Người hiểu đạo
Phật là phải hiểu đạo đức nhân bản - nhân quả tự sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai thì mới được gọi là
hiểu đạo Phật, còn hiểu khác là ngoại đạo là Bà La Môn.
Tóm lại, sự nhẫn
nhục Ba La Mật của Quan Âm
Thị Kính là
không phải đạo đức của đạo
Phật. Nhẫn nhục
như Quan Âm Thị
Kính là nhẫn nhục của Bà La Môn, của Nho giáo, của Thiên Chúa
giáo v.v.. Nó
không phải nhẫn nhục
của đạo Phật
và cũng không
phải là trí tuệ
của đạo Phật. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: ‚Trí tuệ
ở đâu là đạo đức ở
đó, đạo
đức ở đâu
là trí tuệ ở
đó, trí tuệ làm thanh
tịnh đạo đức,
đạo đức làm thanh tịnh trí tuệ, người có trí tuệ nhất
định có
đạo đức, người
có đạo đức nhất
định có
trí tuệ‛. (Kinh SONADAN trong Trường Bộ kinh tập I trang 167).
Đạo Phật chỉ
có tu tập giới luật đức hạnh mà đi vào
thiền định chứ
không phải chỗ ức
chế tâm
chẳng niệm thiện,
niệm ác mà chỗ
tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Và như vậy Phật giáo đâu phải là
khó tu tập. Phải không quý vị?
Đạo Phật chẳng
có chi nhiều chỉ có thiện và ác. Ác là quả chúng sanh; Thiện là quả A La Hán. Vậy
A La Hán đâu có gì siêu việt; đâu có gì thần
thông; đâu có gì
khác mọi
người, Tuy vậy con người khó làm
được, khó sống được.
Quả A La Hán
sờ sờ trước mắt mọi người, luôn
luôn ở trong
tầm tay của mọi người.
Vậy mà mọi người
cứ nghĩ tưởng
quả A La Hán xa vời
vợi, siêu việt
chỉ có thánh
thần mới đạt được,
còn những kẻ
phàm phu thì khó mà vói
tới. Nhưng không
ngờ ai ai
cũng có thể chứng
đạt được
chân lí ấy. Vì
đây là thiện
vô lậu và đây là ác hữu lậu rõ như ban ngày thì có
ai mà không biết không thấy. Phải không quý vị?
Cho
nên, quả
A La Hán đâu có
khó khăn gì chỉ cần có quyết tâm,
nhiệt tâm với đầy đủ nghị lực, kiên
cường, gan dạ liều sống
chết chiến thắng giặc sinh tử, làm chủ thân tâm, ra khỏi qui luật sinh,
già, bệnh, chết của nhân quả, vượt thoát mọi sự chi phối của
không gian và thời gian,
nỗ lực tiến
lên ra ngoài
vòng kiềm tỏa của vũ trụ. Muốn được vậy quý vị phải giữ gìn giới luật
nghiêm túc, thân
tâm phải được tẩy sạch bằng đức hạnh
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Quý vị có nhớ không?
Nếu giới
luật quý vị
còn vi phạm thì quả vị A La Hán đối với quý vị còn xa lắm,
xa biệt mù.
ĐỜI SỐNG
PHÄM HÄNH
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Cho phép chúng con thưa hỏi sự tu tập về các pháp
hành.
1- Không
gian tham trộm cắp, dù vật lớn đến vật nhỏ như cây kim sợ chỉ.
2-
Không nói dối,
nói lời mất
chính xác, mất sự thật.
3- Không trồng
trọt, làm ăn kinh tế, buôn bán v.v..
4- Không làm
khổ mình, khổ người, luôn nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng nhưng phải sáng suốt
trong trí tuệ nhân quả.
5-
Không ăn
ngủ phi thời, sống
thiểu dục tri túc (ít muốn biết đủ), thực
hiện đời sống thập thiện, xin ăn một bữa vào ngọ trai.
Kính thưa Thầy, con lúc nào cũng muốn sống nghiêm
minh về phạm hạnh của một vị tu sĩ
như vậy, các pháp con kể trên có đủ để sống
và tu
tập đúng phạm hạnh hay
không? Còn thiếu những gì cần bổ
sung thêm xin Thầy từ mẫn chỉ giáo cho con rõ?
Đáp: Những
pháp con đã kể trên
còn thiếu, chưa đủ để sống
đúng đời sống
phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo:
1- Phòng hộ sáu căn, bằng giới luật.
2- Ngăn
ác pháp, bằng
Thánh Chánh
Niệm Tỉnh
Giác Định.
3- Diệt ác, bằng Vô Lậu Thánh Định.
4- Sanh khởi thiện pháp, bằng Định
Sáng Suốt.
5- Tăng
trưởng thiện pháp,
bằng Hiện
Tại An Lạc Trú Định, tức
là Định Niệm
Hơi
Thở.
6- Sống trầm lặng độc cư.
7- Không kết bè bạn
8- Thích sống giản dị.
9- Tránh tranh luận.
10- Tránh chỉ
trích.
11- Tránh hội
họp.
12- Tránh
khoe khoang.
Thêm vào mười hai điều trên đây thì mới đủ cho một
đời sống phạm hạnh của một
tu sĩ chuyên tu của đạo Phật. Có
sống đúng phạm hạnh như vậy, mới mong nhập được Bốn Thánh Định và thực hiện Tam
Minh.
Trên bước đường tu
theo đạo Phật, nếu ai sống
không đúng phạm hạnh như
trên đã dạy thì chẳng bao giờ nhập đúng chánh định và
cũng chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử.
Tất cả những
điều trên đây, đều lấy giới luật Phật làm căn cứ địa cho bước đường thực hiện
những điều đã dạy trên, sẽ đạt kết quả tốt
đẹp.
Bởi giới
luật là một
pháp môn sống đạo
đức nhân bản –
nhân quả, bảo đảm
tu tập cho bước đường tiến về xứ Phật được an lành
và không lạc nẻo tà giáo ngoại đạo. Sự tu tập sẽ được giải thoát hoàn toàn đến
nơi đến chốn mà không bao giờ gặp chướng ngại pháp gây khó khăn cho bước đường
đi đến quả vị giải thoát hoàn toàn.
TÙY THUẬN, BẰNG
LÒNG
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Khi
con tùy thuận và nhẫn nhục,
con đã không làm vừa
lòng quý
cô và quý thầy chung
quanh, đây là điều
ngoài ý muốn của con, con không có biện
pháp giải quyết
tốt đẹp hơn
nên con phải vì quý thầy, quý cô mà xa lánh để không làm
khổ mình, khổ người, như vậy có được không thưa Thầy?
Đáp: Cũng được,
nhưng đó là con tu tránh cảnh, tu trong
cảnh tiêu cực, yếm thế,
vì thấy đời quá khổ,
thấy mọi người
sống không phù hợp
với mình, thấy mọi người
mọi ý nên cố
tránh né
bên này, tránh
né bên kia, để
mong tìm được sự an ổn, đó là chạy theo tâm ham muốn cảnh yên thân của
mình, chứ không phải tu nhẫn
nhục, tùy thuận,
bằng lòng như vậy.
Xưa, đức Phật dạy:
‚Đứng lại
thì chìm xuống
Tiến tới thì
trôi dạt
Chỉ có vượt
qua‛
Con thuộc
về loại người
đứng lại giống như ông Nguyễn Bỉnh Khiêm thất chí tu
Tiên:
“Một mai, một
cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù
ai vui thú nào
Ta dại, ta
tìm nơi vắng vẻ
Người khôn,
người đến chốn xôn xao”
Đó là
cách thức của
người tránh cảnh, trốn đời, chứ chưa phải là người tu
theo đạo Phật.
Đạo Phật
không phải là đạo yếm thế, bỏ đời,
tránh xa mọi
người. Xưa, đức Phật dạy:
‚phiền não tức
là bồ đề‛, lấy đối tượng để tu tập nhẫn
nhục, tùy thuận
và bằng lòng
hay
‚ngăn ác
diệt ác pháp,
sanh thiện tăng trưởng thiện pháp‛.
Khi con đã
tu tập pháp tùy thuận, nhẫn nhục và bằng lòng thì làm sao mà quý thầy và quý cô
không vừa lòng? Chỉ vì con không tu tập xả
tâm trong pháp môn nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, mà chỉ
tu ức chế tâm mình hoặc nén tâm chịu đựng, khi chịu
đựng quá mức,
không còn sức chịu đựng được nổi, bấy giờ tâm
con như chiếc lò xo hết sức nén, nên nó bung ra, do đó mới
làm phiền lòng
quý thầy, quý
cô và chính tâm con cũng phiền
não, giống như người
thế tục,
chứ có tu
hành pháp môn gì
của Phật giáo đâu.
Vậy pháp
môn nhẫn nhục,
tùy thuận, bằng lòng của con ở
đâu? Sao con không tu mà vội tìm cách
xa các đối tượng,
tức là quý thầy,
quý cô và những người khác nữa. Con cứ suy ngẫm
lại đi, khi con xa họ con lấy
cái gì để tu xả
tâm con, họ là đối tượng
giúp con tu hành giải thoát, nếu không có
đối tượng mà tu hành thì dù con có
tu ngàn kiếp
cũng chẳng tu đến
đâu cả.
Đạo Phật
không phải là đạo Lão, không yếm thế, tiêu cực, không vào trong rừng núi ẩn
tu, luôn luôn sống gần làng
xóm, thị tứ để xin ăn,
thường lấy sự
khen chê của
người thế tục mà tu tập và rèn luyện tâm mình, trừ ra những lúc cần phải nhập các định sâu
hơn thì mới vào rừng núi, u vắng nhập thất, không có tịch cốc luyện thuốc trường
sanh bất tử như Tiên đạo.
Nếu bảo rằng,
tâm còn yếu thì phải tìm những nơi yên tịnh, thanh vắng để tu tập cho tâm được định
tỉnh, rồi mới dám ra đương đầu với
các pháp thế
gian. Sự tư duy
như vậy,
đối với đạo Phật
là không đúng
pháp tu của Phật. Vì đức Phật đã dạy: ‚Ngăn ác, diệt
ác pháp‛. Ngăn ác, diệt ác pháp mà trốn trong núi thẳm,
rừng sâu
thì làm sao có ác
pháp, mà không
có ác pháp thì lấy cái gì là ngăn ác, diệt ác pháp.
Đạo Phật vốn xả
tâm, diệt ngã ly
dục, ly ác pháp,
cho nên lấy cuộc sống giao
tiếp hằng ngày với mọi người,
để vượt lên
trên sự sống khổ đau, ấy là giải thoát.
Có quý thầy, quý
cô, có bạn
bè thân hữu, ta mới tu nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng, tức là ta diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp trong tâm ta.
Đương nhiên,
muốn tu tập
hạnh nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng
thì đức Phật đã trang
bị cho chúng ta bằng trí tuệ
nhân quả, bằng sự tỉnh thức
cao độ, bằng một
nhiệt tâm nồng cháy,
quyết liệt, để diệt ngã, xả tâm,
ly dục, ly ác pháp. Nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là
pháp môn đối trị tâm
tham, sân, si, mạn,
nghi của mình.
Nếu tu hành
mà không đem hết sức lực của mình
ra tu tập thì cũng khó chiến thắng tâm ham muốn và các
ác pháp đang vây quanh mình.
Tu hành mà
tránh né thì cũng
giống như mấy ông
Tiên, chỉ biết lợi ích
cho cá nhân
mình:
“Một
mai, một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dù
ai vui thú nào
Ta dại, ta
tìm nơi vắng vẻ
Người khôn
người đến chốn xôn xao? Thu ăn măng trúc
đông ăn giá
Xuân tắm hồ
sen hạ tắm ao.
Rượu đến gốc
cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Ý thưa
hỏi của con ở
trên, đó là
tâm con chỉ thích tránh né cho an
thân, tu như vậy, không thể giải
thoát mà chỉ trốn đời,
tránh tâm mình mà
thôi con ạ! Chẳng
có ích lợi cho con
mà con tu
như vậy, cũng
chẳng có giải thoát, tốn công và uổng phí một đời người
đi tu.
Tu như vậy là
tu theo Lão
Trang, chứ không phải tu theo đạo
Phật. Tu theo đạo Phật phải sống trong thế gian cùng với mọi người, nhưng luôn
luôn khắc phục tâm mình, ly tham, đoạn ác, chẳng biết
việc người, chỉ biết việc mình
để sửa sai những lỗi lầm và những việc làm ác của mình. Vì thế nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng là lập
đức hạnh xử thế; ăn, ngủ, độc cư là lập đức hạnh xuất thế, sống chánh nghiệp của
các bậc thánh tăng và thánh ni.
Đứng trước
nghịch cảnh và
các cảm thọ mà
tâm bất động,
tâm như cục đất, đó
là tâm như Trời Đất; đứng trước
các pháp cám dỗ mà tâm chẳng dao động, tâm
thanh tịnh, bất nhiễm
ô là lập đức hạnh
lìa xa các pháp
thế gian, để chuyển hóa tâm phàm phu của mình, thành tâm Hiền Thánh, nhờ
đó tâm mới trở thành tâm của những bậc thánh tăng và thánh ni, thánh cư sĩ.
Bởi vậy, người
tu sĩ đạo Phật phải lập đức, lập hạnh của mình
trên trí tuệ nhân quả, tức là trí tuệ
giới luật, quyết
chiến đấu, chiến
thắng tâm dục vọng và
ác pháp để
đòi lại quyền làm chủ sanh,
già, bịnh, chết.
Nhất định, phải trường kỳ đấu tranh quét sạch quỷ Vô Thường, không để
cho quỷ vô thường cám dỗ và sai
khiến, biến chúng ta thành những tên nô lệ muôn đời muôn kiếp.
Chính những
điều con đã hỏi
Thầy trên đây là con đã đầu
hàng giặc vô thường, con đã trở thành tay sai của chúng,
vì thế trên bước đường tu tập của con và con tu như vậy, sẽ hoài công vô ích, nếu
tu như vậy, con chỉ là một tên lính đánh thuê cho giặc vô thường.
Nếu mọi người
đang sống trên hành tinh này, ai cũng đều biết rất rõ rằng, mình đang bị
quỷ vô thường, ma
danh, ma lợi,
ma ăn, ma ngủ, ma sắc dục đang cám dỗ và sai khiến mọi
người, mọi người như những tên nô lệ trung thành của nó.
Cho nên, mọi
người phải theo pháp môn của đức Phật để chiến
đấu tận cùng với chúng, bằng
những chiến thuật
ăn, ngủ, độc
cư và bằng những chiến lược nhẫn
nhục, tùy thuận, bằng lòng với những vũ khí
Trí Tuệ Nhân Quả, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, Định
Sáng Suốt, Định
Vô Lậu và Tứ
Thánh Định, Tam Minh v.v..
Nhờ nhiệt
tâm tận lực chiến đấu, chúng ta mới chiến thắng giặc vô thường và giành được
quyền làm chủ sự sống,
chết để
chấm dứt luân
hồi.
Trong cuộc
chiến tranh nội
tâm, nếu chúng ta
tránh né các đối tượng,
tức là chúng ta
đã đầu hàng
giặc, do thiếu hiểu
biết, chúng ta tưởng nghĩ một
cách sai lệch, gọi là không làm khổ mình,
khổ người, chứ kỳ thực,
chúng ta là kẻ đầu hàng
giặc. Giặc vô thường sẽ không
để cho chúng ta
yên ổn với mặt trận sanh, già, bệnh,
chết. Chúng ta đầu hàng
giặc thì cuộc chiến tranh này chẳng bao giờ chấm dứt, và cuộc đời
chúng ta sẽ
mãi mãi trôi
lăn
trong ba nẻo, sáu
đường đầy đau khổ. Nếu
con không nghe lời Thầy mà cố tránh né, để tìm sự an vui theo sự ưa thích
yên ổn một
mình thì cuộc đời
tu hành của
con, chỉ uổng công
mà thôi, tu chẳng ích lợi
gì cho ai cả, mà
làm cho người đời khinh chê Phật pháp,
thì tội ấy ai phải chịu đây?
QUÂ BÁO GÌ
KHI TÂM
VÀ LỜI NĨI
KHƠNG ĐI ĐƠI?
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy, khi tâm và lời nói trái
nhau. Người ta thường nói lời rất
hay ho tốt đẹp, mà tâm thì tư lợi.
Vậy quả báo như thế nào, cúi xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ?
Đáp: Lời hay tiếng đẹp
có nhiều nghĩa: ở đây, con đã nêu ra rất rõ, lời nói
hay ho tốt đẹp mà tâm thì tư lợi, vậy quả báo như thế nào?
Lịch sử đã
chứng minh, quả báo của những vị
quan nịnh thần,
dùng lời hay tiếng tốt ca
ngợi một vị
hôn quân để được
quyền, được lợi
v.v..
Khi đã được nắm toàn quyền trong tay thì tư lợi kiếm rất
dễ dàng như: Tần Cối,
Quách Hoè, Vua Hồn, Bí Trọng, Trầm Khiêm v.v.. Trước khi chết, phải
trả bao nhiêu sự khổ đau và
đời đời mang
tiếng là nịnh
thần lưu danh sử sách.
Ở đời, những hạng người này cũng lắm, luôn dùng lời
hay tiếng đẹp để lừa đảo,
lường gạt người khác, để đem
phần tư
lợi cho mình, quả báo sẽ đến với những hạng người này:
1- Mấât lòng
tin đối với những người khác.
2- Lần lượt
mọi người đều nhận rõ bộ mặt lừa đảo, dối trá,
gian xảo. v.v.. như
kinh sách phát triển và thiền Đông
Độ lần lần người ta cũng sẽ vạch mặt thật của chúng.
3- Khiến ai
ai cũng tránh xa những hạng người này.
4- Những hạng
người này dễ sanh bệnh mắt, tai, mũi, họng.
5- Kiếp sau
làm người câm,
ngọng, điếc, đui, mù v.v..
6- Những hạng người
này thuộc về hạng
ác trí thức.
Nói đến lời
hay tiếng tốt là nói đến kinh sách
phát triển, lời
nói rất hay,
tiếng nói rất đẹp,
ý rất cao siêu
nhưng đã lừa đảo biết bao
nhiêu thế hệ con
người và
làm những việc
phi đạo đức, phi
thiện pháp, phi Phật giáo,
hữu ngã, gây mê tín, phản khoa học v.v.. Nhân quả của nó,
khi trình độ dân trí,
khoa học tiến triển cao độ thì người ta sẽ lột sạch mặt
nạ của nó, giáo lý phát triển này sẽ bị cáo chung, vì chẳng đem lợi ích, thiết
thực, cụ thể cho loài người mà chỉ toàn là thứ ảo tưởng.
Đất nước Việt
Nam có ba vị sư đã vạch tẩy bộ mặt lừa đảo của nó:
1- Người thứ
nhất là Thiền Sư Thường Chiếu sống cách
đây khoảng trên
700 năm. Ngài bảo:
‚Thiền Đông Độ
và kinh sách phát
triển là những
lời đại bịp, một con chó sủa một bầy chó sủa theo‛.
2- Người thứ
hai là Hòa Thượng Minh Châu, Ngài đang sống
trong thế kỷ thứ 20 của chúng
ta. Khi dịch kinh Nguyên Thủy
Nikaya Ngài bảo: ‚...Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của
các vị Bà
La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo
lý căn bản,
những tinh hoa cao đẹp nhất của
nhân loại, đã bị tư tưởng
tà giáo xen
lẫn, bị ruồng bỏ, bị che giấu, không được biết đến, không
được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là
chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Các ba hoa của Ma Vương,
các cuộc đo tài của những ngọn
đèn lẻ tẻ
mù mờ, các bập bẹ
của những kẻ mới tập tễnh đi vào
con đường Triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được
ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch...‛.
3- Người
thứ ba là
chúng tôi trong
đầu thiên niên kỷ thứ ba, chúng tôi thấy biết rất rõ kinh sách phát
triển và thiền
Đông Độ mạo danh Phật giáo chứ không phải của Phật
giáo.
Hiện giờ
người ta còn
theo nó, vì
chưa thấu suốt rõ ràng, nên còn tin nó là lời của đức Phật dạy, nếu rõ
nó không phải là lời của đức Phật dạy thì người ta đã bỏ nó từ lâu.
Nếu đạo Phật dạy
giáo lý của
mình như kinh sách phát
triển thì đạo Phật
chẳng có gì mới
mẻ, chỉ nhai lại bã
mía của lục sư
ngoại đạo và những
sự mê tín của
mỗi dân tộc
trên bước đường truyền bá mà thôi. Nói cách khác, đạo Phật ra đời theo
như kinh sách phát triển thì cũng lập lại triết lý chơn lý của các tôn giáo
khác, hiện đã có mặt trước khi đức Phật ra đời.
Và như vậy,
đạo Phật ra đời có giải quyết được gì đau khổ
của loài người
trên hành tinh này đâu?
Nếu theo lối
mòn của các
tôn giáo khác thì cũng
chỉ an ủi tinh thần
cho những người nhẹ dạ
còn lạc hậu,
vô minh, chưa thông
suốt đạo lý và đường đi của nhân
quả, nên đã tin
theo mà thôi. Còn những người có trí tuệ,
hiểu biết về đạo đức nhân quả và các pháp do duyên hợp tạo thành, thì trí tuệ
đó không làm sao họ chịu chấp nhận
giáo lý phát
triển đó là của
Phật giáo được, họ không thể để giáo lý này lừa đảo họ,
nhưng số người
hiểu biết này
thì lại quá ít. Thỉnh thoảng
có người hiểu
biết nói ra sự
thật thì bị bóp chết ngay, vì thế
chẳng còn ai dám
nói thẳng, chỉ
so sánh giữa
kinh Nguyên Thủy Pali
Nam Tông và
kinh A Hàm trong Hán Tạng Bắc Tông
như Hòa Thượng Minh
Châu đã làm,
chứ không dám
nói sai đúng, nhưng ngầm trong
đó chúng ta cũng biết được Hòa Thượng muốn
nói gì.
Con người hiện
giờ hiểu biết ở trí tuệ hữu hạn, nên dễ bị
các tôn giáo lừa đảo bằng thế giới siêu hình, chỉ ngoại trừ Phật giáo
Nguyên Thủy thì không chấp
nhận thế giới
siêu hình. Vì thế,
chính không chấp
nhận thế giới
siêu hình, nên mới được gọi là Phật
giáo. Nếu Phật
giáo chấp
nhận có thế giới siêu
hình thì đạo Phật không giải
khổ cho con người mà còn tạo thêm một lớp khổ nữa cho loài người
thì đạo Phật cũng giống
như kinh sách phát
triển mà
thôi.
Khi nghiên cứu
một tôn giáo nào, chúng ta hãy nghiên cứu những giáo lý của họ có ích lợi, thiết thực
hay chỉ là một sự
an ủi tinh thần bằng ảo tưởng, để lừa đảo con người
và làm những điều phi đạo đức, thì nhất định chúng ta không ngu si theo tôn
giáo đó. Là con người, chúng ta phải
sáng suốt nhận
định: ‚Con người sanh
ra tôn giáo, chứ
không phải tôn giáo sanh ra con
người‛.
Phật giáo bị thế tục hóa, bị các
tôn giáo và khoa học
hóa, chúng tôi chỉ mong rằng
cái gì của Phật giáo
là trả về cho
Phật giáo. Phật giáo là sự thật của
loài người, chúng tôi không chấp nhận lấy Phật giáo nịnh bợ khoa học
để chứng minh cho rằng
Phật giáo là
khoa học. Theo chúng
tôi nghĩ: khoa học là
khoa học, Phật giáo
là Phật giáo,
Phật giáo không
phải là khoa học mà khoa học cũng không phải là Phật giáo.
Cho nên, khoa học có sự thật của
khoa học, có sự ích lợi
cho con người của khoa học;
nhưng Phật giáo cũng có sự
thật của Phật
giáo đối với con người,
có sự ích lợi
thiết thực cho con người của Phật
giáo.
Khoa học chứng
minh, phân tích mọi vật thể bằng những dụng cụ khoa học để cho con người hiểu
biết rõ ràng,
không mơ hồ, trừu
tượng, ảo giác v.v..
Phật giáo
chứng minh và
phân tích mọi vật
thể và tinh thần
bằng trí tuệ hiểu
biết cụ thể, rõ ràng, không mơ hồ,
trừu tượng, ảo giác, v.v.. theo sự triển
khai từ trí tuệ
hữu hạn đến trí tuệ
vô hạn, để thấu rõ vạn pháp
trong vũ trụ mà không cần đến dụng
cụ khoa học nào cả.
Chúng ta hãy
nghe Hòa Thượng Minh Châu, một nhà học giả, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Phật
Học tại viện
Đại Học Phật
Giáo NaLanDa Ấn Độ,
khi trở về nước
Ngài dịch tạng kinh Pali
(Nguyên Thủy), kinh
Trung Bộ tập hai, được xuất bản
năm 1974, lời giới thiệu, Ngài mạnh dạn vạch trần bộ mặt
kinh sách phát triển mà chúng tôi đã trích ra ở trên.
Đúng vậy,
Hòa Thượng Minh Châu đã xác định nếu ánh sáng rực rỡ của chân lý của
đạo Phật bừng lên sẽ quét sạch những tà thuyết ngoại đạo Ma Vương, nhưng hiện
giờ ánh sáng chân lý của đạo Phật đã bị bọn Ma Vương khéo léo dìm mất và cố
tình tiêu diệt Phật giáo trên
hành tinh
này. Nhưng chúng làm sao được
khi chân lý của đạo Phật còn truyền lại cho loài người và có người đã cố
tâm quyết giữ gìn thì chân lý ấy sẽ không mất, chỉ có những người không hiểu Phật
giáo và những người
lợi dụng giáo pháp phát
triển, để mua
danh mua lợi, dùng
giáo lý buôn
Phật, bán Pháp
làm giàu trên mồ hôi,
nước mắt tín đồ
Phật giáo thì họ cố gắng duy trì.
Chơn lý của
Phật giáo chỉ còn chờ đợi thời tiết nhân duyên đủ là sẽ bừng sáng huy hoàng, chừng đó
cái sai, cái
đúng của Phật
giáo sẽ được phơi bày trước mọi
con người. Bấy giờ, lần lượt chúng ta sẽ vạch trần bộ mặt phi đạo đức, phi giáo lý của đạo Phật trong những
kinh sách phát triển để mọi người suy ngẫm.
Thời đại
chúng ta, đầu thế kỷ thứ hai mươi mốt đã có những người thực hiện con
đường của đạo Phật và
đã có kết quả cụ thể.
Kết quả này, chính là thắp sáng lại chơn lý của đạo Phật.
Trước năm
1952, những tu
sĩ Phật giáo Việt Nam chúng ta chỉ biết được một số
kinh sách phát triển căn bản như: Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp
Hoa, Kinh Kim Cang Bát Nhã, Kinh Di
Đà, Kinh Quy Nguyên, Bát
Nhã
Tâm Kinh
v.v.. Sau này, các phong trào chấn hưng Phật giáo chúng ta mới thỉnh được bộ Đại
Tạng Kinh bằng chữ Hán. Trong Hán Tạng hết sức
phong phú, nhưng
ít người nghiên cứu
các kinh A Hàm, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Dị Giáo. Tuy có biết các bộ
kinh A Hàm nhưng không dám học, vì thầy tổ cấm không cho học, không cho tu giáo
lý đó, phải nương theo “tứ y” của
kinh sách phát
triển, ‚cần phải
y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu
nghĩa kinh‛. Ý nghĩa của câu
kinh này là phải theo
nghĩa lý của Kinh Đại Thừa mà tu
học, không được theo nghĩa lý của kinh khác như: Nhị Thừa, Thanh Văn, Duyên
Giác v.v.. tu học.
Những lời
trên đây là những lời của Hòa Thượng Minh Châu đã nhắc lại lúc đang tu học tại Việt Nam, trong
các chùa Đại Thừa không được học Kinh A Hàm, nói chung là không được học Kinh
Tiểu Thừa.
Sự giáo dục của thầy tổ
như vậy, khiến cho tu sĩ Phật giáo lúc bấy giờ không
hiểu giáo lý của đạo Phật mà lại thông hiểu giáo lý phát triển thuộc Bà La Môn
giáo.
Thầy Tổ của chúng ta mang tiếng là tu sĩ
Phật giáo, nhưng lúc bây giờ chỉ có cái tên là Phật giáo
mà thôi, còn đời sống
và các pháp
môn tu hành đều là
của Bà La Môn, của ngoại đạo thật
là đau lòng.
Hầu hết thầy tổ của chúng
ta, lúc bấây
giờ đều có vợ con, lấy
chùa làm gia đình, lấy sự tụng niệm làm nghề để sống.
Hòa Thượng
Minh Châu du học Ấn Độ tốt nghiệp bằng tiến sĩ Phật học, trở về nước, Ngài quyết tâm dịch Tạng
Kinh Nguyên Thủy tiếng Pali để chấn hưng lại Phật giáo, làm
sáng tỏ những gì của đạo Phật
và dẹp bỏ những gì không phải của Phật giáo. Nhưng Ngài bị một
sức ép quá mạnh của thầy tổ kinh sách phát triển.
Ngài đem
kinh Trung Bộ trong Tạng Kinh Pali ra so sánh
với kinh Trung A
Hàm trong Hán Tạng, cái giống
nhau và cái không giống nhau để cho mọi người
tự suy ngẫm
các Tổ ngày xưa đã dám làm những
việc thêm bớt như vậy trong những lời dạy của đức Phật. Ngài không dám
nói đúng hoặc
sai, vì Ngài
là một học giả, Ngài
đành ôm dạ mà chỉ
tâm nguyện, ước vọng là dịch xong
Tạng Kinh Nguyên Thủy Pali, ước vọng ấy Ngài đã viên mãn. Ngài tin rằng, Tạng
Kinh Pali được dịch sang tiếng Việt Nam,
chắc chắn sẽ
có người Việt
Nam thắp sáng lại ngọn đèn Phật
pháp.
Niềm tin ấy
không còn là một giấc
mơ, mà là một hiện
thực. Một hành giả người Việt Nam sẽ thắp sáng lại đạo Phật, mặc
dù con đường chấn hưng lại
Phật giáo còn
nhiều cam go và thử
thách, nhưng quyết
định phải thành công.
Nhìn gương thầy tổ của chúng ta, nói một điều mà làm
một ngả, nhưng đó là chuyện Phật pháp, họ chỉ làm theo kinh sách phát triển mà
còn phải chịu quả báo khổ đau như vậy, huống hồ là
chúng ta lời
nói thì nghe ngon ngọt mà tâm
địa hơn là
ác thú thì quả
báo làm sao tránh
khỏi và còn phải đọa biết bao nhiêu
lần khổ đau trong vô số kiếp.
Đừng bảo rằng
chẳng có nhân quả, trong thế gian này, nếu không
có đạo luật nhân
quả thì không có một luật pháp
nào có công bằng
và công
lý hơn được.
Nếu không có
nhân quả thì thế gian
này trở thành
một Địa Ngục hắc
ám, vậy
quý vị phải
giữ gìn lời
nói và lương tâm, nhất quán trong thiện pháp, sai
thì quý vị không thoát khỏi tai ương, bệnh tật, nạn ách, khổ đau v.v..
SỐNG HỊA HỢP
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Trong cuộc sống hằng ngày chị em ăn ở với nhau, bất kỳ
trường hợp và hoàn cảnh nào
con cũng tùy hỷ trước
mọi người, mọi việc làm,
không bắt bẻ
chê bai gì hết, ai làm sao cũng
được.
Đối với con
khi ai cho vật gì, dù vật nhỏ mọn nhất, nhưng
con thấy được sự
thanh tịnh ở vật
đó thì con
thành kính nhận
một cách trân trọng
với tấm lòng
thành, còn ngược
lại dù là châu
báu, ngọc ngà
mà không có sự
thanh tịnh thì con nhất
quyết không nhận,
dù có mang lỗi sống không hòa đồng, nhưng con cũng vui
lòng chấp nhận.
Cúi xin Thầy từ bi lân mẫn chỉ dạy cho con rõ như vậy có đúng
không?
Đáp: Sống từ
hai người trở
lên gọi là tập thể,
mỗi tập thể đều phải
có một kỷ luật, kỷ luật đó gọi là thanh quy hay là nội quy.
Thanh quy và nội quy là
để giúp cho mọi
người trong tập thể
đó, phải chấp
hành nghiêm chỉnh
thì mọi người mới
có một cuộc sống hòa hợp, để
cùng chung sống với nhau,
để cùng nhau
xây dựng một mục đích cao thượng đạo đức làm người, không làm khổ
mình, khổ người.
Xưa, đức Phật
đã chế ra sáu pháp hòa hợp
(lục hòa):
1- Thân hòa đồng trụ
2- Khẩu hòa vô tranh
3- Ý hòa đồng duyệt
4- Kiến hoà đồng giải
5- Giới hòa đồng tu
6- Lợi hòa đồng quân
Giới thứ nhất
là thân hòa đồng trụ và giới thứ
sáu là lợi
hòa đồng quân,
hai giới này để
chỉ cho sự sống
bình đẳng, buông
xả cá nhân để thể hiện đức hạnh bằng lòng giúp mọi
người ly dục, ly ác pháp.
Giới thứ
hai là khẩu
hòa vô tranh và giới thứ ba là ý hòa đồng duyệt, hai giới này
chỉ cho sự thể hiện
lòng từ, đức hạnh nhẫn
nhục để tâm hồn được
thanh thản, vô sự, tức là ly
dục, ly ác pháp.
Giới thứ
tư là kiến
hòa đồng giải
và giới thứ năm
là giới hòa đồng tu,
hai giới này chỉ
cho sự thể
hiện lòng bi, đức hạnh tùy thuận để thân tâm được an lạc, tức là ly dục, ly ác
pháp.
Lấy ba đức
ba hạnh để sống, sống làm người có đạo đức thoát
ra khỏi bản chất của
loài cầm thú. Vì thế đạo Phật gọi tu tức sống, nhưng sống đúng đạo đức không
làm khổ mình, khổ người là
tu. Tu không
có nghĩa là tụng
kinh, niệm Phật, cầu chư Phật, chư Bồ Tát
gia hộ cho tai qua, nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ hoặc làm ăn giàu có.
Theo sự nhận hiểu của con
qua những danh từ nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng theo tâm của con,
chứ không phải
theo tâm của người
khác. Ở đây,
con dùng danh từ thanh tịnh và không thanh tịnh không đúng con
ạ!
Đối với con,
khi người ta đem cho con một vật gì, người chủ vật đó chưa có sự giận hờn phiền
toái với con, thì con cho vật đó là
thanh tịnh, còn nếu có sự giận hờn phiền não, thì vật đó con cho là
không thanh tịnh. Con hiểu
như vậy thì con chưa biết cách tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng.
Ở đây,
không nên dùng vật thanh
tịnh hay không thanh
tịnh, mà con
hãy lấy đối tượng
nghịch cảnh, bất toại nguyện
để thực hiện hạnh nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng, thì
mới gọi là tu,
còn tu như con không thể gọi là tu
hạnh nhẫn nhục,
tùy thuận, bằng
lòng. Tu như con chính
là tránh né đối tượng
nghịch cảnh trái lòng.
Theo đạo Phật thì không
chấp nhận những điều này, vì tu như vậy
không bao giờ có giải
thoát, tu như vậy là tìm
sự an ổn, tiêu cực, nén tâm, yếm thế.
Theo đúng hạnh của một tu
sĩ đạo Phật thì chấp
nhận sự đi xin ăn, nhưng không được nhận thực phẩm dư thừa để dành,
ngày nào xin ăn ngày nấy,
đó là lối sống buông
xả và xả sạch, ăn còn không được để dành ngày mai,
ăn chỉ biết ngày nay không lo ngày mai, như vậy mới gọi là người buông xả sạch.
Ngày nay,
người tu sĩ Phật giáo
thường hay tự túc sống, do đó đời sống phạm hạnh của một vị tỳ kheo
tăng không còn
đúng phạm hạnh nữa
và vì vậy,
thánh hạnh của một vị tăng
không còn có.
Do đời sống
không đúng cách đạo đức thánh hạnh
nên đường tu tập của các vị tỳ kheo tăng
và tỳ theo ni chẳng đi đến đâu cả.
Xả ngũ dục lạc tức là xả sắc, danh, lợi, thực,
thùy mà còn xả không
được, huống là tu
cái gì? Hiện giờ, người ta tu hành chỉ là hình thức, còn mục đích
giải thoát thì họ
không tu
tập, gặp các
đối tượng để thực hiện đức hạnh nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng thì tránh né, trốn chạy chẳng dám vượt qua sự đau khổ của
cuộc đời mình. Con không có sự quyết tâm tu hành giải thoát, làm chủ sự sống chết
và luân hồi, chỉ thấy đời đau khổ mà vào chùa tránh né để tìm sự an ổn.
Do cuộc sống
như vậy, nên mới có cất am, thất riêng tu hành. Tu hành mà cất am thất
riêng, để sống tự do thoái
mái thì sự tu
hành đó chẳng đi đến đâu cả. Sự tự do thoái mái đó, đưa người tu sĩ chạy
theo sở thích và tâm ham muốn của mình,
như vậy thì làm
sao gọi là ly dục, ly ác pháp.
Sở thích
của mình là
gì? Là tâm dục. Mà đã
có tâm dục
thì con đường tu hành của đạo Phật làm sao tu đúng được?
Trong đời sống đi
xin ăn của đức Phật, đâu
phải lúc nào ai cũng tôn kính Ngài. Trong cuộc đời đi xin ăn, Ngài gặp rất nhiều
người, họ đã có nhiều lời lẽ thất kính,
thô lỗ thế mà Ngài vẫn thản nhiên,
như vậy mới gọi là
tu tập nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng.
Đoạn đầu
trong câu hỏi,
con có nêu ra
cách sống tùy thuận, đó là lý lẽ qua ngôn ngữ của con,
chứ thực ra con
không có sống
tùy
thuận với ai
cả. Cho nên, trong lục hòa có kiến hoà đồng giải,
nghĩa là tùy
thuận mọi ý kiến
của người khác, để không làm khổ mình, khổ người, đó
cũng là một điều tu tập ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm mình.
Còn đoạn thứ
hai câu hỏi của con Thầy đã chỉ dạy ở trên, đó là nghĩa thứ nhất, nhưng nó
còn một
nghĩa nữa là
thanh tịnh và
không thanh tịnh, có nghĩa là vật trộm cắp hay không trộm cắp phải không
con?
Nếu con biết
vật đó là trộm cắp
(không thanh tịnh) đem đến cho con thì con phải khéo léo từ chối đừng để
mất lòng, hoặc làm người ta buồn; còn nếu vật đó không phải là trộm cắp
(thanh tịnh) người
ta đem đến cho con, nhưng lòng con còn đang hờn giận,
nên từ chối, đó là con không biết cách
tu tùy thuận, xả tâm, diệt ngã để làm khổ mình, khổ người, mà còn mang tiếng là sống không
hòa đồng.
Cuộc sống tu
hành là một cuộc sống tập thể, sống trong
tập thể, nhưng
giữ gìn đức hạnh
trầm lặng và độc cư mới
chính là tu. Do
đó, chúng ta
có những đối tượng để
tu nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng, nhờ thế chúng ta mới diệt được ngã, xả được tâm, ly được dục và ác pháp,
liền ngay đó nhập được Bất Động Tâm
và nhập Sơ
Thiền, làm chủ được cuộc sống, tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Người mới tu
nếu không sống chung trong tập thể mà chỉ sống ở riêng,
độc cư một mình để
tu tập, người ấy sẽ
không bao giờ ly dục, ly ác pháp được và cũng không thành tựu được
chánh định, chánh tuệ, họ sẽ
rơi vào tà thiền,
tà định và tưởng
giải, vì tâm họ còn đầy dẫy dục lạc thế gian, đầy dẫy sự đau khổ
trong tâm tư của một con người thế tục. Tu như vậy, chỉ là ức chế tâm, chịu đựng
làm khổ mình và khổ người, chẳng ích lợi gì cho ai cả.
Sống không
hòa đồng, hòa hợp là không phải nếp sống của người
tu sĩ đạo Phật, cho nên kinh dạy tăng là phải sống hòa hợp
như nước với sữa,
tăng mà sống
không hòa hợp là
tu sĩ ngoại đạo.
Người tu
sĩ đạo Phật
có những pháp
môn để tu hòa hợp như:
1- Nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả.
2- Sống
trong đạo đức làm người thường không làm khổ mình, khổ người.
3- Biết nhẫn
nhục bằng trí tuệ nhân quả.
4- Sống tùy thuận,
nhưng khéo léo an
trú thiện pháp, không bị lôi cuốn vào ác pháp.
5- Bằng lòng
tất cả mọi pháp, dù ác hay thiện nhưng xa lìa ác pháp.
Vậy từ đây về
sau, con nên sáng suốt đừng để tâm chướng ngại, tạo nên cuộc sống không hòa đồng,
hòa hợp. Có được như vậy, mới gọi là tu hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng,
chứ đừng lợi dụng danh từ nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng mà tự làm khổ
mình, khổ người.
Con nên nhớ,
những chị em đang cùng tu đều còn là phàm phu tất cả, nên mọi người ai
cũng có
cái đúng, cái
sai, hãy lấy cái
đúng của người mà sửa lại lỗi
mình, còn cái sai của người khác thì nên
tha thứ họ, đừng cố chấp lấy đó
mà tạo
cảnh khổ đau cho tâm mình.
Đạo Phật là đạo từ
bi mà chúng
ta không biết
tha thứ cho nhau thì làm sao
chúng ta xứng đáng là người đệ tử của đức Phật được.
Tha thứ
không có nghĩa
là tha thứ
riêng cho người lầm lỗi,
mà chính chúng
ta còn tha thứ
những điều sai quấy mà
chúng ta đã lầm
lỗi. Tại sao vậy?
Vì chúng ta
sống không hòa hợp như nước với sữa, nên đã sống trái với đạo đức của đạo Phật,
tức là chúng ta sống trái với mọi người, trái với lương tâm đạo đức nhân quả của
mình.
Sống hòa hợp
là sống không chống trái, sống biết tha thứ, sống biết thương yêu nhau, sống
chia sẻ với nhau những nổi khổ đau của kiếp sống làm người, phải không hỡi quý
vị?
Sống như vậy,
mới có nghĩa là sống đạo đức, sống nhẫn
nhục, tùy thuận,
bằng lòng; sống như vậy, mới xứng
đáng gọi là tu theo đạo Phật, tu theo đạo giải thoát.
Sống chia rẽ,
sống một mình, sống không nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, sống
chỉ biết có mình, sống
không biết tha thứ, sống
như vậy là sống
theo kiểu thế
gian phàm phu, tục tử,
không phải lối sống của
người tu sĩ đạo
Phật.
THỜI KHĨA TU
TẬP
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Thời
khóa tu tập hằng ngày của con
xin Thầy
từ bi hoan hỷ
chỉ dạy cho, để con tu tập được kết quả tốt.
Buổi khuya:
3,15’ con thức
dậy
3,30’ con bắt
đầu tu tập
1- Định Niệm Hơi Thở, con bắt
đầu thở đều 5 hơi
thở mỗi hơi thở 3”, thở xong
con đi kinh hành suốt 30’ rồi tiếp tục ngồi lại ổn định
15’ thư
giãn. Sau khi thư giãn xong rồi bắt đầu
thở lại 15’
cứ một khoảng thời gian là 5 hơi thở và
tiếp tục tu như
vậy đến
5’, đây là
giai đoạn thứ nhất trong buổi
sáng.
2- Con tiếp
tục tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định 5’ vừa
đi kinh hành vừa
câu hữu Tứ Vô
Lượng Tâm, tránh vô tình làm đau khổ
chúng sanh, cứ 5’ này
tu xong con lại tiếp tục tu 5’
khác cho đúng 30’ rồi con xả nghỉ. Đây là giai đoạn thứ hai tu tập trong buổi
sáng.
3- Con xả nghỉ 30’ ngồi thư giãn
con nhắc
tâm: ‚Tâm
phải thư giãn nghỉ
ngơi, vô sự
thanh thản,
an lạc không được nghĩ lung tung,
thân và các cơ
buông thõng xuống, tự
nhiên, không được
gồng, gò bó,
hai chân phải buông thõng ra, thoái mái, dễ chịu”.
Trong thời
gian thư giãn câu pháp hướng con thường
nhắc, nhất là: ‚cảm giác
toàn thân an lạc, tôi biết tôi đang thư giãn và cảm giác
toàn tâm an tịnh, tôi biết tôi đang thư giãn‛. Đó là hai câu con ưng ý nhất lúc ngồi nghỉ
thư giãn và có kết quả nhất. Đây là giai
đoạn thứ ba, con tu tập buổi sáng.
4- Nếu tâm
con không được tỉnh táo còn buồn ngủ, thiếu
sáng suốt thì
con lại đi kinh hành và tu Chánh
Niệm Tỉnh Giác Định câu hữu với Định Vô
Lậu, thường nhắc
tâm buông xả hết
không có gì
là của ta,
là ta, các pháp trên thế gian này là vô thường, vô ngã,
vì vô thường, vô ngã
là khổ đau
và tất cả
các pháp đều trở về không,
không còn có một chút
xíu nào cả của ta.
Nếu con còn
thấy buồn ngủ, không được tỉnh táo thì
con dụng ba
cách để đuổi
hôn trầm, thùy miên:
- Chạy lúp
xúp tại chỗ.
- Đi tắm.
- Tập hít đất
10 lần đến 20 lần.
Đây là
giai đoạn thứ tư mà
con đã tu tập vào buổi sáng.
5- Sau khi
được tỉnh thức hoàn toàn, con tiếp tục
tu tập
ở tư thế ngồi kiết
già, lưng thẳng, tâm
gom chặt vào
hơi thở, không
có niệm khác xen vào, tức là tâm được an ổn trong hơi thở thì con dùng
pháp hướng tâm bằng câu:
‚tâm phải
bất động trước
các pháp thế gian, phải giống như tâm Phật, buông xả
hết, không được
buồn, vui, yêu,
ghét, sợ hãi, lo lắng v.v.. Tất cả
các pháp trên thế gian này, chẳng có gì
là ta,
của ta, nếu còn
thấy là ta, của ta
là ta còn
ngu si, vô minh, điên đảo, là tự trói buộc chặt mình
vào những sợi
dây sanh tử
và luân hồi v.v..‛.
Kế tiếp
con lại quán
xét Tứ Vô Lượng
Tâm, tư duy tìm cái tốt của người
khác và tìm cái
xấu của con, để
tăng trưởng lòng
thương yêu mọi người và dẹp bỏ những thói hư tật xấu của mình.
Con luôn
luôn tu tập
nhìn đời bằng
đôi mắt nhân quả và cố gắng hàng phục tâm mình
trong quả khổ ác để chuyển
nghiệp báo ác nghiệt
trong con cho được nhẹ
nhàng, thoái mái và tâm hồn con
được thanh thản, an lạc.
Con thường hay sợ rắn,
nên thời gian
tu tập Định Vô Lậu con thường như lý tác ý nhắc tâm: ‚Tâm đừng sợ rắn nữa,
rắn không cắn người, rắn rất hiền lành, rắn rất đáng yêu thương, ta
là người thiện
tu theo pháp Phật, ta không làm ác, không hại rắn và
các loài
vật khác và
ta tin rằng: không bao giờ
có loài ác thú
và rắn độc nào cắn hay giết hại ta, ta hãy
bình tĩnh và không bao giờ sợ hãi nữa’’.
Đây là
giai đoạn tu tập thứ năm của con
buổi sáng.
6- Con nhắc
tâm như vậy vài lần rồi xả nghỉ, thư
giãn nhưng con sợ rơi
vào vô ký nên
thỉnh thoảng nhắc
tâm thanh thản,
vô sự các cơ buông
thõng xuống hết,
tâm phải thoải
mái dễ chịu và an lạc. Đây là giai đoạn thứ sáu của con tu tập thời khóa
vào buổi sáng.
7- Khi xả
xong nghỉ 30’
con tiếp tục tu
5 hơi thở như chu kỳ trước đúng 30’. Đây là giai đoạn thứ 7 của thời tu
buổi sáng.
Buổi sáng:
Từ 5’ đến
1giờ 30’
8- Đến đây
là 5 giờ sáng, con lao tác quét sân và
thỉnh thoảng con nhắc tâm: ‚Tôi quét sân
tôi biết tôi
đang quét sân‛. Đây là giai đoạn tu tập thứ 8 của con buổi sáng.
Sau khi
lao tác xong, con tiếp tục tu
lại giai đoạn một, bắt đầu từ:
Từ 7 - 8,30’
cho đến 10 giờ.
Từ 10 - 12 giờ
thọ thực, đang ăn cơm con
cũng nhắc tâm tỉnh thức
trong khi đang
ăn cơm: ‚Tôi ăn
cơm, tôi biết
tôi đang ăn cơm‛.
Từ 12, 30’ -
1, 30’ tịnh chỉ. Buổi chiều:
Từ 2 - 3,30’
chấp tác, lao động và
tu tập
như trên đến
5 giờ.
Buổi tối:
Từ 7 - 8,30’
con tu tập như các buổi ở trên,
đến 9 giờ tịnh
chỉ (đi ngủ).
Kính thưa
Thầy, trong thời
gian tu tập cũng
như ngoài thời
gian tu tập của con, đôi khi
con còn bị thất niệm quá nhiều, có lúc con đi, con vẫn biết con đang đi, nhưng mắt
nhìn quanh và ý xoay chỗ khác, hoặc con chìm trong làm và say xưa quên mất
chánh niệm 1’
có khi
đến 3’.
Và rất thường
xảy ra, con
không biết cách thức làm sao hàng
phục cho tâm luôn luôn tỉnh thức đừng thất niệm, xin Thầy chỉ dạy cho con, con
quyết tâm tu tập đến nơi đến chốn.
Có lúc
con mệt không còn giữ được sức
tỉnh, tâm tán loạn dẫn đến sự
bất an, nếu con không ra ngoài
làm việc thì thức tỉnh
cao hơn và tâm con rất
an ổn tưởng chừng
như không có điều gì lay chuyển
tâm con được.
Sau mỗi thời gian
tu tập, con đều hồi hướng cầu siêu cho mọi linh hồn người đã
chết được siêu thăng Tịnh Độ và cầu an cho mọi người trên
hành tinh được
tai qua, nạn khỏi,
bịnh tật, tiêu trừ
và phát nguyện
độ tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo.
Cúi xin Thầy theo thời khóa trên đây con tu tập có
đúng hay sai xin Thầy mở lượng từ bi chỉnh lại
để con tiếp tục tu tập có kết quả làm chủ sự sống chết và luân hồi.
Đáp: Con
thành lập thời khóa chưa rõ ràng, giờ giấc tu tập
chưa cụ thể, tuy các pháp môn có
thực hiện đúng như lời trong kinh Nguyên Thủy Phật đã dạy, nhưng tu quá sức, vì
còn phải sống hòa hợp với mọi người. Chính
vì con quá nôn nóng tu mau giải thoát, khi nghiệp lực của con như một khối
đá ngàn ký lô mà sức
con chỉ có
nâng được một
ký lô mà muốn
mau thì làm sao được. Tu tập con phải biết đặc
tướng của con, tức là phải biết sức lực của
mình, tu
vừa với sức của con thì có
kết quả ngay liền,
con nên nhớ lời Phật dạy:
‚Pháp của Ta không
có thời gian,
tu là có kết
quả liền‛.
Thầy sẽ
thành lập một thời khóa
cơ bản để con nương theo đó
và tùy lượng sức
của con mà thay đổi
cho phù hợp, để sự tu
hành thu ngắn thời gian không phí
mất vô ích. Dưới đây là thời khóa tu tập chung chung con cần phải sửa đổi sao
cho tu tập tốt.
THỜI KHOÁ TU
TẬP
• SÁNG: 7:00
– 7:30
Thở đều 5
hơi thở, hơi thở phải bình thường, trong tư thế ngồi kiết già lưng thẳng, tâm
chú ý hơi thở rất kỹ, theo dõi từng hơi thở một
không để mất
hơi thở, tức
là thất niệm, xong
5 hơi thở đứng dậy
đi kinh hành, đếm mỗi bước đi từ 1 đến 20 bước, giữ tâm biết
từng bước đi kinh hành rất rõ ràng.
Trước khi thở
đều 5 hơi thở,
phải như lý tác
ý hướng tâm nhắc, ‚Tâm
phải chú ý rất
kỹ từng hơi thở một, không được xao lãng’’
hoặc ‚Tâm phải
bám chặt hơi thở, không được lơi lỏng‛.
Con nên nhớ kỹ trong
thời gian chỉ tu 5
hơi thở
mà thôi, không
tu nhiều hơn, khi mới
bắt đầu tu tập lần đầu tiên.
Sau khi nhiếp tâm trong
5 hơi thở xong thì đứng dậy đi kinh hành.
Trước khi đi
kinh hành cũng
phải như lý tác ý hướng tâm: ‚Tôi đi kinh hành,
tôi biết tôi đang đi kinh
hành’’, trong 20 bước
con nên hướng tâm bốn lần, mỗi lần 5 bước.
Liên tục
thay đổi hai
tư thế ngồi
kiết già và đi kinh hành, hơi thở
và bước đi tu tập đúng
30’, tức là
đúng 7,30’ xả nghỉ.
• TỪ: 7h30 –
8h30
Sau khi tu
tập 30’
xong, liền xả nghỉ thư giãn, ngồi chơi trong tư thế thường,
nhưng lại thường thỉnh thoảng
nhắc tâm: ‚Tâm
phải thư giãn, nghỉ
ngơi, vô sự
thanh thản và an lạc,
tâm không được
nghĩ ngợi lung tung,
thân và các cơ
buông thõng xuống, tự nhiên không được gồng hay gò bó,
hai chân phải buông
thõng ra, tự nhiên thoái mái, dễ chịu’’.
Nhắc xong
câu pháp hướng này thì thân tâm phải buông
thõng nhẹ nhàng
và tự nhiên.
Kế tiếp
thỉnh thoảng, con nên
nhắc câu này nữa:
‚Cảm giác toàn
thân an lạc tôi biết
tôi đang thư giãn‛,
hoặc câu ‚Cảm
giác toàn tâm an lạc, tôi
biết tôi đang
thư giãn‛.
Sau khi
thư giãn nghỉ ngơi
đúng 30’ con
lại tiếp tục
tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
• TƯ:Ø 8:00
– 8:30
Đi kinh hành
tu tập Chánh
Niệm Tỉnh Giác câu hữu Tứ Vô Lượng
Tâm. Vừa đi vừa chú ý bước chân vừa nhắc: ‚Tôi
đi kinh hành tôi biết tôi phải giữ
gìn tránh không cho giậm đạp lên chúng sanh‛ rồi đếm bước đi từ 1 cho đến 20 bước,
đúng 20 bước dừng lại, ngồi
nghỉ xả hơi 2’.
Khi xả nghỉ
2’ xong, liền
đứng lên tiếp tục đi kinh hành trở
lại và nhắc tâm: ‚Tôi đi kinh hành
tôi biết tôi
đang đi kinh hành‛
hoặc ‚Tôi đi kinh hành
tôi biết tôi giữ
gìn không giậm đạp
lên chúng sanh’’, hướng tâm như vậy, rồi tiếp tục đếm
bước đi từ
1 cho đến 20 bước
rồi xả nghỉ,
khi ngồi nghỉ
đúng 2’ rồi lại tiếp tục
đi kinh hành như
trên và cứ thế, vừa đi vừa nghỉ cho đến đúng 30’ mới xả nghỉ.
• TỪ: 8:30 –
9:00
Khi xả nghỉ,
ngồi chơi hoặc
nhổ cỏ hoặc may vá. Tâm có vọng tưởng hay không vọng
tưởng cũng tốt, đừng nên
lúc nào cũng ức chế tâm
không cho vọng tưởng
xen vào là
không tốt phải để
tâm tự nhiên
của nó, đừng bắt ép nó thái quá, muốn mau mà thành chậm. Nhớ
không được tập
trung quá nhiều
mà sanh ra mỏi
mệt lười biếng,
hôn trầm, buồn
ngủ, thân lờ đờ uể oải, tâm thẫn
thờ, khó chịu. Đó là tu quá sức thành ra tu sai.
Tu vừa với sức mình
là tu đúng
pháp, tu tốt. Tu ít quá, thừa sức
làm mất thì giờ phí uổng; tu nhiều
quá thì căng thẳng
thân tâm, sanh ra bệnh tật không
tốt.
Ví như
người lên dây
đờn, chùng thì không thành tiếng, căng quá thẳng thì đứt
dây, chỉ có lên
dây vừa là
phát âm tiếng
tốt đúng nhịp. Cho nên, thời gian
xả nghỉ phải để tự nhiên như người chưa bao giờ tu.
• TỪ: 9:00 –
9:30
Sau khi xả nghỉ
tâm được tỉnh
thức hoàn toàn mới nên tiếp tục
tu tập Định Vô Lậu, ngồi kiết già, lưng thẳng dùng pháp hướng tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh:
‚Tâm phải bất động trước
các pháp
thế gian, phải
giống như tâm Phật, phải buông xả hết không được buồn,
vui, yêu, ghét, giận, hờn, thù, oán, ham muốn và sợ hãi v.v.. Tất cả các pháp
trên thế gian này chẳng có gì là ta, của
ta, nếu ta còn thấy là
ta, là của
ta, là ta
còn vô minh, điên đảo, ngu
si, là ta
đã tự buộc chặt
ta vào những
sợi dây sanh tử luân hồi và khổ đau muôn kiếp‛.
Kế tiếp
quán xét Tứ
Vô Lượng Tâm,
tìm cái tốt của mọi người
và quan sát các tật xấu, thói
hư của mình để cố gắng khắc
phục sửa chữa. Sau khi quán xong,
kế tiếp ta dùng pháp hướng nhắc tâm như lý tác ý: ‚Tất cả mọi người ai ai cũng
đều là những
người tốt, không có ai
là người
xấu cả, họ thường
giúp ta mọi mặt, lúc nghịch duyên cũng có lúc
thuận duyên, để
ta tùy theo
các pháp mà lập đức hạnh nhẫn nhục,
tùy thuận, bằng lòng và nhờ đó tâm
ta mới được giải thoát ra khỏi
biển đời đầy cay đắng, khắc nghiệt và đau khổ này. Ta
luôn luôn phải nhớ ơn của mọi người, ơn nghĩa ấy rất sâu dầy, nhờ
có các duyên
thuận, nghịch của họ
ta mới thấy tâm
hồn mình thanh thản, an lạc và vô
sự. Cho nên, ta không có cớ gì
oán giận,
thù ghét họ. Đời ta được giải thoát như thế này thì ta hãy xem họ là ân nhân tốt nhất trong đời
sống tu hành của
ta‛.
Kế tiếp, con
phải tu tập nhìn đời bằng đôi mắt nhân
quả và tư
duy, suy nghĩ cách
thức nào để hàng phục những hành động thân, miệng, ý ác của mình để hằng ngày chuyển hóa những hành động ác, để
trở thành những hành động thiện. Và nhờ biết chuyển hóa như vậy, nên chuyển hóa
được nghiệp báo khổ đau, bệnh tật, tai nạn và chuyển hóa cả nghiệp báo luân hồi
sanh tử được nhẹ nhàng và thoái mái.
Nếu tâm
ta thường hay sợ ma, sợ bóng đêm,
sợ rắn, chuột,
đỉa và các
loài vật khác nữa, thì trong thời gian tu tập Định Vô
Lậu ta nên quan sát các loài vật đều
hiền lành không có loài vật nào hung ác, chúng cắn ta chỉ vì bảo vệ sự sống của
chúng mà thôi,
khi bị tấn công hoặc bị giậm đạp
lên chúng, chúng đau đớn mà phản ứng bảo tồn sự sống nên mới cắn
chúng ta. Tùy theo
nhân quả và
nghiệp báo của chúng, nên chúng mới có những hình dạng
và màu sắc hoa đốm
khiến cho chúng ta thấy có loài
vật không sợ nhưng có loài lại thấy rất sợ hãi.
Muốn không sợ
hãi, ta nên
dùng pháp
hướng như
lý tác ý:
‚Tâm đừng nên sợ rắn, rắn không cắn hại người hiền đâu, ta là
người hiền tu theo đạo Phật, ta không làm ác, làm hại, làm khổ đau chúng sanh,
thì quyết chắc không bao giờ có ác thú và rắn độc hại ta được, ta hãy bình tĩnh
và không bao giờ sợ nữa‛.
Nếu tâm thường
sợ ma và bóng đêm thì ta nên nhắc: ‚Đức
Phật đã dạy thế giới
siêu hình không có, tức là không có linh hồn người chết,
mà đã không
có linh hồn người chết thì ma là cái gì? Ta quyết định không sợ
ma, vậy không
có ma, ma chỉ là một bóng dáng tưởng tượng của người còn mê
tín lạc hậu mà thôi. Từ đây, tâm ta không
được sợ ma nữa, phải dạn dĩ, can đảm và chẳng hề sợ gì cả’’.
Kế tiếp, ta
tu tập dùng pháp hướng như lý tác ý để diệt ngã, xả tâm chấp ngãõ: ‚Thực phẩm
là món ăn bất tịnh, uế trược, ta phải chừa
tánh ưa thích ăn ngon‛, và
ta tác ý câu khác nữa: ‚Thân, thọ, tâm và các pháp
này đều
là do duyên hợp,
không có cái gì
là ta,
là của ta, là bản ngã của
ta, nên
từ
đây về
sau, ta không
được chấp ngã,
coi
trọng ngã,
yêu quí ngã, lo lắng cho ngã‛.
Ngã là một
trong nhiều duyên của nhân quả, của các
pháp hợp lại thành thân ngũ uẩn, nó tiếp xúc các trần tạo thành một thế
giới khổ đau trong đó chẳng
có gì là của
ta, là ngã của
ta hết. Ta phải thông suốt hiểu biết đó là một khối đau khổ
hay gọi là thế giới
khổ đau đang mở ra, biết rõ như vậy,
ta phải xa lìa nó, từ bỏ nó, viễn ly nó.
• TỪ: 9:30 –
10:00
Tu Định
Niệm Hơi Thở
câu hữu pháp hướng
như lý tác
ý về vô lậu. Trước
tiên, ta phải ngồi
kiết già, lưng
thẳng, sau khi thân tâm đã an ổn, rồi dùng pháp hướng tâm như lý
tác ý:
‚Sáu thức phải
bám chặt vào
tụ điểm, biết hơi
thở ra, vô
cho rõ ràng‛. Hướng tâm xong, rồi
hít một hơi thở dài chậm chậm để
gom tâm, kế tiếp thở hơi thở bình thường
khoảng độ 5 hơi thở, rồi lại
hướng tâm một lần: ‚Tôi thở, tôi biết
tôi đang thở‛, khi hướng tâm lại tiếp tục thở 5 hơi
thở nữa. Sau khi thở
5 hơi thở xong, thấy
thân tâm an lạc thì theo pháp
hướng tâm như
lý tác ý nhắc
tâm: ‚Quán ly tham tôi biết tôi đang hít vô, quán ly tham tôi biết
tôi đang thở ra’’, tiếp
tục lại thở 5 hơi thở nữa, rồi lại hướng
tâm nhắc: ‚Quán ly sân tôi biết tôi
đang hít vô, quán ly sân
tôi biết tôi
đang thở ra’’. Hướng
tâm xong câu này,
ta lại tiếp tục thở 5
hơi thở nữa, rồi lại hướng tâm nhắc: ‚Quán
từ bỏ tâm si tôi biết
tôi hít vô, quán từ bỏ tâm
si tôi biết tôi thở ra’’,
kế tiếp lại thở 5 hơi
thở nữa, rồi lại hướng tâm nhắc như trước:
‚Quán từ bỏ ngã mạn tôi biết tôi
hít vô, quán từ bỏ ngã mạn tôi biết tôi thở ra’’, lại tiếp tục thở 5 hơi
thở nữa, rồi lại hướng
tâm như lý tác ý nhắc tâm như trên: ‚Quán từ bỏ tâm nghi tôi biết tôi
hít vô, quán từ bỏ tâm nghi tôi biết tôi thở ra‛, tiếp tục ta lại thở 5 hơi thở nữa, rồi lại
cũng nhắc tâm như: ‚Quán từ bỏ ái kiết
sử tôi biết tôi
hít vô, quán tử bỏ
ái kiết sử
tôi biết tôi thở ra‛, rồi lại tiếp tục thở 5 hơi thở nữa, rồi
hướng tâm như trên:
‚Quán từ bỏ sân kiết sử
tôi biết tôi
hít vô, quán từ bỏ sân kiết sử tôi biết tôi thở ra’’, rồi lại tiếp tục thở 5 hơi thở nữa và
hướng tâm nhắc như trên:
‚Quán từ bỏ
thân kiến kiết sử tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ thân
kiến kiết sử tôi biết tôi thở ra’’,
rồi lại tiếp tục
thở 5 hơi thở nữa và hướng tâm:
‚Quán từ bỏ nghi
kiết sử tôi biết tôi hít vô,
Quán từ
bỏ
nghi kiết sử
tôi biết tôi thở ra’’, rồi lại tiếp tục thở 5
hơi thở
nữa và hướng
tâm như trên:
‚Quán từ bỏ
mạn kiết sử tôi biết tôi hít vô,
quán từ
bỏ mạn kiết sử tôi biết tôi thở ra’’ rồi lại tiếp tục thở 5 hơi thở nữa và
cũng hướng tâm như trên: ‚Quán từ bỏ hữu tham kiết sử tôi biết
tôi hít vô, quán từ bỏ hữu tham kiết sử tôi biết tôi thở ra’’ rồi lại tiếp
tục thở
5 hơi thở nữa và hướng tâm
như trên: “Quán từ bỏ vô minh kiết sử tôi biết tôi hít
vô, quán từ bỏ vô minh kiết sử tôi biết tôi thở ra’’, rồi lại tiếp tục thở 5
hơi thở nữa và hướng tâm như trên:
‚Thân này không
phải là ta, tôi
biết tôi hít vô,
thân này không phải là ta, tôi
biết tôi thở
ra’’, rồi lại tiếp tục thở 5 hơi thở nữa và nhắc tâm như trên:
‚Thân này không phải của ta, tôi biết tôi hít vô, thân này không
phải của ta, tôi biết tôi
thở ra’’, rồi lại tiếp tục thở 5 hơi thở nữa và hướng tâm như trên:
‚Thân này không phải là tự ngã của
ta, tôi biết
tôi hít vô, thân
này không phải là tự ngã của
ta, tôi biết tôi thở ra‛.
Sau khi
dùng pháp hướng
về thân xong, thì chúng ta lại
tiếp tục dùng pháp
hướng như lý tác ý về
thọ, khi hướng tâm về thọ
xong, ta dùng pháp hướng về tâm, khi dùng pháp hướng
về tâm xong,
ta dùng pháp hướng về các pháp, nhưng có điều ta nên nhớ: lúc nào ta cũng phải
nương theo hơi thở
khéo tác ý như
vậy, thì sự lợi ích và kết quả rất lớn
cho hành giả.
Khi tu Định
Niệm Hơi Thở
và câu hữu pháp hướng vô lậu về thân, thọ, tâm, pháp
như trên đã xong, ta lại tiếp tục tu tập Định Niệm Hơi
Thở và câu hữu pháp
hướng vô lậu
thân, thọ, tâm, pháp
như sau: ‚Thân này bất tịnh tôi
biết tôi hít vô,
thân này bất tịnh tôi biết tôi thở ra’’, rồi lại thở 5 hơi thở
và hướng tâm như trên: ‚Thân này vô thường tôi biết tôi hít vô,
thân này vô thường tôi biết tôi thở ra’’, rồi lại tiếp tục tu tập 5 hơi
thở nữa và lại hướng tâm như trên:
“Có thân là khổ, tôi biết
tôi hít vô, có
thân là khổ,
tôi biết tôi thở
ra’’, rồi lại tiếp tục
tu tập thở 5
hơi thở nữa và hướng tâm
như trên: ‚Thân
này vô ngã, tôi biết tôi hít vô,
thân này vô ngã, tôi biết tôi thở ra’’.
Sau khi tu tập
Định Niệm Hơi Thở và câu hữu pháp hướng vô lậu
về thân xong, chúng ta lại tiếp tục tu tập như
trên, nhưng thay
vào thân bằng thọ, tâm và pháp. Trong thời gian tu tập, chúng ta đều phải
nương theo hơi thở và khéo léo, thiện
xảo như lý
tác ý như vậy thì
chúng ta sẽ
thấy kết quả thân tâm an lạc vô cùng.
Cuối cùng
nên nhớ kỹ, cứ cách 5
hơi thở thì phải hướng
tâm nhắc một lần: ‚Cảm
giác toàn thân an lạc, tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn thân
an lạc tôi biết,
tôi thở ra’’, rồi
lại tiếp tục tu 5 hơi
thở nữa và hướng tâm:
‚Cảm giác
toàn tâm an tịnh
tôi biết tôi hít vô, cảm
giác toàn tâm
an tịnh tôi biết
tôi thở ra’’, rồi lại thở tiếp 5 hơi thở nữa và hướng tâm nhắc:
‚Tâm như cục đất
tôi biết tôi
hít vô, tâm như cục đất tôi biết tôi thở ra’’.
• TỪ: 10:00
– 12:00 (thọ thực)
• TỪ: 12:00
– 2:00 (tịnh chỉ)
--o0o--
BUỔI CHIỀU:
Từ 2h00
– 2h30 (Định Niệm
Hơi Thở tu tập theo thời khóa như lúc 7,00 - 7,30).
Từ 2h30 –
3h00 (xả nghỉ thư
giãn tu tập đúng như lúc 7,30 - 8,00).
Từ 3h00 –
3h30 (đi kinh hành tu tập đúng như lúc 8h00 – 8h30).
Từ 3:30 –
4:00 (xả nghỉ ngồi chơi và tu tập đúng như lúc 8:30 – 9:00).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!