học giả,
chứ Phật nào
có dạy như vậy đâu?
Vì dạy như vậy trái với đạo tĩnh thức.
Đạo Phật
là đạo trí tuệ,
mỗi hành động đều phải có sự tĩnh thức để luôn sống ở
trong chánh kiến của đạo Phật
thì làm sao có vô tâm? Người vô tâm, vô phân biệt là người của
ngoại đạo. Trong
đạo Phật Chánh
kiến chưa đủ, mà còn phải Chánh
tư duy.
Nếu Trưởng
Lão Cakkhapãla sống trong Chánh kiến, Chánh
tư duy thì làm
gì lại đi kinh hành
để vô tâm
sát hại chúng
sanh như
vậy.
Cho nên, bảo
rằng: Đức Phật đem ví dụ để xác định
bài kệ
vô tâm giết hại chúng sanh là không tội.
Điều đó sai với chân
lý của đạo Phật, như chúng tôi đã nói ở trên. Vì đạo Phật có Bát Chánh Đạo. Bát
Chánh Đạo không cho phép chúng ta làm việc gì vô tâm cả. Vì vô tâm cũng phải đoạ
địa ngục, cũng phải chịu nhiều khổ đau.
Vì vô tâm
sát hại thì người
lái xe đã gây ra tai
nạn giao thông
cũng là vô
tâm, để rồi phải
thọ lãnh sự khổ đau
tù tội không
phải riêng mình mà
còn gây ra cả
bao nhiêu người khác đau khổ nữa.
Cho nên, bài kinh ví dụ này là sai.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
Câu kinh Pháp
Cú đã xác định
nghĩa của đạo Phật rõ ràng:
“Tâm dẫn đầu
các pháp”
Tâm dẫn đầu các
pháp mà tâm
không sáng suốt, tâm
không tĩnh thức,
tâm không định tĩnh thì tâm sẽ dẫn
chúng ta vào đau khổ.
Nếu hành động vô
tâm, tức là
không chỉ huy các pháp thì các
pháp sẽ dẫn đầu tâm, như vậy không thể
gọi là “tâm
dẫn đầu các pháp”.
Xét ra tích
chuyện Pháp Cú
là do người sau bịa đặt, làm sai
ý nghĩa câu kinh. Xin quý bạn lưu ý đừng để kiến giải của
học giả lừa đảo quí bạn, làm mất
ý nghĩa pháp
hành quí báu của đức Phật.
Mới vào đầu
câu kệ của kinh Pháp Cú mà các Tổ đã lồng truyện tích làm sai ý pháp Phật, thật
là đau lòng.
Chúng ta là
đệ tử của Phật phải sáng suốt để bài trừ tà kiến trong Phật giáo.
Tóm lại,
bài kệ này
trong kinh Pháp Cú có một giá trị rất lớn về pháp hành trong
chân lý Đạo Đế của đạo Phật, tức là nó thuộc về sáu nẻo trong Bát Chánh Đạo:
Chánh kiến, Chánh
tư duy,
Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn.
Đứng về thiền định
thì nó thuộc về
pháp hành của Tứ Chánh Cần “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng”.
Còn đứng về giới luật thì nó là “hạnh ly dục ly ác pháp”.
Vì thế, biết
áp dụng sáu câu kệ này vào cuộc sống hằng
ngày thì con đường giải
thoát của đạo Phật ở ngay trước mắt
các bạn và quả A La Hán cũng ngay tại đó.
LỜI XÁC ĐỊNH
THỨ HAI CỦA ĐỨC PHẬT
LỜ I PHẬT DẠY
- 2 -
“ Tâm dẫn đầu
mọi pháp Tâm chủ, tâm tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư thanh tịnh Hạnh
phúc sẽ theo ta
Như bóng
không rời hình”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Xin nhắc lại bài kệ trên,
tâm dẫn đầu các
pháp ác thì tâm
khổ não, sự khổ não đó
theo ta
cũng giống như
xe theo con vật
kéo. Nếu tâm không dẫn đầu ác pháp thì tâm không khổ. Do
tâm dẫn đầàu
ác pháp nên
tâm phải chịu khổ, sự khổ
đau đó không thể
nào tránh
khỏi, vì thế
nên đức Phật ví nó như xe theo con vật kéo.
Cho nên,
người sống trong
ác pháp mà bảo
rằng có hạnh
phúc, an vui
thì không thể nào tin được vì quả
khổ sẽ theo ta như xe theo con vật
kéo. Đó lời
xác định của đức Phật như vậy.
Cho nên, một
người còn ăn thịt chúng sanh, mà bảo rằng họ sống có hạnh phúc
thì chúng ta làm sao tin được.
Qua bài kệ thứ nhất,
chúng ta xét lại bài kinh Song Tầm, thì bài kệ thứ nhất, tức
là tầm ác.
Tầm ác là
gì?
Là sự suy tư
về một ác pháp để biến ra lời nói hay hành động làm đau khổ mình, đau khổ người và chúng sanh.
Ví dụ: Hôm
nay là ngày Tết mọi nhà đều giết loài vật để ăn
Tết. Trước khi giết loài vật
để ăn
Tết thì chúng ta suy
tư, phải
giết con lợn, con gà, con vịt hay
cá tôm, v.v..
Sự suy tư
như vậy là tâm dẫn đầu ác pháp.
Khi sai bảo
người nhà: “Con hãy
ra bắt con gà giết thịt
làm cỗ cúng
ông bà”, lời nói này là lời nói ác pháp. Khi ấy, đứa
con trai
ra chuồng
bắt con gà cột
hai chân lại
đem ra cắt cổ gà.
Hành động bắt
gà, cột hai chân và hành động cắt cổ là hành động ác pháp. Cho nên, lời
nói hay
hành động ác
pháp đều do tâm
dẫn đầu trong ác pháp.
Sự suy nghĩ
làm đau khổ và giết con gà chết là nhân
ác. Nhân ác thì
làm sao tránh khỏi quả khổ đau, vì thế đức
Phật dạy:
“khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”.
Ngược lại,
bài kệ thứ hai cũng như vậy, nhưng
bài kệ thứ
hai lại tâm dẫn đầu
vào thiện pháp, tức là sự tư duy thiện. Sự tư duy thiện sẽ biến ra lời
nói và hành động thiện tức là tầm thiện như trong bài kinh Song Tầm mà Đức Phật
đã dạy phương
pháp thiền định “ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp”.
Người mà
tâm dẫn đầu mọi pháp
thiện thì lời nói hay hành động đều
thiện, tức lời nói và hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh và như vậy đức Phật
đã xác
định:
“Hạnh phúc sẽ theo ta.
Như bóng không rời hình”.
Đọc bài kệ một
và bài kệ
hai chúng ta thấy rất rõ, một tâm của chúng mà có hai mặt:
thiện và
ác: mặt ác khổ đau sẽ
đến với chúng ta
mãi mãi; mặt
thiện hạnh phúc
và an vui cũng sẽ theo chúng ta mãi mãi.
Xét qua hai
bài kệ này chúng ta thấy được phương pháp tu hành của Đạo Phật rất cụ thể.
Nếu một người
muốn tìm đường thoát khổ của kiếp làm người thì bất cứ ở đâu, không cần phải
vào chùa, lên non, núi, rừng… đều tu giải
thoát được cả.
Biết tâm là
phương pháp dẫn đầu mọi pháp, nên chúng
ta sử dụng
tâm dẫn vào sự
ngăn chặn và diệt ác pháp, không cho dẫn tâm vào ác
pháp. Nói một
cách khác, là
chúng ta điều khiển tâm xa lìa ác
pháp và luôn luôn dẫn tâm vào thiện pháp.
Hằng ngày
thường dẫn tâm xa lìa ác pháp và dẫn tâm
vào thiện pháp
như vậy, thì đó là cách thức tu tập của đạo Phật.
Hai bài kệ trên
đây là một
phương pháp thực hành sống ngăn ác diệt ác pháp và sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp bằng cách dẫn
tâm theo
ý muốn của
chúng ta. Chắc
chắn kết
quả: “Hạnh phúc sẽ theo
ta như bóng không rời hình”.
Trong kinh Pháp
Cú có hai
bài kệ này là
pháp môn
tu hành tuyệt
vời, nếu ai
có duyên gặp được
pháp bảo này
mà không tu tập để chịu một đời khổ đau thì người ấy là người
ngu.
Đừng dẫn tâm
vào ác pháp thì đâu phải khổ đau. Biết ác pháp mà dẫn tâm vào ác pháp thì chỉ có người vô
minh ngu si mới
làm điều
này.
Biết ác
pháp là khổ
đau mà cứ dẫn
tâm vào ác pháp thì người ấy chỉ là một con vật ngu
si.
Ví dụ: Biết
tâm tham, tâm sân là ác pháp là khổ đau mà
cứ dẫn tâm vào chỗ đó là người
ngu si như con thú vật.
Con người không
thể là con vật. Biết
giết hại ăn thịt
chúng sanh là khổ não sẽ theo
ta như xe theo vật kéo, thế mà cứ sống và giết hại và ăn thịt chúng
sanh thì làm sao tránh khỏi khổ não.
Trên đời
“khổ não” ai
mà chẳng sợ, thế
sao lại dẫn tâm
vào ác pháp,
để chịu lấy khổ
não. Người ơi! Sao lại ngu quá vậy?
Thịt cá chúng sanh là những chất bất tịnh tanh
hôi uế trược, có gì thanh tịnh trong sạch đâu?
Mà lại thích
ăn, cái ngon nơi
miệng của quí vị
là cái ảo
giác. Ăn vào miệng có
ngon hoài đâu? Nuốt
qua khỏi cổ cái
ngon còn đâu? Như vậy không phải
là ảo giác sao?
Người có
trí, có ý thức, có sự hiểu biết một chút về điều này thì chắc chắn sẽ dẫn tâm
vào thiện pháp chứ không điên gì mà dẫn tâm
vào ác pháp và như vậy người ấy đã thoát khổ.
Hai bài kệ
trên đây chính đức Phật dạy chúng
ta sống bắt đầu cho nền
đạo đức nhân bản
- nhân quả,
không làm khổ
mình, khổ người và khổ chúng
sanh. Để kết luận bài
này chúng ta đọc lại cả hai bài kệ trên:
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp Tâm chủ, tâm tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ
theo ta. Như xe theo vật kéo.
--o0o--
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp
Tâm chủ, tâm
tạo tác
Nếu nói hay hành động Với tâm tư thanh tịnh Hạnh
phúc sẽ theo ta
Như bóng
không rời hình”.
Đọc xong
bài kệ này
chúng ta hãy lắng
nghe dư âm đang cùng khắp
trong không gian và
thấu tận đáy tâm hồn của chúng ta
với một trạng thái thanh thản, an lạc, hạnh phúc tuyệt vời trong
môi trường sống của
muôn loài, cũng từ đó lòng yêu thương sự sống của chúng ta phủ trùm trên hành
tinh này như không khí.
TẦM ÁC VÀ TẦM THIỆN
LỜ I PHẬT DẠY
- 3 -
“Nó mắng
tôi, đánh tôi Nó hại tôi, cướp tôi Ai ôm ấp niệm ấy
Hận thù
không thể nguôi”.
- 4 -
“Nó mắng
tôi, đánh tôi Nó hại tôi, cướp tôi Không ôm ấp niệm ấy Hận thù sẽ tự nguôi”
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Hai bài kệ đầu
của kinh Pháp Cú, đức Phật đã xác định:
“Tâm dẫn
đầu mọi pháp” và
kế đó là những câu
trong bài kệ
đó là chỉ
cho
chúng ta cái sườn tổng
quát của phương pháp hành thiền của đạo Phật.
“Tâm chủ tâm
tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”.
Đến bài kệ thứ 3
và thứ
4 thì đức Phật xác định cách thức
tu tập đi vào chi tiết rất rõ ràng và cụ thể bằng phương pháp dẫn tâm:
Nếu dẫn tâm
bằng ác pháp thì phải dẫn tâm như câu kệ 3 dạy.
Đây là lối dẫn
tâm vào ác pháp: “Nó mắng tôi, đánh tôi Nó hại tôi, cướp tôi
Ai ôm ấp niệm
ấy
Hận thù
không thể nguôi”.
Bốn câu kệ
này là phương cách dẫn tâm vào ác pháp.
Đọc đến
đây, chắc quý bạn thấy lối dẫn tâm của đạo Phật rất rõ ràng. Phải không
các bạn?
Bốn câu kệ trên
đó là lối dẫn tâm
vào ác pháp để
mà chịu khổ
đau. Phải không hỡi
các
bạn?
Nếu là một
người ngu si thường hay nghĩ người
ta chửi mình,
hại mình, ghét
mình, thì đó là tự mình chuốc lấy khổ đau cho mình.
Nếu là một
người ngu thường hay nghĩ người ta nói xấu mình,
vu oan, làm khổ mình. Đó
là tự mình dẫn tâm vào ác pháp, chuốc
lấy khổ đau cho mình.
Đối với đạo Phật
chỉ có người
vô minh, ngu si như loài
vật, mới dẫn
tâm vào chỗ khổ
đau như vậy, còn
người có trí không
thể sống như vậy được.
Bốn câu kệ
này đã trở thành chi tiết của pháp dẫn tâm
vào ác pháp.
Nó là câu trạch
pháp của “pháp như lý tác ý ác”.
Nếu đứng về pháp lậu hoặc
thì nó là tầm ác, tầm ác tức là tà tư duy.
Trong Bát Chánh Đạo thì tà tư duy không được chấp
nhận.
Thưa các bạn! Bốn
câu kệ này được xếp
loại:
1- Pháp như lý tác ý ác.
2- Song tầm thì nó là tầm ác.
3- Bát Chánh Đạo nó là tà tư duy.
4- Định Vô Lậu thì nó là Định Hữu Lậu. Ngược
lại bài kệ thứ tư:
“Nó mắng
tôi, đánh tôi Nó hại tôi, cướp tôi Không ôm ấp niệm ấy Hận thù sẽ tự nguôi”.
Bài kệ thứ
tư nếu ai thường tác ý như vậy
thì thân tâm
được thanh thản, an lạc và vô
sự không bao giờ có phiền não,
khổ đau, sợ hãi v.v..
Nếu gặp
ác pháp mà
ai cũng tư duy
như câu kệ trên
đây thì tâm hồn sẽ không
bao giờ có khổ đau,
phiền lụy, buồn
khổ, v.v.. Phải không hỡi các bạn?
Người nào
thường hay sống với
Chánh tư duy như vậy thì chắc chắn
cuộc đời của họ làm gì có khổ đau.
Đọc qua bốn
bài kệ trong kinh Pháp Cú, chúng ta thấy rất rõ: Kinh Pháp Cú là một loại kinh
dạy về đạo đức
làm người, có
pháp hành cụ thể, đưa dắt con người
vào cuộc đời đầy tình thương yêu giữa
mình và người;
giữa người và mọi loài vật. Và ai cố gắng tu tập sẽ biến
cảnh giới thế gian
thành cảnh giới
Niết Bàn một cách
thực tế. Nếu một người
muốn tìm tu giải thoát
thì ngay khi bắt đầu vào
bài kệ 1, 2 thì chúng ta cũng đã nhận ngay ra chỉ có
con người mới có một phương tiện ý thức để phân biệt để tiến tu đến giải
thoát hoàn toàn
(Bài kệ 1 và
2).
Bài kệ ba và
bốn là chi tiết của pháp tác ý để tiến sâu vào nội tâm giải thoát bằng Chánh
tư duy hay bằng phương cách
tác ý qua những câu kệ trạch pháp trên.
Nếu hằng
ngày chúng ta sống với những câu kinh
Pháp Cú
này, thường xuyên
như lý của nó mà người nào tác ý
ra thì chúng tôi xin bảo đảm cùng các bạn: Người ấy là người giải thoát. Đó là
con đường giải thoát của đạo Phật đang ở trong
tầm tay của
quý bạn. Các bạn
đừng bỏ qua một pháp môn đức hạnh tuyệt vời, quý báu của loài người, rất uổng
các bạn ạ!
LẤY ÂN BÁO ỐN
LỜ I PHẬT DẠY
- 5 -
“Hận thù diệt
hận thù Đời này không thể có Từ bi diệt hận thù
Là định luật thiên thu”.
- 6 -
“Và người
khác không biết Chúng ta đây bị hại Chỗ ấy, ai hiểu được
Tranh luận
được lắng êm”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu).
CHÚ GIẢ I:
Bài kệ thứ
năm hai câu đầu là một tà tư duy giúp cho chúng ta hiểu rõ nghĩa lý sống của
cuộc đời: Không
thể lấy hận
thù diệt hận
thù được.
“Hận thù diệt
hận thù
Đời này
không thể có”
Lời dạy này
là một chân
lý không thể ai
thay đổi
được. Bởi vì cuộc đời
này không thể lấy hận thù diệt hận thù được. Mà chỉ có
lòng thương yêu của chúng ta mới diệt được hận thù. Hai câu dưới đây mới thật sự
là Chánh tư duy:
“Từ bi diệt
hận thù
Là định luật thiên thu”
Sự tư duy
này giúp
cho chúng ta thấu
rõ định luật bất
di bất dịch của loài
người, duy nhất chỉ có lòng thương yêu mới diệt
được hận
thù.
Khi
chúng ta
tư duy suy
nghĩ như vậy, giúp cho chúng ta lớn mạnh trong nền đạo
đức nhân bản - nhân quả.
Một bài kệ trong
kinh Pháp Cú là một
viên gạch xây
tòa lâu đài đạo đức
nhân bản làm người. Mỗi một viên gạch Pháp Cú sẽ làm tăng trưởng tri kiến giải thoát trong ta,
sẽ giúp đời sống của chúng ta gắn chặt vào nền đạo đức nhân bản - nhân quả.
Hỡi
các bạn thân thương!
Các bạn hãy tu
tập, rèn
luyện tâm mình
theo kinh Pháp Cú, thì cuộc sống đạo đức của các bạn càng
ngày càng thêm lớn mạnh. Và đời sống của các bạn tràn đầy sự an vui
và hạnh phúc.
Các bạn có tin chăng? Tin thì có lợi cho các bạn, bằng
không tin thì thôi, chứ chúng tôi không có quyền cám dỗ và
lôi cuốn các bạn. Chúng
tôi chỉ nói một sự thật
để may ra ai có hữu duyên gặp
pháp bảo này sẽ
giúp họ có một cuộc sống an
lành thì chúng tôi
cũng mãn nguyện
lắm
rồi.
Nhờ có pháp
như thế mà sống giữa các ác pháp,
tâm bất động.
Vì chúng ta
đã biết hận thù không thể diệt hận thù mà chỉ có lòng
yêu thương mới được diệt hận thù.
Đến bài kệ
thứ sáu:
“Và người
khác không biết
Chúng ta đây
bị hại”
Một người
dùng tâm nhẫn nhục, khởi lòng thương yêu người hung dữ ức hiếp, chửi mắng,
làm hại
mình, thì người đời
không hiểu cho rằng: chúng ta là kẻ hèn nhát, không dám
ăn thua với kẻ
kia. Và vì sự nhẫn nhịn
như thế mà kẻ dữ hung ác kia sẽ lẫy
lừng, ăn hiếp, lấn
lướt chúng ta nữa. Và nếu chúng ta ăn thua đủ
với kẻ hung dữ thì như vậy làm sao gọi: “Từ bi diệt hận
thù”. Chính sự nhẫn nhục
và lòng yêu thương
đó mới gọi
là “Từ Bi diệt hận thù”.
Xin thưa
cùng các bạn! Những điều
suy nghĩ trên đây rất đúng.
Vì đã nhẫn
nhịn mà còn khởi tâm thương yêu.
Nhất là chúng ta còn biết chịu thua rồi chạy. Do đó, người ấy có hung ác đến
bao nhiêu, họ cũng
không thể hại ta
được. Vì chúng ta biết nhẫn và biết thương yêu, thì hành động thân, miệng, ý của
chúng ta không cho phép chúng ta làm cho người kia tức giận hơn nữa. Vì thế, cơn sân
hận của họ sẽ
được lắng êm.
Người ta hiểu lầm
khi “lấy từ bi diệt hận
thù” không có
nghĩa là chịu
thua, không có nghĩa là hèn nhát.
Mà có nghĩa là biết sống, sống một đời sống đạo đức cao thượng tránh không làm
khổ mình, khổ người. Đó mới xứng đáng
là đệ tử của Phật,
của người thọ
trì kinh Pháp Cú.
Thời nay phần
nhiều người ta đọc kinh Pháp Cú thấy nó rất hay, nhưng chẳng mấy ai biết sống
như thế nào
cho đúng nghĩa của
nó. Vì thế, kinh
Pháp Cú cũng
chỉ giống như
những
cuốn kinh sách khác với một số ngôn ngữ răn nhắc làm điều thiện, chứ chưa ai
biết thực hành như thế nào để sống một đời sống
đạo đức và có thể đi xa hơn nữa là tu tập vô lậu hoàn toàn chứng quả A La Hán.
Nếu những
ai có kinh
nghiệm biết rõ thì
kinh Pháp Cú có những pháp
hành tu tập từ
căn bản đến nhập các định và thực hiện Tam Minh, chứng quả A La Hán.
Những bài
kinh Pháp Cú đầu
tiên này là dạy chúng ta tu tập ly dục ly ác pháp. Để
sống một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, kế đến những
bài kinh khác dạy
chúng ta nhập định và thể hiện Tam Minh một cách cụ thể
rõ ràng, xin các bạn vui
lòng đọc tiếp
những bài kinh sau này.
Từ xưa đến
nay, không có người tu chứng nên không triển khai được kinh này thành một giáo
trình tu tập của đạo Phật.
Kinh
này dạy
đạo đức rất cụ thể và thực
tế. Bắt đầu học là có pháp thực hành ngay liền để tâm được giải thoát an vui và
hạnh phúc.
Từ chỗ “Từ
bi diệt hận thù” người ta đọc tới đây chỉ thấy nó
là một lý
thuyết suông của ngôn ngữ Phật
giáo. Nhưng Sự thật không phải
vậy: “Từ bi
diệt hận
thù” là pháp
môn tu nhẫn nhục với
tâm hồn buông xả. Muốn buông xả được
thì phải khởi lòng
thương yêu người hận thù mình. Khởi lòng yêu thương tức là tâm từ bi, chỉ có
tâm từ bi mới nhẫn
nhục mà không bị ức chế
tâm. Từ bi
là pháp môn chế
ngự tâm, hàng phục tâm. Từ bi là pháp môn Tứ Vô
Lượng Tâm. Tứ
Vô Lượng Tâm gồm có: từ,
bi, hỷ,
xả. Nếu muốn
biết rõ tu tập pháp
này thì hãy đọc “Hành
Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm”.
Tại sao lại
phải thương yêu người hận thù với mình?
Tại vì người hận
thù mình là người đang đau khổ nhất, người đang ở trong ác
pháp. Biết người đang đau khổ mà ta lại làm cho họ đau khổ hơn
thì ta đâu phải
là con người.
Phải không hỡi các bạn?
Chỉ là một
con thú mới không biết điều này; mới tức giận kẻ chửi mình.
Nếu oán ghét người chửi
mình, từ đó hận thù chồng
lên hận
thù.
Bài kinh thứ
6, “Chỗ ấy ai hiểu được”
Khi một người
tu hạnh nhẫn
nhục biết thương yêu
và tha thứ cho kẻ
khác, thì khó có
người khác nhận ra được điều này. Người ta chỉ
thấy người nhẫn nhục là người hèn nhát, dường như người ấy sẽ
bị hại, bị người
khác lấn lướt, nên kinh dạy: “Mà
người khác không
biết” cho người nhẫn
nhục bị hại, bị
chà đạp: “Chúng ta đây bị hại”.
Người
có hạnh nhẫn nhục, có lòng thương yêu thì chuyện to trở thành nhỏ,
chuyện nhỏ được lắng êm
như không có
chuyện gì xảy ra, nên kinh dạy:
“Chỗ ấy ai
hiểu được
Tranh luận
được lắng êm”
Tóm lại, bài
kệ thứ 3 và thứ 5, là lời của đức Phật dạy về pháp ngăn ác pháp.
Bài kệ thứ 4
và thứ 6 là dạy về pháp diệt ác pháp. Ai
biết rõ như vậy thì ác pháp không xâm chiếm tâm mình được.
Khi áp dụng
vào pháp ngăn
và pháp diệt ác
pháp này, thì phải
dùng pháp như lý
tác ý, pháp quán vô lậu trong
Chánh tư duy, còn diệt ác pháp thì phải
dùng Định Vô Lậu tư duy
quán xét
để xả tâm
khiến cho ác pháp bị diệt mất không còn tác dụng vào thân, tâm
mình được nữa.
PHÒNG HỘ SÁU CĂN
LỜ I PHẬT DẠY
“Ai sống
theo dục lạc Không nhiếp hộ các căn Ăn uống thiếu tiết độ
Biếng nhác,
chẳng tinh cần Dễ bị ma nhiếp phục Như gió lay cây yếu”.
- 8 -
“Ai sống
quán bất tịnh Khéo hộ trì các căn Ăn uống có tiết độ
Có lòng tin,
tinh cần Ma không uy hiếp được Như núi
đá trước gió”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Bài kệ
thứ bảy là pháp môn dạy giữ gìn
sáu căn.
Câu kệ đầu dạy: “Ai sống theo dục lạc”. Nghĩa
là người tu theo
đạo Phật thì không
nên sống theo dục lạc.
Vì dục lạc ở đời dễ cám dỗ con người đi vào
đường sa đọa, đắm nhiễm ác pháp khiến cho đời người phải chịu nhiều thứ khổ
đau. Cho nên, sống không theo dục lạc là sống không bị ác pháp chi phối. Sống
không bị ác pháp chi phối, tức là sống ly dục ly ác pháp.
Sống không
theo dục lạc là sống Đạo, sống thoát khổ; sống không theo dục lạc là sống đạo đức không
làm khổ mình,
khổ người; sống không
theo dục lạc
là sống ly dục
ly ác pháp; sống không
theo dục lạc
là sống đời
Thánh hạnh; sống không
theo dục lạc
là sống tại thế
gian mà thân tâm ở cảnh giới Niết Bàn.
Cho nên,
ai sống theo dục lạc
là sống trong ác
pháp; sống trong
đau khổ; sống theo dục
lạc tưởng là hạnh phúc,
nhưng chính thật là
khổ đau; sống theo dục lạc là sống
không ly dục ly ác pháp. Người ấy dù muốn tu tập thiền định thì chẳng bao giờ
có thiền định; sống theo dục lạc là đời sống
không bao giờ có đạo đức
làm người
đối với chính
mình, đừng nói
chi có đạo đức đến người khác.
Bài bảy
câu 2, “Không
nhiếp hộ sáu căn”. Câu kệ này Phật dạy: Người tu hành
không nhiếp hộ
sáu căn, để
6 căn rong
ruổi theo sáu trần thì còn gì là ý nghĩa của người tu giải thoát.
Bởi sáu căn
tiếp xúc sáu trần sanh ra sáu thức. Do
tiếp xúc sáu trần mới có dục (Năm dục trưởng
dưỡng). Có dục
thì dục mới
đưa con người vào ác pháp, vào ác
pháp thì mới chịu nhiều khổ đau.
Cho nên,
trên bước đường tu tập theo đạo Phật thì sự
nhiếp hộ 6
căn là vấn đề quan trọng và cũng là hàng đầu trong pháp môn
tu tập của Bát
Chánh Đạo: Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy.
Nhiếp hộ sáu
căn có nghĩa là giữ gìn mắt, tai,
mũi, miệng, thân,
ý, đừng để
cho chúng chạy theo sáu trần.
Chúng chạy theo sáu trần tức là tâm phóng dật.
Ví dụ: Các bạn
tu hành mà thích trò chuyện, tiếp duyên
thì đó là các bạn
đã tu
sai, tu như vậy khó ly dục ly ác pháp.
Trước khi bạn chưa tu, thì bạn nên nghiên cứu, học hiểu nghe băng,
những điều cần thiết để thấu suốt đường tu của bạn. Còn
nếu bạn bắt đầu tu mà còn nghe băng, đọc kinh sách… Đó là bạn không nhiếp hộ 6
căn thì bạn có tu bao lâu cũng chẳng đến đâu được.
Trước khi bạn
tu tập thì bạn còn lao động làm việc này, việc nọ, nhưng khi đã tu tập, mà bạn còn
lao động làm việc này,
việc nọ, thì đó là bạn không phòng hộ sáu căn. Do đó,
con đường tu của bạn chẳng ích lợi gì thiết thực cho bạn. Bạn có biết không?
Chỉ vì bạn
không nhiếp hộ sáu căn, nên mới sinh ra việc làm này, việc làm khác.
Muốn nhiếp
“các căn chỉ có phương pháp đôïc cư là nhiếp hộ
6 căn đệ nhất”. Nó vừa
phòng hộ, vừa nhiếp phục sáu căn của bạn quay vào trong thân.
Cho nên, con
đường tu theo đạo Phật thì nhiếp hộ sáu căn là pháp môn cần thiết nhất
giúp bạn ly dục ly ác
pháp, nhập các loại định hữu sắc.
Khi nhiếp hộ
sáu căn thì nhiếp phục sự ăn uống
là điều tối ưu
quan trọng. Ăn uống
phải tiết độ, ăn uống không
được ăn uống
phi thời.
Vì ăn uống không tiết độ và phi thời, thì đó là tâm bạn chạy theo
dục lạc. Tâm chạy theo dục lạc
là do thiếu sự
phòng hộ và nhiếp phục
các
căn.
Ăn uống
không tiết độ,
ăn uống phi thời,
thì dễ sanh ra biếng nhác, không tinh cần, thường thích sống trong dục.
Ba câu kệ của
bài bảy:
“Không nhiếp
hộ sáu căn
Ăn uống thiếu
tiết độ
Biếng nhác,
chẳng tinh cần”
Ba câu kệ
này chỉ dạy
cho người mới tu, nó là pháp chế ngự để phòng hộ nhiếp phục
sáu căn, là để ăn uống có tiết độ, không được ăn uống phi thời và để siêng
năng không được biếng nhác, đó là những điều cần thiết
cho những người mới tu tập. Người mới tu tập mà không giữ gìn những đức hạnh
này thì cuộc đời tu của mình
thật là phí uổng. Chẳng
bao giờ tìm được sự giải thoát chân thật.
Hai câu kệ cuối cùng của bài kệ thứ bảy, là để kết
luận cho những người tu tập không đúng pháp
hay để tâm phóng dật
chạy theo dục lạc, không nhiếp hộ sáu căn, thường ăn uống
không tiết độ, ăn uống phi thời, do đó tâm dễ sanh ra biếng nhác,
chẳng siêng năng tập luyện,
chỉ thích ăn, thích ngủ, thì lúc bấy giờ sáu trần dễ dính mắc và dễ bị
cám dỗ, nên kinh dạy:
“Dễ bị ma
nhiếp phục
Như gió lay
cây yếu”
Ngược lại,
bài kệ thứ bảy là
bài kệ thứ tám
dạy: Ai siêng
năng tinh cần không
sống theo dục lạc, thường giữ gìn sáu căn không cho dính mắc
sáu trần. Ăn uống có tiết độ, không ăn uống phi thời và lúc nào cũng tinh tấn
siêng năng làm đúng, tu đúng, sống đúng như lời dạy trong bài kệ thứ
tám, thì không bị
sáu trần cám dỗ.
Không phá hạnh
độc cư nên
tâm không bị sáu trần lay động, do đó tâm không phóng dật, vững vàng như
thạch bàn trước gió.
Tóm lại, bài
kệ thứ bảy và thứ tám là phương pháp dạy: sống đúng Thánh hạnh của bậc chân tu.
Nếu người tu sống ngược lại Thánh hạnh,
thì không phải là đệ tử của Phật.
Vì đang bị sáu trần vây hãm, sống như người thế
tục.
Sau khi thực hành
được giải thoát
theo như hai bài kệ này.
Chúng ta hãy đọc lại mà
lắng nghe tâm hồn
mình đang nghĩ gì, làm
gì cho đúng với chánh pháp của Phật dạy?
“Ai sống theo dục lạc Không nhiếp hộ sáu căn
Ăn uống thiếu tiết độ
Biếng nhác
chẳng tinh cần
Dễ bị ma nhiếp
phục
Như gió lay
cây yếu”.
--o0o--
“Ai sống
quán bất tịnh
Khéo hộ trì
các căn
Ăn uống có
tiết độ
Có lòng tin,
tinh cần Ma không uy hiếp được Như núi
đá trước gió”.
CHỈ ĐỊNH MỘT THÁNH TĂNG
LỜ I PHẬT DẠY
- 9 -
“Ai mặc áo
cà sa Tâm chưa rời uế trược Không tự chế, không thật Không xứng áo cà sa”.
- 10 -
“Ai rời bỏ uế
trược Giới luật khéo nghiêm trì Tự chế, sống chân thật Thật xứng áo cà sa”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Tám câu kệ
trên đây để xác định một tu sĩ Phật giáo đúng hay là sai.
Những
người tu sĩ
chưa rời bỏ
những danh, lợi trong
cuộc đời, đời sống chưa ba
y một bát, chưa thiểu dục tri túc, chưa lấy gốc cây làm giường
nằm, chưa cắt bỏ ái kiết sử…
thì người ấy chưa rời uế trược. Do
đó, người ấy chưa xứng đáng mặc áo
cà sa. Như vậy, những câu kinh Pháp
Cú đã xác định một
tu sĩ Phật giáo
đúng tư cách của một
tu sĩ rõ
ràng. Vậy các bạn đừng bảo rằng: Đức Phật không
xác định đệ tử của Ngài, để các bạn nhận định biết ai là Thánh Tăng, ai
là giả Tăng.
“Ai mặc áo
cà sa
Tâm chưa rời
uế trược Không tự chế, không thật Không xứng áo cà sa”.
Lời xác định
này, chúng ta
nhìn lại tu sĩ
Phật giáo
hiện giờ có xứng đáng là
người tu sĩ của Phật giáo chưa?
Có xứng đáng mặc áo cà sa chưa?
Bài kệ thứ 10 đức Phật
đã xác định đệ tử của Ngài phải sống đúng như thế
này mới thật sự là đệ tử của Ngài:
“Ai rời bỏ uế
trược
Giới luật
khéo nghiêm trì
Tự chế, sống chân thật
Thật xứng áo
cà sa”.
Người tu sĩ
Phật giáo hiện giờ nhìn chung có ai rời bỏ uế trược
đâu. Uế trược ở đây có
nghĩa danh và lợi. Chưa bỏ danh lợi có nghĩa là chưa ba y một bát; chưa ba y một
bát có nghĩa là chưa thiểu dục tri túc; chưa thiểu dục tri túc có nghĩa chưa là
trắng bạch như vỏ ốc, tâm hồn chưa phóng khoáng như hư không. Danh lợi ở đây chỉ
cho chúng ta thấy tu sĩ hiện giờ là phú Tăng, chùa to Phật lớn như cung
đình, tiền bạc có hằng tỉ tỉ, vật chất sống đầy đủ hơn
người thế gian.
Còn nói đến
giới luật thì ít thấy Thầy nào nghiêm trì. Nghiêm trì được giới này thì phạm giới
kia. Nghiêm trì được giới kia thì phạm giới này. Như vậy, làm
sao xứng đáng là đệ tử của
Phật, là
Thánh Tăng được, chỉ
là Ma Ba Tuần đội lốt Phật giáo.
Đọc bài kệ
thứ chín và bài kệ thứ 10 thì chúng ta xác định vị Sư, Thầy nào là đệ tử của Phật
và vị Sư, Thầy nào là đệ tử của Ma, chúng ta thấy không mấy khó khăn.
Đức Phật
đã nói lên
hai bài kệ
này là để cho hàng
cư sĩ biết rõ những tu
sĩ giả danh Phật giáo, lừa đảo tín đồ, hành nghề mê
tín…
Cũng như
trong một bầy
bò, có lộn một
con dê chúng ta cũng dễ nhận thấy, cũng như một bầy dê có lộn một con bò chúng
ta cũng dễ nhận ra.
Bởi vậy, người
tu sĩ chân chánh của Phật đâu phải ở chỗ có thần thông, bay lên trời, biết chuyện
quá khứ vị lai, ngồi thiền nhiều ngày, mà
ở chỗ đức hạnh của bậc Thánh
Tăng thì mới đúng.
Thần thông, biết
chuyện quá khứ vị
lai, ngồi thiền
nhiều ngày không làm
nên một đệ tử của Phật. Xin các quý bạn lưu ý.
Chỉ có
tám câu kệ
này đã giúp
cho quý Phật tử không lầm thầy mình là Thánh Tăng Phật giáo hay là thầy
mình là một thầy Bà La Môn ngoại đạo.
SONG TẦM
LỜ I PHẬT DẠY
- 11 -
“Phi chân,
tưởng chân thật Chân thật tưởng phi chân Do tư duy tà vạy
Chân thật
không thể thành”.
- 12 -
“Chân thật
biết chân thật Phi chân biết phi chân Do tư duy chân chánh
Chân thật tự
nhiên thành”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Xét trong
4 chân lý của đạo Phật:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Chân lý thứ nhất, “Khổ Đế”
thì khó có ai lầm, nên ngoại đạo không lồng vào được
Chân lý thứ hai,
“Tâïp Đế” thì khó
có ai lầm, vì thế ngoại đạo không
bác được.
Chân lý thứ ba, “Diệt
Đế” thì ngoại đạo đã lồng vào những hình ảnh trừu tượng, ảo giác
3để lừa đảo
tín đồ.
Chân lý thứ tư, “Đạo Đế”
thì được ngoại đạo và các nhà học
giả nghiên cứu giáo pháp, kiến giải, tưởng
giải và lồng
giáo pháp của ngoại đạo vào đã làm lệch lạc “Đạo Đế”.
Vì thế cái
phi chân, tưởng là chân thật, chân thật tưởng
là phi chân.
Do sự tư duy
không đúng chánh
pháp nên từ
các Tổ xa xưa cho đến ngày
nay chưa có ai chứng
quả vô lậu giải thoát của bậc A La Hán.
Nếu chúng ta
cứ theo đúng con đường Đạo Đế mà tu tập sống
ngăn ác diệt
ác pháp, thấy mọi pháp
biết cái nào
đúng, cái nào
sai không bao giờ lầm lạc thì chẳng
lo gì không
chứng
quả vô lậu A
La Hán.
3 Cực Lạc Tây Phương, Niết
Bàn, chân tâm Phật
tánh, bản lai diện mục, linh hồn, thần thức…
Hai
bài kệ này đức Phật
đã xác định phương cách tu tập rất cụ thể rõ ràng:
Nếu một người Chánh Tư
Duy, tức là
luôn luôn sống trong tầm thiện (suy nghĩ thiện) và luôn
luôn diệt tầm ác,
ngăn diệt sự
tư duy ác thì sự
tư duy chân thật sẽ tự nhiên thành tựu đạo quả vô lậu A La Hán.
Pháp hành của
hai bài kệ này, tức là đức Phật dạy chúng ta tu tập theo pháp hành Song Tầm.
• Tầm ác bài
kệ thứ 11
• Tầm thiện
bài kệ thứ 12
Đây thuộc
về Chánh Tư
Duy trong Bát
Chánh Đạo.
Đọc lại hai
bài kệ chúng ta sẽ thấy pháp hành ngay liền!
Do tư duy không chân chánh (Tà Tư Duy) đưa đến cho ta có cái nhìn tà kiến thường sống trong ác pháp (tà mạng).
• Tầm ác:
“Phi chân,
tưởng chân thật Chân thật, tưởng phi chân Chân thật không thể thành”.
Do tư duy
chân chánh dạy ta:
• Tầm thiện:
“Chân thật
biết chân thật Phi chân biết phi chân Chân thật tự nhiên thành”.
Tuy rằng
những câu kinh Pháp
Cú đơn
giản như vậy,
nhưng nó là một bài pháp Song Tầm ngắn gọn dễ hiểu,
dễ hành, dễ thấy kết quả ngay liền.
THIỆN XÂO TRONG TU TẬP
LỜ I PHẬT DẠY
- 13 -
“Như mái nhà
vụng lợp Mưa thấm dột dễ dàng Cũng vậy
tâm vụng tu Tham dục dễ thâm nhập”.
- 14 -
“Như mái nhà
khéo lợp Mưa khó thấm dột vào Cũng vậy
tâm khéo tu
Tham dục
không xâm nhập”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Bài kệ thứ
13 và bài kệ thứ 14 đức Phật khuyên nhắc chúng ta khi tu tập phải thiện xảo
khéo léo, đừng
chấp chặt những
giáo điều khô
chết mà phải linh động, khéo léùo để ngăn ngừa
ác pháp tham dục.
Một người
tu tập không nhiệt
tình, thường tu lấy có, không thiện
xảo dẫn tâm, không chế ngự được tâm,
không nhiếp phục được tâm và không
an trú được
tâm, thì cũng
giống như người lợp
mái nhà, làm
nhà lấy có, vụng lợp nên mái nhà mưa thấm dột dễ dàng.
Ví dụ: Một người
tu Định Niệm
Hơi Thở dẫn tâm định trên hơi thở
mà không khéo léo thiện xảo thì vọng tưởng
hôn trầm, thùy miên, vô ký dễ xen vào, giống như mái nhà vụng lợp, mưa thấm dột dễ
dàng. Còn người
khéo tu, thiện xảo, nhiếp phục,
an trú thì vọng tưởng, hôn trầm, thùy miên và vô ký khó xen vào.
Người tu tập
không khéo léo, không thiện xảo,
không nhiếp phục
được tâm thì tu
hành mất công vô ích.
Tám câu kệ này
là một lời
khuyên tu của đức Phật: Nếu muốn tu thì phải tu cho kỹ
lưỡng từng hành động, từng hơi thở trong mỗi pháp, không được tu lấy có
hình thức.
Mỗi lần đọc
lại hai bài kệ này là
chúng ta thấy lời nhắc
nhở của đức Phật rất thấm thía cho sự tu tập của chúng ta.
“Như mái nhà vụng lợp Mưa thấm dột dễ dàng Cũng vậy tâm vụng tu Tham dục
dễ thâm nhập”.
--o0o--
“Như mái nhà
khéo lợp Mưa khó thấm dột vào Cũng vậy
tâm khéo tu
Tham dục
không xâm nhập”.
NHÂN QUÂ 1
LỜ I PHẬT DẠY
- 15 -
“Nay buồn, đời
sau buồn Kẻ ác, hai đời buồn Buồn nản, tự hủy diệt
Thấy việc ác
mình làm”.
- 16 -
“Nay vui, đời
sau vui Kẻ thiện, hai đời vui An vui, quá an vui
Thấy việc
thiện mình làm”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Bài kệ thứ 15
và thứ 16 đức Phật
đã khéo phân biệt quả của pháp ác và pháp thiện.
Bài kệ này cũng là bài pháp Song Tầm. Nhưng
bài này đức Phật xác định kết quả của Song Tầm.
Nếu đời
nay tư duy ác, mang ác pháp
vào tâm thì tâm hồn sẽ
buồn khổ, buồn khổ không những một đời mà nhiều đời.
“Nay buồn, đời
sau buồn
Kẻ ác, hai đời
buồn”
Đời người
vì vô minh
không hiểu luật nhân quả, tưởng mình làm
ác để đạt được
mục đích danh và lợi cho thỏa
mãn lòng dục,
nào ngờ quả khổ đến và họ nghĩ rằng: nếu có khổ cũng chỉ khổ một
lúc mà thôi.
Nhưng không phải vậy, quả khổ
không phải đến một lúc mà còn duy trì từ đời này sang đời khác. Vì thế, có người
sinh ra gặp ngay liền quả khổ, khổ quá không chịu nổi, nên phải tự tử, nhưng tự
tử lại là một việc
làm ác, do
đó ác chồng
ác, khổ chồng khổ.
“Buồn nản tự
hủy diệt
Thấy việc ác
mình làm”
Bài kệ này
chúng ta nhận xét rằng: Nếu cuộc đời khổ
vui là tự
mình làm lấy cho mình, chứ kịch tuồng nhân quả luôn
luôn nó diễn biến theo trò ảo thuật của nó mà thôi. Nếu chúng ta
biết dừng thì nó dừng, còn không biết dừng thì
nó vẫn diễn biến mãi mãi không lúc nào dừng nghỉ. Vì thế, khổ vui chồng chất
lên mãi.
Nhưng điều
chắc chắn, nếu
chúng ta không biết dừng
và diệt ác pháp,
luôn tạo tác và ở trong ác pháp thì đời này, đời sau và đời sau nữa mãi mãi sống
trong cảnh buồn khổ, dù bất cứ ở nơi cảnh
giới nào
cũng chẳng bao giờ có sự an vui
và hạnh phúc cả, khi mà
đã ôm vào lòng những ác pháp.
Bài kệ thứ 15
này chính là lời của đức
Phật đã xác định như vậy, mong quý bạn đừng bảo rằng đức Phật không nói lời
này.
Lời cảnh tỉnh này
khéo nhắc nhở
chúng ta sống phải
biết ngăn và diệt
ác pháp,
nếu các bạn không tin thì các bạn sẽ phải chịu khổ đời này sang đời
khác, nếu các bạn tin thì các bạn sẽ trở thành
người có đạo đức
không làm khổ mình,
khổ người thì đời
sống của bạn là
Thiên Đàng, Cực Lạc.
Chúng tôi
có một người
bạn dám bảo rằng:
“Này bạn, làm sao bạn có
thể xác định được lời này là
đúng của Phật
nói, hay là lời này là
không phải đức Phật
nói?”. Ví dụ như
hai câu kệ này:
“Nay buồn đời sau buồn
Kẻ ác, hai đời
buồn”
Bởi vì đạo
Phật bắt nguồn từ thiện pháp nên bộ giới
luật đức hạnh
và pháp môn của
Ngài luôn dạy
tu tập ngăn
ác diệt ác
pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện, cũng đủ để xác chứng những
câu kệ trên
là Phật nói.
Vì thế, hai câu kệ này
là đức Phật
đã xác định,
để chúng ta thấu
rõ. Ai ôm ác
pháp đời sẽ buồn
khổ. Đời buồn khổ sẽ không phải một đời mà nhiều đời. Các bạn cần phải nhớ lời
này.
Chúng tôi là
đệ tử của Phật nói ra lời nào thì không
dám nói sai lời Phật dạy,
vì nói sai lời dạy của đức Phật là phỉ
báng Phật, cho nên chúng tôi chỉ
có lập lại
đúng ý nghĩa
của nó, xin các bạn hiểu cho.
Bởi vậy,
có một số người tu
chưa chứng dám lấy kinh Phật thuyết giảng lung tung làm sai lêïch
ý Phật, khiến
cho Phật giáo mất gốc
như kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông.
Nếu một người
hiểu biết đạo Phật, lúc nào cũng
ngăn ác diệt
ác pháp, luôn sống trong thiện
pháp thì tâm hồn
luôn luôn thanh
thản, an vui và vô sự. Sự an vui, thanh thản và vô sự
ấy
không những ở đời này, đời sau và
đời sau nữa mãi mãi.
Với tâm hồn
thanh thản, an vui và vô sự đó, dù thời
gian nào, ở bất cứ
nơi đâu, Địa Ngục,
Thiên Đàng, Niết
Bàn, Cực Lạc…
tâm hồn cũng thanh
thản, an vui và
vô sự đó mãi
mãi bất diệt. Như kinh Pháp Cú dạy:
“Nay vui đời
sau vui
Kẻ thiện,
hai đời vui”
Đó là lời
xác chứng mạnh mẽ, hùng hồn, chân thật. Chỉ có sống trong thiện pháp là giải
thoát, là hết khổ
đau. Muốn được vậy thì ngày ngày
chúng ta phải chuyên cần tu tập
ngăn ác diệt ác pháp
không để tâm
mình bị chướng ngại ác pháp. Đấy là mình sống cho mình, sống trong
thiện pháp; đấy
là mình tu
theo đúng pháp Phật để ly tham đoạn
ác pháp.
Hai bài kệ
này đã xác định cho chúng ta thấy
pháp môn Tứ
Chánh Cần là tại nơi
đây. Bài kệ thứ 15 cho chúng ta thấy quả của người không ngăn
ác và diệt
ác pháp, đời
này buồn đời sau tiếp tục buồn.
Bài kệ thứ 16 do ngăn ác, diệt ác pháp mà đời này vui, đời sau vui:
“Nay vui đời
sau vui
Kẻ thiện,
hai đời vui”
Hai bài kệ này
là chỉ cho kết
quả của Tứ Chánh
Cần “ngăn ác
diệt ác, sanh
thiện tăng trưởng thiện”
là đem đến quả an
vui. Nói tóm lại, đây là sự giải thoát của đạo Phật chân thật mà không
có một pháp nào hơn được.
Phương pháp
tu hành của đạo Phật rất
đơn giản, cụ thể, thấm thía và hạnh phúc nhất đối với cuộc đời của người
tu hành. Chúng
ta hãy lắng tâm đọc lại hai bài kệ này:
“Nay buồn đời
sau buồn Kẻ ác, hai đời buồn Buồn mãi tự hủy diệt Thấy việc ác mình làm”.
--o0o--
“Nay vui đời
sau vui Kẻ thiện, hai đời vui An vui quá an vui
Thấy việc
thiện mình làm”.
Khi đọc xong các
bạn cứ suy ngẫm,
càng suy ngẫm, các bạn mới thấm thía lời
dạy chân thành thương yêu của đức Phật đối với chúng sanh. Lòng yêu
thương ấy rộng lớn vô bờ bến không thể lấy gì so sánh được. Phải không hỡi các
bạn?
Chỉ có sống
thiện mới chính đem lại hạnh phúc chân thật cho mình, cho mọi người.
Chỉ có sống thiện
mới chính mình ở bờ bên
kia, còn những người
sống ác thì làm
sao đến bờ bên kia được, luôn luôn phải chịu ở bờ bên nay và mãi mãi chịu.
NHÂN QUÂ 2
LỜ I PHẬT DẠY
- 17 -
“Nay
than, đời sau than
Kẻ ác, hai đời
than Than van: “Mình làm ác” Đọa cõi dữ,
than hơn”.
- 18 -
“Nay sướng,
đời sau sướng
Kẻ thiện,
hai đời sướng Sung sướng: “Mình làm thiện” Sanh cõi lành, sướng hơn”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
Bài kệ thứ
17 và thứ 18 ý nghĩa của nó cũng như hai bài kệ trên nó cũng từ pháp môn Tứ
Chánh Cần mà ra.
Xin các bạn hãy đọc lại
bài kệ và lắng
nghe tâm
hồn của các bạn. Các bạn
sẽ
thấy thấm thía lời dạy đạo đức nhân bản – nhân
quả không làm khổ mình, khổ người và khổ
tất cả chúng sanh.
“Nay
than, đời sau than
Kẻ ác, hai đời
than
Than van:
“Mình làm ác”
Đọa cõi dữ,
than hơn”.
--o0o--
“Nay sướng,
đời sau sướng
Kẻ thiện hai
đời sướng
Sung sướng:
“Mình làm thiện”
Sanh cõi lành, sướng hơn”.
Trong cuộc sống
hiện tại lúc nào các bạn cũng than thở: Vì thiếu hụt
cơm ăn áo mặc; vì thiếu hụt tiền tài vật chất
không đủ; vì thiếu
hụt công
danh không đạt
v.v.. và v.v..
Đó là một sự than thở, thở than
mà người đời thường đau khổ nhiều về việc đó. Sự than thở ấy trong hiện tại
nhưng nhân quả của nó sẽ tiếp
diễn trong tương lai
hay từ đời
này sang đời khác. Cho nên, đức Phật dạy: “Nay than, đời
sau than”. Đúng vậy,
ngay trong hiện tại không
giải quyết
được mọi sự khổ đau
thì mong gì ngày mai được an vui
hạnh phúc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!