TẦM3 TỨ4
Câu hỏi
của Diệu Tâm
Hỏi:Xin
Thầy giảng rõ thêm tầm, tứ.
Cách diệt
tầm tứ?
Đáp: Tầm
là suy tư, suy nghĩ; tứ là ý tứ,
tác ý ra.
Tầm tứ có hai loại:
1- Tầm tứ
ác.
2- Tầm tứ
thiện.
Muốn diệt
tầm tứ, ta phải diệt tầm tứ ác
trước.
1- Diệt
tầm tứ ác, ta phải tu tập phòng hộ
sáu căn,
thiểu dục tri túc, ăn ngủ không được
phi thời,
tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, tu
Định Vô
Lậu (ly dục ly ác pháp). Tu tập Tứ
3
Tầm là sự
suy tư nghĩ ngợi một điều gì
4
Tứ là tác
ý, khởi niệm Chánh Cần ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện,
tăng trưởng
thiện pháp.
2- Diệt
tầm tứ thiện, ta phải tu Định
Niệm Hơi
Thở, định diệt tầm giữ tứ, tu tập
pháp hướng
tâm, tu tập định diệt tứ.
Tóm lại,
tầm tứ là sự tác ý và sự tư duy,
suy nghĩ
của ý thức. Con nên đọc thêm bài
kinh Song
Tầm và An Trú Tầm, thì mới rõ
nghĩa tầm
tứ một cách cụ thể hơn, mà đức Phật
đã chỉ
dạy một cách tường tận trên bước đường
hành thiền
theo Phật giáo. Chính Ngài cũng
nhờ sự tu
tập này mà thành Chánh giác.
Muốn diệt
tầm tứ, chỉ có Tứ Thần Túc thì
diệt tầm
tứ rất dễ dàng, ngoài Tứ Thần Túc
diệt tầm
tứ rất khó khăn.
“Chư Tỳ
Kheo, trước khi Ta giác ngộ,
khi chưa
thành Chánh Giác và còn là Bồ
Tát, Ta suy
nghĩ như sau: “Ta sống suy tư
và chia hai
suy tầm. Chư Tỳ Kheo, phàm
có dục
tầm nào, (Dục tầm là lòng ham
muốn khởi
lên trong ta, bất cứ một sự ham
muốn điều
gì đều là dục tầm)”.
Ví dụ:
Chúng ta đang tu tập giữ gìn tâ m
không phóng
dật, thì bỗng dưng khởi niệm
thần thông,
nếu tu tập có thần thông mình sẽ phóng hào quang hoặc tịnh chỉ hơi
thở cho
phóng viên
báo chí, truyền thanh, truyền hình
biết, để
loan tin thì chắc chắn người ta sẽ theo
đạo Phật
nhiều và như vậy chúng ta sẽ chấn
hưng Phật
giáo rất nhanh. Những niệm khởi
như vậy
gọi là dục tầm. Sân tầm nào, (Sân tầm
là lòng
tức giận khởi lên trong ta), hại tầm
nào, (Hại
tầm là lòng nham hiểm, độc ác khởi
lên tìm
cách này cách nọ để nói xấu người
khác, hoặc
tìm mưu cách hãm hại khiến cho
người khác
đau khổ, khiến cho người khác mất
uy tín,
khiến cho tín đồ không còn theo tu tập,
khiến cho
người khác mất nghề nghiệp đói khổ
v.v..).
“Ta phân
thành phần thứ nhất; phàm
có ly dục
tầm nào (ly dục tầm là lìa lòng
ham muốn),
vô sân tầm nào (vô sân tầm là
tâm không
còn giận hờn), vô hại tầm nào
(vô hại
tầm nào là tâm không còn mưu đồ
tính toán
hại người, nói xấu người) Ta
phân làm
phần thứ hai. Chư Tỳ Kheo, rồi
Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm tinh
cần. Khi
dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: “Dục
tầm này
khởi lên nơi Ta và dục tầm này
đưa đến tự
hại, đưa đến hại người, đưa
đến hại
cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết
Bàn. Chư
Tỳ Kheo khi
Ta suy tư: “Dục tầm này đưa
đến tự
hại”, dục tầm này được biến mất.
Chư Tỳ Kheo
khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa
đến hại
người”, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ Kheo
khi Ta suy tư: “Dục tầm đưa
đến hại
cả hai”, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ Kheo
khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt
trí tuệ,
dự phần vào phiền não, không đưa
đến Niết
Bàn”, dục tầm được biến mất.
Chư Tỳ
Kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ,
xả ly và
đoạn tận dục tầm, sân tầm, hại
tầm”.
Qua đoạn
kinh này chúng ta xét thấy một
phương pháp
tu thiền định rất thực tế của đạo
Phật. Ở
đây, chúng ta không thấy đức Phật dạy
ngồi
thiền, nhiếp tâm bằng cách này, cách
khác mà
chỉ dạy chúng ta cách thức tư duy, suy
nghĩ về
lòng ham muốn của mình, xem coi lòng
ham muốn
của mình có còn ham muốn cái gì
không. Nếu
còn thì Đức Phật gọi là “Dục Tầm”,
nếu thấy
lòng mình không còn có ham muốn
thì đức
Phật gọi đó là “Ly Dục Tầm”, nếu
chúng ta
còn dục tầm thì đức Phật dạy chúng
ta quán
xét dục tầm, dục tầm sẽ đưa đến tự hại
ta, hại
người và hại cả hai. Bởi vì còn dục tầm sẽ làm khổ mình, khổ
người và khổ tất cả
chúng sanh,
do hiểu biết như vậy ta liền xa lìa
dục tầm,
nhờ có xa lìa dục tầm ta mới thấy
được tâm
thanh thản, an lạc và vô sự; tâm
thanh thản,
an lạc và vô sự là tâm ly dục ly ác
pháp; tâm
ly dục ly ác pháp là tâm nhập Sơ
Thiền; tâm
nhập Sơ Thiền là tâm lìa tham,
sân, si; tâm
lìa tham sân, si là tâm thanh tịnh;
tâm thanh
tịnh ấy là thiền định của đạo Phật.
Như vậy,
bài Kinh Song Tầm là bài kinh
dạy chúng
ta tu thiền định của đạo Phật.
Chúng ta
nên đọc thêm một bài kinh nữa,
đó là bài
kinh An Trú Tầm. Bài kinh Song
Tầm đức
Phật dạy chúng ta lựa chọn tầm
thiện,
loại trừ tầm ác ra khỏi tâ m.
Qua bài
kinh này, chúng ta đã biết cách
lựa chọn
tầm thiện, nhưng chưa biết cách sống
trong tầm
thiện, vì thế đến bài kinh An Trú
Tầm, đức
Phật dạy chúng ta cách thức tu tập
để được an
trú trong tầm thiện, đó là một
phương pháp
rất đặc biệt của Phật giáo trong
việc nhập
định, mà không có một giáo pháp
nào của
ngoại đạo có được. “Chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo muốn thực
hiện tu
tăng thượng tâm cần phải thường
thường tác
ý năm tướng. Thế nào là năm?
Tỳ Kheo y
cứ tướng nào, tác ý tướng
nào, các
ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
liên hệ
đến sân, liên hệ đến si sanh khởi,
thời này
các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải
tác ý một
tướng khác liên hệ đến thiện
không phải
tướng kia. Nhờ tác ý một
tướng khác
liên hệ đến thiện, không phải
tướng kia,
thì các ác bất thiện tầm liên hệ
đến dục,
liên hệ đến sân, liên hệ đến si
được diệt
trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ
diệt trừ
chúng, nội tâm được an trú, an
tịnh, nhất
tâm định tỉnh”. Đây là phương
pháp thứ
nhất mà Đức Phật dạy: Khi trong
thân, thọ,
tâm, pháp của chúng ta có ác pháp
xâm chiếm,
thì phải tác ý một tướng khác
tướng ác
đó, tức là một tướng thiện, tướng
thiện là
một tướng đi ngược lại với tướng ác đó.
Nhờ có
tác ý một tướng thiện đối trị lại tướng
ác đó, nên
tướng ác đó bị đoạn trừ và tiêu diệt,
lúc bây
giờ tâm chúng ta mới đẩy lùi chướng
ngại pháp,
tức là ngăn ác, diệt ác pháp để tâm
được an
trú trong tầm thiện, để được an trú, an
tịnh, nhất
tâm, định tỉnh tức là nhập định. “Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy tác ý
một tướng
khác với tướng kia, liên hệ đến
thiện mà
các ác bất thiện tầm liên hệ đến
dục, liên
hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn
khởi lên.
Thời này chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
ấy cần
phải quan sát các nguy hiểm của
những tầm
ấy: “Đây là những tầm bất
thiện, đây
là những tầm có tội, đây là
những tầm
có khổ báo. Nhờ quan sát các
nguy hiểm
của những tầm ấy, các ác bất
thiện tầm
liên hệ đến dục, liên hệ đến sân,
liên hệ
đến si được trừ diệt, đi đến diệt
vong. Chính
nhờ diệt trừ chún g, nội tâm
được an
trú an tịnh, nhất tâm định tỉnh”.
Đây là
phương pháp thứ hai, dùng quán tư
duy để ngăn
ác diệt ác pháp, để tâm được an
trú trong
tầm thiện, tức là an trú trong định.
Một người
tu thiền định để tìm sự giải thoát,
thì không
thể thiếu phương pháp tu tập này
được.
“Chư Tỳ
Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong
khi quán
sát các nguy hiểm của những
tầm ấy,
các ác bất thiện tầm liên hệ đến
dục, liên
hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn
còn khởi
lên, thời này chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải không ức niệm, không
tác ý
những tầm ấy. Nhờ không ức niệm,
không tác
ý các tầm ấy, các ác bất thiện
tầm liên
hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên
hệ đến si
được diệt trừ, đi đến diệt vong.
Nhờ chính
diệt trừ chúng, nội tâm được
an trú, an
tịnh, nhất tâm, định tỉnh”.
Đây là
phương pháp thứ ba, để an trú
trong tầm
thiện, tức là ngăn ác diệt ác pháp,
để tâm ly
dục ly ác pháp nhập bất động tâm
(Sơ thiền),
do ly dục tầm mới được tầm tứ
thiện, mới
được nhất tâm, định tỉnh. Phương
pháp tu
tập này cũng giống như người không
muốn nhìn
thấy các sắc pháp nên nhắm mắt
hoặc nhìn
chỗ khác.
“Chư Tỳ
Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong
khi không
ức niệm, không tác ý các tầm
ấy, các
ác bất thiện tầm liên hệ đến dục,
lên hệ sân,
liên hệ đến si vẫn khởi lên.
Chư Tỳ
Kheo, vị Tỳ Kheo ấy cần phải tác ý
đến hành
tướng các tầm và sự an trú các
tầm. Nhờ
tác ý đến hành tướng các tầm và
sự an trú
các tầm ấy, các ác bất thiện tầm
liên hệ
đến dục, đến sân, đến si được an
trú, an
tịnh, nhất tâm, định tỉnh”. Đây là phương pháp thứ tư, để an trú
trong tầm
thiện bằng cách tác ý các hành
trong thân
và giảm các hành dần để đi đến an
trú, an
tịnh, nhất tâm, định tỉnh, nhờ có an
trú, an
tịnh, nhất tâm, định tỉnh thì tâm mới
không phóng
dật, tâm không phóng dật thì
tâm mới ly
dục, ly ác pháp dễ dàng. Phương
pháp ngăn
ác diệt ác pháp này, tu tập có hiệu
quả hay
không, là do đặc tướng của mỗi hành
giả.
Pháp này
được xem là pháp môn tu tập
trong Thân
Hành Niệm để an trú tầm thiện và
rất có
hiệu quả khi một người có nhiệt tâm tu
hành.
“Chư Tỳ
Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong
khi tác ý
đến hành tướng các tầm và sự an
trú các
tầm, các ác bất thiện tầm liên hệ
đến dục,
đến sân, đến si vẫn khởi lên, thời
chư Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo phải nghiến răng,
dán chặt
lưỡi lên nóc họng. Lấy tâm chế
ngự tâm,
nhiếp phục tâm đánh bại tâm.
Nhờ nghiến
răng dán chặt lưỡi lên nóc
họng, lấy
tâm chế ngự tâm, nhiếp phục
tâm đánh
bại tâm, các ác bất thiện tầm
liên hệ
đến dục, liên hệ đến sân và si được
trừ diệt,
đi đến diệt vong”. Đây là phương pháp thứ năm, của pháp an
trú tầm
thiện cũng là phương pháp cuối cùng
trong khi
chiến đấu với các ác bất thiện pháp.
Phương pháp
này chúng tôi thường gọi là
niệm lực
hay là pháp gom tâm vào tụ điểm để
nhẫn nhục
trước các ác bất thiện pháp, để diệt
trừ tâm
loạn động, để diệt trừ tâm si mê ham
ngủ nghỉ
(hôn trầm thùy miên vô ký), để diệ t
trừ tâm
tham dục, để diệt trừ tâm đang tức
giận, để
diệt trừ tâm đang khi thân bị bệnh
khổ, v.v..
Phương pháp này là phương pháp
chống trả
lại các ác pháp rất mãnh liệt để tận
diệt cho
bằng được các ác bất thiện phá p.
Tóm lại,
trong năm phương pháp tu tập để
an trú tầm
thiện, đức Phật đã trao cho chúng
ta tất cả
kinh nghiệm tu hành để đưa đến chỗ
tâm không
phóng dật.
Năm phương
pháp an trú tầm là năm
phương pháp
dùng để ngăn ác diệ t ác pháp
tuyệt vời,
mà một người tu tập phải luôn luôn
sống với
pháp môn này như hơi thở mà chúng
ta đang
thở, nếu hơi thở dừng thì chúng ta ra
người thiên
cổ, còn pháp môn này rời khỏi
chúng ta
thì chúng ta sống trong hỏa ngục cũng
như người
chết chưa chôn
Trên đường
về xứ Phật, đức Phật đã trang
bị cho
chúng ta đủ mọi thứ cần thiết để vượt
qua những
đoạn đường gian nan khốn khổ và
nguy hiểm,
nếu chúng ta bền chí, kiên cường,
dũng cảm
thì chắc chắn sẽ đến nơi, đến chốn
an toàn.
BỒ TÁT QUAN
ÂM DO TƯỞNG
SAO CĨ SỰ
LINH THIÊNG?
Câu hỏi
của Diệu Tâm
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Bồ Tát Quan Thế
Âm do tưởng
mà có, nhưng cũng có sự linh
thiêng và
cứu độ? Xin Thầy giả ng cho chúng
con được
hiểu.
Đáp: Chính
vì người ta thấy những bóng
ma phảng
phất, những sự linh thiêng của
những nhân
vật tưởng tượng nên thế giới siêu
hình mới
có. Không ai giải thích được những
hiện tượng
kỳ lạ đó, do đâu mà có, khoa học
cũng đành
bó tay. Chỉ có những người nhập
được chánh
định, vượt qua cảnh giới hữu sắc và vô sắc tức là vượt qua các
loại định tưởng thì
mới thấy
được thế giới siêu hình rõ ràng và sự
linh thiêng
đó do đâu mà có.
Thân chúng
ta gồm năm ấm: sắc, thọ,
tưởng,
hành, thức.
- Sắc là
thế giới hữu hình.
- Tưởng là
thế giới vô hình.
Người ta
hiểu tưởng là do sự tưởng tượng.
Tưởng ở
đây không phải là tưởng tượng, là
tưởng ấm
cũng như sắc ấm vậy, chứ không phải
sự tưởng
tượng. Sắc ấm có cảnh giới của sắc ấm
như: nhà
cửa, cây cỏ, vạn vật, cầm thú, vạn
hữu, v.v..
thì cảnh giới tưởng ấm cũng vậy nó
chỉ khác
là vô sắc. Vì nó là hình ảnh bóng
dáng theo
khuôn mẫu của thế giới sắc ấm (hữu
hình), nó
cũng giống như cây cổ thụ kia, hình
và bóng
của nó. Cây là thế giới hữu hình, còn
bóng của
nó là thế giới siêu hình, cho nên cây
không có
thì bóng cũng khô ng có. Vì thế, thân
người mất
thì linh hồn người cũng không còn.
Cảnh giới
hữu hình và siêu hình của một
người nó
theo nhau như hình với bóng. Phước
đến thì
nó hiện ra giải nạn do một niềm tin ở
vị Thần,
Thánh nào đó, ngược lại người đó không tin Thần, Thánh thì nó khiến
người đó
lỡ tàu,
lỡ xe để thoát nạn.
Đồng thời
mọi người cùng thấy ở một góc
độ nào
đó, thì đó là do cộng nghiệp và do lòng
tin, nhưng
nó còn tùy ở tưởng ấm hoạt động
giao cảm
mạnh hay yếu.
Người tu
tập thiền định, trạng thái tưởng
xuất hiện
kỳ lạ, nếu không có thiện hữu tri
thức thì
không thể nào ngồi yên nổi để tu.
Trường hợp
đó người tu nào cũng đều cho đó là
thế giới
oan hồn đến phá. Thấy một tảng đá,
hoặc một
người ngồi giữa đường, người lái xe
lạc tay
lái, gây tai nạn, đó là nghiệp ác đến,
tưởng ấm
xuất hiện ra. Một người té xuống
sông, có
cảm giác như có người lôi họ xuống
nước, đó
là nghiệp ác lôi họ xuống, nhờ tạo
thiện nên
có người cứu thoát họ.
Luật nhân
quả nghiệp báo sử dụng sắc ấm
và tưởng
ấm rất là vi diệu mà loài người không
thể lường
được.
Hàng ngày,
một người không tu tập và
không trau
dồi thân tâm bằng thiện pháp,
nhân quả
nghiệp báo sai sắc ấm của họ làm
những điều
tội ác mà họ không hề hay biết,
đến khi
tội khổ thì họ lại than trời trách đất,
đi cầu
khẩn Thần, Thánh gia hộ. Còn nhân quả nghiệp báo sai tưởng ấm
của họ gây
tai họa hoặc cứu họ thoát chết thì
họ cho oan
hồn, quỷ ma tác họa, ngược lại được
phước báo
thì cho là Thần Thánh, chư Phật,
chư Bồ Tát
gia hộ bình an.
Mọi người
sống trong thế giới đố i đãi mà
không thấy
đối đãi. Sống trong thế giới nhân
quả mà
không thấy nhân quả.
Con người
từ nhân quả sanh ra, chết đi về
nhân quả,
lại không thấy, cho rằng có những
linh hồn
người chết, có những Thần, Thánh,
quỷ, ma.
Cho nên Đức Phật dạy: “Con người
là thừa
tự nhân quả”. Đã thừa tự nhân quả
thì làm
sao có ma được? Có thế giới linh hồn
người chết
được?
Tất cả
các tôn giáo khác đều không vén
màn vô minh
này, nên tôn giáo nào cũ ng xây
dựng thế
giới siêu hình có thật. Và vì thế , cuộc
đời này
đã làm mất đi sự công bằng và công lý
của loài
người.
Người ta
theo các tôn giáo thì được cứu
rỗi, được
gia hộ; còn ai không theo tôn giáo thì
chẳng được
ai cứu rỗi và gia hộ cả. Như vậy có
bất công
không? Chỉ có Phật giáo dám xác định
thế giới
siêu hình khách quan không có, mà có
thế giới
siêu hình chủ quan do từ tưởng ấm lưu xuất. Khi một người còn sống
thì có, nhưng khi
đã chết
thì không có. Vì thế, đức Phật cả quyết
xác định
thế giới siêu hình là do tưởng tri sản
xuất sanh
ra chứ không có thế giới thật:
“Tưởng tri
chứ không phải Liễu tri”.
CĨ CÕI TRỜI
KHƠNG?
Câu hỏi
của Diệu Tâm
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Trời có phải là
một trong
sáu nẻo luân hồi, nếu làm thiện
tương xứng
sẽ sanh ở đó. Trong kinh có nói 18
tầng trời
hoặc 36 cõi trời. Xin Thầy chỉ cho con
rõ?
Đáp: Sáu
nẻo luân hồi chỉ là một sự diễn
biến nhân
quả nghiệp báo, do con người và
chúng sanh
vì vô minh tạo ra mà phải gánh
chịu.
Mười tám
tầng trời chỉ cho 18 trạng thái
thiện.
Ba mươi sáu
cõi trời chỉ cho ba mươi sáu
pháp
thiện. Ví dụ: Thầy nhập Sơ Thiền tức là Thầy đã
ở cõi Sơ
Thiền Thiên, nhập Không vô biên xứ
tưởng tức
là Thầy đã ở cõi Không vô biên xứ
Thiên, nhập
nhẫn nhục tức là Thầy đã ở cõi
Đâu suất
Thiên... Như vậy có phải đợi chết rồi
mới sanh
về đó đâu? Chỉ cầ n thực hiện diệt
một ác
pháp, tăng trưởng một thiện pháp là
sanh vào
cõi trời đó ngay liền, nhưng con phải
hiểu thiện
pháp có rất nhiều, nên có 33 cõi
thiện pháp
mà trong kinh gọi là 33 cõi trời, 33
cõi trời
tức là 33 trạng thái thiện pháp.
Đó là một
trạng thái giải thoát của tâm,
khi tâm đã
đạt mức độ thiện ở đó, thì tương
xứng với
cảnh giới Thiệân ở đó. Có hiểu được
như vậy
mới hiểu được đạo Phật.
Dù cho có
các cõi Trời thật sự đi nữa mà
tâm chẳng
thiện thì cũng chẳng có ích lợi gì
cho chúng
ta, phải không hỡi con ?
Dù cho
không có các cõi Trời đi nữa, mà
tâm chúng
ta sống trong thiện pháp thì tâm
chúng ta
cũng được an vui, hạnh phúc như
thường. Và
như vậy, không phải sống trong cõi
Trời sao?
Chứ đâu phải chết mới được sanh về
đó. Chết
được sanh về cõi trời đó là một ảo
tưởng, một
giấc mộng mơ hồ của những người
thiếu óc
thực tế khoa học , vô minh không sáng suốt bị các tôn giáo lừa đảo.
Sống đang
ở trong cõi Trời thì chết về đâu
các con có
biết không? Hỏi tức là trả lời. Do thế
ngay từ
trong cảnh sống ở thế gian mà người
nào biết
ngăn ác, diệt ác pháp thì người ấy
đang sống
trong Thiên Đàng chứ không phải
Thiên Đàng
ở cõi giới nào cả.
Thế giới
siêu hình Thiên Đàng là do các
tôn giáo
dựng lên, chỉ là một cảnh giới do
tưởng ấm
sanh ra, để an ủi tinh thần của
những
người yếu đuối đang gặp khổ đau tai
nạn, để
nuôi hy vọng làm thiện được sanh về
đó...
Người tu
sĩ đạo Phật vì thấu rõ nhân quả
nghiệp
báo, nên tự lực cứu mình bằng cách
sống trong
thiện pháp: “Các con hãy tự thắp
đuốc lên
mà đi”. Đây là lời kêu gọi thiết tha
do lòng
đại từ bi của đức Phật đối với chúng ta.
Nói đến
thế giới thì chúng ta phải nói đến
sự duyên
hợp, có nhiều duyên hợp lại mới
thành thế
giới, vì thế một thần thức (thức ấm)
đơn độc
không thể là thế giới được. Vì thế giới
hữu hình
không có thì thế giới siêu hình và
linh hồn
cũng không có.
Ví dụ:
Chúng ta lấy một cây cột mà bảo rằng là cái nhà thì không thể
được, vì cái nhà
phải có
nhiều duyên hợp lại như: cột, kèo, cửa
sổ, cửa
cái, vách, đòn tay, ngói gạch hợp lại thì
mới gọi
là cái nhà được.
Tóm lại,
thế giới siêu hình không có mà
chỉ có
những trạng thái, từ trường thiện, ác
pháp của
nhân quả đang phóng xuất theo thân
hành, khẩu
hành và ý hành của sự vận hành
nhân quả.
CHÁNH KIẾN
Câu hỏi
của Từ Tuệ
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Con kính trình
Thầy những
vấn đề con nhận thức được sau
thời gian
được Thầy chỉ dạy và cả những câu
hỏi xin
Thầy giảng dạy để con thấu hiểu hơn.
1- Thầy
dạy câu: “Chỉ có tâm ly dục mới
hiểu được
mình, được người bằng chánh kiến”.
Con đã suy
tư và nhận thấy:
Tâm không ly
dục ly ác pháp là tâm còn
vẩn đục,
đen đúa, ví như cái kiếng đen mà còn
bị chà
xước làm sao thấy được người đúng như thật. Tâm ly dục là tâm trong
sáng như pha lê,
thấy người
như thật có và thấy mình như thật
có. Con
nghĩ như vậy có đúng không thưa
Thầy?
Đáp: Đúng
vậy, con đã hiểu những lời
Thầy dạy,
mặc dù các kinh có giải thích về
Chánh
kiến; thấy thân, thọ, tâm, pháp là vô
thường,
khổ, không, vô ngã; thấy 12 nhân
duyên hợp
là thế giới khổ; thấy 12 nhân duyên
rã là hết
khổ; thấy thân ngũ uẩn không phải là
ta, không
phải của ta, không phải tự ngã của
ta. Thấy
biết đúng như vậy gọi là Chánh kiến.
Chánh kiến
ở đây là giải nghĩa Chánh kiến,
chứ không
phải Chánh kiến trong Bát Chánh
Đạo. Vì
Chánh kiến trong Bát Chánh Đạo là
lớp học
đầu tiên của Phật giáo trong tám lớp.
Tuy dựa
theo các kinh để hiểu biết, nhưng
không phải
như vậy, vì thế tâm vẫn còn chấp
ngã, tham,
sân, si vẫn đầy dẫy thì làm sao gọi
là “Chánh
kiến” được, chỉ khi nào tâm ly dục
ly ác pháp
thì mới thấy thân, thọ, tâm, pháp,
vô thường,
khổ, không, vô ngã như thật (Chánh
kiến).
Tóm lại,
khi nhìn thấy hình sắc xấu, tốt
cũng như
khi nghe âm thinh thuận tai, chướng
tai, khi
cảm giác êm ấm, thoái mái dễ chịu, khi ngửi một mùi thơm hay thối
đều không có
chướng
ngại thân tâm thì đó là Chánh kiến;
khi lục căn
tiếp xúc lục trần không dính mắc là
Chánh
kiến, tức là một sự hiểu biết mà không
có khổ
đau, đó là Chánh kiến.
Một sự
hiểu biết mà không có sự dối trá,
gian xảo,
không có sự lừa đảo, lường gạt, không
có sự phi
đạo đức thì đó là Chánh kiến.
Một sự
hiểu biết mà không có ảo tưởng,
trừu
tượng, không có tưởng tri thì đó là Chánh
kiến.
Ví dụ:
Không có thế giới siêu hình mà cho
rằng có,
là không phải Chánh kiến. Không có
Cực Lạc,
Tây Phương, không có Thiên Đàng mà
cho rằng
có, là không có Chánh kiến.
Không có
thần thức, không có linh hồn,
không có
Phật tánh, không có đại ngã, không
có tiểu
ngã, không có bản thể vạn hữu mà cho
rằng có,
đó là không có Chánh kiến.
Chánh kiến
nơi đâu thì nơi đó có đời sống
giới luật,
nơi đâu có đời sống giới luật thì nơi
đó có
Chánh kiến. Nơi đâu sống đời sống phạm
giới, phá
giới thì nơi đó không có Chánh kiến.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!