đến Tam
Minh, con bừng tỉnh
và nói: ‚À có
pháp hành đây rồi‛ như làm
lại từ đầu,
xong với con chỉ như nhắc lại cho rõ hơn và phải sắp xếp cái gì cần làm
trước mà thôi.
Dẫu sao
thì nó cũng dấy lên trong con biết bao
nhiêu là chướng ngại pháp trong tâm.
Chính vì lẽ đó hôm nay con mạo muội hỏi; xin HT từ bi
hoan hỷ chỉ dạy
và cũng là
sách tấn cho con ngày một tinh tiến.
Kính bạch Hòa Thượng!
Kinh Tứ Thập Nhị Chương do cư sĩ Thiền Chỉu dịch,
kinh này có
phải Phật thuyết không?
Đáp: Kinh Tứ
Thập Nhị Chương không phải Phật thuyết mà các tổ soạn viết theo kiến giải của mình
trong kinh sách Nguyên Thủy A Hàm. Cho nên, kinh này có sự thêm bớt rất
nhiều có
những bài kinh làm
sai ý Phật.
Quý phật tử hãy
dè dặt cẩn thận đừng vội quá
tin vào những loại kinh sách này, mà cần phải
đề cao cảnh giác, kinh dạy
thì có lý nhưng
thực hành không có kết quả mà còn làm mất thì giờ vô ích của quý vị.
bậc phi hành biến hóa
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Chương I từ thân xuất gia tu
hành bốn chân đế, chứng
A La Hán, là bậc phi hành biến hóa (biến hóa tự tại) sống lâu vô
cùng, ở đâu thì chuyển động cả đất trời ở
đấy, như vậy có đúng không?
Đáp: Đoạn
kinh này xác định bậc A La Hán như vậy là rất đúng, vì khả năng tu chứng của bậc
A La Hán là một siêu nhân không thể lấy trí hữu hạn mà hiểu thấu
năng lực siêu việt ấy được.
Vậy mà các Tổ
dám dựng lên câu chuyện ông Ca Diếp và Ông Phú Lâu Na tranh chấp về sự việc bỏ những
giới nhỏ nhặt để hạ bệ các bậc A La Hán đại đệ tử của đức Phật.
Đối với bậc A
La Hán về việc bỏ những
giới nhỏ
nhặt mà ông A Nan quên hỏi
Phật là bỏ những giới
luật nào thì quá
dễ. Chỉ cần hai vị A La Hán
này nhập vào Niết Bàn hỏi Phật thì rõ ràng, có đâu mà lại tranh chấp
hơn thiệt để mang tiếng
là bậc A La
Hán tư tưởng
vẫn bất đồng nhau.
Theo chúng tôi
thiết nghĩ về
vấn đề bỏ những
giới nhỏ
nhặt, điều đó không khó
đối với ông Ca
Diếp và
ông Phú Lâu
Na, chỉ có người sau không hiểu mới có câu chuyện vô lý này.
Như chúng ta
đã biết từ giới luật mà sanh ra chư Phật
và A La Hán, ngoài giới luật ra thì không có Phật và A La Hán. Vậy mà giới luật
nào lại bỏ được. Giới luật là hành động đạo đức của chư Phật và A La Hán dù là
giới luật nhỏ nhặt nhất nó cũng là hành động đạo đức làm người làm Thánh. Chỉ
có những người không hiểu giới luật mới xem
thường giới luật, để chạy theo dục vọng thế gian mới bày trò bỏ
những giới nhỏ nhặt không
hợp thời để tự
tung, tự tác phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới mà không ai
dám chỉ trích,
chê trách, phê
phán
họ.
Người muốn
tu chứng quả A La Hán thì phải sống đúng giới luật tức là phạm hạnh của một vị
Thánh Tăng, ngoài phạm hạnh của một vị Thánh Tăng ra thì không thể nào chứng quả
A La Hán được.
Tóm lại, bậc A La
Hán là bậc
siêu nhân như trong kinh đã dạy điều đó là đúng sự thật, chứ không
phải như các Tổ hiểu
theo trí hữu
hạn, bậc A
La Hán còn tranh chấp, chỉ có Phật mới là hết tranh chấp.
Bậc A La Hán là
bậc vô lậu hoàn toàn họ thường sống
trong tâm bất động, không có một ác
pháp nào làm động tâm họ được.
Họ là người ra khỏi tam giới,
không còn bị qui luật nhân quả chi phối.
PHậT VÀ A LA
HÁN
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
HT! Trong sách HT giảng: ‚Phật và A
La Hán chứng quả như nhau (không có cao
thấp)‛. Thế sao về danh từ không chung là một lại còn tách bạch ra hai?
Đáp: Phật
và A La
Hán đều chứng
quả như nhau, nhưng Phật là người sáng lập ra đạo Phật nên gọi được là
Phật, còn A La Hán là những người tu
chứng giải thoát
như Phật nhưng phải theo giáo
pháp của đức Phật, vì thế nên không được gọi là Phật, chỉ được gọi
là A La Hán mà thôi.
Vì nếu gọi tất cả A
La Hán là Phật thì cũng
không sao, nhưng lòng
người muốn phân biệt
danh từ A La
Hán và Phật
như vậy là vì
họ muốn
tỏ lòng tôn
kính đức Phật
Thích Ca Mâu Ni hơn,
là vì đức Phật là người đã dày
công tu tập mới sáng lập ra đạo Phật và để lại cho loài người một giáo pháp đạo
đức tuyệt vời, công ơn ấy rất lớn.
Phật và A La
Hán khác nhau là ở những chỗ mà chúng tôi đã
nêu ở trên, vì thế danh từ gọi Phật và
A La Hán phải khác
nhau. Cho nên Phật
có thể gọi
mình A La Hán, nhưng
A La Hán không thể gọi mình là Phật
được.
Đạo Phật
duy nhất chỉ có đức Phật
Thích Ca Mâu Ni là đấng
giáo chủ, ngoài
đức Phật Thích Ca
Mâu Ni ra thì không
có một đấng giáo chủ nào khác cả, nếu có một đấng
giáo chủ nào khác là do con người sau bịa đặt ra. Vì thế trước và sau
Phật Thích Ca Mâu
Ni thì không có một vị Phật, giáo chủ nào cả.
Những vị Phật độc
giác là phải tự mình tìm lấy
pháp tu hành
không theo một
giáo pháp nào cả
nhưng tu chứng
giải thoát như Phật
Thích Ca Mâu Ni có
nghĩa là phải
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì mới được gọi là Độc
Giác Phật.
NGŨ NHÃN CĐN
QUÁ ÍT
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Vả lại tu Tứ Thánh
Định – chứng Tam Minh là
quả vị A La Hán. Sao chỉ nói có
Thiên Nhãn Minh mà
không nói ngũ nhãn
như trong kinh Kim
Cang (Nhục nhãn, tuệ nhãn... Phật nhãn?
Đáp: Phật tử nên
phân tích rõ những
danh từ
dùng trong kinh sách
Phật, nói thiên nhãn mà không nói minh tức là chỉ có
thiên nhãn mà thôi,
nhưng nói thiên
nhãn minh thì có
nghĩa khác. Trong Thiên nhãn minh
là một trí tuệ siêu không gian và thời gian nên nó đầy đủ cả ngũ nhãn và còn
nhiều hơn nữa mà kinh Kim Cang chỉ có
nêu lên ngũ nhãn thật là quá ít. Ngũ nhãn gồm có:
1- Nhục nhãn
2- Thiên nhãn
3- Tuệ nhãn
4- Pháp nhãn
5- Phật nhãn
Trong Thiên
Nhãn Minh gồm
có: giới nhãn, định nhãn, tuệ
nhãn, nhân quả nhãn, vô lậu nhãn, nhục
nhãn, thiên nhãn,
Phật nhãn tức là A La Hán nhãn,
túc mạng minh nhãn, Thánh đức nhãn, đại thần lực nhãn, đại
uy lực nhãn, đại minh lực nhãn,
lậu tận minh
nhãn v.v..
BỐ THÍ
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Từ bố thí
cho một người hiền bằng
bố thí
cho 100 người ác, đến thết (cúng dường)
1000 ức vị
Tam Thế Chư Phật không bằng thết một vị: Vô
niệm, vô trụ và vô
chứng. Như vậy, như thế
nào xin HT chỉ dạy
cho chúng con được rõ?
Đáp: Đúng
là kinh phát triển
dạy bố thí phi đạo đức
chứ kinh sách Nguyên thủy không
có dạy như vậy.
Quý phật tử
hãy suy nghĩ lời dạy này có đúng đạo lý không? Bố thí cho một trăm người ác phước
báo bằng bố thí cho một người thiện.
Kinh sách
phát triển dám lấy một người thiện mà so với một trăm người ác. Theo thiển ý của chúng tôi dù lấy một ngàn, một
vạn, một triệu, mười triệu hay trăm triệu, vạn triệu cho đến vô lượng người
ác cũng không thể so sánh với một người thiện vì thiện và ác là
hai đường song song không thể gặp nhau trên một điểm nào cả,
thì làm sao so sánh được,
hễ có cái thiện thì không có cái ác, có cái ác thì
không có cái thiện. Thế sao các nhà Phật giáo phát triển lại dùng
thiện ác mà so
sánh như
vậy, đây là các nhà Đại Thừa tưởng giải để lừa đảo người
không biết, chứ
người biết thì kinh sách
phát triển sẽ bị lật tẩy
ra khỏi môi trường tôn giáo Phật giáo.
Đã bảo rằng
Tam Thế Chư Phật, có nghĩa là ba đời chư Phật, Ba đời chư Phật là những người tu
hành đã thành
Phật trong quá khứ,
hiện tại
và vị lai,
những người này
đã giải thoát hoàn
toàn, thế mà một ngàn ức vị Phật
như vậy không bằng một vị vô niệm, vô trụ, vô chứng.
Vậy chúng ta
tìm hiểu một vị vô niệm, vô trụ, vô chứng
như thế nào
mà các nhà Phật
giáo phát triển ca ngợi tán thán như vậy.
Vô niệm
như thế nào?
Vô niệm là
không có niệm thiện
niệm ác trong
đầu (Chẳng niệm thiện niệm ác bản
lai diện mục hiện tiền), công án Thiền Tông.
Vô trụ
như thế nào? Vô trụ là
tâm không trụ bất cứ một
nơi nào cả
(Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm), kinh Kim Cang.
Vô chứng là
gì? Vô chứng là không thấy mình chứng đắc,
còn thấy mình
chứng đắc là chưa chứng đắc (Vô sở đắc), kinh Kim Cang.
Theo các nghĩa
trên đây chúng ta xác định một người tu theo Đại Thừa và Thiền Tông khi thành tựu
họ hoàn toàn vô niệm, vô trụ, vô chứng,
một người được
cúng dường xứng
đáng hơn 1000 ức vị Phật trong
ba đời. Như vậy vị
vô niệm, vô trụ, vô chứng là một vị Phật tối thượng phước báo hơn gấp 1000 lần
Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni sống còn niệm, còn trụ,
còn tu chứng. Tại sao chúng ta biết như vậy?
Tại vì đức Phật
Thích Ca Mâu Ni
dạy: “ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp”, như vậy chứng tỏ đức
Phật Thích Ca Mâu
Ni còn niệm thiện,
không như Thiền Tông chẳng niệm thiện niệm ác.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni còn dạy chúng ta tăng
trưởng thiện pháp tức là
còn trụ trong thiện pháp để tăng
trưởng nó lớn lên, do đó chúng ta biết đức Phật Thích
Ca còn trụ trong thiện pháp vì lợi ích
cho chúng sanh.
Còn chúng ta trụ trong thiện pháp là để không làm khổ mình, khổ người.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni tự
xưng mình tu chứng: “Ta thành chánh giác
là nhờ tâm không phóng
dật” hay khi chứng đạo đức
Phật đã nói lên bài kệ nầy:
“Thiên thượng
thiện hạ
Duy ngã độc
tôn, Nhất thiết thế gian, Sanh, lão, bệnh, tử”
Đối với kinh
sách Đại Thừa và thiền Đông
Độ thì đức
Phật Thích Ca Mâu Ni là người chưa vô niệm, vô trụ, vô chứng tức là người chưa
chứng đạo. Người chưa chứng đạo mà làm Giáo Chủ
sáng lập ra Phật
giáo còn người
vô niệm, vô trụ,
vô chứng lại
không phải là
giáo chủ. Vậy Phật giáo Đại Thừa
và Thiền Tông là Phật giáo gì?
Dù không đối
tượng ác pháp nhưng thiện pháp vẫn còn
mãi mãi, vì thiện pháp
là nền
tảng đạo đức
làm người, là nền móng giải thoát của đạo Phật, cho nên người tu sĩ đạo Phật
nào cũng đều phải
trụ vào đó để không
làm khổ mình, khổ người tức là tu giải thoát, tức là làm lợi
ích cho chúng sanh.
KINH KIM
CANG
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Kinh Kim
Cang có phải Phật thuyết không?
Câu do chấp bốn tướng nên sinh ra nhiều kì sự:
Ngã tướng, nhân
tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, hay câu: phàm cái
gì hữu tướng đều hư hoại.
Đáp: Kinh
Kim Cang không phải Phật Thuyết, do các
Tổ sau này biên
soạn ra, kinh này xuất xứ trong
thời Ngài Long Thọ...
Các nhà tưởng
giải biên soạn ra kinh Kim Cang thường lý luận chia chẻ thân ngũ uẩn đưa ra nhiều danh từ như:
ngã tướng, nhân
tướng, chúng sanh tướng,
thọ giả tướng,
nhưng kỳ
thực bốn tướng
này cũng chỉ là một tướng của thân ngũ uẩn, nên cuối cùng kết luận bằng một câu
kinh: ‚Phàm cái gì hữu tướng đều hư hoại‛.
Đó là
một lối hý luận lòng
vòng quanh co mà không có lối thoát, tức là không có
pháp hành. Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni đã xác định
thân ngũ uẩn cụ thể
rõ ràng và dễ hiểu: ‚Con
người do năm uẩn hợp lại mà thành, nên vô thường không có thật thể,
chết là hết,
không còn có một vật gì lưu lại‛.
Trong kinh
sách Nguyên Thủy đức Phật xác định rất rõ ràng về các tướng như: nhân tướng, đặc
tướng, hành tướng của thân ngũ uẩn, với
sự chia ra các
tướng này là để giúp
cho người tu sĩ
áp dụng các
pháp hành trên
ba tướng này để
đi đến sự giải thoát
hoàn toàn, làm chủ bốn sự đau khổ
của kiếp người chứ không như lý luận suông
như trong kinh Kim Cang Bát Nhã bằng cách chơi chữ. Nêu
lên bốn tướng của thân
ngũ uẩn để chứng tỏ
mình là nhà phân tích hay, nhưng lại là thứ “dỏm”.
Đọc suốt bộ
kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp
hành nào cả chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên, nói được nhưng chưa
có ai làm được
như trong kinh này.
Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh
vẽ. Chúng
tôi nói nhưng quý vị đừng vội tin mà hãy suy ngẫm, chúng tôi nói là tỉnh thức
quý vị mà thôi, chúng
tôi nói là
gióng lên tiếng chuông
cảnh tỉnh, tin hay
không tin là quyền của quý vị.
Kinh sách
phát triển bày vẽ lý luận phân tích
chia chẻ ra cho nhiều để
làm rối loạn đường tu hành của tín đồ Phật giáo.
BÁT NHÃ TÂM
KINH
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Kinh Bát
Nhã:
‚Quán Tự Tại
Bồ Tát hành sâu Bát Nhã Ba La Mật,
Ngài soi thấy
năm uẩn đều
không, liền qua hết thảy khổ ách
hoặc đối cảnh vô tâm...‛.
Tất cả những câu
pháp đó có đồng nhất với
câu pháp hướng
tâm như lý
tác ý trong ĐVXP - HT dạy: ‚Tâm như cục đất‛ không?
Đáp: Không,
pháp hướng tâm “Tâm
như cục đất” là một phương pháp tự kỷ ám thị để rèn luyện
nội tâm của
mình, chứ không
phải
một lời
suông như trong
Tâm Kinh Bát
Nhã
‚Quán Tự Tại Bồ
Tát hành thâm
Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, độ nhất thiết
khổ ách‛. Câu
kinh này là câu
kinh nhật tụng
hằng ngày trong
các chùa không có
ngày nào mà
tu sĩ Phật
giáo không tụng niệm câu kinh
này, thế mà những người tụng niệm câu kinh này có bao giờ hết khổ ách chưa? Từ
các Tổ
xa xưa cho đến các Thầy hiện giờ không
ngày nào là
không tụng niệm,
thế mà ngũ uẩn có không đâu, nó đang hành hạ các Tổ và
các Thầy đủ thứ tai họa, như vậy kinh chỉ nói chứ không có hành được là vì nó
không có pháp hành.
Còn pháp hướng
tâm tự kỷ ám
thị là
một pháp môn thực hành
nó đã mang đến
kết quả chúng
ta thấy rõ
ràng, khi chúng ta giữ gìn giới
luật nghiêm chỉnh.
Vì thế,
hai pháp
môn này không có giống nhau chút
nào cả, một pháp môn nói được mà không hành được, nó là một triết học tánh
không (hý luận của Long
Thọ), còn một
pháp nói được làm được, nó là một nền đạo đức nhân bản - nhân
quả của loài
người, nó không
phải là triết học, mà là đạo đức học. Nó là một môn học, đưa ra những
hành động sống hằng ngày để
con người áp dụng
vào đời sống
mà không
trái với
qui luật tự
nhiên của bản chất con người. Cho nên, càng áp dụng vào
đời sống thì càng thích thú hơn
nhiều vì nó mang lại hạnh phúc và sự an
vui cho cá nhân và tập thể.
Nói đến đạo đức
là nói đến sự sống
an lành của mỗi
con người, vì thế nó phải là một
pháp môn cụ thể thực tế, không lý
luận quanh co, không tưởng giải
ra những điều trừu
tượng ảo giác không thật.
Hành thâm
Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Hành thâm như thế nào?
Chiếu kiến như thế nào? Tụng niệm hay
là quán xét? Tụng niệm
thì các chùa đã từng tụng niệm hằng ngày, còn quán chiếu
thì người ta đã quán chiếu quá nhiều, nhưng ai là người đã độ được
khổ ách? Người
ta đã thực hiện nằm lòng những câu kinh này, nhưng
tìm thấy sự giải thoát
trong tâm thì chưa có ai cả. Tại sao vậy?
Vì nó là một
triết học, một lý luận suông của những nhà học giả,
không có kinh nghiệm tu hành.
vô khổ, tập, diệt, đạo
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! không có ngã, không có ta và không có cái của ta, nếu quán chiếu được
như thế thì mới có luận: vô khổ,
tập, diệt, đạo.
Đáp: Đúng,
là cái hýù luận của các nhà học giả của kinh sách phát triển, vì không có cái
ngã, không có cái ta và không có cái của ta nên mới có chỗ đập
phá chân lý của Phật
giáo là
‚vô khổ, tập,
diệt, đạo‛, nên mới có chỗ cấm tín
đồ Phật
giáo nếu ai
tu theo Thanh
Văn Nhị Thừa thì sẽ
bị khinh cấu tội. Bởi
vì con người không có cái ngã,
không có cái ta, không có cái của ta nên chân lý khổ, tập, diệt, đế làm sao có
được. Không có cái ngã, không có cái ta, không có cái của ta thì con người là gốc
cây là cục đá, cho nên chân lý khổ, tập, diệt, đế của đạo Phật là chân
lý của con người
chứ không phải
chân lý của cục đá, gốc cây. Khổ, tập, diệt, đạo đế là chân lý của con người
có cái ngã,
có cái ta, có
cái của ta. Con người tu hành trở thành cục đá gốc cây mới sản xuất ra trí tuệ
Bát Nhã Tâm Kinh, để
trong các chùa hằng ngày tụng niệm
‚Vô khổ, tập, diệt, đạo‛
để diệt mất cái chân lý này
đi, diệt mất
cái chân lý
này để làm
gì? Diệt mất cái chân lý này là diệt mất Phật giáo.
Sau khi đức Phật tịch thì Phật
giáo ngay trên quê hương của Người
đã bị quét ra khỏi và cũng không còn dấu vết gì của Phật giáo ở trên đất nước
này.
Bây giờ
chúng ta trở về thăm
quê hương xứ Phật
những nơi di
tích này mới được trùng tu, trùng tu để thu tiền khách tham
quan vãng cảnh, chứ đâu có ý nghĩa làm cho Phật giáo sống, sống với đất nước Ấn Độ
nữa. Một cái gì cao quý và đẹp đẽ nhất của nước Ấn độ đã bị
lòng ganh tỵ nhỏ
hẹp của các
tôn giáo ích kỷ tại quê hương này đã diệt mất rồi, còn
đâu nữa. Có còn cũng
chỉ là hình
thức kinh doanh tôn giáo mà thôi.
Đúng như
con đã nói:
‚Không có ngã, không
có ta, không
có cái của
ta, nếu quán chiếu như thế thì mới có luận vô khổ, tập, diệt, đạo‛, vậy
không có cái
ngã, cái ta,
cái của ta thì lấy cái gì quán chiếu, nếu có cái quán chiếu được thì phải có ngã, có ta, có
cái của ta, ngoài ra ba cái này, thì không
có cái quán
chiếu. Vì thế cái
quán chiếu này
là cái ảo
giác trừu tượng, không
phải của con người.
Không phải
của con người thì cái
này không phải của Phật
giáo. Vì
Phật giáo lấy
con người làm
nơi tu hành giải thoát cho con
người, ngoài con người ra thì không
có cái gì để tu
hành cả, vì con
người khổ nên đạo Phật
ra đời giải quyết
sự đau khổ cho con người, mà con
người thì phải có cái ngã, cái ta, cái của
ta, nhưng cái ngã, cái ta, cái của
ta đều thiện
thì có làm khổ
mình khổ người đâu
mà chúng ta lại dẹp bỏ nó, chúng
ta chỉ dẹp
cái ngã, cái
ta, cái của ta
trong ác
pháp, vì cái
ngã, cái ta,
cái của ta trong các
ác pháp là cái thường làm
khổ mình khổ người, nên đức Phật dạy: “ngăn
ác diệt ác pháp
sanh thiện tăng
trưởng thiện pháp” thì chân
lý khổ, tập,
diệt, đế mới thật
là chân lý của loài người.
Bởi vậy
lý Bát Nhã chỉ áp dụng vào thế
giới tưởng của Long Thọ chứ không thể áp dụng cho loài người
được. Vì nó là một ảo giác
chân không diệu hữu.
SỰ MÂU THUẨN
TRONG
KINH SÁCH
ĐÄI THỪA
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Trên bình
diện: Hữu sắc và
vô sắc: Về hữu sắc thực tế
trong nhân loại hiện nay không còn con đường nào khác là phải xây dựng cho mỗi
người có một nền đạo đức nhân bản và nhân quả. Trên cơ
sở bốn đế (khổ, tập,
diệt, đạo). Vậy pháp
hành là Tứ Chánh Cần ly dục ly ác
pháp. Thật là tuyệt
vời.
Bởi lẽ thế
gian hiện nay, đã hầu hết làm mất đi nền đạo đức nhân bản này. Thế mới có chuyện mua bán
chức quyền, tranh giành
tổng thống, làm từ
thiện, bớt xén cả của
những người khuyết tật, cả những người hoạn nạn do thiên tai v.v..
Tất cả vì dục
vọng mà họ đã làm mất đi bản chất làm người để đi vào thú tính, xét cho cùng ngay những con thú họ cũng không
bằng. Vì bản chất loài thú, nó ăn no rồi thì
thôi, nằm ngủ, nhưng con người hiện
nay no vẫn chưa đủ
mà còn
phè phỡn tìm kiếm
thật nhiều, để rồi
vào tù còn giở trò sám hối.
Thật là
đau lòng cho những vị
Thánh
Minh muốn cứu
đời... Trước thực tại này.
Bốn câu kệ
trong kinh Kim Cang:
‚Nhược dĩ sắc
kiến ngã Dĩ âm thanh cầu ngã Thị nhân
hành tà đạo
Bất năng kiến
Như Lai...‛
Liễu nghĩa
được bốn câu này thì làm gì có kinh Phổ Môn, kinh
Địa Tạng, kinh Di Đà, chuyện Bà
Thanh Đề, (kinh
Vu Lan Bồn)
là một sự lừa dối phi đạo đức
và phi nhân
quả, mà HT đã phải dằn giọng kêu
lên. Một tiếng sét cho những ai còn mê muội...
Đáp: Tại
sao kinh Kim Cang nằm trong hệ
thống kinh sách
phát triển mà lại mâu thuẫn đập phá lại kinh sách phát triển, bởi
vậy chúng ta mới thấy hệ thống kinh sách
phát triển không nhất quán. Cuốn
kinh nào cũng tự ca ngợi nó là
đệ nhất hơn các
cuốn kinh khác, kinh Kim Cang ca
ngợi kinh Kim Cang là đệ nhất, kinh
Pháp Hoa cũng ca ngợi
kinh Pháp Hoa là đệ nhất, kinh
Lăng Già, kinh Viên giác, kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng vậy. Vì thế câu:
‚Nhược dĩ sắc
kiến ngã Dĩ âm thanh cầu ngã Thị nhân
hành tà đạo Bất năng kiến Như Lai‛
Bốn câu kệ này
nó thể hiện
qua trí tuệ
Bát Nhã Ba
La Mật tánh không cho một hành tinh chết
trong vũ trụ
này, chứ không
phải áp dụng cho hành
tinh sống của chúng
ta, vì vậy nó
là chân lý của Long
Thọ sản xuất,
nó đang áp dụng
trên cung trăng,
mặt trời và
trên những hành tinh chết
khác, còn ở địa cầu
thì nó là chân lý ảo tưởng, vì địa cầu là môi trường sống nên mọi vật ở
đây không thể là cục đá gốc cây được
(không có ngã, không có ta, không có cái của ta).
Nếu bảo rằng lấy bốn câu kệ này
làm pháp tu quán chiếu thì không
đúng, vì bốn câu kệ này không phải là pháp hành, nó chỉ là một lý luận
suông của Bát
Nhã phát triển
mâu thuẫn lại chính bản thân của
sự phát triển, tức là mâu thuẫn lại Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Còn nếu lấy câu:
‚Nhất thiết
hữu vi pháp Như mộng, huyễn, bào, ảnh Như lộ diệc, như điển
Ưng tác như
thị quán‛.
Nếu dùng câu
này tác ý tu tập để chúng ta trở thành cây
đá trong môi
trường chết thì có thể
được, chứ pháp
môn này không
có mang tánh chất
ly tham đoạn ác
pháp để được
giải thoát như kinh sách Nguyên Thủy.
Do biết
các pháp hữu vi
như giấc
mộng, như huyễn ảo,
như sương mù, như điện chớp, thì nó
trở thành là
pháp môn tránh
né, pháp môn tránh né là pháp môn
ức chế tâm, pháp môn ức chế tâm thì không bao giờ ly dục ly ác pháp được,
không ly dục ly ác
pháp thì không bao giờ có giải
thoát.
VÌ VÔ MINH TA
SỐNG VIỄN LY
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! ‚Vì vô
minh ta sống viễn
ly‛ theo ý hiểu cạn cợt của
con. Con suy xét trên bình diện sự và lý.
- Về sự Ta vẫn
sống hội nhập cùng mọi người, ăn ở sinh hoạt trong đời thường.
- Về lý Ta
dũng cảm bỏ đi tất cả
( ly dục ly ác pháp),
phải có tâm
kiên cố và dứt khoát, để chiến thắng nó.
Sen nở trong bùn
mà không có
mùi bùn. Có chúng sanh mới có Phật
và ngược lại.
Trong Tập Đế
HT dạy: ‚chúng
sanh vì si mê nên khổ vì tưởng.
Tưởng là không có thật nên không chấp.
Ví dụ như bị mất trộm, bị đánh, bị chửi, rủa là đồ trâu chó v.v..
Phải đối cảnh
với thực tế này. Lập tức con nghĩ ngay đến
nhân quả. Chẳng phải kiếp này mà
còn từ kiếp
trước ta đã tạo nên những
nghiệp này, thì bây giờ có dịp phải trả vay là đúng ‚hoạn nạn là giải thoát‛.
Họ chửi ta
là đồ trâu chó... là họ nhắc lại cho
ta, kiếp
trước ta là những con vật
ấy rồi. Hiểu như vậy tức là ta
‚chánh niệm tỉnh giác‛?
Đáp: Đúng vậy,
đời sống con người khổ vì lòng ham muốn và
các ác pháp,
nhưng lại khổ vì tưởng, lầm cho những cái không có, cho
là có thật, nên khổ
cũng không phải
ít. Ví dụ: Thế giới
siêu hình không có, người ta tưởng cho nó có, vì thế
người ta phải khổ với nó rất nhiều.
Quán xét về nhân
quả đây là một góc độ
tu tập của Định Vô lậu. Định Vô Lậu là trí tuệ
tri kiến giải
thoát, người thường
hay quán xét thì trí tuệ tri kiến
giải thoát phát
triển khiến cho ba lậu hoặc không
tác động vào tâm được.
Định Vô Lậu
là một loại định
triển khai trí tuệ tri kiến giải
thoát vô lậu
như chúng tôi đã nói ở
trên, nó có nhiều góc độ để
quán xét
như:
1- Quán
xét về nhân
quả như cư sĩ
đã quán xét ở trên.
2- Quán xét về lý duyên khởi.
3- Quán xét về Tứ Niệm Xứ.
4- Quán xét về Tứ Vô Lượng Tâm.
5- Quán xét Tứ Bất Hoại Tịnh.
6- Quán xét Tứ Chánh Cần.
7- Quán xét Thất Giác Chi.
8- Quán xét Tứ Thánh Định.
9- Quán xét Tứ Như Ý Túc.
10- Quán xét
Tam Minh.
Nhờ tư duy
quán xét
nhân quả chúng
ta mới thấu rõ nhân quả thảo mộc; mới thấu rõ đường đi
nhân quả của
con người; mới thấu
rõ thân vô thường,
khổ, không, vô
ngã; mới thấu rõ thân ngũ uẩn; mới thấu rõ ngũ triền
cái; mới
thấu rõ thập thất
kiết sử; mới thấu rõ Tứ vô lượng tâm v.v..
Nhờ có thấu
rõ nên không có ác pháp nào tác động vào
thân tâm chúng
ta được, vì thế
mà lậu hoặc không còn, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản an lạc và vô sự. Một sự
giải thoát ngay liền.
SÁT SANH
MÀ KHÔNG CÓ TỘI
Câu hỏi của
Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Giết những con vật phá hại, hoặc kẻ
ác... (chuột bọ sâu kiến...)
HT dạy là không tội? Con đặt nghi vấn.
1- Nếu
nặng, do lợi
ích cho riêng mình
(lòng ích kỷ,
đố kị..).
2- Nếu
nhẹ, bản thân
mình làm nhưng mang lại lợi ích cho nhiều người. Thêm
vào đó mình chưa ly dục ly ác pháp. Một
nhân quả rất công lý và công bằng, thì
tránh sao khỏi không bị chi phối?
Khởi niệm giết
là chịu nhân một hành động rồi. Nhân quả vậy mà.
Đáp: Trong Giới luật của Phật có hai nghĩa:
1- Là đức hạnh
2- Là pháp luật nghiêm cấm.
Đứng trên giới luật của Phật mà nói thì giới luật là pháp luật nhân quả. Pháp luật nhân quả luôn luôn áp dụng cho muôn loài vạn vật trên hành tinh này rất bình đẳng không có một pháp luật nào bình đẳng hơn được.
Khi nói đến nhân quả là phải nói đến môi trường sống, hễ nói môi trường sống thì phải nói đến một đạo luật công bằng và công lý.
Chuột, bọ, sâu, rầy, kiến... là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, trong đó có con người, chúng cũng có một sự sống như bao nhiêu sự sống khác, chúng cũng biết đau khổ, biết sợ chết...
Vì thế, vô cớ mà chúng ta xâm phạm đến đời sống của chúng và còn tìm chúng giết hại thì dù là một con kiến, con trùng, con dế v.v.. vẫn bị kết tội nặng cũng như giết một mạng người, đó là pháp luật nhân quả định tội, có định tội như vậy mới là một đạo luật công bằng, ngược lại chúng xâm chiếm vào đời sống của chúng ta, phá hại mùa màng do công lao
của chúng ta làm ra bằng mồ hôi nước mắt, vì thế chúng ta có quyền bảo vệ sự sống của chúng ta bằng cách phải diệt trừ kẻ ác để tự vệ không những riêng cho chúng ta mà còn bao nhiêu loài vật khác nữa, luật nhân quả phải công bằng trên vấn đề này. Vì loài sâu bọ chuột đang phá hoại mùa màng và đang giết người và giết các loài vật khác, chúng ta và các loài vật khác sẽ bị chết đói.
Đứng trên công lý những loài sâu bọ, côn trùng, chuột v.v.. có tội trộm cướp và cố sát loài người và loài vật khác, tội ấy là tội tử hình, như vậy chúng ta giết các loài sâu bọ chuột để tự vệ bảo toàn sự sống của mình và các loài vật khác thì bất cứ một pháp luật nào chúng ta cũng đều là người vô tội.
Ví dụ: Một nước đang bị ngoại xâm, toàn dân nước ấy đứng lên chống ngoại xâm giết giặc tức là giết người mà không có tội, còn kẻ cướp nước kia mới là kẻ có tội. Tại sao vậy?
Vì môi trường sống chung thì phải được bảo vệ để cho mọi loài động vật trên hành tinh này được sống bình đẳng và an ổn. Vì thế, phải diệt trừ những loài vật phá hoại môi trường sống. Luật nhân quả sẽ công bằng trị tội nếu ai phá hoại môi trường sống sẽ tự chuốc hậu quả.
Loài côn trùng, sâu, bọ, chuột v.v.. cũng vậy. Do chúng tạo nhân chẳng lành thì chúng phải trả quả là chúng ta diệt chúng, đó là luật nhân quả rất công minh.
Đối với kẻ có tội trộm cướp giết hại sự sống của loài người thì pháp luật thế gian cũng đều kết án tử hình huống là luật nhân quả, do đó ta giết côn trùng phá hại mùa màng của ta là không có tội.
NGÃ VÀ VÔ NGÃ
Câu hỏi của Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Câu tác ý: (‚Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành‛). Con hỏi: Đã phá bản ngã thì là gì có tôi và của tôi. Vậy thay bằng chữ thân đi kinh hành có khác nhau không?
Đáp: Dù có thay danh từ nào thì nghĩa của nó cũng chỉ là “tôi”. Người ta đã chịu ảnh hưởng của Thiền Tông và kinh sách phát triển quá sâu cho là con người tu theo đạo Phật thì phải không có ngã, không có cái ta, không có
cái của ta thì người ấy mới giải thoát, cho nên thường tránh những danh từ xưng hô cái tôi, cái ta mà xưng hô là trò, là con v.v.. là có ý dẹp ngã, đó là một việc làm sai. Theo đạo Phật sự cung kính trước mặt cũng như sau lưng thì đó là đạo đức chân thật lợi ích cho mình cho người, còn trước mặt xưng hô là trò, là con mà sau lưng thì khác thì cái đó là giả dối chứ không phải diệt ngã xả tâm.
Chúng tôi hiểu theo đức Phật dạy: “Vô thường, khổ, vô ngã”õ, đây là tam pháp ấn để xác định một sự thật về thế giới hiện tượng này, do chúng ta không hiểu ý này nên lo đập phá cái ngã của mình. Bởi vì người ta thường lầm chấp cho thế giới này là thường hằng, không khổ, là hạnh phúc, vì sự lầm chấp dính mắc này nên đức Phật dạy cho chúng ta hiểu để không dính mắc, chứ đức Phật không bảo chúng ta tu hành để trở thành cây đá (vô ngã, không ta, không cái của ta).
Đức Phật dạy: “diệt ngã” là xả lòng ham muốn của mình, chứ không phải diệt cái ngã, xả lòng ham muốn của mình là diệt đế, diệt đế là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật, chứ không phải diệt ngã như người ta hiểu.
Vô thường, khổ thì ai cũng rõ, nhưng vô ngã thì người hiểu như thế này, kẻ hiểu như thế kia. Có người lại hiểu rằng: Vô ngã là Niết bàn, hiểu như vậy có nghĩa là trong Niết bàn không có ngã. Vậy không có ngã thì ai là người biết Niết bàn? Không người biết Niết bàn sao đức Phật lại biết mà dạy cho chúng ta Diệt đế. Trong Diệt đế theo chúng tôi hiểu thì phải có ngã, vì Diệt đế là mục đích giải thoát của con người cho nên nó là một chân lý của loài người không ai chối cãi được. Một sự giải thoát chân thật không ai phủ nhận được vì nó có người biết Niết bàn, có người biết tự Niết bàn trong tâm của mình thì không thể nào là vô ngã được.
Đức Phật dạy: “Pháp không có thời gian đến để mà thấy”. Vậy khi tu theo đạo Phật chúng ta thấy sự giải thoát rõ ràng, vậy không thể nào vô ngã được.
Ngăn ác diệt ác sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, vậy cái gì ngăn và diệt ác pháp, cái gì sanh thiện tăng trưởng thiện?
Thưa quý vị! Cái gì không giải thoát, cái gì giải thoát? Ác pháp là không giải thoát, thiện pháp là giải thoát. Như vậy người tu có
cần gì diệt ngã, cái ngã chỉ cần biết sống trong thiện pháp là Niết bàn rồi.
Đạo Phật ra đời vốn vì con người khổ chứ không phải vì cái ngã của con người. Đạo Phật biết lấy cái ngã ác của con người tu sửa trở lại để trở thành cái ngã thiện, nhờ thế con người sống toàn thiện, đó là Niết bàn, chứ không phải vô ngã là Niết bàn như kinh sách phát triển dạy.
Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã lầm, nên đã ca ngợi những người vô niệm, vô trụ, vô chứng là tối thượng, vô niệm, vô trụ, vô chứng là vô ngã mà vô ngã là gốc cây cục đá rồi. Nếu còn có cái biết thì không thể nào gọi là vô ngã được.
Con người tu để vô ngã thì không bao giờ tu vô ngã được, cũng như con người bảo rằng không tài sản thì không thể nào có người không tài sản được.
Vì thế, hữu ngã thiện pháp mới thật sự là vô ngã. Có của cải tài sản mà không dính mắc của cải tài sản mới thật sự là không tài sản, nhờ đó mà tâm được an vui, hạnh phúc. Cho nên, hữu ngã thiện mới không làm khổ mình, khổ người, gọi là giải thoát. Tu hành theo đạo Phật để hiểu biết rõ thiện và ác, lúc nào cũng
ngăn và diệt ác pháp thì mục đích của Phật giáo nơi đó là đã chứng đạo.
LỤC ĐỘ BA LA MẬT
Câu hỏi của Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Trong pháp hành, nếu ngồi kiết già thẳng lưng thời gian
30’, có thực hiện được sáu ba la mật không?
(giới, định, tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, bố thí).
Nếu đi kinh hành nhiều, vô tình dày đạp lên những con vật nhỏ xíu, có phạm vào giới sát không? (nó nhiều lắm rất khó tránh).
Đáp: Ngồi kiết già lưng thẳng giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì đó là tu sáu ba la mật rồi, bởi vì sáu ba la mật kể ra cho nhiều, nghe cho vui chứ chính bản chất của nó là không (người cho mà không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận thì đó mới là bố thí Ba La Mật). Những điều này là những điều hý luận, toàn là thứ bánh vẽ.
Cho nên, từ xưa đến giờ không có ai tu sáu độ ba la mật được cả, chỉ lừa đảo người mà
thôi.
Đi kinh hành sợ dẫm đạp lên chúng sanh, chính sự sợ dẫm đạp lên chúng sanh mới là đi kinh hành, còn không sợ dẫm đạp lên chúng sanh mà đi kinh hành thì không có nghĩa là đi kinh hành nữa.
Vô tình sát hại chúng sanh vẫn có tội, do có tội nên đi kinh hành rất cẩn thận, như vậy mới thật sự kinh hànhø tỉnh thức, mới có nghĩa là tu tập kinh hành.
Nhờ sợ dẫm đạp lên chúng sanh mà đi kinh hành đúng đắn, đi kinh hành đúng đắn là tỉnh thức.
TỨ THIỀN CÓGIỐNG VÔ TÂM KHÔNG?
Câu hỏi của Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Tu đến Tứ Thiền: xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Có giống vô tâm không?
Đáp: Không, trong trạng thái Tứ Thiền chúng ta có một tâm lực siêu việt dùng để thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh, không phải vô tâm như Thiền Đông Độ.
Tứ Thiền là một loại định của thân, vì thế khi nhập Tứ Thiền thì thân bất động, hơi thở tịnh chỉ, hơi thở tịnh chỉ thì các hành trong thân đều ngưng nghỉ.
Vô tâm là một loài thiền định của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, vì thế thân nó không định tức là thân còn hoạt động (còn thở ra, vô), Thân không định thì không thể nào thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh được. Nếu không thực hiện được Tứ Như Ý Túc và Tam Minh thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
ĐỨC PHÊT ĐÃ THÀNH PHÊT TỪ VƠ LƯỢNG KIẾP CỊ ĐÚNG KHƠNG?
Câu hỏi của Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Trong nhiều kinh nói: Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp,
vì thương chúng sanh thị hiện vào làm con vua
Tịnh Phạn ở cõi Sa Bà để hóa độ chúng sanh.
Theo như HT giảng trong ĐVXP, chính niệm tỉnh giác ở giai đoạn bốn ‚khi bỏ thân này (chết) đi đầu thai vào trong thai mẹ, ở trong thai mẹ, ra khỏi thai mẹ và lớn lên đều
biết‛
Đã như thế thì có nhớ biết được tiền kiếp không? Như vậy sao lúc đầu Phật còn tu sai?
Hay do Phật phương tiện để hóa độ chúng sanh cho nên lúc quyền lúc thật là như thế?
Đáp: Nhiều kinh nói về đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật từ vô lượng kiếp, nhưng đó là những kinh sách phát triển, do tưởng của người sau bịa đặt ra. Sự thật luôn có sức mạnh của nó, và lịch sử đã chứng minh điều này. Đức Phật sanh ra cũng có cha mẹ lớn lên có vợ con cũng giống như bao nhiêu người khác trên hành tinh này. Vì ngao ngán đời người sanh ra để thọ khổ, nên Ngài từ giã cung vàng điện ngọc, cha già, vợ trẻ, con thơ để đi tìm đường thoát khổ. Sau bao năm tu hành không đúng chánh pháp, tưởng chừng như Ngài sắp chết, bỏ xác giữa rừng già. Phước của chúng sanh trên hành tinh này còn nên cuối cùng Ngài đã tìm ra một lối đi giải thoát, mà thời ấy
không có tôn giáo nào có được giáo pháp chân lý ấy.
Sau 49 ngày dưới cội cây Bồ Đề, Ngài chứng quả giải thoát, từ đó mới bắt đầu có đạo Phật. Đạo Phật một nền đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người, mà con người đã có sẵn nhưng có mấy ai biết đến. Bài pháp đầu tiên TỨ DIỆU ĐẾ đã làm sáng tỏ những gì con đã từng có mà không biết, nhưng sau này kinh sách phát triển bịa đặt ra và bóp méo làm sai lệch lịch sử của một con người toàn thiện như Ngài, một ân nhân của loài người.
Sau khi chứng quả chánh giác Ngài đã thấu suốt đường đi, nên trong kinh Ngài dạy:
‚có bốn giai đoạn tỉnh thức‛:
1- Tỉnh thức khi chết vào thai mẹ.
2- Tỉnh thức khi ở trong bụng mẹ.
3- Tỉnh thức khi xuất thai.
4- Tỉnh thức trong khi còn bé.
Bốn sự tỉnh thức này là những pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.
Kinh sách viết sai sự thật là những kinh sách không đáng tin cậy, vì thế, đức Phật
Thích Ca Mâu Ni dạy: “Có 10 điều chớ có
tin...”.
Đức Phật đã nhắc chúng ta như vậy, thế mà những kinh sách nói không đúng sự thật thì chúng ta lại tin được sao?
Chúng tôi nghĩ đức Phật thường dạy thẳng thực hành vào pháp môn của Ngài hơn là dùng phương tiện, vì dùng phương tiện người tu hành dễ bị lệch lạc vào ngoại đạo. Đức Phật là người thẳng thắn, không giả dối, nên không dụng quyền, người sau không hiểu nên đã dùng nhiều phương tiện, vì thế, khiến cho đạo Phật ngày nay mới ra nông nỗi này, mới trở thành một tôn giáo thần quyền.
BẤT ƯNG TRỤ SẮC SANH TÂM CÓ GIỐNG BẤT ĐỘNG TÅM ĐỊNH KHÔNG?
Câu hỏi của Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Kinh Kim Cương dạy: ‚Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm. Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm‛. Vậy có giống Định Bất Động Tâm hay Định Vô Tướng hay phòng hộ: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho dính mắc sáu trần không?
Vậy thì vô tâm, nhưng liễu liễu thường tri (rõ ràng thường biết) có giống tác ý câu: ‚tâm như cục đất không‛?
Tâm như đất, có sợ rơi vào vô ký không?
Đáp: Kinh Kim Cang thuộc về hệ thống Bát Nhã, Bát Nhã là không. Câu kinh trên đây diễn tả vị trí chân không diệu hữu của triết học tánh không, thì không thể nào là bất động tâm định, bất động tâm định do ly dục ly ác pháp hay nói một cách khác hơn bất động tâm định là tâm không phóng đật, nên Đức Phật dạy: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Bất động tâm định là một quá trình tu tập bằng một cuộc sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả trong khi giữ gìn giới luật, màø còn tu tập các pháp hành như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ... để làm cho thanh tịnh giới luật, nhờ giới luật thanh tịnh tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Các nhà kinh sách phát triển chỉ biết lý luận bằng ngôn ngữ hay tuyệt nhưng cuộc sống của các Ngài rất phàm phu (sống phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới), nhưng lại khéo dùng những danh từ để che mắt tín đồ: ‚Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm‛. Đây là những danh từ suông chứ sự sống của con người không thể thực hiện được như vậy, cho nên kinh sách thuộc hệ thống Bát Nhã này từ xưa cho đến nay đã lưu hành hơn hai nghìn năm mà có mấy ai đã tu tập đạt được.
Vô tâm nhưng liễu liễu thường tri nghĩa của nó cũng giống như chân không diệu hữu, chỉ nói được chứ không sống với cái đó được là tại vì nó là cái bánh vẽ, còn câu tác ý tâm như cục đất là câu pháp huấn luyện tâm để tâm huân thành thói quen như đất chứ không phải tâm là cục đất thật. Vì thế, tâm làm sao rơi vào vô ký được.
Nghe hướng tâm như đất là người ta sợ tâm thành đất thật sự, đất là đất tâm là tâm có nghĩa là tâm không làm khổ mình, khổ người nữa tức là tâm không còn mang bản chất hoang dã của loài cầm thú nữa, chứ không phải
tâm như cục đất vô tri vô giác (vô ký) như con
hiểu.
Tâm như cục đất, có nghĩa là tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Tâm như mọi người đang sống nhưng không có tham, sân, si, mạn, nghi.
PHÁP THÂN
Câu hỏi của Diệu Minh
Hỏi: Kính bạch Thầy! Ở CNTP HT giảng về hành Thập Thiện:
- Thân hữu sắc (thân do duyên hợp giả
có).
- Tâm là vô sắc (không có hình). Vậy gọi
là pháp thân có được không?
Có giống như trong nước biển có muối, không một mà cũng chẳng phải hai hay trong nước có bọt nước. Vậy câu: ‚Sắc tức là không, không tức là sắc‛. Câu này có hợp không?
Đáp: Không, pháp thân là một trạng thái vô dục của tâm chứ không phải tâm, vì tâm là một uẩn trong ngũ uẩn, khi sắc uẩn hoại diệt thì toàn cả ngũ uẩn đều hoại diệt, ngũ uẩn hoại diệt thì tâm đâu còn.
Trong năm uẩn chỉ có sắc uẩn là hữu sắc còn bốn uẩn kia là vô sắc, cho nên không thể lấy một uẩn vô sắc mà gọi là pháp thân được. Vì lấy tâm uẩn cho là pháp thân thì thọ uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn cũng cho là pháp thân được sao?
Trong thân nhân quả (thân ngũ uẩn) của chúng ta chỉ thuần có một vị khổ không có vị giải thoát, nếu chúng ta không tu tập đúng chánh pháp thì không bao giờ có vị giải thoát.
Trong luật nhân quả có vị giải thoát và không giải thoát, thiện và ác, thiện là giải thoát, ác là khổ đau. Cho nên, đem thân ngũ uẩn ví như nước biển, cũng như nước và bọt nước thì e rằng không đúng vì thân ngũ uẩn là một hợp chất của các duyên chứ không thật có thì làm sao nước và bọt nước được.
Vì thế câu kinh: “sắc tức là không, không tức là sắc” thì không đúng ý nghĩa của Phật giáo, cho nên đức Phật dạy: “Nếu còn có một
chút xíu gì trong thân ngũ uẩn này thường hằng thì đạo Phật không ra đời”. Tại sao
vậy?
Tại vì không giải thoát khổ cho loài người. Vài lời thăm và chúc con thân tâm an lạc,
kiên cố tu hành đến ngày viên mãn.
LÀM CHỦ CÁI Ý
Câu hỏi của Minh Pháp
Hỏi: Kính thưa cô Diệu Quang! Chúng con có những thắc mắc các vấn đề sau, xin cô mở lòng từ mẫn mà chỉ dạy:
1- Khi chưa tỏ ngộ chánh pháp, quá trình tu tập làm chủ cái ý như thế nào khi gặp nghịch cảnh đến?
2- Mỗi ngày Cô làm gì trong suốt 24 tiếng?
Đáp9: Khi chưa tỏ ngộ chánh pháp, câu này có hai nghĩa:
9 Chơn Như ngày 20 tháng 1 năm 2001
1- Khi mình chưa hiểu biết pháp tu của
Phật (Nguyên Thủy).
2- Khi mình chưa ngộ được Phật tánh
(thấy Tánh của Thiền Tông).
Ở đây Út sẽ trả lời nghĩa thứ nhất theo Phật giáo Nguyên Thủy, còn theo thiền Tông vì Út không biết.
Khi chưa tỏ ngộ chánh pháp, thì không thể gọi là quá trình tu tập được gì, có biết cái gì đâu mà tu tập, cho nên, lúc bấây giờ gặp ác pháp đến thì mình chỉ biết tức tối, buồn, giận, khóc, la v.v.. rồi tự mình hát lên những bài hát nho nhỏ, sau đó lần lần tâm hồn mình thấy an vui trở lại. Thời gian đó có thể suốt trong 24 tiếng Út đều tự hát lên nho nhỏ để tự giải khuây lòng mình khi gặp nghịch cảnh. Khi nào tâm an vui trở lại là Út hết hát.
KHI TỎ NGỘ CHÁNH PHÁP CÓ LÀM GÌ TRONG 24 H
Câu hỏi của Minh Pháp
Hỏi: Khi tỏ ngộ chánh pháp, năng khiếu trỗi dậy, lúc nghịch cảnh đến Cô làm chủ cái ý có khác lúc chưa tỏ ngộ như thế nào? Mỗi ngày Cô làm gì trong suốt 24 tiếng?
Đáp: Khi đã hiểu được Phật pháp, lúc gặp nghịch cảnh thì có khác hơn nhiều:
1- Tỉnh thức ngay đối tượng (mới đầu còn chậm lắm), nhưng sau khi có được tỉnh thức thì lại nhanh hơn.
2- Khi có sự tỉnh thức muốn làm chủ được ý thì phải chủ động điều khiển tâm, là phải ý thức xem cái ý của mình nó khởi lên ham muốn cái gì ác hay là thiện, vui hay là buồn, khi nhận định xong thì dùng câu như lý tác ý để đánh bạt nó xuống. Ví dụ: ý nôn nóng muốn khởi đi tu để không mất thời gian, vì sự vô thường không chờ đợi ai:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi han”
Lúc bấy giờ các Chú phải thấy được bổn phận và trách nhiệm đạo đức làm người của mình thì các chú phải khởi niệm: ‚Bổn phận đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người. Trong lúc con mình còn nhỏ, vợ thì yếu đuối biết có đủ sức nuôi con dạy con cho đến lớn khôn nên người hữu dụng cho xã hội không? Nếu Ta bỏ đi tu như vậy, ta là người thiếu đạo đức không làm tròn bổn phận làm người, phỏng chừng ta vào chùa có ngồi được yên tu tập được không? Hay duyên nhân quả này phá hạnh độc cư. Hiện giờ đạo đức nhân quả chưa cho phép ta xuất gia thì ta hãy tu tại gia đình, lo xả tâm dục và ác pháp còn chưa xong huống hồ vô chùa làm gì cho khổ vợ con, chừng nào con cái lớn khôn ta hãy vào chùa tu hành Tứ Thánh Định, không muộn màng gì?‛. Đó là khởi niệm quán xét cân nhắc để dừng lại sự nông nổi và tất cả những nghịch cảnh xảy ra đều phải khởi niệm quán xét thì mới làm chủ được cái ý.
Khi các chú gặp nghịch cảnh thì các chú phải xem lại lỗi tại ai, nếu biết mình lỗi thì tâm sẽ xả ngay liền, còn người khác lỗi thì mình phải mở lòng tha thứ, còn nếu mình
không tha thứ được thì phải quán nhân quả:
‚Ai gieo nhân ác thì phải gặt lấy quả khổ, ai gieo nhân thiện thì phải hưởng phước báo, ta dại gì mà gieo nhân ác để phải thọ quả khổ, họ chửi mạ nhục ta là họ gieo nhân ác họ làm sao tránh khỏi quả người khác sẽ chửi và mạ nhục họ lại, ta là người đang trả quả của tiền kiếp, vậy ta không nên buồn mà hãy vui để trả quả cho xong, nếu ta buồn giận là ta trả không hết nghiệp mà ta còn nuôi dưỡng ác pháp trong ta, như vậy ta là người ngu si, ôm khổ vào lòng mà không biết‛.
Họ chửi và mạ nhục ta là họ nhắc nhở ta chỉ có một phần nhỏ còn ta làm nhiều điều khác ác độc hơn nhiều.
Nếu ta dùng trí quán xét nhân quả không đẩy lui được chướng ngại pháp trong tâm ta thì ta nên khởi ý làm việc không để cho ý rảnh rang, nhờ thế ý tránh được sự đau khổ, phiền
não.
Khi hiểu được Phật pháp suốt trong 24 tiếng, lúc nào cũng tỉnh thức, nên khi tâm khởi lên niệm thiện vui thì Út biết rõ và liền tác ý:
‚Tâm không được vui lắm phải thanh thản, bình thường‛, còn có những niệm xấu ác khiến tâm buồn phiền khổ đau thì Út hát lên những
câu hát để đẩy lui hay nói cách khác là quên đi sự ưu phiền đó, còn đẩy lui không được thì Út dùng câu trấn tĩnh để an thân phận mình:
‚Thân phận mình là người giúp cho Thầy ai khen chê nói xấu gì mặc, mình là người phụ giúp thì phải lo hết bổn phận thôi chớ có buồn phiền, khổ tâm làm gì cho mệt‛.
Luôn luôn lúc nào Út cũng sẵn sàng tác ý tất cả việc gì xảy đến thì phải đánh bạt, đẩy lui nó ra liền để tạo cho mình một cảnh sống an vui thật thụ.
CÓ CHUYỂN BIẾN GÌ KHI TỎ NGỘ
Câu hỏi của Minh Pháp
Hỏi: Khi tỏ ngộ Chánh pháp, Cô có chuyển biến gì trong tâm hồn mình?
Đáp: Út tu theo pháp xả tâm của đức Phật “ngăn ác diệt ác pháp” chứ không có tu theo thiền Đông Độ, nên không có sự chuyển biến gì trong tâm, khi xả tâm được tức đẩy lui các chướng ngại pháp là có sự an vui, thanh thản và vô sự trong tâm của mình mà thôi.
Do nhận ra được trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự giải thoát của tâm mình, nên Út nói: ‚Ai có duyên đi trước thì mình cũng từ từ theo sau, miễn là đi đúng con đường‛.
CÁCH THỨC XÂ TÂM
Câu hỏi của Minh Pháp
Hỏi: Cô dạy học trò cách thức xả tâm bằng cách nào?
Đáp: Khi thì la hét tạo ra chướng ngại pháp để cho các em và các cô lấy đó làm đối tượng xả tâm; khi thì nhỏ nhẹ khuyên bảo chỉ vạch từng lỗi nhỏ nhặt để các cô và các em biết lỗi mà xả tâm; khi thì làm thinh không nói ai hết nhưng đều để mắt xem xét mọi hành vi cử động của các cô và các em để kịp thời ngăn chặn những điều sai trái không đúng pháp tu hành.
Ví dụ 1: Đang nấu cơm mà để cơm khét thì đó là thiếu ý tứ, cẩn thận, tức là thiếu tỉnh giác thì Út dạy phải tu tập tỉnh thức ngay
trong hành động đang làm không có nghĩa chỉ biết đang làm mà còn có nghĩa là phải chú ý cẩn thận sự việc đang làm không cho hư hại thất bại.
Ví dụ 2: Khi bắt gặp quý cô và các em nói chuyện thì Út dạy: Người tu mà nói chuyện là tâm mình không được yên lành vì nói chuyện là tâm duyên theo ngoại cảnh (phóng dật), khi nói chuyện thì làm sao biết được tâm nghĩ gì để quán xét, nhờ có quán xét mới xả được tâm.
Sống độc cư yên lặng một mình thì mới thấy được tâm mình nói gì, muốn gì, nhờ thế các cô và các em mới có đối tượng để quán xét xả tâm.
Ví dụ 3: Khi các cô và các em bị la rầy thì tâm họ sân lên hoặc mặt họ dàu dàu buồn bã thì Út khuyên nên nhẫn nhục, nhẫn nhục tức là ngăn ác pháp trong tâm mình, nhưng ngăn chặn ác pháp mà không xả là bị ức chế tâm vì thế ta nên quán xét sự việc bị la rầy là do mình có lỗi hay người khác có lỗi, nếu biết mình có lỗi là mình đã xả tâm ngay liền, còn nếu lỗi của người khác đó là nhân quả đời trước hoặc cô Út thử thách mình giúp mình tu tập xả tâm. Khi tư duy như vậy thì tâm liền xả ngay không còn giận hờn phiền não nữa.
CÁC ĐỐI TƯỢNG
Câu hỏi của Minh Pháp
Hỏi: Hằng ngày đối tượng thường xảy đến với chúng con:
Vu oan, nói xấu chê mình.
1. Phải xả tâm gì?
2. Tác ý thế nào để xả không còn trong
tâm.
Đáp: Phải xả tâm sân.
Muốn xả tâm sân bình thường hằng ngày
phải dùng câu tác ý: ‚Tham, sân, si là ác pháp, làm cho ta khổ đau, tâm phải xa lìa, phải từ bỏ, phải đoạn trừ‛.
Khi đang sân hận thì ta nên uống một ly nước, ngồi trên ghế trong tư thế nào cũng được và cố gắng phòng hộ mắt, tai bằng cách tập trung tâm vào hơi thở và hướng tâm; ‚tai phải nghe hơi thở ra, vô cho rõ ràng, không được nghe bên ngoài‛, khi hướng tâm xong thì đếm hơi thở 1, 2, 3, 4, 5 rồi nhắc lại câu pháp hướng, cứ tập tu như vậy khi nào tâm tập trung vào được hơi thở thì mới thôi hướng vì lúc bấy giờ tâm đã nhẫn được rồi.
Sau khi nhẫn được, mọi sự đều được trở lại bình thường thì lúc bấy giờ ta quán xét để sự việc vừa xảy ra thấu suốt, đó là ta đã quét sạch sự sân hận trong ta.
XÂ TÂM TRẠO HỐI
Câu hỏi của Minh Pháp
Hỏi: Mình phạm lỗi bị người chỉ trích, mắng chửi không tiếc lời, có người góp ý nhẹ nhàng để sửa đổi.
1- Xả tâm gì?
2- Tác ý thế nào để xả?
Đáp: Mình làm lỗi bị người khác mắng chửi mạ nhục thì nên xả tâm trạo hối. Muốn xả tâm trạo hối thì phải quán xét tư duy sự lỗi lầm của mình.
1- Khi quán xét sự lỗi lầm đó ta rút ra những kinh nghiệm không để sau này còn phạm lỗi nữa.
2- Ta tư duy sự lỗi lầm này đáng để cho người khác chỉ trích mắng chửi thậm tệ, để lấy
đó răn nhắc mình, người chỉ trích mắng chửi ta là người ơn giúp ta nhớ mãi không quên để sửa lại những lỗi lầm của mình.
3- Hằng ngày hướng tâm: ‚Ta phải sống, sống đúng đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người‛.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!