem thường không cần giữ gìn. Những giới
nhỏ mà không giữ
gìn được thì những
giới trọng như thế nào? Cho nên,
các Tổ khéo đặt ra một câu chuyện để hủy bỏ những giới nhỏ nhặt này, nói rằng:
“Khi Đức Phật
sắp nhập Niết Bàn, Ngài dặn ông Anan những giới nhỏ nhặt sau này
được quyền bỏ”.
Cho nên, bây giờ các Tỳ kheo đều bỏ những giới nhỏ nhặt.
Những giới
nhỏ nhặt này có lợi ích gì không? Chẳng hạn
chúng ta giữ
gìn vệ sinh như vậy có lợi ích không? Giữ gìn môi
trường sống trong sạch thanh tịnh có lợi ích không?
Những giới
nhỏ nhặt rất có lợi ích cho đời sống con
người. Thế mà người ta
dám bỏ và xem
thường. Những giới
nhỏ nhặt là những
thiện pháp, mà thiện
pháp thì không làm khổ
mình, khổ người.
ĐỨC HÄNH LÀM NGƯỜI
Nói về luật
lệ giao thông tức là nói đạo đức
giao thông. Xưa, đức Phật
đã có dạy đạo
đức này,
tức là giới cấm không
cho hai vị Tỳ kheo đi song song trên đường. Tại sao vậy?
Ngày xưa đi
trên đường mòn, chứ đâu có đường rộng lớn tráng đá trải nhựa như bây giờ,
còn bây
giờ chúng ta thấy tốc độ xe cộ
chạy nhanh như gió. Hằng ngày
chúng ta đọc
báo chí, những tin tức
về tai nạn
giao thông đã đem đến
sự đau khổ cho biết
bao nhiêu người, có những người
chết, có những người bị tàn tật, cụt
tay, cụt chân.
Một hậu quả
thương đau của xã hội do
tai nạn
giao thông. Đó
là do thiếu đạo đức giao
thông mà đã để xảy
ra những tai họa khủng khiếp
cho con người, đem đến cho mọi
người khổ đau,
khổ mình và khổ người. Cho nên, khi học đạo đức của đạo Phật,
thì khi lái xe ra đường, người
ta phải thấy
trách nhiệm, bổn phận đạo đức của mình,
cẩn thận khi cầm tay
lái. Khi uống rượu
say thì nhất định không được lái
xe, lái xe không chạy
quá tốc độ làm chủ của mình. Nếu ai ai cũng thấy trách nhiệm,
bổn phận của
mình như vậy,
thì ít có khi xảy ra tai nạn. Luật lệ giao thông có, theo những biển cấm
các tài xế lái xe phải tuân theo luật lệ giao thông, không được chạy vào những
chỗ cấm. Nơi ngã tư đường có
đèn xanh đèn đỏ. Đèn đỏ chúng ta dừng lại, đèn xanh thì chúng ta chạy. Chúng
ta đi đúng
theo luật lệ giao
thông, thì làm sao xảy
ra tai nạn. Những luật
lệ giao thông
trên đây là đạo đức
mà xưa kia đức Phật
đã dạy. Thế
mà người sau nói rằng đó là những giới nhỏ nhặt cần phải
bỏ cho hợp thời thì thật là vô minh điên đảo.
Đây, đức Phật
còn dạy chúng ta một đức hạnh nữa, một giới luật
nhỏ nhặt nữa. Đức
Phật đã cấm không cho đệ tử của Ngài leo
cây, thế mà các Tổ cho giới
này là giới
nhỏ nhặt cần phải bỏ. Một
người đệ tử của
đức Phật
mà leo cây thì còn thể thống gì, có khác nào là một con vượn,
một con khỉ,
nhưng khi lỡ tay té
xuống chết hay bị gẫy tay, gẫy chân thì ai chịu khổ đau này?
Theo đức Phật
nói: “Con người leo cây không có cây
thang để trèo đó là một
loài chúng sanh, một loài khỉ, vượn, chứ không phải con người”. Muốn sống đúng tư cách của con
người thì phải sống đúng đạo đức. Muốn sống đúng đạo đức, trèo lên cây thì phải
có cây
thang,
bắc thang trèo
cây chúng ta thấy nó ít
nguy hiểm hơn.
Lỡ chúng
ta trèo cây,
té xuống thì ai
khổ và làm cho ai
khổ, chắc chắn
là chúng ta sẽ
khổ, rồi gia đình, những người
thân của chúng ta khổ. Nếu chúng ta trở thành người tàn phế nằm một chỗ,
thì đó là chúng ta đã tự làm khổ
mình, khổ người
và toàn là
làm những người thân thương của chúng ta khổ. Đó là
chúng ta “báo đời” cho những người khác, nếu lúc bây giờ chúng ta chết đi thì
tốt nhất, nhưng
nó không chịu chết thì mới thật
là khổ.
Các con cũng
nghe những người trèo cây mà có thể xảy ra tai
nạn, đưa đến những
sự đau khổ này không?
Ngày xưa,
đức Phật đã
cấm chúng ta những điều này, là vì sự lợi ích cho
chúng ta không làm khổ mình, khổ người.
Đó là đạo đức. Đạo đức để biến chúng ta
từ một loài động vật để trở thành một
con người thật sự. Cho nên, muốn
trèo cây chúng
ta phải bắc
cây thang, trèo cây
có cây thang
ít nguy hiểm hơn là
chúng ta
ôm cây mà
trèo như trên
Thầy đã dạy. Một
hành động nhỏ nhặt như vậy chúng ta không nên xem thường. Đó là đạo đức
làm người, đó là thiện pháp
mà đức Phật
đã dạy
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!