- Nghe xong,
cô Khang nói: Chị nói cho em
biết cái
mộ ở gốc đa nếu là một nữ du kích mà
nhận là
chị thì còn được, đằng này lại không
phải nữ du
kích, sao ngộ nhận như thế được!
Còn Chử
Thị Dung, chính bố cô ấy đã kể với
chị rằng
em đã đến tìm gặp cô ấy. Ông ấy nhờ
chị nói
với em nhắn giùm cho cô ấy đến tìm bố.
Bố cô ấy
cũng nằm ở đây.
- Rồi cô
chỉ chỗ ngôi mộ, ngay dưới chân
cái hố
sắp đào. Đó chính là ngôi mộ người đàn
ông bị bắt
từ Hải Dương về (Sau này Hằng kể
lại người
đàn ông lúc ấy cũng đứng bên cạnh
cô Khang
nói lại, cháu mới nghe thấy, khi cô
chỉ ngôi
mộ, cháu nhìn xuống thì thấy hài cốt
không có
đầu).
- Đến đây
cháu Hằng nói: Xin phép cô cho
bắt đầu.
- Đào hết
lớp đất vượt thổ thì Hằng bảo
thợ ngừng
đào. Cháu nhảy xuống hố, lấy dầm
gạt nhẹ
từng lớp cát đen. Chỉ hơn một gang tay
thì vướng
vào thanh củi mục, nạy lên, thả vào
nước thì
nhận ra đó là một khúc tre già, thịt
tre đã bị
phân hủy hết, nhưng xơ tre và đốt tre
thì vẫn
còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, đường kính tương đối lớn,
không thể tra
vừa bất
cứ một loại xẻng hay cuốc nào, chỉ có
thể tra
vừa cái thuổng hình lưỡi mai (mặt
phẳng bề
ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, nhưng dài
hơn lưỡi
xẻng).
- Mọi
người đều kinh ngạc khi biết thông
tin về cái
thuổng đã được báo trước. Riêng tôi
thì mừng
khôn xiết. Vì đây là dấu hiệu đáng
tin cậy
nhất để nhận biết nấm mộ này đích
thực là
mộ em gái tôi. Cái cán thuổng đã bị vùi
dưới đất
cách đây 50 năm, người đời không ai
ngụy tạo
ra nó được. Dấu hiệu đó lại được linh
hồn mách
bảo cho tôi chính ngày trước khi
khai quật.
Người đời không ai nhìn thấy mà
mách bảo
được. Còn sự chính xác thì đạt đến
mức chi
tiết. Thú thật, khi nghe anh tôi nói
đến cái
cán thuổng, tôi nghi ngờ : Hoặc là anh
tôi nhận
định sai, hoặc là cháu Hằng dịch sai.
Vì người
đào huyệt phải dùng mai, xẻng cuốc,
chứ sao
lại dùng thuổng? Lúc ấy tôi chỉ nghĩ
đến loại
thuổng thông dụng nhất loại có lưỡi
hình vũm
để đào gốc cây, chứ không nghĩ đến
loại
thuổng hình lưỡi mai để đào đất, tác dụng
giống như
cái mai nhưng khỏe hơn cái mai.
Loại
thuổng này cũng còn nơi gọi là mai. - Sau khi tìm thấy cái thuổng,
chỉ gạt vào
lớp cát
mỏng là thi hài em tôi hiện ra. Khi
chôn, người
ta đã đặt em tôi nằm nghiêng,
người hơi
cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu về
hướng Tây
Bắc, chân về hướng Đông Nam.
Trùm lên
sọ là một mảng tóc đen nhánh, rồi
đến những
đốt xương cổ nhìn rất rõ. Nhưng khi
bốc lên
thì tóc rụng ra ngay, những đốt xương
nguyên vẹn
gãy ra như những chiếc bánh bích
quy thấm
nước. Cháu Hằng hỏi cô Khang:
Răng cô ở
đâu, để cháu mang đi đãi. Cuối cùng
tìm được 5
chiếc răng. Tôi xem thì đúng là
răng trắng,
nhưng do ngâm lâu trong bùn nên
ngả sang
màu xám và đen xỉn. Theo đúng
mệnh lệnh
của anh Sơn, chúng tôi bốc tất cả số
bùn đất
theo hình người nằm cong, bỏ vào túi
mang về.
Cháu Hằng tìm mãi không thấy chiếc
còng sắt.
Cháu hỏi cô Khang, cô cũng không
chỉ được.
Tôi nhận định: có thể là nó đã rỉ đất
qua 50 năm
trong bùn.
- Lúc này
thì Hằng không dịch, nhưng
hôm sau,
cháu nói với tôi: Lần này đi tìm mộ
cô Khang,
cháu thương cô quá. Lúc tìm được
răng rồi,
mấy người ở trên miệng hố nhắc cháu
tìm móng
tay. Cháu bèn hỏi cô: Móng tay của
cô ở chỗ
nào cô chỉ cho cháu. Cô giơ hai bàn tay lên trước mặt cho cháu, nói:
Chúng nó rút
hết móng
tay của cô rồi, còn đâu mà tìm!
- Tôi vô
cùng kinh ngạc, vì điều này chỉ
mình tôi
biết. Sau khi em tôi bị giặc sát hại.
Huyện ủy
Phù Cừ gửi riêng cho tôi bản báo cáo
gửi lên
cấp trên (Trước đó, tôi là phó bí thư
tỉnh ủy
Hưng Yên, có nhiều gắn bó với Huyện
Phù Cừ)
kể rõ em tôi bị bắt, bị tra tấn và bị
giết như
thế nào. Trong những cực hình mà
địch sử
dụng, có việc dùng kìm rút hết móng
tay rồi
cắm kim vào đó, dí điện vào hai đầu vú,
thọc gậy
vào âm hộ, treo ngược lên cành cây mà
đấm đá.
Tôi không muốn một ai khác trong gia
đình phải
chịu đựng những nỗi thương xót như
tôi, vì
vậy đã giấu kín những tin này. Nay được
cháu Hằng
kể lại, tôi tin chắc người nằm dưới
mộ đích
thực là em gái tôi.
- Cháu
Hằng lúi húi tìm kiếm và chỉ đạo
mấy người
giúp việc, thỉnh thoảng lại nhô đầu
lên nói
chuyện với những người ngồi trên
miệng hố.
Bỗng Hằng nói: Có một cụ cứ tủm
tỉm ngồi
nhìn, không biết có phải là cụ Giám
không? Rồi
Hằng cất giọng, lễ phép nói :
- Cháu
chào cụ ạ. Cụ cho phép cháu được
biết quý
danh của cụ. Lắng nghe hồi lâu, Hằng nói như reo
lên:
- Cụ An!
Rồi Hằng
tự giới thiệu mình cùng gia
đình đi
tìm hài cốt cô Khang, đề nghị cụ giúp
đỡ.
Cụ An nói:
Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ
đê, bên kia
đầm, lần nào các bác về đây mà tôi
chả biết.
Tôi nhớ, đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy
canh hai,
ông Giám qua nhà tôi, hỏi mượn tôi
cái mai.
Tôi hỏi để làm gì? Ông Giám: Suỵt!
Để chôn
người chết trôi. Tôi nhìn ra thì thấy
một cái
xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách
mạng. Ở
chỗ kia kìa có cái rãnh nước, ông
Giám kéo
mấy cái xác vào rãnh nước, đến đây
là chân
ruộng mạ. Ông Điển mới ra ở đây thôi,
chứ ngày
ấy là ruộng mạ, thuộc chủ khác.
Cháu Hằng
đưa ảnh cô Khang, hỏi cụ có
nhận ra
người chết được không? Cụ An nói: Bà
này là
thân nhân của ông cán bộ trước là tỉnh
ủy ở đây.
Nhưng chôn cất như thế nà o thì cả
tôi, cả ông
Yền, ông Trọng đều không biết gì
đâu. Chỉ
có ông Giám là biết thôi. Để tôi đi tìm
giúp ông
Giám. Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về.
Hằng nói
nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu
và nêu ra đề nghị: nhận diện người
chết qua
tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?
Cụ Giám
nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng
thoáng
thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi,
mặt mũi
thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như thế
này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây
giờ, nhưng
xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem
về đây
không phải một người, mà ba người cơ.
Tôi kéo
người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng.
Thì ra tay
trái cô ấy xích vào tay phải người
đàn ông.
Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người
một hố,
tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng.
Tôi chôn
người phụ nữ ở đây, còn người đàn
ông thì ở
chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được
đến thế.
Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng,
không nắn
thẳng ra được, đành đặt hơi
nghiêng,
mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn
người phụ
nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra
phía gốc
nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống
ao rồi
hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa.
Tân Cương
nói: Một số người không thể
hiểu được
xác chết trôi sông lại có thể vào được
đến đây.
Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về.
Hằng nói
nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu
và nêu ra đề nghị: nhận diện người
chết qua
tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?
Cụ Giám
nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng
thoáng
thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi,
mặt mũi
thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như thế
này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây
giờ, nhưng
xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem
về đây
không phải một người, mà ba người cơ.
Tôi kéo
người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng.
Thì ra tay
trái cô ấy xích vào tay phải người
đàn ông.
Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người
một hố,
tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng.
Tôi chôn
người phụ nữ ở đây, còn người đàn
ông thì ở
chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được
đến thế.
Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng,
không nắn
thẳng ra được, đành đặt hơi
nghiêng,
mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn
người phụ
nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra
phía gốc
nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống
ao rồi
hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa.
Tân Cương
nói: Một số người không thể
hiểu được
xác chết trôi sông lại có thể vào được
đến đây.
Một lúc lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về.
Hằng nói
nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu
và nêu ra đề nghị: nhận diện người
chết qua
tấm ảnh cái còng sắt nằm ở chỗ nào?
Cụ Giám
nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng
thoáng
thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi,
mặt mũi
thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn
như thế
này đâu, mà cắt ngang gáy như cô bây
giờ, nhưng
xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem
về đây
không phải một người, mà ba người cơ.
Tôi kéo
người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng.
Thì ra tay
trái cô ấy xích vào tay phải người
đàn ông.
Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người
một hố,
tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng.
Tôi chôn
người phụ nữ ở đây, còn người đàn
ông thì ở
chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được
đến thế.
Khi tôi chôn thì xác bị trói đã cứng,
không nắn
thẳng ra được, đành đặt hơi
nghiêng,
mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Còn
người phụ
nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra
phía gốc
nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống
ao rồi
hình như lúc bị chết bà ấy đang có chửa.
Tân Cương
nói: Một số người không thể
hiểu được
xác chết trôi sông lại có thể vào được
đến đây.
Cụ giám nói: Cái con mẹ Tiến nó cứ mồm
năm miệng
mười, chứ làm sao mà nó biết được
bằng tôi.
Ở ngoài kia nước cả, không đem vào
đây thì
vùi làm sao được? Cụ nói tiếp: Điều này
thì tôi
chỉ nghe phong phanh thôi. Tụi lính
đóng ở
đồn nó bảo người phụ nữ bị giết đêm
hôm ấy là
bà bé của tay xếp bót.
Cụ An cãi
lại: Ông thì chỉ được cái ăn no
vác nặng,
chẳng có hiểu biết gì. Có lần ông
chôn một
anh bộ đội, ông lại bảo thằng lính
dõng. Tôi
thì không được kéo xác như ông,
nhưng việc
này thì tôi biết rõ. Có một người
phụ nữ du
kích bị bắt, thằng xếp Bách dụ làm
vợ bé
không được, nó đã giết đi. Ở bót này có
một thằng
quan tư là quan thầy người Pháp,
còn thằng
Bách tuy là tay sai nhưng cũng được
gọi là
(thằng Bách lấy vợ người La Tiến, dân
đều biết
rất rõ về nó).
Trời đã
xế chiều. Mọi người hối hả thu
dọn.
Hằng nói:
Bác Sơn bảo: Còn cái chân của
cô, moi sâu
vào mà bốc. Bác bảo cứ bình tỉnh!
Từ sáng,
bác đã rải quân canh phòng từ đầu
làng rồi,
không cho phép quấy rối. (Tôi không
biết thực
hư thế nào, nhưng lần nào bới trước
có cả trăm
người vây vòng trong vòng ngoài, còn hôm nay thì chỉ có mấy đứa trẻ)
. Bác bảo:
Được bà
chị xuống với em, chẳng giúp được việc
gì, chỉ
ngồi khóc!
Tân Cương
tưởng anh tôi nói về cô em dễ
xúc động
của tôi, liền chêm vào: sáng nay bà ấy
cứ nhất
định đòi đi.
Hằng cải
chính - Bác Sơn nói là nói đến
bà chị -
Bác Nghĩa. Từ nãy, bà già cứ ngồi một
chỗ khóc:
Nhà có sáu chị em gái, ai nấy đều có
phận, đâu
đến nỗi nào, riêng em tôi giỏi giang
xinh xắn
nhất nhà thì thế này ! Không tìm đượïc
xác em tôi,
tôi chết cũng không nhắm được
mắt. Bây
giờ tìm được em thì mình cũng đã ra
người thiên
cổ rồi!
Bất chợt
nghe thấy con số 6, tôi vội bấm
đốt ngón
tay: 6 hay 5 nhỉ ? đúng là 6.
Bác Sơn
(như hiểu ý anh Tân Cương) nói:
Cho cái cô
Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được
cái bù lu
bù loa, chẳng cho ai làm gì. Tính cái
con ấy nó
vậy!
Cô Khang
nói: Sau lần gặp cô em, ông anh
tôi đã về
bốc cát lập ngay 7 bát hương, mỗi
người một
bát! Đúng là một cuộc cách mạng với
ông anh tôi!
Em Khang cảm động khi nhận
tấm lòng
của anh Phương, chị Thủy. Cụ An nói: Bà cô là liệt sĩ, sao không làm
lễ truy
điệu rồi hãy mang về quê?
Bác Sơn
nói: Hôm nay cập rập quá, gia
đình chuẩn
bị không kịp. Hôm nào đưa về
nghĩa trang
liệt sĩ của huyện, sẽ làm lễ truy
điệu.
Cô Khang
nói: Cậu Quỳnh còn giữ những
giấy tờ,
bằng khen của chị không? (Quỳnh đáp:
Bằng khen
và huân chương của chị em vẫn
giữ). Hôm
nào làm lễ truy điệu chị ở nghĩa
trang liệt
sĩ, cậu nhớ mang theo.
Tôi thật
không ngờ; người chết đã 50 năm
mà vẫn
quan tâm đến những vinh dự của mình
nơi trần
thế!
Hằng nói:
Cô cười bảo: Cụ Giám ạ! Cụ nói
oan quá,
đã được làm bé ngày nào đâu? (mọi
người cùng
cười). Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày
xưa ai cũng
gọi là cô Khang tóc dài, nhưng khi
bị bắt,
nó đã cắt cụt hết tóc. Trong việc chôn
cất các
liệt sĩ ở đây, cụ là người có công nhất:
Chúng tôi
rất biết ơn cụ.
Công việc
thu vét hài cốt xong xuôi thì
mặt trời
sắp lặn. Mọi người vây quanh gốc cây
vải, nơi
đặt bàn thờ tạm. (Sau này Hằng kể lại:
Suốt ngày
cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó, buổi chiều thì bác Nghĩa cũng
ngồi ở đó ôm
lấy tấm
ảnh, cụ An và cụ Giám thì ngồi ở xa
hơn, về
phía tường hoa).
Cô Khang
nói lời cảm ơn đối với gia đình
bác Điển,
bác Đạt, nhờ bác Điển chuyển lời
thăm hỏi
đến chị Nhương, chị Tiến.
Nay tôi về
Mỹ Hào quê tôi, về với anh tôi.
Nằm tại
đây còn một bộ hài cốt, gia đình người
ta cũng sẽ
đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt
không còn
gì. Nhờ bác Điển hương khói cho
vong hồn
chị, chị sẽ phù hộ cho. Hồi đi hoạt
động lấy
tên là Nguyễn Thị Bê, nhưng tên thật
của chị
là Nguyễn Thị Út (Mấy người làng ồ
lên: bà
Út! Thế mà tìm kiếm mãi!)
Cuối cùng
cô dặn: Nhờ bác Điển đem
mâm lễ
phát lộc cho các cháu.
Chúng tôi
đưa hài cốt em tôi về nhà, và 2
hôm sau, đưa
về nghĩa trang liệt sĩ của huyện,
có mặt
đông đủ họ hàng nội ngoại. Sự xúc
động được
đón người thân sau 50 năm cách
biệt xen
lẫn với niềm tự hào về người con gái
của dòng
họ đã hiến cuộc đời mình cho cuộc
sống hạnh
phúc ngày hôm nay”.
MỊ TÌM
TRONG BÍ ẨN
NHỮNG THƠNG
TIN ĐÁNG TIN CẬY
“Từhôm gặp
anh Nhã đến hôm bốc
được hài
cốt là một hành trình mò lần trong bí
ẩn. Những
thông tin do anh Nhã đưa ra, đối
với chính
anh cũng là điều bí ẩn: trúng hay
trật,
chính anh cũng không biết. Còn linh hồn?
Chỉ có
cháu Hằng nhìn thấy và nghe thấy.
Cháu nói
lại những điều cháu nghe được, còn
thực hư
thế nào cháu đâu có biết.
Cuộc hành
trình đầy bí ẩn đã buộc tôi mò
đến hai
nhà ngoại cảm nổi tiếng, mỗi người
một phương
pháp: vẽ mộ và gọi hồn. Cả hai
phương pháp
đều dẫn tôi đến cùng một kết
quả.
Hai mươi
bốn ngày mò tìm trong bí ẩn,
chỉ đến
ngày cuối cùng “ngày bốc mộ” mới kiểm
chứng được
các thông tin. Tập hợp lại các
thông tin,
tôi có được một hệ thống thông tin
mà tôi cho
là đáng tin cậy, một số có thể xem
như vật
chứng bằng chứng. Những thông tin
thu được
qua các linh hồn.
1- Điều
đầu tiên đặt ra với tôi: Có đúng là
những linh
hồn người thân đang nói với tôi không? Cháu Hằng nhận dạng được các
linh
hồn, cả
những lúc cười cả vẻ mặt buồn hay vui.
Linh hồn cô
Khang và anh Sơn đã được cháu
Hằng nhận
diện qua tấm ảnh, còn tôi không
nhìn thấy,
tôi kiểm tra qua những điều mà linh
hồn nói
ra.
Hôm đầu
tiên gọi hồn, lòng đầy nghi ngờ,
tôi thủ
sẵn trong túi tấm ảnh của anh Sơn,
định bụng
sẽ đưa ra hỏi linh hồn. Nhưng, ngay
khi nhìn
thấy cô Khang, cháu Hằng đã báo cho
tôi: có
một người đàn ông, thanh niên đi cùng
với cô.
Nếu là một cô đồng gà mờ bịp bợm thì
dại gì mà
“đẻ số” cho mình như thế? Tiếp đến,
cô Khang
nói ngay: Người thanh niên đi cùng
với em
chính là anh Sơn đấy. Vậy là tôi đã
kiểm tra
được linh hồn cô Khang qua anh Sơn,
và không
những thế, đã nhờ cháu Hằng nhận
diện cả
hai linh hồn qua ảnh.
Ngày đầu
tiên hai linh hồn đã nhắc đến 5
người trong
gia đình tôi, với sự hiểu biết rất
chính xác
về tính cách của từng người. Ngày
thứ hai
tức ngày 17, hai linh hồn đã nhắc đến
10 người
trong gia đình tôi, cũng với sự hiểu
biết chính
xác như thế. Cách xưng hô cũng thể
hiện rất
đúng vị thế, thái độ và tình cảm của
người nói
đối với những người được nhắc đến. Các con tôi, có ý kiến nói:
Bích Hằng đã
điều tra
gia đình mình từ trước rồi. Sự nghi
ngờ đó,
tôi biết là vô căn cứ, nhưng dù có điều
tra đi nữa,
cũng không thể đặt vào miệng người
nói những
câu như thế mà không phạm sai
lầm.
Ngoài
những người trong gia đình, cô
Khang còn
nhắc đến chị Tiến, chị Nhương là
những
người quen biết cũ, nhắc đến cả anh
Cương, anh
Đạt là những người không quen
biết nhưng
đã góp sức vào việc tìm mộ gần đây.
Ngày 17
xuất hiện thêm 4 linh hồn nữa.
Lần này
thì không có ảnh để nhận diện.
Nhưng qua
những điều mà linh hồn nói ra thì
phải thừa
nhận đúng là những người đã chết
đang nói.
Bà già ngồi một chỗ khó c than, kể lể
về sáu
chị em gái, đúng là chị cả của chúng tôi
chị Nghĩa.
Cụ An là người cho mượn cái mai và
chứng kiến
việc chôn cất, cụ Giám là người
chôn cất,
mỗi cụ nói ra những điều thể hiện
đúng tư
cách của mình. Còn linh hồn người
đàn ông họ
Chử tuy nói không nghe rõ, nhưng
đã nhờ cô
Khang nói với chú Quỳnh nhắn giùm
cho con gái
ông ấy ở Vũng Tàu. Khớp lại
những điều
mà các linh hồn nói ra thì đều xác
nhận hài
cốt đã được bốc lên đúng là em tôi. 1- Cái cán thuổng là một vật
chứng xác
nhận thông
tin mà linh hồn em tôi cung cấp,
đồng thời
xác nhận ngôi mộ: đúng là mộ em
tôi.
2- Răng
trắng chuyển sang màu đen xỉn là
một vật
chứng xác nhận thông tin của linh hồn
em tôi,
đồng thời xác nhận hài cốt đúng là em
tôi.
3- Thông tin
của em tôi về chị Nguyễn Thị
Bê, khi
được biết tên thật là Nguyễn Thị Út, đã
được xác
nhận. Chị nằm trong danh sách liệt sĩ
của xã.
4- Thông tin
của em tôi về cái còng sắt
khóa tay em
tôi với tay người đàn ông đã được
xác nhận
qua lời kể của cụ Giám, tuy hiện vật
thì không
tìm thấy có thể nó đã rỉ thành đất.
5- Thông tin
của em tôi về vị trí ngôi mộ
cách cái
hố đào lần trước ba bước chân xoải dài
ra phía bờ
ao đã được xác nhận trên thực tế.
Thông tin
của em tôi về 3 ngôi mộ sát gần
nhau, gần
như nằm trên một đường thẳng,
trong đó
mộ em tôi nằm giữa, điều này khớp
với chỉ
dẫn của cụ Giám.
6- Thông tin
của em tôi về người dân đã
vớt xác,
thực ra cũng là dân phòng giả dạng thôi, điều này khớp với bằng khen
về thành
tích kháng
chiến mà cụ Giám nhận được, đồng
thời khớp
với lời kể của cụ Yền về vai trò mà
làng giao
cho cụ Giám.
7- Buổi
sáng ngày 17, khoảng 10 giờ cô
Khang nói
rằng: Người vớt xác là cụ Đặng
Đình Giám,
thì buổi chiều khoảng 3 giờ, chính
cụ Giám
xuất hiện kể về việc cụ đã vớ t và chôn
như thế
nào.
8- Buổi
sáng cô Khang kể về việc cụ Giám
dừng lại
bảo, khi nào nhà ông An lên hương thì
vào mà xin
lộc, thì buổi chiều, cụ An xuất hiện
nói về
việc cụ Giám vào mượn cái mai, rồi kéo
xác qua
cái rãnh nước đến chân ruộng mạ như
thế nào.
9- Khi xem
ảnh, cụ Giám bảo người phụ
nữ mà cụ
chôn cất không để tóc dài như trong
ảnh, mà
cắt tóc đến gáy như Bích Hằng. Cô
Khang xác
nhận là đúng, chính bọn địch đã cắt
cụt tóc
cô. Mớ tóc trùm lên sọ mà chúng tôi tìm
thấy cũng
là mớ tóc ngắn.
10- Cụ
Giám tả lại khi chôn, cụ đã đặt cái
xác hơi
nghiêng vì không nắn thẳng ra được,
mặt hướng
ra sông cho mát mẻ. Trước đó
chúng tôi
đã tìm thấy hài cốt ở tư thế ấy. 11- Cô Khang kể với cháu Hằng về
móng
tay của cô.
Điều này đối với tôi là một bằng
chứng vô
cùng quý giá để khẳng định hài cốt
đúng là em
tôi.
12- Cô Khang
khoe với mọi người về việc
ông anh bốc
cát lập bát hương. Điều này tuy
chỉ là
tiểu tiết, nhưng chứng tỏ linh hồn em tôi
đã biết
việc tôi làm, kể cả việc nhồi cát vào 7
bát hương
mấy ngày trước đó.
Nhìn lại
cái trận đồ bát quái của anh
Nhã. Với
những thông tin đáng tin cậy thu
thập được
qua các linh hồn, kết hợp với những
thông tin do
dân làng cung cấp qua cuộc điều
tra của
chúng tôi, tôi nhìn lại cái trận đồ bát
quái của
anh Nhã. Mọi thông tin anh cho tôi
đều đúng,
nhưng do sắp xếp không theo một
trật tự
lôgíc nên khó hiểu, rối mù như một trận
đồ bát
quái. Bây giờ việc đã thành, tôi hiểu nó
như sau:
1- Trước
tiên phải tìm đến một cái vụng
xoáy.
Chính ở cái vụng này. Xác em tôi khi còn
chìm dưới
đáy sông, đã bị cuốn vào. Cuối tháng
6 đang là
mùa nước, mực nước sông Luộc khi
chưa đến
mức báo động, thường cách mặt đê
chỉ vài
mét. Lúc xác nổi lên gặp lúc triều cường
thì không
trôi tuột đi mà dạt vào một khúc quanh của con đê. Cái vụng xoáy
chính là vụngï
Quạ. Khúc
quanh của con đê cũng ở đó.
Vào mùa
nước thì dải đất bãi ngoài đê, kể
cả cây
cối, đều ngập bỉm dưới nước, không thể
chôn trên
đất bãi được, mà phả i kéo xác qua đê
vào trong
đồng. Nhưng dưới chân đê lại là một
vùng ruộng
trũng. Tháng 6 đang là mùa mưa,
ruộng
trũng đang bị ngập nước, vì thế phải kéo
xác vào
vùng chân mạ, cao hơn.
2- Ông Giám
đã kéo 3 cái xác qua đê
không khó
khăn gì, vì mặt nước gần sát mặt
đê. Nhưng
nhà ông ở mãi cuối làng, cách đó
một cây
số, ông phải tạt vào nhà ông An để
mượn cái
mai. Khi dừng lại, ông đã nói với xác
chết về
việc xin lộc, ông An mà anh Nhã nói
không phải
là anh An - con đã tiếp chúng tôi,
mà là ông
An - bố tức là cụ An, cụ đã mất cách
đây 40 năm.
Cái quán ông An không phải là
cái nhà
anh An bây giờ, anh chị mới ra ở đó
chừng 10
năm nay thôi. Bố mẹ anh vẫn ở cách
đó 300m,
sát mép cái đầm sen về phía Tây.
Ông làm
nghề chở đò ở bến La Tiến, còn bà
làm hàng
xáo và bán bánh đúc. Cái nhà tranh
lụp xụp
của ông bà đồng thời là cái quán bán
bánh đúc.
3- Mượn được mai rồi, ông Giám đi trên
con đường
bờ vùng, còn xác thì kéo trên cái
lạch nước
gần nhà ông An, đến cái cống ở cửa
chùa để
đến vùng chân mạ mà nay là đất ở của
cụ Nhờ và
ông Điển. Con đường bờ vùng và cái
lạch nước
nay đã biến mất trong lòng cái đầm
sen. Cái
cống lấy nước từ lạch vào vùng ruộng
mạ thì nay
vẫn còn, nhưng đường làng đã ngăn
cách nó
với đầm sen, nó không còn tác dụng
lấy nước
vào vùng ruộng mạ nữa.
4- Hồi cải
cách ruộng đất vợ chồng bà
Nhờ được
chia một mảnh ruộng mạ của địa chủ
mà nay là
đất ở của bà và ông Điển. Năm
1960, trong
phong trào hợp tác hóa, ông bà đã
góp ruộng
vào hợp tác xã. Năm 1969, ông Điển
được hợp
tác xã chia cho một mảnh ruộng là
đất ở.
Mấy năm sau, bà Nhờ và nhiều nhà
trong vùng
cũng được chia đất ở. Đó chính là
cái xóm
mới, dân mới ra khoảng 20 năm. Mộ
nằm trên
đất cô Nhường, đúng ra là trên đất
cô Nhờ,
cái âm thanh mà anh Nhã nghe lơ lớ
như Nhường,
Nhương, Nhượng, thực ra là Nhờ ,
một cái
tên rất quê và cũng ít gặp.
5- Đường
sá mà anh Nhã vẽ trên bản đồ
thì anh
Đạt và cụ Yền nhận ra ngay, nhưng cụ Yền nhận xét: nó được vẽ theo
đường ngày xưa,
ang áng như
bây giờ thôi.
Tất cả
những thông tin trên, đến với anh
Nhã đúng
như đã diễn ra cách đây 50 năm
(Chính xác
là 49 năm + 1 tháng), sớm nhất
cũng là 20
năm. Nhưng thông tin đến với anh
không theo
trình tự thời gian và cũng chẳng có
mối liên
kết giữa các hiện tượng, thành thử đã
có lúc tôi
nghĩ nó chỉ là trận đồ bát quái do
anh bày ra.
6- Những
dấu hiệu và tín hiệu khác cũng
rất đúng
nhưng lại là những hiện tượng mới
xảy ra,
đang xảy ra hoặc sắp xảy ra. Cái gốc
cây đổ là
cây nhót mà ông Điển mới chặt,
nhưng chưa
kịp đánh gốc. 5 cây cỏ lại có 10
bông hoa
màu tím nhạt thì sớm nhất cũng chỉ
ra hoa được
một tuần trước đó. Rồi bé gái mặt
áo hoa
xanh, rồi con chó vàng nằm một chỗ
như ốm,
rồi cái nhà mà bốn mặt đều sơn màu
trắng lốp,
trước nhà đầy hoa đỏ ... tất cả đều
đúng, nhưng
tại sao anh Nhã nói trúng như
thế, chính
anh cũng không hiểu thì tô i làm sao
mà hiểu
được?
7- Cái bản
đồ do anh Nhã vẽ, sau này tôi
mới hiểu
là chỉ có thể dùng để định hướng
thôi, không
thể xem như một bản đồ địa chính. Có những chỗ rất đúng về chi
tiết như: rẽ trái
60 mét,
rồi rẽ phải 45 mét. Nhưng cái quán ông
An thì lại
không nằm cạnh đường, mà nằm bên
kia cái
đầm sen, cách nhà ông Điển chừng nửa
cây số;
cái quán tạp hóa có cửa màu xanh
dương cũng
không nằm cạnh ngã tư, mà nằm ở
bên kia một
cái ao to, tuổi tác của cô Nhường,
của ông An,
cũng chỉ áng chừng chứ không
thực chính
xác.
8- Địa
điểm ngôi mộ rất đúng, nhưng chỉ
đúng cho
một hình vuông, có cạnh 5 mét.
Ngoài hình
vuông đó sẽ chạm vào 2 ngôi mộ
khác. Trong
khoảng diện tích 25m đó phải đào
một cái
hố chỉ rộng 2,5 mét, quả là không dễ gì
trúng ngay
được. Khi vẽ bản đồ anh ghi: Mộ
nằm cách
gốc cây đổ 4 mét. Nếu đào đúng như
thế về
hướng Đông - Đông Nam thì trúng.
Nhưng khi
anh hướng dẫn tôi về hình tam giác
thì lại
chỉ còn cách gốc cây đổ 1,5 mét. Khi
chỉnh mộ
thì anh bảo phát triển về hướng
Nam, đúng
ra là phải phát triển về hướng
Đông - Đông
Nam. Lần thứ hai, với sự chỉ dẫn
của đôi
bướm màu, thì tiến thêm về Đông Nam
là đúng
hướng. Nhưng nếu đào thì phần cuối
của hố
mới gần chạm đến đầu hài cốt. Phải
đào một
cái hố thứ ba, xoay ngang theo hướng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!