sự thật
mình có ăn trộm ăn cắp đâu mà sợ. Con
người ở
đời thường sống trong tưởng tức là sống
trong tà
kiến nên luôn luôn chịu khổ đau tức
giận sanh
ra thù hận không nguôi, tạo ra nhiều
điều ác
đức tội lỗi, rồi lại còn tiếp tục bằng
cách trả
thù, trả oán cho đã cơn giận.
Cho nên, khi
chúng ta biết áp dụng Định
Vô Lậu kết
hợp với Tập Đế thì chúng ta không
còn sống
trong tưởng, nói cách khác là chúng
ta không
còn sống trong tà kiến.
CHÂN LÝ THỨ
BA “DIỆT ĐẾ”
Trướckhi
muốn quán xét Diệt Đế để
thực hiện
Định Vô Lậu thì chúng ta phải hiểu
Diệt Đế
là gì?
Diệt tức
là tiêu diệt, trừ diệt, diệt ở đây
tức là
diệt lòng tham muốn của mình và diệt
các ác
pháp.
Đế có
nghĩa là lý lẽ chắc thật, đúng đắn
do trí tuệ
sáng suốt soi thấu một cách rõ ràng
không có
mờ mịt, trừu tượng, ảo tưởng bằng
tưởng tri.
Diệt Đế là một trạng thái tâm đã đoạn
diệt lòng
ham muốn và các ác pháp, người sống
trong trạng
thái này được xem là đã giải thoát
hoàn toàn
tức là người đã làm chủ sự sống chết
của mình,
người làm chủ sự sống chết của mình
là người
hạnh phúc nhất trên thế gian này.
Người ta
thường bảo Diệt Đế là Niết Bàn
như thế
này, như thế nọ, đó là tưởng tri của các
nhà học
giả, nhất là các nhà học giả phát triển
thì lại
bịa ra đủ loại Niết Bàn
Diệt Đế
không phải là một cảnh giới siêu
hình như
các nhà Đại Thừa thường tưởng tượng
và cho đó
là nơi chư Phật thường trú. Nếu một
người đoạn
diệt lòng tham muốn và các ác
pháp thì
cuộc sống của họ là Niết Bàn, chứ
không phải
ở nơi đâu cả.
Đức Phật
gọi Diệt Đế là một chơn lý thật
sự, một
trạng thái tâm lý thật sự không còn
khổ đau
của kiếp người, chứ không giống như
các nhà
học giả phát triển xây dựng những
cảnh giới
Niết Bàn mơ hồ, trừu tượng, ảo
tưởng.
Những loại Niết Bàn này không được gọi
là chân
lý, vì nó là những cảnh giới tưởng
tượng của
con người, cho nên nó không thật có,
chỉ duy
nhất có Diệt Đế của đạo Phật mới được gọi là chơn lý của loài
người mà thôi vì nó có
thật.
Khi chúng
ta quán xét Diệt Đế rõ thấu
trạng thái
thật sự giải thoát của đạo Phật là
chỗ đoạn
diệt lòng ham muốn và các ác pháp.
Rõ thấu
được như vậy chúng ta mới có phương
hướng nhắm
vào từng giây, từng phút đẩy lui
toàn bộ
lòng tham muốn và các ác pháp trong
ta. Khi đẩy
lui lòng tham muốn và các ác pháp
trong ta
thì đó là Diệt Đế; thì đó là chúng ta
đã đạt được
chơn lý của kiếp sống làm người.
Chơn lý
của kiếp sống con người không
phải là
thần thông phép thuật, thế mà người
đời nói
đến tu hành là nói đến thần thông
pháp
thuật, thần thông pháp thuật chỉ là một
điều huyễn
hóa lừa đảo thiên hạ bằng cách làm
trò ảo
thuật hoặc nói láo truyền miệng, mà
Ngài
Thường Chiếu nói: “Một con chó sủa một
bầy chó
sủa theo”. Dù nếu có thần thông thật
sự đi nữa
thì đó cũng chỉ là một trò ảo thuật
giải trí
cho những người thừa thì giờ nhàn rỗi,
chứ chẳng
ích lợi gì cho loài người trên hành
tinh này.
Từ xưa đến nay, chúng ta đã từng
nghe tin
tức qua báo chí hoặc phim ảnh có
nhiều đạo
sĩ tu tập rất vất vả, nhưng lại thị
hiện làm
trò ảo thuật cho mọi người xem chơi, tạo danh cho cá nhân của mình,
lợi dụng lò ng
ham mê thần
thông của con người, nên mở ra
rất nhiều
thiền đường, giảng đường để lừa đảo
thiên hạ
làm hao tốn biết bao nhiêu tiền của và
công sức
của mọi người nhưng nhìn lại có ích
lợi gì cho
ai đâu.
Niết Bàn
của Phật giáo chân thật như
vậy, với
trí hữu hạn của chúng ta đều nhận biết
rõ ràng
thực tế và cụ thể, không có một sự
tưởng
tượng nào trong trạng thái này. Vì Chân
lý của
đạo Phật rất thực tế trong đời sống của
chúng tôi,
nên chúng tôi chọn đạo Phật, lấy đạo
Phật làm
những bài học để xây dựng cho mình
trở thành
những con người có một đạo đức
không làm
khổ mình, khổ người và như vậy có
lợi ích
cho mình và cho người, đó là nguyện
vọng của
chúng tôi khi đến với đạo Phật và tu
tập Định
Vô Lậu câu hữu Diệt Đế.
Diệt Đế
là một chân lý thật sự, có thật,
mà con
người thực hiện được, làm được, sống
được chứ
không phải là một lý luận suông, như
những lý
luận của các tôn giáo và các tông phái
khác.
ĐƯỜNG
VỀ XỨ PHẬT – TẬP II
CHÂN LÝ THỨ
TƯ “ĐẠO ĐẾ”
Tu tập
quán xét Định Vô Lậu câu hữu với
Đạo Đế
tức là chúng ta tư duy quán xét về Đạo
Đế. Đạo
Đế là mọât chơn lý thứ tư của đạo Phật.
Vậy Đạo
Đế là gì?
Đạo có
nghĩa là con đường đi, đạo có
nghĩa là
phương pháp cách thức tu tập rèn
luyện trau
dồi để tu sửa lại thân tâm con người,
vì thân tâm
con người thường hành động theo
lòng ham
muốn tạo ra biết bao nhiêu là sự lầm
lạc, sai
quấy khiến cho mình khổ , người khác
khổ và
tất cả chúng sinh đều đau khổ.
Đế có nghĩa
là sự thật, chơn thật, không
sai, đúng
như thật, không dối gạt , không lừa
đảo.
Đạo Đế là
phương pháp dạy người tu hành
có kết
quả giải thoát thật sự. Đạo Đế là phương
pháp tu
sửa, rèn luyện thân tâm con người có
đạo đức
nhân bản không làm khổ mình, khổ
người chân
thật biến cảnh sống thế gian thành
cảnh giới
Thiên đàng Cực lạc. Đạo Đế còn là
phương pháp
tu tập có đủ tâm lực tỉnh thức làm
chủ sanh,
già, bịnh, chết thật sự. Đạo Đế là một chân lý thật sự đúng đắn
không dối
gạt, không lừa đảo người, mọi người
nếu ai có
nhiệt tâm muốn thoát ra cảnh khổ
của thế
gian, với đầy đủ nhiệt tâm , nhiệt huyết
xả bỏ
những ác pháp và xa lìa lòng ham muốn
của mình
thường đẩy lui các chướng ngại pháp
trong tâm,
cố gắng áp dụng và thực hành như
vậy thì
đều có kết quả giải thoát như nhau.
Đạo Đế là
một chương trình giáo dục đà o
tạo rèn
luyện con người để chứng quả vô lậu A
La Hán.
Một quả vị giải thoát cao nhất trong
đạo Phật
(Làm chủ sanh, già, bệnh, chết).
Cho nên,
Đạo Đế được chia ra làm tám lớp
học (phương
thức chân chánh) để trau dồi thâ n
tâm, từ
lớp thấp đến lớp cao, gọi là Bát Chánh
Đạo.
Bát Chánh
Đạo gồm có:
1/ Chánh
Kiến
2/ Chánh Tư
Duy
3/ Chánh
Ngữ
4/ Chánh
Nghiệp
5/ Chánh
Mạng
6/ Chánh
Tinh Tấn
7/ Chánh
Niệm 8/ Chánh Định
Tám lớp
(phương thức) này gọi là tám nẻo,
tám nẻo
này để cho người mới bắt đầu tu tập
cho đến khi
thành tựu viên mãn đạo giải thoát.
Người mới
bắt đầu học tu phải vào lớp
Chánh kiến
rồi lần lượt theo các lớp mà tiến
lên học
tất cả những lớ p cao hơn mà đức Phật
đã dạy
rất đầy đủ những giáo trình tu học
trong các
bộ kinh Nguyên Thủy về mỗi lớp
Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm
và Chánh Định. Những bài vở
nào ở lớp
nào rất rõ ràng và cụ thể, nhưng các
Tổ kết
tập kinh sách làm lộn xộn, nên hiện giờ
khó có
người hiểu đúng chương trình giáo dục
đào tạo A
La Hán của đức Phật.
LỚP THỨ NHẤT:
“CHÁNH KIẾN”
Họcvề lớp
Chánh Kiến. Vậy lớp học
Chánh kiến
như thế nào?
Trước khi
muốn học lớp Chánh Kiến thì
chúng ta
phải hiểu nghĩa chữ Chánh Kiến. Chánh Kiến có nghĩa là thấy nghe,
hay
biết một
cách ngay thẳng, công minh, chánh
trực, rõ
ràng, cụ thể, không chủ quan. Sự vật
như thế
nào thì thấy nghe hiểu biết như thế
nấy, không
sống trong tưởng tri trừu tượng mê
tín, không
dựa bên này, không dựa bên kia,
không lấy
trắng làm đen, không lấy đen làm
trắng,
không lấy xấu làm tốt, không lấy tốt
làm xấu,
không lấy dở làm hay, không lấy hay
làm dở,
không lấy trái làm phải, không lấy
phải làm
trái. Sự nhận xét thấy biết không bị
tập quán,
thành kiến, dục vọng. Người có
Chánh Kiến
luôn luôn biết phân biệt cái nào
giả, cái
nào thật. Ví dụ, như các nhà học giả họ
không phân
biệt pháp nào của Phật, pháp nào
của Bà La
Môn. Vì thế, họ đã bị kinh sách phát
triển lừa
đảo, tưởng đó là giáo pháp của đức
Phật.
Chính chỗ này xác định các nhà học giả
và các
bậc Thầy Tổ của chúng ta không có
Chánh Kiến
vì không có Chánh Kiến nên con
người dễ
bị các học thuyết và các tôn giáo khác
lừa đảo,
để rồi suốt một đời chạy theo ảo ảnh
mà chẳng
có được những gì. Đức Phật hiểu rất
rõ điều
này, sau khi Ngài chứng đạo, trước kia
Ngài chưa
có Chánh Kiến nên đã bị các tôn
giáo lừa
đảo Ngài tu hành gần như muốn chết,
cuối cùng
Ngài tư duy tất cả giáo pháp của ngoại đạo không đưa con người đến
chỗ giải
thoát hoàn
toàn mà đưa con người đi vào chỗ
chết, chỗ
thân không khổ đau mà làm cho khổ
đau, ví
dụ, như quý vị ngồi tréo chân kiết già
để tu tập
thiền tưởng, hai chân đau gần chết
mà cố
gắng chịu đau, mồ hôi mẹ mồ hôi con đổ
ra ướt đầm
đìa cả áo, đó là thiếu Chánh Kiến,
cho nên đức
Phật dạy chúng ta học về Chánh
Kiến đầu
tiên, vì Chánh Kiến nên Ngài dạy
chúng ta
cũng không nên tin ở Ngài mà hãy tin
những pháp
môn gì mà người trí khen ngợi và
thực hiện
áp dụng vào đời sống có kết quả an
vui thật
sự ngay liền cho mình, cho người thì
hãy tin.
“Này Kàlàmà! Chớ có tin vì nghe
truyền
thuyết, chớ có tin vì theo truyền
thống, chớ
có tin vì nghe người ta nói
(đồn), chớ
có tin vì được kinh tạng truyền
tụng, chớ
có tin vì nhân lý luận siêu hình,
chớ có tin
vì đúng theo một lập trường,
chớ có tin
vì đánh giá hời hợt những dự
kiện, chớ
có tin vì phù hợp với định kiến
của mình,
chớ có tin vì xuất phát nơi có uy
quyền, chớ
có tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư
của mình,
v.v..
Nhưng này
các Kàlàmà! Khi nào tự
mình biết
rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này có tội lỗi, các
pháp
này bị
người có trí hiểu biết chỉ trích, các
pháp này
nếu thực hiện và chấp nhận đưa
đến bất
hạnh khổ đau”. Thời này Kàlàmà !
Hãy từ bỏ
chúng không nên theo”. Như vậy,
đức Phật
đã dạy chúng ta về Chánh Kiến có
nghĩa là
làm lợi ích thật sự cho mình cho
người.
Tóm lại,
Chánh Kiến tức là thấy nghe
hiểu biết mọi
sự, mọi việc và mọi vật bằng
pháp
thiện, nếu có ác pháp xen vào thì không
còn là
Chánh Kiến nữa, cho nên Chánh Kiến
toàn là
thiện pháp, người có Chánh Kiến
không làm
khổ mình, khổ người. Thấy, nghe,
hiểu biết
mà không làm khổ mình, khổ người,
đó là cái
thấy nghe của Chánh Kiến, của
Thánh Nhân,
chứ không phải của kẻ phàm phu
mà thấy
nghe hiểu biết như vậy được.
Chúng ta
đã hiểu nghĩa Chánh Kiến rồi,
vậy bây
giờ chúng ta học Chánh Kiến như
trong kinh
đức Phật đã dạy: “Này chư Hiền!
Khi Thánh
đệ tử tuệ tri2 được bất thiện3 và
2
Tuệ tri có
nghĩa là hiểu biết
3
Bất thiện
có nghĩa là ác pháp tuệ tri được căn bản4 bất thiện, Này chư
Hiền! Khi
Thánh đệ tử có Chánh Tri Kiến,
có Tri
Kiến Chánh Trực, có lòng tin pháp
tuyệt đối
và thành tựu diệu pháp này”.
Nếu một
người hiểu rõ lời dạy này thì tâm
bất động
trước các pháp, chứ đâu cần phải tu
tập gì nhiều.
Người ta nói Chánh Tri Kiến thì
rất nhiều
mà người hiểu và sống trong Chánh
Tri Kiến
thì chẳng có mấy ai. Tại sao vậy?
Tại vì
mọi người đã không hiểu Chánh Tri
Kiến bằng
thức tri mà lại hiểu Chánh Tri Kiến
bằng tưởng
tri, cho nên người nào cũng hiểu
mà hiểu
bằng chữ nghĩa suông để nói vọng ngữ,
lừa đảo
kẻ khác, vì thế không ích lợi gì cho
mình cho
người. Câu kinh trên đây dạy có
nghĩa là
khi Thánh đệ tử nghe, thấy, hiểu biết
rõ các
pháp ác và nguồn gốc của các pháp ác,
thì đó
chính là có tri kiến chân chánh, có tri
kiến chánh
trực, nếu người có Chánh Tri Kiến,
có tri
kiến chánh trực và đã có lòng tin “Bát
Chánh Đạo”
tuyệt đối thì người này sẽ ly dục ly
ác pháp,
ly dục ly ác pháp thì sẽ có tâm hồn
thanh thản,
an lạc và vô sự. Lúc nào cũng có
4
Căn bản có
nghĩa là nguồn gốc tâm hồn an lạc, thảnh thơi và vô sự, người được
như vậy là
người giải thoát hoàn toàn.
Ở trên đây,
chúng ta mới bước chân vào
lớp thứ
nhất mà đã thấy được sự giải thoát
thiết thực
cụ thể như vậy, nếu chúng ta học
hiểu và
áp dụng vào đời sống luôn cả tám lớp
thì thế
gian này là Niết Bàn, Cực Lạc.
Như trên đã
nói về Chánh kiến để chúng
ta hiểu
tổng thể của lớp học này, đó là lý
thuyết
khái lược của giáo trình tu học . Bắt đầu
tu học
phải theo giáo trình tu học từ thấp đến
cao của
lớp này chứ không thể nói suông như
trên được
mà phải bắt đầu thực hành, pháp nào
học hiểu
phải cần học hiểu; pháp nào tu tập
phải cần
tu tập, chứ không được nói chung
chung như
kiểu kinh sách phát triển.
“Này chư Hiền!
Thế nào là bất thiện,
thế nào
là căn bản bất thiện, thế nào là
thiện, thế
nào là căn bản thiện ?”.
Trên đây,
đức Phật nêu ra những câu hỏi
để rồi
giải thích cho chúng ta hiểu thế nào là
thiện và
bất thiện, thế nào là nguồn gốc thiện
và nguồn
gốc bất thiện. Nếu quý vị không học
thì làm
sao quý vị biết được, mà đã không biết
được thì
cái sai vẫn cho là cái đúng, cũng như cái đúng vẫn thấy nó là sai,
và như thế thì làm
sao được
gọi là Chánh Kiến? Cầu siêu, cầu an,
cúng vong
tiễn linh cúng sao giải hạn, xem
ngày giờ
tốt xấu, quý vị đều cho là đúng, nếu
không đúng
sao quý vị lại vào chùa làm những
điều mê
tín này? Nếu những việc làm này là
đúng thì
nó là Chánh Kiến sao? Chánh Kiến gì
mà việc
làm không rõ, mơ hồ, trừu tượng không
cụ thể,
không thiết thực. Cũng như người ta gọi
Phật Tánh
là lấy cái ý thức chẳng niệm thiện
niệm ác,
để rồi tưởng tượng ra xây dựng thành
bản thể
Chân Không nhưng lại sợ đồng với cái
không, nên
mới thêm vào cái diệu hữu để người
ta đừng
hiểu nó là không ngơ “Sắc tức thị
không, không
tức thị sắc”, nhưng dù luận như
thế nào,
nó cũng chỉ là tưởng tri hý luận, chứ
không có.
Vì thế một người chết, ý thức cũng
tiêu ma ra
cát bụi, bởi vì ngoài thân ngũ uẩn
ra, không
có cái thức nào khác cả, cho nên
thân ngũ
uẩn hoại diệt thì thức nào cũng không
còn. Cái
thấy biết như vậy, không thể nào gọi
là Chánh
Kiến, đó là Tà Kiến mà ngoại đạo
hay lấy
bản thể vạn hữu mà luận thuyết như
thế này
hoặc như thế khác, để xây dựng một
thế giới
thường hằng bất biến. Chánh Kiến như
vậy, không
có ích lợi thiết thực, chỉ là một hý
luận suông.
Chúng ta từ môi trường sống sanh ra, mà
môi trường
sống là vật chất phải có trước như:
không khí,
thời tiết, mưa gió, đất, đá, gò, nổng,
núi, sông,
rồi rong rêu cỏ cây thảo mộc, kế đó
mới vạn
vật xuất hiện và như vậy mới gọi là
môi trường
sống. Khi có môi trường sống thì
chỗ đó có
cái biết sống, rồi biết đau đớn khổ sở,
rồi biết
thiện biết ác , như vậy cái biết có sau
vật chất.
Ví dụ:
Vật chất gồm các tế bào, kết hợp
cấu tạo
thành một môi trường sống, ở đó chúng
chuyên làm
một phận sự, như môi trường tế
bào sống
ở tai thì chúng có nhiệm vụ để nghe,
ở mắt để
thấy, ở miệng để ăn và nhận biết mùi
vị, ở mũi
để thở và biết mùi thơm thúi, ở thân
thì cảm
xúc nóng lạnh, ở ý thì chỉ có biết, cho
nên khi môi
trường của ý (ý căn) hoại diệt thì
cái biết
của ý đâu còn, môi trường sống không
có thì
cái biết cũng không có. Kinh sách Đại
Thừa và
Thiền Đông Độ là loại kinh sách tưởng
tri xây
dựng trên tưởng thức để lừa đảo thiên
hạ, chứ tu
hành có đi đến đâu chỉ là một trò ảo
ảnh huyễn
hóa, cái thấy biết đó không thể gọi
là Chánh
Kiến được, mà đó là Tà Kiến, từ xưa
đến nay
các tôn giáo đều sống trong Tà Kiến
này. Trong
kinh Nguyên Thủy đức Phật dạy:
“Nếu còn
một chút xíu “Thức” như đất
trong móng
tay Ta, thì đạo Ta không ra
đời vì
loài người không giải thoát khổ
được”. Như
vậy cái thấy biết, có một bản thể
thường
hằng bất biến là cái thấy biết của Tà
Kiến, cái
thấy biết không đúng sự thật, cái
thấy biết
không có thật chỉ là một ảo tưởng của
các nhà
giàu tưởng tượng, sống trong tưởng.
Đây, chúng
ta hãy nghe đức Phật dạy về
Chánh
Kiến: “Này chư Hiền! Sát sanh là
bất thiện,
lấy của không cho là bất thiện,
tà hạnh
trong dục là bất thiện, nói láo là
bất thiện,
nói lưỡi hai chiều là bất thiện,
nói lời
phù phiếm là bất thiện, nói lời
hung ác là
bất thiện, tham dục là bất
thiện, sân
là bất thiện, tà kiến là bất
thiện. Này
chư Hiền, như vậy gọi là bất
thiện. Và
này chư Hiền! Thế nào là căn
bản bất
thiện? Tham là căn bản bất thiện,
sân là căn
bản bất thiện, si là căn bản bất
thiện”.
Trên đây,
đức Phật đã chỉ cho chúng ta
thấy, có
mười pháp ác và ba cội nguồn gốc ác.
Hằng ngày
mọi sự việc xảy ra, chúng ta đều
quan sát
nơi thân, thọ, tâm và các pháp, nếu có mười pháp ác xảy ra trên thân,
thọ, tâm và các
pháp thì
chúng ta biết được không? Nếu không
học thì
chúng ta không biết, còn đã học thì
chúng ta
đều biết mà biết như vậy có phải là
Chánh Kiến
không? Đức Phật đã dạy, thấy biết
như vậy là
Chánh Kiến rõ ràng.
Thưa quý
vị! Chánh Kiến có khó biết
không? Chắc
là không, phải không quý vị?
Nhưng quý
vị nên lưu ý gốc ác pháp đó là tâm
tham, sân,
si; tâm tham, sân, si có một nghiệp
lực rất
mạnh, cho nên dù quý vị đã có Chánh
Kiến nhưng
quý vị không dừøng lại được gốc
tham, sân,
si thì cái thấy Chánh Kiến của quý
vị sẽ
thành Tà Kiến.
Ví dụ: Như
quý vị biết nói láo là Tà Kiến
nhưng vì
lực tham thúc đẩy, quý vị sẽ phải nói
láo, mà
không còn cách nào kềm giữ gìn lại
được thành
ra phải nói láo, nhưng khi nói ra
rồi rất
là hối hận, mặc dù nói láo đó không hại
ai cả.
Muốn thấy
Chánh Kiến và hành đúng
Chánh Kiến
thì quý vị phải hằng ngày trau dồi
pháp hướng
tâm để tận trừ nguồn gốc của các
ác pháp:
“Tâm như cục đất phải lìa tham,
sân, si cho
thật sạch”. Khi tu tập pháp hướng
tâm có
hiệu quả thì lúc bây giờ Chánh Kiến ở đâu thì tâm ly dục ly ác pháp
ở đó và ở đó có
giải thoát
liền, nếu pháp hướng tâm chưa có
hiệu quả
thì dù có Chánh Kiến biết đúng,
nhưng tâm
không ly dục ly ác pháp, thì vẫn là
Tà Kiến.
Cho nên, ai
cũng học Chánh Kiến, biết rất
rõ thập
ác và thập thiện, nhưng mấy ai sống
đúng thập
thiện và loại trừ thập ác, ai nói
Chánh Kiến
cũng được, nhưng sống đúng
Chánh Kiến
thì không ai làm được. Đây là
những
người đã có Chánh Kiến mà còn sống
chưa được,
huống là những người còn đang sống
trong Tà
Kiến như: Mật Tông, Thiề n Tông và
Tịnh Độ
Tông v.v..
- Chánh
Kiến có hai giai đoạn tu tập:
1/ Giai
đoạn học tập Chánh Kiến để loại
trừ Tà
Kiến.
2/ Giai
đoạn tu tập Chánh Kiến là giai
đoạn áp
dụng Chánh Kiến vào đời sống hằng
ngày bằng
Định Vô Lậu và pháp hướng tâm.
Lớp Chánh
Kiến học thì thấy dễ nhưng tu
tập phải
đúng pháp, đúng bài bản giáo trình
thì mới
có hiệu quả, cho nên chúng tôi nói:
“Chỉ khi
nào tâm ly dục ly ác pháp thì mới
có Chánh
Kiến”. Như trên chúng tôi đã nói, nếu ai biết tu
tập pháp
hướng tâm để quét sạch nguồn gốc ác
pháp tham,
sân, si đang ngủ ngầm trong chúng
ta, thì
phải cố gắng hằng ngày đừng quên nhắc
tâm lìa
tham, sân, si hoặc tâm như đất, nhờ
vậy mới
đủ sức lực đoạn trừ tậân gốc tham, sân,
si. Vậy,
chúng ta hằng ngày phải thường tỉnh
thức quan
sát thân, thọ, tâm và pháp để đẩy lui
các ác
pháp không cho chúng xâm chiếm bốn
chỗ này.
Nên đức Phật dạy: “Này chư Hiền!
Khi nào
Thánh đệ tử tuệ tri bất thiện như
vậy, tuệ
tri căn bản bất thiện như vậy, tuệ
tri thiện
như vậy, tuệ tri căn bản thiện
như vậy,
vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy
miên, tẩy
sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc
kiến mạn
tùy miên “Tôi là”, đoạn trừ vô
minh, khiến
minh khởi lên, diệt tận khổ
đau ngay
trong hiện tại”. (Trung Bộ Kinh tập
1 trang
113).
Ở đây, quý
vị có nghe lời đức Phật dạy
không? Quý
vị chỉ cần tu tập có Chánh Tri
Kiến là
đã diệt tận khổ đau trong hiện tại. Nếu
quý vị chỉ
cần có Chánh Tri Kiến thì ngay đó,
quý vị đã
đoạn trừ vô minh, khiến minh sanh
khởi, đây
là mục đích của đạo Phật. Tóm lại, trong lớp Chánh Tri Kiến này,
nếu quý
vị tin sâu lời dạy của đức Phật hằng
ngày chỉ
cần thấy pháp thiện biết ngay liền
pháp
thiện, thấy pháp ác biết ngay liền pháp
ác, đó là
Chánh Kiến, và khi gặp pháp ác thì
cố gắng
đẩy lui khỏi tâm tư của mình để cho
tâm hồn
lúc nào cũng thanh thản, an vui, và vô
sự.
Tóm lại,
trong đời sống hằng ngày của
chúng ta,
nếu biết áp dụng Chánh Tri Kiến như
trên đã
dạy, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một
đời sống
an vui, hạnh phúc biết bao không
những cho
mình mà cho cả những người thân
thương của
mình và xã hội quanh ta, nhưng các
bạn nên
nhớ: đó là lớp học cơ bản đầu tiên của
Phật giáo,
nó không phải khó và không phải
dễ, nếu
giới luật không giữ gìn nghiêm túc thì
sự tu học
của lớp này các bạn sẽ không thành
công.
Trưởng
lão THÍCH THÔNG LẠC
LỚP THỨ HAI:
“CHÁNH TƯ DUY”
Lớp thứ
hai trong tám lớp của Đạo Đế
là lớp
Chánh Tư Duy. Vậy Chánh Tư Duy có
nghĩa là
gì?
Chánh Tư
Duy có nghĩa là suy tư, suy
ngẫm về
mười điều thiện và mười điều ác, do sự
tư duy như
vậy ta nhất định sống trong mười
điều lành
và luôn luôn loại trừ mười điều ác,
mỗi khi có
điều gì khởi lên trong ta, ta tư duy
suy ngẫm
và hiểu rõ nó thiện hay là ác, nếu là
ác pháp
thì ngay đó ta liền đẩy lui ra khỏi tâm
ta, như
trong kinh Song Tầm đức Phật dạy:
“Này chư
Tỳ Kheo! Trước khi Ta chưa giác
ngộ, chưa
thành chánh giác và còn là Bồ
Tát, Ta suy
nghĩ như sau: “Ta sốn g suy tư
và chia hai
suy tầm”. Này chư Tỳ Kheo,
phàm có
dục tầm5 nào, sân tầm6 nào, hại
tầm7 nào,
đó là Ta phân làm phần thứ
nhất; phàm
có ly dục tầm nào, vô sân tầm
5
Dục tầm
là ý niệm về dục khởi lên
6
Sân tầm là
ý niệm về sân khởi lên
7
Hại tầm
là ý niệm về tai hại khởi lên nào, vô hại tầm nào, đó là Ta phân
làm
phần thứ
hai. Này chư Tỳ Kheo! Rồi Ta
sống không
phóng dật, nhiệt tâm tinh cần.
Khi dục
tầm khởi lên Ta tuệ tri: “Dục tầm
này khởi lên
nơi Ta, và dục tầm này đưa
đến tự
hại Ta, đưa đến hại người, đưa đến
hại cả
hai, dục tầm này đưa đến diệt trí
tuệ, dự
phần vào phiền não, không đưa
đến Niết
Bàn (tức là không đưa đến tâm
thanh thản
an lạc và vô sự cho mình cho
người)”.
Này chư Tỳ Kheo! Khi Ta suy tư:
“Dục tầm
này đưa đến tự hại Ta”, dục tầm
tự biến
mất. Này chư Tỳ Kheo! Khi Ta suy
tư: “Dục
tầm đưa đến hại người”, dục tầm
tự biến
mất. Này chư Tỳ Kheo! Khi Ta suy
tư: “Dục tầm
đưa đến hại cả hai Ta và
người”,
dục tầm được biến mất. Này chư
Tỳ Kheo,
khi Ta suy tư: “Dục tầm diệt trí
tuệ, dự
phần vào phiền não, không đưa
đến Niết
Bàn”, dục tầm này được biến
mất. Này
chư Tỳ Kheo! Như vậy Ta cứ
Chánh Tư
Duy tiếp tục trừ bỏ, xả ly và
đoạn diệt
dục tầm”. (Trung Bộ Kinh tập 1
trang 262).
Đoạn kinh
trên đây, đức Phật đã dạy
chúng ta tu
học trong lớp Chánh Tư Duy, nhờ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!