Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
những người
làm việc nhiều, lao động nặngï mà muốn
ăn ngày một bữa thì phải
chọn một bữa ăn chính
còn hai bữa ăn kia chỉ uống sữa hoặc nước trái
cây mà thôi
giống như các
nhà sư Nam Tông.
Đối với đạo
Phật là tìm sự giải thoát ngay trong đời sống
nên ăn uống
có nghĩa là phải
đơn giản nhất và tiện lợi
nhất như thế nào để
được sống với tâm hồn
thanh thản, an lạc, bởi vì chủ trương của
đạo Phật là ăn để sống chứ không sống để ăn.
Ăn ngày một bữa
cũng là một
phương pháp nghỉ ngơi
và giảm bớt sự lao động trong cơ thể, để cơ thể dồn năng lực đề kháng
vào bệnh tật khi cơ thể có bệnh.
Con nhờ ăn
ngày một bữa, đó là giảm bớt sự lao động
trong cơ thể của
con và còn biết tiết
kiệm năng lực
không để tiêu
hao bằng cách:
- Không
nói chuyện những
điều không cần thiết, cắt giảm việc
tắm gội giặt giũ, tránh đi mua sắm đồ đạc,
tránh đám đông,
tránh đàm luận, tránh tranh cãi.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
- Tránh không suy nghĩ những điều
không cần thiết
dù trong một
giây phút hiện
tại.
- Tránh
đổi tâm đang bình
thản ra tâm giận hờn, phiền não
v.v..
- Cố gắng lúc nào có thời gian rảnh cũng giữ
gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
- Cố gắng
giữ gìn tâm đừng để
tâm buồn lo, sợ hãi.
- Thường tập sống trầm lặng độc cư ngày
ít nhất cũng
phải 30’, để sống cho mình.
- Thường
đi kinh hành
không nên chú ý
nơi đâu cả mà chỉ để tâm hồn tự nhiên như người vô sự.
Đức Phật và chúng Thánh Tăng ngày xưa ăn ngày một bữa, Phật
đã sống đến tám mươi tuổi, ông Anan đã sống đến 120 tuổi.
Con còn
lao động nhiều,
nhưng không phải vì lý
do đó mà vì đạo đức
không làm khổ mình, khổ
người, vì thế Thầy khuyên
con nên ăn ngày một bữa như các sư Nam Tông.
Chính đạo
đức làm người
là trên hết, mình
an vui mà mọi người
cũng đều được
an vui thì đó là hạnh phúc là giải thoát con ạ!
û õ Ï
THIỀN MINH
SÁT TUỆ
Hỏi: Kính thưa
Thầy! trước kia
con có tập tu với thầy Nhất Hạnh, và sau đó có tập tu Tiểu Thừa Tứ Niệm Xứ do các
sư Miến Điện chỉ dạy. Đề mục
chính là theo dõi phồng xẹp ở bụng. Con vừa
mới hơi quen, thì
nay con đổi sang theo hơi thở gió
ra vào ở nhân trung. Con có thể giữ theo phồng xẹp được không?
Đáp: Được,
nhưng con phải biết
áp dụng cho đúng phương pháp hơi
thở của đức Phật, phồng xẹp là sự hoạt động của cơ
bụng do sự hít thở. Sự tập trung vào cơ
bụng là ức chế tâm chứ không có nghĩa là xả tâm. Con nên lưu ý Thiền Minh
Sát Tuệ đức Phật không
có dạy, nếu theo
dõi hơi thở
và chỉ có biết cơ bụng phồng xẹp thì đó là ức chế tâm, con
nên tránh nó sẽ đưa con vào thiền tưởng, một loại thiền không có lợi ích gì cho
thân tâm. Nếu có tu tập con nên luôn luôn phải dùng pháp dẫn tâm vào chỗ ly
tham đoạn ác pháp, có như vậy con mới khắc
phục được tâm
tham ưu của mình,
mới thấy được tâm hồn thanh thản, an lạc của con, còn nếu chỉ thấy
có sự
phồng xẹp tĩnh lặng và các trạng
thái của sắc,
thanh, hương, vị,
xúc,
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
pháp tưởng
xuất hiện thì đó
là con đã tu sai
rồi, phải mau
mau trở về với hơi thở, nương vào hơi thở mà tu tập 19 đề mục hơi thở
như Phật dạy.
Phồng xẹp là
một phương pháp của thiền Minh Sát do
các sư Nam
Tông Miến Điện tưởng
giải ra pháp môn
này dùng để ức chế tâm triển khai tưởng tuệ mà các sư gọi là
Minh
Sát.
Khi
dùng nó
con phải thiện xảo
và khéo léo luôn luôn phải dùng pháp
như lý tác ý theo động tác phồng xẹp thì mới có hiệu quả xả tâm.
ĐI KINH HÀNH
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Về đi hành thiền, các sư Miến Diện dạy theo
dõi bốn động
tác của một bước,
chuyển, dơ, đưa và đạp, nên đi
thật chậm, nếu đi mau thì niệm:
‚bước, bước‛. Tâm luôn để ý
vào bàn chân.
Xin Thầy chỉ rõ
cho con cách đi thiền hành. Con có dự định về Việt Nam để tập
theo Thầy vài tuần
cho quen
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
rồi trở về Mỹ
thực tập, xin Thầy cho con biết có thuận tiện cho thiền viện của Thầy không?
Đáp: Con đừng bắt
chước đi kinh hành theo các nhà sư Miến Điện, trong
kinh điển của Phật không có dạy đi kinh hành giống như một người bệnh
đi không nổi.
Đi như vậy có
nghĩa là ức chế tâm quá mạnh buộc tâm phải gom vào từng động tác của bước
chân đi.
Đạo Phật lấy
tự nhiên mà tu tập, cho nên đức Phật dạy lấy đặc tướng mà tu. Vì mỗi người đều có đặc tướng
riêng biệt nhau,
người có tướng lùn
đi chậm, nhưng
lại có người
lùn mà đi nhanh;
người có tướng
cao đi nhanh nhưng lại
có người cao mà
đi chậm. Do thế,
chúng ta tùy theo đặc tướng
tự nhiên đi chậm hay đi
nhanh mà đi
kinh hành theo tự nhiên
đặc tướng riêng của
mình thì mới tìm thấy
sự giải thoát ngay liền, còn nếu
chúng ta bắt buộc đi chậm quá mất tự nhiên tức là không giải thoát mà ngay từ
bắt đầu tu
là đã không
giải thoát thì làm gì có giải
thoát sau này.
Vậy con hãy
đi tự nhiên
theo đặc tướng của
mình chậm thì
đi chậm, nhanh
thì đi nhanh, đi
đúng đặc tướng
của mình là
đã tìm thấy sự giải thoát ngay liền,
nghĩa là không có bị gò bó bắt buộc.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
Đi tự nhiên
cứ theo pháp kinh hành tu tập đúng. Tu tập đúng từng bước đi con đã tìm thấy sự
thanh thản, an lạc của tâm hồn con.
Con hãy về VN rồi đến
tu viện tu tập,
không có gì trở ngại cho tu viện, sau khi tu tập nắm vững căn bản đường lối
cách thức, rồi con hãy trở về Mỹ tập luyện mới đúng cách xả tâm chứ không
khéo con tu ức chế tâm
mà không biết thì rất
có hại về
sau, vì con đường tu còn dài.
ĂN SAU GIỜ
NGỌ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Về ăn đôi khi con không có điều kiện ăn trước 12 giờ trưa. Con có thể
ăn trễ một chút được không?
Đáp: Được,
ngày ăn một bữa dù con ăn giờ nào
cũng được chứ
không phải đợi đến 12 giờ trưa, vì tại Mỹ 12 giờ trưa thì ở VN
và các nước khác thì không phải
là 12 giờ trưa,
đôi khi là
12 giờ khuya
nữa là khác,
khắp trên thế giới
múi giờ không giống nhau được, là vì trái đất phải theo
quỹ đạo đi vòng quanh mặt trời, cho
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
nên không
căn cứ vào giờ giấc mà phải căn cứ vào
sự tiện lợi
cho mình và cho người khác trong
giờ ăn uống.
Do đó, đức Phật
chọn vào giờ trưa
là vì buổi
trưa nhà nào
cũng có nấu cơm để
ăn, trong khi đi
xin ăn về
có trễ lắm thì cũng
12 giờ trưa, còn
ngoài giờ trưa tức là buổi
sáng và buổi chiều
thì đi xin ăn
là một điều bất tiện cho người
khác, nên đức Phật cấm tu sĩ không ăn chiều và sáng là lý do này.
Như Thầy đã
dạy: ‚ăn ngày một bữa là Thánh hạnh, phàm phu khó mà sống được, vì tâm tham dục của họ còn nhiều, nhất là về ăn uống‛.
Nếu ai
ngày ăn một bữa, dù bữa ăn đó
trong giờ nào cũng được, miễn là đừng ăn phi thời, ăn lặt vặt
nhiều bữa thì người
đó sống trong Thánh hạnh.
Như vậy
vào giờ nào
con ăn cũng tốt,
nhưng phải ăn một bữa
vào ban ngày
vì ban đêm mà ăn uống thì vất vả
nhiều hơn phải không con?
Con có
duyên với Thánh
hạnh của Phật nên ăn ngày một bữa mà hết bệnh, đó là lấy
Thánh hạnh của Phật chuyển hóa nhân quả của con và nếu trên bước đường hướng về
đất Phật
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
chắc chắn
con sẽ đạt được
ý nguyện. Nhưng phải tu tập đúng chánh pháp của Phật.
NËM HƠI THỞ
ĐI
KINH HÀNH
HAI MƯƠI BƯỚC
Câu hỏi của
Kim Tiên
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Về thiền, lúc đầu chuyển từ ngồi lâu
sang 5 hơi thở đi hành thiền
rất khó khăn,
nhưng qua lời giảng rất hợp lý của Thầy, con thay đổi. Lúc chuyển
từ ngồi đứng dậy
con cũng cố gắng giữ
chánh niệm thì chẳng khác
chi thiền. Con có được sự
lợi ích là tập được tánh rõ ràng kiên nhẫn và không chỉ
thiền lúc ngồi
mà lúc thân
thể cử động nữa.
Kính thưa
Thầy, pháp môn này
rèn luyện nghị lực giúp
cho tâm tánh kiên
nhẫn và tỉnh thức
rất tuyệt vời
nhưng sao con không thấy trong
các kinh sách
dạy? Xin Thầy
dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Trong
kinh sách của Phật
không có dạy điều này, nhưng
qua kinh nghiệm tu hành
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
của Thầy,
khi bị hôn trầm, thùy
miên quá nặng, Thầy không biết
cách nào khác hơn là cứ năm hơi thở rồi lại đứng dậy đi kinh hành một vòng 20 bước
rồi ngồi xuống
thở năm hơi thở
rồi lại
đứng dậy đi
kinh hành nữa và cứ như thế
cho đến khi hôn trầm,
thùy miên không còn nữa mới xả nghỉ.
Kết quả sự tu tập này
đã giúp Thầy rất
tỉnh giác nhờ thế mà Thầy xả tâm ly dục ly ác pháp rất dễ dàng.
Nhờ tập
luyện pháp môn
này Thầy thấy tự
mình có một sức kiên nhẫn, bền chí và gan dạ
đã từng vượt qua từng tâm niệm tham, sân, si, mạn,
nghi của mình,
dám chiến đấu tận
cùng với mặt trận nội tâm mà không hề chùng bước trước những sự khó khăn gian
khổ.
Bởi vậy,
người nào lười
biếng thì không thể nào thực hiện
pháp này nổi, tuy pháp môn đơn giản nhưng
người nào tu tập cũng rất sợ hãi nó.
Thăm và
chúc con mạnh khỏe
an vui tu tập xả tâm tốt.
Kính thư
Thầy của các
con
Ø À Ù Ä Ä
VIỆC SỘN GIÁO ÁN
Câu hỏi của
Minh Trí
Đáp2: Muốn
soạn thảo ‚Giáo
Án Tu Tập Cho
Người cư sĩ‛, thì con nên dựa
vào 10 tập Đường Về Xứ Phật, hai
tập giới đức làm người, hành thập
thiện, Thọ Bát
Quan Trai, Đạo Đức Nhân Quả, kinh
Pháp Cú và tám tiêu chuẩn mà Đức Phật đã
nêu ra trong kinh Tăng Chi tập 4 trang 22 để dạy người cư sĩ tu tập:
1- Đầy đủ tháo vát.
2- Đầy đủ phòng hộ.
3- Làm bạn với thiện.
4- Sống thăng bằng điều hòa.
5- Đầy đủ lòng tin.
6- Đầy đủ giới.
7- Đầy đủ bố thí
8- Đầy đủ trí tuệ.
Trong kinh Tăng
Chi tập 4 trang
23, đức
Phật đã giảng dạy
cho chúng ta hiểu
ý nghĩa
2 Chơn
Như ngày 28 tháng 12 năm 2000
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
của tám tiêu
chuẩn này tuy rất giản lược nhưng phải
suy rộng ra
biên soạn thành
một giáo trình tu tập
cho người cư sĩ rất
có ích lợi và
thiết thực.
Kế đó
con nên dựa
theo Mười Người Hưởng
Dục có mặt hiện hữu ở đời
này, trong kinh Tăng Chi tập 4 trang
477 phẩm Nam Cư Sĩ và kinh Kandaraka trang 9 Trung Bộ Kinh
tập II.
Con
cũng nên
dựa vào bộ
sách Đường Về Xứ
Phật và băng
giảng của Thầy.
Bộ sách Đường Về Xứ Phật và băng
giảng của Thầy đều nhắm vào sự
tu tập của
người cư sĩ, đó
là đạo đức làm người, không có một
người cư sĩ nào bỏ qua được, nếu họ
có tâm muốn
tìm sự hạnh phúc, an
vui chân thật
cho mình, cho người, cho cả gia
đình, cho cả đất nước, cho mọi người
trên thế gian này.
Đạo đức ly
dục ly ác pháp không làm
khổ mình, khổ người còn là một nền
tảng vững chắc cho thiền định, nếu những ai muốn tu thiền
định chân chánh mà không xây dựng cho mình một
nền móng đạo đức làm
người thì khó mà nhập định.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
‚Giáo án
tu tập cho người
cư sĩ vì nền
hòa bình cho thế giới‛,
đó là một bộ sách đạo đức làm người mà Thầy đang biên soạn.
‚Giáo án
tu tập cho
người cư sĩ
vì sự trường tồn của Chánh Phật
Pháp‛, đó là một bộ sách nói rõ những điều
sai trái và sự cúng dường không đúng chánh pháp trong Phật
giáo của người cư sĩ hiện nay.
Nếu các con
có thể dựa vào bộ sách Đường Về Xứ Phật, Thầy đã nêu rõ những sự sai trái của kinh sách
phát triển và những phong
tục tập quán mê tín
dân gian
đang bị đồng
hóa trong Phật giáo
thì các con biên soạn
thành một bộ sách giúp cho đời, cho những ai đang hướng về đạo Phật
không còn lầm đường, lạc lối tức là không bị tà giáo ngoại đạo lừa
đảo.
Ba bộ
sách mà các
con đã nêu
trên là những bộ
sách có giá trị rất lớn không
những cho tín đồ Phật giáo mà cho loài người trên hành tinh này.
Vậy ngay bây
giờ chúng ta thành lập một ban biên soạn và phân công cho mỗi người
phải biên soạn ở phần nào của bộ sách.
Theo Thầy
thiết nghĩ chỉ có một tập thể mới làm nên việc lợi ích lớn này cho loài người,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
một người
dù có tài
năng cũng không
đủ sức làm.
Ba bộ sách này được ra đời thì các con có đủ phương pháp
tu tập của
người cư sĩ tại
gia. Vì lợi ích như vậy Thầy sẽ chịu trách nhiệm cố vấn khi có điều gì
chưa rõ thông Thầy sẽ góp ý.
Thăm và
chúc các con mạnh
khỏe, an vui và tu tập xả tâm tốt.
Kính thư
Thầy của các
con
MỘT HỒI BÃO
Chơn Như
ngày 8 / 1 / 2000
Kính gửi:
Hòa Thượng Trưởng Ban Giáo
Dục Tăng Ni
Thích Thiện Siêu!
Kính thưa
Hòa Thượng! Từ
lâu chúng con có một hoài bão là mong muốn tăng, ni và
cư sĩ có một nơi để thực hiện tu tập Giới, Định, Tuệ theo con đường Nguyên Thủy
của Phật Giáo.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
Nhưng ước
muốn ấy với
Hòa Thượng Thanh Từ thì không bao giờ có được, vì Hòa Thượng
hướng về Thiền Tông Trung Hoa.
Với Hòa
Thượng Minh Châu
thì cũng không có được vì Hòa Thượng
hướng về sự học.
Với Hòa
Thượng Huệ Hưng
thì Hòa Thượng xúc tiến công việc
nhưng giữa đường lại viên tịch.
Với Hòa
Thượng Thiện Châu
thì Hòa
Thượng cũng
vừa viên tịch, chưa kịp làm gì cả.
Bây giờ
chỉ còn lại
có một mình
Hòa Thượng, với quyền hành và uy tín của Hòa Thượng, chúng con tin chắc
Hòa Thượng sẽ làm được việc lớn này.
Kính thưa
Hòa Thượng! Nếu
tăng ni tuổi trẻ có học, không có
tu cũng giống như người có tài thiếu đức, đó là một tai hại rất lớn cho Phật
giáo. Và như vậy, Phật
giáo có chiều
rộng không có chiều
sâu, cũng giống
như xây nhà nền móng không vững, chắc chắn sự trường
tồn của Phật giáo e khó được vừng bền. Nếu Phật giáo có
còn thì cũng chỉ
còn là một
hình thức danh và lợi mà thôi.
Kính thưa Hòa Thượng! Phật pháp là một nền đạo đức
nhân bản rất lợi ích thiết thực cho
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
loài người,
nếu chúng ta để nó mất đi
là một thiệt thòi rất lớn cho con
người trên hành tinh
này.
Vậy chúng
con ngưỡng mong Hòa Thượng từ bi mở rộng lòng lân mẫn thương xót
tăng, ni và cư sĩ xin
phép Giáo hội và
Nhà
nước để thành lập một tu viện
chuyên tu đúng
ý nghĩa Giới, Định, Tuệ giáo pháp
của đức Phật, bất cứ nơi đâu trên quê hương đất nước này để đào tạo tăng, ni tuổi
trẻ thực học,
thực tu, thực
chứng, ngõ hầu thắp
sáng lại ngọn
đèn chánh pháp của Phật.
Kính thưa
Hòa Thượng! Chúng
con có soạn thảo một bộ
sách Đường Về Xứ Phật
10 tập, một bộ sách Giới Đức Làm Người 2 tập và một bộ sách Giới Đức Làm
Thánh 2 tập. Chúng con biết rằng thì giờ
của Hòa Thượng
rất quý báu nên
chúng con chỉ gửi đến Hòa
Thượng 2 tập đầu của bộ Đường Về Xứ Phật
và hai tập Giới Đức Làm Người. Mong Hòa Thượng đọc để
cảm thông với lòng chân thành của chúng con đối với Phật giáo.
Từ lâu chúng
con ước muốn có ngày diện kiến với Hòa
Thượng, nhưng mãi
cho tới nay chưa có đủ duyên, xin
Hòa Thượng hoan hỷ tha thứ cho.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
Sau cùng
chúng con thành tâm có lời thăm và
chúc Hòa Thượng
mạnh khỏe để
dìu dắt tăng ni trên đường tu học.
Kính thư
Thích Thông
Lạc
TU TÊP
CHUYÊN MỘT PHÁP LÀ BÐ ỨC CHẾ TÂM
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Trong kinh
‚Kẻ Lọc Vàng‛
(Tăng Chi I trang 465) đức Phật dạy: ‚Tỳ
kheo siêng tu tâm thượng
tâm cần phải
tác ý ba tướng:
tướng định, tướng tinh cần và tướng xả‛.
1- Tướng định,
tướng tinh cần và tướng xả là gì?
2- Tại sao cũng trong kinh, khi một
chiều tác ý tướng định thì tâm sẽ bị thụ động, một chiều tác ý tướng tinh cần thì
tâm sẽ bị trạo cử, một chiều tác ý tướng xả thì tâm sẽ không có chân
chánh định tĩnh để đoạn diệt lậu hoặc, do
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
đó chỉ thỉnh thoảng
tác ý ba tướng trên
mà thôi?
Đáp3: Tướng
định là tâm bất động, thân bất động.
Tướng tinh cần
là sự siêng năng cần mẫn, tinh tấn ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng
thiện pháp (thân hành niệm).
Tướng xả là
tư duy quán xét để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm (Định Vô Lậu).
Nếu hằng
ngày chuyên tu riêng một tướng trong ba tướng này thì không có kết quả giải
thoát. Tại sao vậy?
Nếu chuyên về
tọa thiền, giữ thân tâm bất động thì sẽ rơi
vào tướng thụ động tiêu cực. Ý đức Phật muốn nói
hành giả tu
hành khi tâm vô niệm, vô trụ, vô
chứng thì trở thành gốc cây, cục đá (ức chế tâm trong một pháp).
Nếu chuyên
tu về tướng Tinh Cần ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện thì sẽ rơi vào trạo cử,
ý đức Phật
muốn nói nếu
chuyên tu chỉ có
pháp Tứ Chánh
cần thì thân
3 Chơn
Như ngày 31 tháng 5 năm 2000
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
tâm mệt nhọc
sanh ra bần thần, hôn trầm, lười biếng, buồn phiền, bất an v.v..
Nếu chuyên
tu về tướng
xả tức là
dùng pháp như lý tác ý tác ý liên tục giống như niệm Phật thì tâm không
định tĩnh.
Chỉ cho một
ví dụ thì mới nhận rõ được cách thức tu hành trong ba tướng này: Hiện giờ chúng
ta đang tu Định Niệm Hơi Thở. Tu Định Niệm Hơi Thở như thế nào?
Bắt đầu tu Định
Niệm Hơi Thở thì tìm nơi vắng vẻ yên lặng, ngồi kiết già lưng thẳng, tập
trung tâm chú
ý vào hơi thở tại
nhân trung
‚Tôi thở
tôi biết tôi
đang thở‛ thỉnh thoảng rồi
lại nhắc một lần
như vậy, nếu
tâm đã đi vào
định tĩnh thì không cần phải hướng tâm câu pháp hướng: ‚Tôi thở
tôi biết tôi
đang thở‛ nữa mà phải
hướng tâm một
câu khác: ‚Quán
ly tham tôi biết tôi
đang thở vô‛, ‚Quán
ly tham tôi biết
tôi đang thở ra‛...
khi đang tu như vậy có một niệm khởi
vào thì chúng ta đem
niệm đó ra tư duy mổ xẻ quán xét cuối cùng chúng ta thấu rõ
nó thuộc về lậu hoặc
nào, khi thấu rõ thì chúng ta đã đẩy lui nó ra khỏi tâm, lúc bấy giờ tâm trở lại
định tĩnh và tiếp tục tu tập trở lại. Như
vậy, cách thức tu Định Niệm Hơi Thở trên
đây chúng ta thấy rất
rõ là chúng
ta
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
không chuyên
tu một tướng nào cả, chỉ thỉnh thoảng
tu tướng này,
thỉnh thoảng tu tướng
kia. Do đó, trong một thời tu chúng ta đã tu ba tướng rõ ràng như:
1- Nương vào
hơi thở là tu tướng định.
2- Dùng pháp
hướng tâm như lý tác ý là tu tướng xả.
3- Quán xét
đẩy lui chướng ngại pháp là tu tướng tinh cần.
GIỚI BÇT TỬ
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Trong kinh ‚Anuruddha‛ (Tăng Chi
1, trang
515) Ngài Sàriputta có nhắc Ngài Anuruddha không nên kiêu mạn, trạo cử, hối quá
mà hãy chú tâm vào ‚giới bất tử‛. Vậy giới bất tử là gì? Làm sao để chú tâm?
Đáp: Giới bất
tử là bất động tâm định, là tâm định trên thân, là tâm thanh thản, an lạc và vô
sự v.v..
Muốn chú tâm
vào đó thì phải giữ gìn tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
ly dục ly ác
pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm nghiêm
trì giới luật không hề vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt nào cả.
Tóm lại, muốn
chú tâm vào giới bất tử thì phải tu và sống đúng Bát Chánh Đạo. Giới bất tử là
Bát Chánh Đạo.
KHƠNG ĐÐNH,
VƠ TƯỚNG
ĐÐNH, VƠ
NGUYỆN ĐÐNH
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch Thầy!
Trong kinh Tăng Chi tập I đức Phật
dạy về ‚Định‛ để thắng
trí, đoạn tận, diệt tận, trừ diệt, ly
tham, sân, si, phẫn
nộ, hận... phóng
dật thì cần phải tu tập ba pháp.
1- Không Định tức là định ức chế tâm.
2- Vô
Tướng Định (xả
năm chi của Sơ
Thiền và
không có ba tướng lậu hoặc).
3- Vô Nguyện Định (trạng thái không có ước nguyện
một điều gì).
Không Định, Vô Tướng Định và Vô
Nguyện Định
là gì?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Đáp: Không
Định tức là Không
Vô Biên Xứ Định, một trong bốn loại
định của tưởng. Người mới tu tập phải tập định tưởng
ức chế tâm này cho bớt vọng niệm
để tâm được tỉnh thức rồi mới tu tập các pháp môn khác.
Vô Tướng Định, còn gọi là Bất Động
Tâm Định, một loại thiền
định không có ba
tướng lậu hoặc: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
Vô Tướng
Tâm Định là một trạng
thái tâm ly dục ly ác pháp nhưng không có năm chi tướng của Sơ Thiền: Tầm,
tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Vô Tướng Tâm Định tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Vô Nguyện
Định là một trạng thái
im lặng như Thánh,
an trú như Thánh,
bất động như Thánh.
CĨ BA DUYÊN
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy, theo ‚Đại
Kinh
Phương Quảng‛
Trung Bộ Kinh tập 1 trang 650
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
dạy: ‚Có
ba duyên để chứng nhập
Vô Tướng
Tâm Giải
Thoát:
1- Không tác ý nhất thiết tướng.
2- Tác ý Vô Tướng Giới.
3- Một sự sửa soạn trước‛. Kính thưa Thầy:
1- Vô Tướng Tâm Giải Thoát
có phải là
Sơ Thiền
không?
2- Thế
nào là không
tác ý nhất
thiết tướng?
3- Thế nào là một sự sửa soạn trước? Một sự sửa
soạn trước có phải là Thất Giác Chi không?
Đáp: Vô Tướng Tâm Giải Thoát
không phải là Sơ Thiền,
vì Sơ Thiền còn có
năm chi tướng thiền là tầm, tứ, hỷ,
lạc, nhất tâm. Vì Sơ thiền còn ở
trong trạng thái
cõi trời Sơ Thiền (Sơ Thiền Thiên).
Vô tướng tâm
giải thoát là Vô Tướng Tâm Định, là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ,
đó là mục
đích cứu cánh của Phật
giáo.
Không tác
ý nhất thiết
tướng có nghĩa
là không sử dụng
pháp hướng tâm, tức là
không
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
khởi một niệm
nào trong đầu, im lặng như Thánh. Đó là tướng bất động của vô tướng tâm định.
Không tác ý
nhất thiết tướng có nghĩa là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Một sự sửa
soạn trước tức là tu tập Bát Chánh Đạo. Tu tập Bát
Chánh Đạo là
tu tập theo chương trình giáo dục
đào tạo có
tám lớp (Bát Chánh Đạo) ba cấp
(Giới, Định, Tuệ).
Trước tiên
phải tu học lớp Chánh kiến rồi đến lớp Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp
v.v..
Một sự sửa
soạn trước tức là Trạch Pháp Giác
Chi. Trạch Pháp
Giác Chi có
nghĩa là chọn pháp
mà tu tập.
Trong Phật giáo
chọn pháp để tu tập thì chỉ
có chọn chương trình giáo dục
Bát Chánh Đạo
tu tập thì đúng nhất. Trong đạo Phật không có pháp
môn nào đúng ngoài Bát Chánh
Đạo, chỉ có
Bát Chánh Đạo mới chính là con đường tu học của Phật
giáo chân chánh, còn ngoài ra tất cả các
pháp khác đều của ngoại đạo. Cho nên, đức Phật dạy: “Một sự sửa soạn trước‛
tức là chọn lấy pháp
cho đúng của Phật,
cho nên Bát
Chánh Đạo là pháp chân chánh của Phật, vì nó là một sự
thật trong bốn sự thật đức Phật đã thuyết pháp lần
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP X
đầu tiên tại vườn Lộc uyển
khai ngộ cho năm anh em Kiều Trần Như.
Một sự sửa soạn
trước là sự chuẩn bị cho
con đường tu tập của mình tức là nghiên
cứu kỹ lưỡng.
TỨ NHIẾP
PHÁP
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Trong
kinh
‚Nhiếp Pháp‛
Tăng Chi 1
trang 610, có dạy
Bốn Nhiếp
Pháp:
1- Bố thí
2- Ái ngữ
3- Lợi hành
4- Đồng sự.
Vậy Bốn
Nhiếp Pháp này
khác với Tứ
Nhiếp Pháp của
Đại Thừa như thế nào?
Đáp: Bốn nhiếp
pháp của kinh Nguyên Thủy và bốn
nhiếp pháp của
kinh Đại Thừa danh từ thì
giống nhau, nhưng
nghĩa lý thì khác nhau.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Kinh
Nguyên Thủy lấy bốn nhiếp
pháp làm bốn hành động đạo đức để đối xử với nhau trên thuận dưới hòa
đem lại cho nhau một cuộc sống thân thương bình đẳng, ai cũng như ai không phân
biệt người tu hay không tu. Vậy chúng
ta hãy đọc lại bài kệ đã dạy
trong kinh Tăng Chi tập 1 trang 610:
‚Này các tỳ
kheo, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?
‚Bố thí và
ái ngữ,
Lợi hành và
đồng sự
Này các vị tỳ
kheo,
Đây là bốn
nhiếp pháp‛.
‚Bố thí và
ái ngữ,
Lợi hành và
đồng sự,
Đối với những
pháp này, Ở đời đối xử nhau,
Chỗ này và
chỗ kia,
Như vậy thật
tương xứng, Và bốn nhiếp pháp này, Như đinh
đầu trục xe,
Nếu thiếu
nhiếp pháp này, Thời cả mẹ lẫn cha,
Không được
các người con Tôn trọng và cung kính, Do vậy bậc Hiền trí,
Đồng đẳng
nhìn nhiếp pháp, Nhờ vậy họ đạt được,
Sự cao lớn
tán thán‛.
Bài kệ trên
đây dạy chúng ta dùng bốn nhiếp pháp để tạo
thành một cuộc sống an vui có đầy đủ đạo đức làm
người không làm khổ
mình, khổ người, thật
là bốn nhiếp pháp tuyệt vời mà mọi người sống trên hành
tinh cần phải học và trau dồi bốn đức hạnh này.
Đây chúng ta
hãy nghe ý nghĩa bốn nhiếp pháp của Đại Thừa:
“Bốn pháp để
thu phục chúng sanh:
1- Bố thí
nhiếp
2- Ái ngữ
nhiếp
3- Lợi hành
nhiếp
4- Đồng sự
nhiếp
I- Bố
thí nhiếp: nếu
có chúng sanh
nào thích của thì bố thí của, thích
pháp thì bố thí
pháp, khiến họ
vì thế mà
sanh tâm thân
ái theo ta thụ đạo.
II- Ái ngữ nhiếp: Có nghĩa là tùy theo căn tánh của
chúng sanh mà dùng lời lẽ tốt lành để mỹ dụ, khiến họ nhân đó mà sanh tâm thân
ái mà theo ta thụ đạo.
III- Lợi hành
nhiếp: Tức là
khởi thiện hành về
thân, khẩu, ý
làm lợi ích
cho chúng sanh, khiến họ do
đó mà sanh tâm thân ái
rồi theo ta thụ đạo.
IV- Đồng sự
nhiếp: Có nghĩa là nhờ pháp nhãn mà thấy
được căn tánh của chúng
sanh tùy theo sự ưa thích của họ mà phân hình thị hiện, cùng làm việc với họ, để
được lợi ích cho họ nhờ đó sanh tâm thân ái theo ta thụ
đạo‛.
Đoạn kinh trên
đây được trích
dẫn trong
Từ Điển Phật
Học Hán Việt.
Như vậy, Tứ Nhiếp
Pháp của Đại Thừa là pháp
môn dùng để
cám dỗ lôi cuốn mọi
người ta vào Phật
Giáo Đại Thừa.
Một tôn giáo sử
dụng bốn
pháp nhiếp phục
để cám dỗ mọi
người theo tôn giáo mình là một tà giáo chứ không phải chánh giáo.
Đồng thời
cũng là pháp môn Tứ nhiếp pháp,
nhưng Tứ nhiếp
pháp của Nguyên
Thủy là bốn pháp dạy đạo đức làm
người cư xử với nhau như nước với sữa, còn Tứ Nhiếp Pháp
của
Đại Thừa
là pháp dụ dỗ người,
pháp dụ dỗ người
là phi pháp
phi đạo đức cần phải
nên cảnh giác đề phòng và tránh xa.
ĐA CHỦNG,
NHÇT CHỦNG
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính
thưa Thầy, theo
kinh Potaliya Trung Bộ tập 2 trang 62 dạy: ‚Sau khi từ bỏ loại xả thuộc loại
đa chủng, y cứ đa chủng, đối với loại xả
thuộc loại nhất chủng, y cứ nhất chủng, ở
đây mọi chấp
thủ đối với thế vật được đoạn trừ hoàn toàn‛.
Thế nào là xả
thuộc đa chủng, xả thuộc nhất chủng?
Đáp: Trước
khi muốn xả đa chủng
hay là nhất chủng thì chúng ta phải hiểu rõ đa chủng nghĩa là gì? Và nhất
chủng nghĩa là gì?
Đa chủng
là lòng tham
muốn mọi thứ, thấy
cái gì cũng
tham muốn còn gọi là dục
chủng tử.
Nhất chủng
chỉ cho lòng
dục của con người, nguồn gốc sanh ra muôn vạn thứ
ham muốn.
Trong kinh Potaliya
đức Phật dạy: ‚Thập thất kiết sử, ngũ
triền cái là
đa chủng, lòng dục của con người là nhất chủng‛.
Đức Phật ví
dụ: chim kên kên, chim diều hâu là nhất
chủng, miếng thịt
là đa chủng, người
cầm bó đuốc
là nhất chủng,
cây đuốc là đa
chủng, hố than
là đa chủng,
người kia là nhất chủng v.v..
Muốn xả đa
chủng thì phải y cứ vào đa chủng mà xả, ví
dụ: Mắt
thấy sắc thì y cứ
nơi sắc mà xả, nghĩa là đừng cho mắt dính sắc.
Muốn xả nhất chủng
thì phải y cứ vào
nhất chủng mà xả, ví dụ: Mắt thấy sắc thì phải y cứ nơi mắt mà phòng hộ mắt.
Dục dù nhất
chủng hay đa chủng cũng đều là khổ đau, là tai họa, vì thế cần phải đoạn trừ,
viễn ly, từ bỏ, xa lánh v.v.. thì mới mong thoát khổ, thì mới
mong làm chủ
và ra khỏi
nhà sanh tử.
TỨ THIỀN VẪN
CÒN TRIỀN PHƯỢC
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính thưa
Thầy, trong kinh Panlacanda Tăng
Chi IV trang 213 có đoạn chứng và trú
Thiền Thứ Tư vẫn còn
triền phược đó là sắc tưởng. Vậy
sắc tưởng đã bị diệt sao ở đây vẫn còn?
Đáp: Con
nên lưu ý: Sơ Thiền tuy
ly dục ly ác
pháp tâm luôn bất động
trước các pháp và các cảm thọ nhưng vẫn còn năm chi thiền
Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm nên còn tưởng, nhất là tầm tứ vì vậy
trong kinh Tăng Chi
còn gọi là triền
phược, triền phược ở đây
là gốc lậu hoặc còn
chưa diệt. Sơ thiền chỉ ly chứ chưa có diệt nên kinh gọi còn triền phược là rất
đúng. Trạng thái Sơ thiền là một trạng thái của Trời Sơ Thiền (Sơ Thiền
Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền
phược
Đến Nhị Thiền
mới diệt tầm tứ, diệt tầm tứ chỉ mới
ngưng được ý thức nói
riêng, nói chung là mới ngưng sáu
thức, vì thế tưởng thức còn nên kinh nói nhập Nhị Thiền còn triền phược là
đúng. Bởi vì thân nghiệp còn và trạng thái
Nhị Thiền là trạng thái của Trời
Nhị
Thiền (Nhị
Thiền Thiên), còn
cõi Trời tức là
còn triền phược.
Đến Tam
Thiền thì mới ly hỷ
tưởng chứ chưa có diệt
tưởng và lạc tưởng cũng
còn chưa ly nên kinh gọi còn triền
phược là đúng. Trạng thái Tam Thiền là trạng thái của Trời Tam Thiền (Tam Thiền
Thiên), còn cõi Trời tức là còn triền phược.
Đến Tứ Thiền xả lạc, xả khổ, xả niệm
thanh tịnh, xả lạc tưởng,
khổ tưởng và
thanh tịnh tưởng. Ở đây chỉ xả tưởng
chứ chưa diệt tưởng vì thế nên kinh gọi còn triền phược là đúng. Vì trạng thái
Tứ Thiền là trạng thái của Trời Tứ Thiền
(Tứ Thiền Thiên),
còn cõi Trời tức là còn triền phược.
Khi nhập xong Tứ Thiền
chúng ta mới làm chủ được sanh, già, bệnh, chết chứ
chưa chấm dứt được
tái sanh luân hồi vì
nguyên nhân tái sanh luân hồi còn nên Tứ Thiền vẫn còn triền phược.
Tại Tứ Thiền
có hai ngả:
1- Đi về hướng
Tứ Không đến Diệt Thọ Tưởng Định thì lúc
ấy tưởng thức mới diệt được, nhưng đến đây lại rơi vào chỗ
không còn pháp (phi pháp
môn), người tu nhập định này
cũng giống
như cục đá,
nói cách khác
tu về hướng này thân ngũ uẩn trở
thành đá. Kinh Tăng Chi dạy: ‚Chứng đạt và an trú Diệt thọ Tưởng Định. Sau
khi thấy với
trí tuệ các lậu hoặc
được đoạn diệt.
Cho đến như vậy, này Hiền
giả là giải
thoát khỏi triền
phược được Thế Tôn nói đến với
phi pháp môn‛ (trang 217).
2- Ngả
đi về Tam
Minh, khi Lậu Tận
Minh đạt
được thì lậu hoặc
đã được diệt sạch,
ngả này chứng và trú vào Niết bàn tức là nhập vào Vô Tướng Tâm Định. Ngả tu tập
này không biến thân ngũ uẩn thành đá và sống đúng ý nghĩa làm lợi ích cho chúng
sanh dù còn một
tấc hơi.
Đi ngả Tứ Không
đến Diệt Thọ Tưởng
Định, ngả này
không làm lợi
ích cho chúng sanh, vì thế
các nhà Đại Thừa gọi ngả này tu
tập tiêu nha bại chủng, chồi khô, mộng lép v.v..
Tóm lại,
trên đường tu
hành để đến
nơi đến chốn giải thoát thì phải chọn một Minh Sư đã đi nốt quãng đường
này thì mới đủ kinh nghiệm hướng dẫn.
CHÁNH
PHÁP CÒN PHẢI BỎ HUỐNG HỒ LÀ PHI
PHÁP
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Ýù
nghĩa câu:
‚Chánh pháp
còn phải bỏ huống hồ phi pháp‛ (Kinh dụ
con rắn Trung Bộ 1 trang 307). Xin Thầy giảng cho chúng con được rõ!
Đáp: Đúng
như vậy ‚Chánh
pháp còn phải bỏ huống là
phi pháp‛. Ví dụ: Hiện giờ chúng ta dùng
37 phẩm trợ đạo mà tu tập, sau khi tu xong rồi thì chúng ta còn tu nữa không? Vậy 37 phẩm trợ đạo khi người
tu xong thì không còn giá trị gì cả.
Nhờ 37 phẩm
trợ đạo chúng ta xả ly và xa lìa
các pháp thế
gian, nhưng khi từ
bỏ xa lìa các pháp thế gian rồi
thì 37 phẩm trợ đạo cũng không còn dùng
được nữa. Bởi
vì 37 phẩm trợ đạo
tuy là chánh
pháp nhưng nó chỉ dùng để
trừ diệt ác pháp, sau khi diệt trừ ác pháp xong thì nó không còn dùng vào việc
gì được nữa, do đó mới có lời dạy: “Chánh pháp còn phải bỏ huống là phi pháp‛.
SỢ HÃI TRONG CÁC LỖI NHỎ NHẶT
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Trong kinh Phật thường nhắc nhở các Tỳ Kheo ‚phải thật sợ
hãi trong các lỗi nhỏ nhặt‛. Có phải ý Phật muốn nói đến 100 giới chúng học không?
Đáp: Không
riêng 100 giới chúng học mà còn tất cả
các ác pháp.
Đối với đạo Phật một lời
nói, một hành động, một
ý nghĩ làm khổ
mình, khổ người là những lỗi nhỏ nhặt. Lời
nói không ái ngữ và những hành động thô tháo, thiếu tỉnh giác là phạm vào các lỗi
nhỏ nhặt. Phạm vào các lỗi nhỏ nhặt thì con đường tu tập theo Phật giáo rất khó
chứng đạt chân lý.
MỘT TRĂM GIỚI CHÚNG HỌC
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Con hiểu pháp môn tu tập giới (chúng học) dưới 2 khía cạnh:
1- Huân tập trưởng dưỡng những hành vi đạo đức làm người.
2- Giải thoát
khỏi tập quán
(nghiệp) thú
vật.
Thưa Thầy
con hiểu như vậy
đã đúng và
đầy đủ chưa?
Đáp: Con hiểu
được 2 phần, còn phần thứ ba con chưa hiểu.
Phần thứ nhất
là phần tu học giới luật và sống đúng với giới luật tức là thực hiện đạo đức
làm người.
Phần thứ
hai vi tế hơn đó là thói quen ác pháp,
phần này rất khó diệt trừ, phần này là phần
thiền định. Phần
thiền định là phần
ly dục ly ác pháp nhập Bất Động Tâm Định và nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền,
Tam Thiền, Tứ Thiền.
Phần thứ ba
là phần thực hiện Tam Minh tức là ba minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu
Tận Minh.
HỦY BỎNHỮNG
HỌC GIỚI NHỎ NHẶT
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Trong kinh
‚Đại Bát Niết
Bàn‛, Phật dạy: ‚Này
Ananda, nếu chúng
Tăng muốn, sau khi Ta diệt độ, có thể hủy bỏ những học giới
nhỏ nhặt chi tiết‛. Đọc
hai tập ‚Giới Đức
Làm Người‛ của Thầy, dù với những
giới nếu phạm thì ‚tội
nhẹ‛, con cũng
không thấy giới nào
‚nhỏ nhặt và
chi tiết‛. Vậy thế nào là
‚những học
giới nhỏ nhặt chi tiết‛?
Đáp: Lời dạy này
là của các Tổ sau này đặt ra và xen vào kinh Phật để mạo nhận
Phật dạy bỏ các giới nhỏ nhặt, để
các vị có phạm
giới, phá giới
thì bảo đó là những giới
nhỏ nhặt, vì thế tín đồ không phê phán được. Ý đồ của các Tổ là
dẹp bỏ giới
luật của Phật, nhưng không dẹp được
nên phải tổ chức theo kiểu vết dầu loang để lần lượt phá sạch giới luật của Phật. Bằng
chứng hiện giờ
các con đi tìm một vị tu sĩ giới luật nghiêm chỉnh là
khó thấy.
Giới luật
Phật giúp cho con người
sống có đạo đức, thì còn
có giới nào nhỏ nhặt
không hợp thời? Giới
luật là Thánh
hạnh thì còn có giới luật nào mà lại bỏ được?
Trong khi đức
Phật thường nhắc
nhở các đệ tử của mình: “Này các tỳ kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống
phòng hộ với sự phòng hộ của giới
bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy
hiểm trong các lỗi nhỏ
nhặt, chơn chánh lãnh
thọ và học tập các học
giới‛. Trong đoạn
kinh này cho chúng ta thấy người tu sĩ lấy giới luật làm sự sống
của mình, nhất là câu;
“thấy sự nguy
hiểm trong các giới(
lỗi) nhỏ nhặt‛.
Vậy giới nhỏ nhặt nào phải
bỏ và giới
nhỏ nhặt nào
nguy hiểm trong đời sống tu hành.
Ở đây đức Phật có mâu thuẫn trong những lời dạy
của mình chăng?
Đúng là các
Tổ thêm vào để đánh lạc hướng: ‚Này Ananda,
nếu chúng tăng
muốn, sau khi Ta diệt độ, có thể hủy bỏ những
học giới nhỏ nhặt chi tiết‛.
Giới luật
giúp cho tâm chúng
ta ly dục ly ác
pháp, nhờ giới
luật tâm không
phóng dật, tâm không phóng dật tức
là thiền định chứ không phải thiền định theo kiểu ngồi không vọng tưởng.
Giới luật
giúp ta nhập
các định và thực
hiện Tam
Minh một cách dễ dàng
không có
mệt nhọc,
không có khó
khăn, như vậy
thì có giới luật nào nhỏ nhặt mà bỏ được.
Thời nay người
ta tu thiền và Tịnh độ mà giới luật thì dẹp
qua một bên, vì thế
tu từ đời này sang đời khác mà chẳng ra gì, chỉ có
hình thức tu chứ
có giải thoát
được gì đâu. Các Tổ
còn dựng lên câu chuyện Ông Ca Diếp và ông Phú Lâu Na tranh chấp về việc bỏ các
giới nhỏ nhặt để hạ bệ các vị đại đệ tử A
La Hán
của đức Phật rằng
chứng quả A La
Hán vẫn chưa có
giải thoát, vì
tư tưởng bất đồng, đó
là một mưu đồ diệt Phật giáo sâu
sắc nhất của các giáo sĩ Bà La Môn.
Câu chuyện
xảy ra sau khi đám tang đức
Phật xong, ông Ca Diếp và ông Phú Lâu Na bất đồng ý kiến về việc bỏ những giới
nhỏ nhặt, ông Ca Diếp nhất định
không bỏ giới nhỏ nhặt nào cả vì
ông A Nan
không hỏi Phật kỹ giới nào bỏ giới nào lấy.
Ông Phú Lâu Na
chấp nhận bỏ tất cả các
giới nhỏ nhặt, hai người tranh cãi nhau.
Câu chuyện
trên đây thật là vô lý:
1/ Hai vị A
La Hán
này đều do Giới
luật mà thành quả A La Hán (Giới luật
là mẹ sinh ra các vị A La Hán).
2/ Những vị
A La Hán lậu hoặc
đã diệt sạch thì không có lý do bất
đồng ý kiến.
3/ Các vị
A La Hán đều có đầy đủ Tam
Minh sao không vào Niết bàn hỏi Phật
bỏ giới nào lấy giới nào.
Câu chuyện
trên đã được bịa đặt để phá giới luật của Phật và để hạ
bệ các vị đệ tử của Phật. Thật là
một âm mưu sâu độc.
Tóm lại, tất cả giới luật của Phật
dù lớn hay nhỏ, dù khinh hay trọng,
dù hợp thời hay không hợp thời đều không
được bỏ một giới
luật nào cả. Tại sao vậy?
Như ở
trên đã nói giới luật
là đức hạnh làm người làm Thánh, cho nên không có giới
luật nhỏ
nhặt lỗi thời, chỉ
có những người phá giới,
phạm giới, bẻ vụn giới mới thấy
nó lỗi
thời.
Vì giới
luật là người
Thầy dẫn đường
đưa lối cho chúng ta đi đúng lộ trình giải thoát của đạo Phật, ngoài giới
luật ra không có một vị Thầy nào xứng đáng dẫn đường đưa lối cho chúng ta đến
đích cứu cánh giải thoát như Phật được.
Vả lại “giới
luật còn là Phật pháp còn, giới luật mất
là Phật pháp mất”. Thời đại
này được xem
như Phật pháp đã mất, chỉ vì các thầy tỳ
kheo đã phạm giới, phá giới và bẻ vụn
giới thì Phật pháp
làm sao còn. Phải
không quý vị?.
NHỮNG CÂU CHUYỆN PHÁ GIỚI CỦA CÁC NHÀ ĐẠI THỪA
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Để lý giải cho sự thay đổi về giới, những câu chuyện như:
1- Có vị tỳ
kheo đi khất thực bị xỉu vì đói, sau đó Phật cho phép tỳ kheo có thể ăn nhẹ, uống
sữa buổi sáng để có sức trước khi đi khất
thực.
2- Vị tỳ
kheo bị cọp đuổi, vì sợ
phạm giới leo cây, bị cọp giết.
Sau đó Phật chế lại giới cho leo cây khi hữu sự.
3- Có một quốc độ
nam ngồi tiểu bị chế nhạo
là nữ, các tỳ kheo về
bạch Phật và được
dạy thì
‚đứng tiểu vậy‛.
Phải chăng đây
là những câu chuyện
bịa đặt để biện hộ cho việc
thay đổi giới luật,
cho hợp hoàn cảnh
không gian và thời gian...?
Đáp: Ba câu
chuyện trên do các Tổ đặt ra nhằm mục đích phá giới luật, chôn vùi nền đạo đức
nhân bản – nhân quả của Phật giáo.
1- Câu chuyện thứ
nhất một vị tỳ
kheo đi khất thực xỉu vì ăn cơm ngọ, do ăn cơm ngọ không đủ sức khỏe.
Nếu tại tu viện chưa có
ai ăn cơm ngọ thì nghe
câu chuyện này
ai cũng tin rằng đúng,
nhưng vì ở đây
ăn cơm ngọ lao tác mà vẫn thấy bình thường không có ai mệt
nhọc, không có ai ngất xỉu nên mới biết câu chuyện này
là câu chuyện
bịa đặt ra để
chạy theo ăn uống giống như người thế gian. Các Tổ vì còn tham ăn mới đặt
ra câu chuyện này.
Trong kinh
Nguyên Thủy dạy: “Thừa tự Pháp chứ không
thừa tự thực
phẩm”. Có hai vị tỳ kheo ở
xa đến để gặp Phật, đến
nơi thì đã quá giờ thọ trai, một vị thì nhất định không ăn, còn một vị thì ăn thừa những đồ ăn thừa còn lại khi gặp Phật. Phật chê trách
vị tỳ kheo còn tham
ăn và ca ngợi
tán thán vị tỳ kheo
giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, chính nhờ
giữ gìn giới luật nghiêm túc mà vị tỳ kheo này đã ly dục
ly ác pháp và chứng quả A
La Hán, còn vị tỳ kheo kia còn tham ăn,
tu hành không
ly dục ly ác
pháp nên sự
tu hành không
biết bao giờ mới xong.
Vả lại,
giới không ăn
phi thời là một
Thánh hạnh của một bậc Thánh tăng, người ăn uống phi thời mà muốn làm Thánh
tăng sao được. Thấy cách
sống mà biết
Thánh hay phàm.
Bởi giới
luật của Phật
là đạo đức
làm người, làm Thánh. Ai sống đúng giới luật của Phật là Thánh, là Hiền.
Vì tâm còn
phàm phu tục tử tham ăn đặt điều ra nói Phật dạy bỏ những giới nhỏ nhặt không hợp
thời để chạy theo dục lạc thế gian, những vị Tổ này không đáng cho ta đầu đội
vai mang.
2- Câu chuyện
thứ hai vị tỳ kheo bị cọp đuổi trèo lên cây để phá giới Phật cấm tỳ
kheo không được trèo
cây. Giới luật
này chúng ta phải
hiểu, đức Phật cấm trèo
cây tức là
dùng tay chân ôm
cây trèo lên giống như một con thú
(loài khỉ vượn).
Giới luật Phật
muốn dạy con người thoát ra khỏi
bản chất loài cầm thú, vì thế mới
cấm đệ tử của
mình trèo cây không riêng cho tu
sĩ mà ngay cả cư sĩ
vì 100 giới chúng
học là 100 giới
đức làm người.
Vì thế, một con người
không thể là một con thú
vật
được. Theo như
đức Phật dạy những giới
luật này để tránh hành động vô tình biến mình thành loài thú vật.
Muốn trèo
cây hoặc lên từng gác, lầu đều phải dùng thang, ghế để biến hành động trèo cây
lên lầu, xuống lầu mà không phạm giới, không trở thành loài thú vật.
Muốn hái
trái xoài, trái
mít thì đừng ôm cây trèo lên, mà
hãy bắc ghế, thang:
1- Thứ nhất là không nguy hiểm.
2- Thứ
hai là trèo
cây mà không
giống như loài thú vật.
Giới này chế ra có
hai mục đích giáo
dục đạo đức làm
người, khiến cho người
ta không xảy ra tai
nạn vì tai nạn xảy ra
sẽ làm
khổ mình, khổ người
và thoát ra khỏi
hành động còn mang bản chất của
loài thú vật.
Các Tổ không hiểu
những giới luật này là đức hạnh làm
người để thoát
ra bản chất của loài
động vật, các
Ngài cho nó là những giới nhỏ
nhặt, xem thường nên đặt ra câu
chuyện cọp đuổi bắt vị tỳ
kheo túng thế phải
trèo cây và nhờ
đó đức Phật
chế lại cho phép
tỳ kheo trèo cây. Câu
chuyện này hết sức vô lý, vì giới luật là đức hạnh
làm người, làm
Thánh thì có
giới nào
là nhỏ nhặt.
Giới luật nào
cũng đáng cho chúng ta phải học
và sống đúng để không làm khổ mình, khổ
người; để ly dục ly ác pháp; để tâm hồn được thanh
thản, an lạc và
vô sự; để nhập thiền định; để làm
chủ sự sống chết và luân hồi. Giới
luật là vô
giá như vậy,
thế mà các Tổ không hiểu nên lúc
nào cũng muốn tìm cách bỏ ra để được tự do phóng dật theo dục lạc thế gian. Thật
đáng thương thay!
Tóm lại,
những câu chuyện
trên đây là một
sự bịa đặt ra
của các
Tổ, ngõ hầu để diệt nền đạo đức nhân bản của Phật giáo.
3- Câu chuyện
thứ ba, có một quốc độ nam ngồi tiểu bị chế nhạo
là nữ nên Phật chế giới
lại cho đứng tiểu.
Đặt ra câu chuyện này thứ nhất là các Tổ
không hiểu Giới
luật là đức hạnh làm
người làm Thánh, giới luật là thiện pháp để diệt ác pháp, chuyển quả khổ
thành phước báo an vui, giới
luật là thiền
định để có đủ
năng lực làm chủ được sự sống chết và luân hồi.
Thứ hai
là các Tổ
xem thường đức Phật
như một người tầm thường, chế giới luật mà cứ sửa đi sửa lại
như vậy làm sao gọi
Phật được? Phật là người có trí
tuệ thì không thể nào chế
giới luật giống
như người thế gian, đặt ra pháp luật mà cứ sửa tới sửa lui mãi.
Thật là vô
lý hết sức một người làm Giáo chủ của đạo Phật. Đạo Phật là đạo trí tuệ thì vị
Giáo chủ phải đầy đủ trí tuệ, cớ sao các Tổ đặt ra những câu
chuyện như vậy để hại đức Phật
biến đức Phật trở thành người vô minh, không trí tuệ và các người Tổ là người
minh, người sáng suốt biết bỏ những giới luật nhỏ nhặt không hợp thời để biến đạo
Phật hợp thời đại.
Bởi các Tổ muốn
cho đạo Phật hợp thời
đại, vì thế đạo Phật bị thế tục hóa, do đó người tu sĩ Phật giáo
tu mãi thành
người giàu có, thành người có quyền uy thế lực.
Muốn cho hợp
thời, vì thế tu sĩ đều phạm giới, phá giới, con đường chân chánh tu
tập của Phật giáo đã trở thành con đường tà giáo ngoại đạo, giới luật đã được
ném ra khỏi cổng chùa, người tu sĩ chỉ còn
danh và lợi, sự giải
thoát khó mà tìm thấy được ở đời này.
TƯỞNG ÁNH
SÁNG
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch Thầy! Thế
nào là dùng tưởng ánh sáng để đối trị hôn trầm thùy
miên?
Đáp: Tưởng
là một năng lực siêu hình có một sức mạnh
vĩ đại, nhưng
tưởng thì phải tưởng đúng sự thật
là có lợi ích rất lớn, tưởng không đúng sự thật sẽ là một tai hại cho mình cho
người.
Ví dụ: Ánh
sáng là có thật nên tưởng ánh sáng
là tưởng thật.
Linh hồn là không
thật có nên tưởng linh hồn
là tưởng không thật. Thân người khi chết
để lâu ngày sẽ sình
hôi thối là thật
có nhưng hiện
giờ không có
thân người chết sình hôi thối,
nhưng ngồi quán tưởng thân người sình hôi thối là tưởng thật.
Cho nên,
quán tưởng ánh sáng để phá hôn trầm
thùy miên là
quán tưởng đúng
thật. Đợi có hôn trầm thùy
miên mà quán
tưởng ánh sáng thì quá muộn.
Như chúng ta
ai cũng biết tướng trạng của si là hôn
trầm thùy miên, nếu không phá được
hôn trầm
thùy miên thì không bao giờ có tỉnh
giác mà
không tỉnh giác
thì không bao giờ có chánh niệm. Chúng ta hãy đọc lại đoạn kinh
Tăng Chi tập 4 trang 44: “Khi chánh niệm tỉnh giác không có, này các tỳ kheo, với
người không có chánh niệm tỉnh giác thì tàm
quý đi đến
hủy diệt. Khi
tàm quý không có, này các tỳ kheo,
với người thiếu tàm
quý, chế ngự
các căn đi đến hủy diệt. Khi chế ngự các căn không có, với
người thiếu chế ngự
các căn, giới
đi đến hủy diệt.
Khi giới không
có, với người
thiếu giới, chánh định
đi đến hủy
diệt. Khi chánh định không có, với
người không có chánh định, tri kiến như thật đi đến hủy diệt.
Khi tri kiến như thật
không có, với người thiếu tri kiến như thật không có, nhàm chán ly tham đi đến hủy diệt. Khi nhàm chán ly tham không có, với người thiếu nhàm
chán ly tham,
giải thoát tri kiến đi đến hủy diệt... Này các tỳ kheo,
khi chánh niệm tỉnh
giác có mặt, với người đầy
đủ chánh niệm tỉnh giác...
giải thoát tri kiến đi đến đầy đủ”.
Đọc trong đoạn
kinh này chúng ta thấy sự phá hôn trầm
thùy miên là một điều
quan
trọng hết sức
trong vấn đề tu tập để đi đến giải thoát của đạo Phật.
Không phải đợi có
hôn trầm, thùy
miên mới dùng quán tưởng ánh sáng. Chúng ta nên biết rằng trong ta đang
có sẵn các tướng tham, sân, si, nếu hằng ngày không dùng quán tưởng ánh sáng
mà tu tập
khi thùy miên hôn trầm
đến thì không thể
nào đương đầu với chúng
nổi.
Pháp quán tưởng
ánh sáng là pháp phòng ngừa, pháp thủ chứ không phải pháp công phá, cho nên
nó không thể
dùng công phá
thùy miên, hôn trầm được.
Xưa đức Phật
dạy công phá hôn trầm thùy miên bằng cách
đi kinh hành, ngày
nay Thầy dạy phá
hôn trầm thùy
miên bằng cách kết
hợp đi kinh hành và ngồi thở năm hơi rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước. Cứ tu tập
như vậy sẽ đẩy lui hôn trầm thùy miên.
THIẾU KINH NGHIỆM TU HÀNH THÌ KHÔNG HIỂU NGHÏA KINH
Câu hỏi của
Nhật Lý
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Hiện có nhiều
học giả
nên cũng có nhiều sự giải thích
khác nhau, đôi khi trái ngược, về các khái niệm:
1- Về ba uẩn:
Tưởng, hành và thức, kính mong Thầy giải thích
và cho ví dụ để con hiểu rõ hơn.
2- Tại
sao trong kinh ‚Đáng
Được Ăn‛
Tương Ưng
III, trang 161 dạy:
Tưởng chỉ là
sự nhận rõ các màu sắc. Thức chỉ là sự rõ biết các vị chua đắng
ngọt cay...?
3- Thế nào
là Tầm? Thế
nào là Tứ?
Xin
Thầy cho ví
dụ.
Đáp: Trong
Thân ngũ uẩn có: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Trong câu hỏi
của con chỉ hỏi tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, mà không có hỏi sắc uẩn và thọ
uẩn.
Người ta
không nhận ra trong thân ngũ uẩn có ba cái
thức làm việc,
ba cái thức đó có
tên là:
1/ Sắc thức,
gồm có sáu thức: nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân
và ý thức,
hoạt động và cảm
nhận tức là hành uẩn và thọ uẩn, lúc con người đang tỉnh thức và làm việc qua sắc
uẩn.
2/ Tưởng thức
hoạt động và cảm nhận (hành uẩn và thọ uẩn) qua tưởng uẩn trong giấc ngủ (chiêm
bao).
3/ Thức thức
hay còn gọi là tâm thức hoạt động và cảm nhận (hành uẩn và thọ uẩn) qua thức uẩn.
Muốn cho tâm thức hoạt động và cảm nhận
thì phải nhập xong bốn
thiền: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam
Thiền và Tứ Thiền. Trong khi nhập xong Tứ
Thiền thì sắc thức và tưởng thức đã ngưng nghỉ nhường chỗ cho tâm thức hoạt động, vì thế lúc bấy giờ
Tam Minh chúng
ta mới thực hiện được. Nếu sắc thức và tưởng thức chưa ngưng nghỉ
thì tâm thức không
bao giờ hoạt động được và vì vậy sự
tu hành của ngoại đạo chưa bao giờ
thực hiện được Tam minh.
Còn hành uẩn và thọ uẩn
là những sự hoạt
động và cảm nhận của ba
thức này
mà thôi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!