û õ Â Ï
NGƯỜI HƯC
NHIỀU KHƠNG BẰNG NGƯỜI TU TẬP
LỜ I PHẬT DẠY
- 19 -
“Dầu tụng
nhiều kinh điển Không hành trì, phóng dật Chẳng khác đếm bò người Không hưởng
Sa Môn hạnh”.
- 20 -
“Dầu tụng ít
kinh điển Nhưng y giáo phụng hành Từ bỏ tham,
sân, si
Giác tĩnh
tâm giải thoát Không chấp trước, hai đời Tất hưởng Sa Môn hạnh”.
(Kinh Pháp
Cú: I.Yamakavagga.
Phẩm Song Yếu)
CHÚ GIẢ I:
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
Hai bài kệ
thứ 19 và thứ 20 này: Nếu dù
người nào
có tụng nhiều
kinh điển cũng chẳng có lợi ích gì, chỉ có tu hành từ bỏ
tham, sân, si thì mới có lợi ích, mới có sự giải thoát.
Theo con đường
tu tập của Phật giáo thì không có tụng
kinh ê a như các vị giáo
sĩ Bà La Môn gọi là
“tán tụng”. Chữ tụng ở
đây có nghĩa là học kinh
điển. Học nhiều
kinh điển mà không tu tập ngăn
ác diệt ác
pháp, không ly dục ly ác pháp như
trong bài kệ này nói: “không hành trì” thì chẳng có gì lợi ích.
Trong kinh Sonadanda Đức Phật đã
bài bác tụng niệm một cách
ráo riết. Trong
giới luật đức Phật cấm ca hát.
Tụng niệm là một
hình thức ca hát.
Không ly dục
ly ác pháp thì tâm sẽ phóng dật. Tâm phóng dật thì dù có hiểu rộng biết nhiều
kinh điển của Phật cũng chẳng có lợi ích gì, chẳng thấy được sự giải thoát nào.
Chẳng nếm được mùi vị giải thoát của Đạo.
Cho nên,
người học nhiều
kinh sách, có cấp bằng
này, có cấp bằng kia mà
không chịu hành trì ngăn ác diệt
ác pháp, thì người ấy chỉ là người nói láo có sách vở.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Vì thế,
bài kệ ví
như người chăn
bò chỉ biết đếm bò cho chủ.
“Chẳng khác
đếm bò người
Không hưởng
Sa Môn hạnh”
Đúng vậy, lời
dạy này rất đúng, chúng tôi đã từng gặp các quý Thầy, từng học trong các Phật học
cao đẳng, từng học các trường đại học Phật
giáo, đậu bằng
tiến sĩ Phật học, nhưng tâm quý Thầy từng phóng dật, vì thế cuộc
đời của quý Thầy chẳng biết được mùi vị giải thoát như thế
nào. Mà chỉ
loanh quanh trên
chữ nghĩa kinh sách và đến khi chết
trong bệnh tật, đau khổ một
cách rất oan uổng một đời tu
học Phật pháp.
Họ viết
sách giảng kinh chỉ
là kiến giải học giả. Người trước nói sao thì người
sau kế thừa nói vậy,
chứ chẳng dám sửa sai
dù một chữ, một lời hay một ý, họ
chỉ biết một chữ, “vâng vâng, dạ dạ” làm
theo cách “cha truyền con nối” hay “Tổ Tổ truyền
nhau”, chứ có tu hành đâu mà dám sửa sai ai.
Học để hiểu biết
nghĩa lý thâm
sâu của kinh sách cũng như học
để hiểu biết
pháp nào của Phật dạy, pháp
nào của Tổ dạy, để
tránh xa những pháp tà ngoại ấy, là sự học kinh sách
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
như vậy mới
có lợi ích. Còn
học kinh sách chỉ hiểu chung chung cái nào cũng cho là của
Phật dạy thì người học kinh
sách như vậy
là người vô minh,
không biết sai
đúng, giống như
con chim học nói, chứ chẳng hiểu nghĩa; giống như con thú chỉ biết ăn mà không
biết mùi vị.
Còn kinh
sách đúng của Phật dạy, chỉ học hiểu cho
nhiều mà
không thực hành thì có
ích lợi gì cho sự học đó đâu.
Học kinh sách
để đi nói
láo thì học kinh sách
mất công sức
mà còn thêm tội lỗi (tội
vọng ngữ).
Mục đích
kinh sách dạy cho đời
là để tu tập, là để sống cho đúng đạo đức làm người,
không làm khổ
mình, khổ người,
chứ không phải kinh sách Phật để
chúng ta học hành thi lấy cấp bằng
cao đẳng, đại học v.v..
Người ta
xem kinh sách
Phật như một môn học về Phật giáo, giống như các môn học
khác ngoài đời. Theo thiển nghĩ của chúng tôi hiểu: Lời Phật dạy không phải là
một môn triết lý học suông, mà là một đạo đức nhân bản sống động đem lại sự an
vui, hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, học để sống đạo đức, chứ không phải học để hiểu
biết suông; để
đi tranh luận hơn thiệt với mọi
người.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Chúng ta học
ít nhưng học tới đâu áp dụng thực hành tới đó và sống cho đúng đạo đức làm người
không làm khổ mình, khổ người, thì mới
thấy được sự lợi ích của lời dạy này:
“Dù tụng ít
kinh điển Nhưng y giáo phụng hành Từ bỏ tham,
sân, si
Giác tĩnh
tâm giải thoát Không chấp trước, hai đời Tất hưởng Sa Môn hạnh”.
Bài kệ
tuy đơn giản nhưng
chúng ta càng
đọc càng thấm
thía cho cuộc đời tu hành. Nếu chúng ta không chịu đọc kỹ lại những lời dạy
này, thì dù có
tu cũng sẽ
tu sai pháp,
tu sai pháp là tại chúng ta không
chịu hiểu kỹ, chứ không phải tại đức Phật dạy sai.
Bài kệ này, đức
Phật đã cảnh
giác chúng ta trong
hiện tại và những người về đời
sau nữa, để tránh đi những loại kinh
kiến giải, tưởng
giải của các nhà học giả biên soạn viết xưa nay như:
kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Những bài
kinh Pháp Cú này đã xác định cho
chúng ta
biết sự học
và sự tu
khác nhau chứ không
giống nhau. Sự học chỉ
giúp cho
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
chúng ta hiểu
biết để tu tập, chứ không phải sự học
là chính, sự học chỉ
là vấn đề phụ, sự tu
mới là vấn đề chính.
Sa Môn hạnh,
tức là Sa Môn quả. Sa Môn quả là kết quả của sự tu tập. Nó để dành riêng cho những
người tu tập, chứ không dành cho người học nhiều, hiểu rộng. Người tu tập sẽ có
kết quả thanh thản, an lạc và vô sự. Kết quả đó sẽ hiện
thực rõ ràng
qua hành động
thân, miệng, ý tức
là oai nghi tế hạnh
trong cuộc sống hằng
ngày của một vị tu
sĩ, mà người
ta gọi là Thánh hạnh.
KHÔNG PHÓNG
DẬT
LỜ I PHẬT DẠY
- 21 -
“Không phóng
dật, bất tử Phóng dật, phải tử sinh Không phóng dật, không chết Phóng dật,
như chết rồi”.
- 22 -
“Biết rõ sự
thật ấy Người trí không phóng dật Hoan hỷ không phóng dật An vui trong cõi
Thánh”.
(Kinh Pháp
Cú: II. Appamàdavagga.
Phẩm Không
Phóng Dật)
CHÚ GIẢ I:
Muốn tâm
không phóng dật,
chỉ có pháp độc cư
là đệ
nhất. Nếu ai giữ gìn được
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
pháp độc cư
thì sớm muộn gì người ấy tâm cũng sẽ không phóng dật.
Bài kệ
thứ 21, đức
Phật đã xác
định: Người không phóng
dật là người
bất tử, là người
sống mãi muôn đời. Đức Phật cũng
nói: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Cho nên, người
thích hội họp, thích nói chuyện, thích tranh luận là người phóng dật; người hay
làm thơ văn, viết thư thăm viếng gia đình, bạn
bè…; người đọc kinh sách, nghe băng là người
phóng dật. Người
phóng dật là người
tu tập không bao giờ
có kết quả tốt,
chỉ tu
tập lấy có hình thức thường dậm
chân tại chỗ.
Phóng dật có
nghĩa là tâm hướng ra ngoài hay chạy theo các pháp trần.
Đức Phật dạy
42 bài kệ nói về tâm không phóng dật, giống
như con tê ngưu một sừng. Con tê ngưu một sừng là một loài thú vật
sống một mình. Khi lớn
lên đến tuổi
trưởng thành, thì loài vật này bỏ
gia đình cha mẹ, anh em và chị em. Không
giao kết bạn
bè với ai cả chỉ sống
một mình trong
một khu vực
riêng biệt. Vì thế, đức Phật dạy: “Người
sống độc cư như con tê ngưu một sừng”.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Các pháp dạy
tâm không phóng dật như: Định niệm
hơi thở, Định sáng
suốt, Định vô lậu, Định chánh
niệm tĩnh giác,
Tứ niệm xứ trên
Tứ niệm xứ để khắc
phục tham ưu và
Thân hành niệm.
Trong bài kệ thứ 21 này, đức Phật đã xác định rõ ràng sự bất tử hay nói cách khác
là sự ra khỏi sanh tử, chỉ
duy nhất là làm
sao phải đạt cho được kết quả là
“tâm không phóng dật”.
Cho nên,
dù tu muôn vạn pháp môn cũng chỉ thực hiện tâm không phóng dật.
Nhưng chúng ta phải biết tâm không phóng
dật là do xả ly dục và ác pháp, chứ không phải do ức chế
tâm. Chỉ có xả ly
tâm tham, sân,
si mới có sự giải thoát chân thật.
“Không phóng
dật bất tử”
Người không
phóng dật là người thoát ra vòng
sanh tử, nhưng
tu tập tâm
không phóng dật không
phải là một
việc dễ làm.
Phải không các bạn?
“Phóng dật
phải tử sanh”
Hiện giờ ai
ai tâm cũng phóng dật, vì thế mà mọi người
đều phải chịu trong
qui luật sanh tử.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
Thưa các bạn,
nếu tâm các bạn còn phóng dật thì
các bạn
chưa được an ổn đâu. Tại sao
vậy?
Vì bệnh tật
và tử thần sẽ đến viếng thăm các bạn, bất cứ giờ
nào khi chúng muốn.
Nên đức Phật bảo: “Phóng dật như chết rồi”.
Các bạn hãy
đọc bài kệ thứ 21 này mà suy ngẫm về sự tu tập của các bạn.
Hiện giờ
tâm các bạn
có còn phóng
dật hay không? Nếu còn thì các bạn hãy tu tập cho đúng cách để tâm không
phóng dật. “Không phóng dật bất tử. Đúng vậy, mục đích của chúng ta phải đạt được tâm
không phóng dật, vì tâm không phóng dật là tâm bất tử mãi
mãi thường hằng.
Tâm không
phóng dật là có Bảy năng lực Giác
Chi xuất hiện.
Do Bảy năng lực Giác
Chi xuất hiện mà đức Phật dạy: “Tâm thuần tịnh, định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ
sử dụng”.
Nếu tu tập mà
tâm các bạn
chưa thấy Bảy Giác
Chi xuất hiện
là do tâm của các
bạn còn phóng dật, còn phóng dật
là các bạn đã tu sai,
tu không kỹ lưỡng hoặc
các bạn tu tập đã lọt vào thiền Đại Thừa hay Thiền Đông Độ.
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Nếu tâm bạn
không phóng dật trong lúc tu tập, khi xả ra thì phóng
dật. Đó là bạn tu tập
ức chế bằng những pháp môn “Chẳng niệm thiện niệm ác” của Thiền Đông Độ. Do tu ức
chế tâm như vậy nên Bảy Giác Chi không xuất hiện. Bảy Giác Chi không xuất hiện
thì bạn không có đủ năng lực nhập các định, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm
dứt luân hồi.
Chúng ta
nên trở lại
câu kệ đầu
trong phẩm “Song Yếu”.
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp
Tâm làm chủ,
tâm tạo tác”
Khi chúng ta
biết được tâm dẫn đầu mọi pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Thì chúng ta phải biết
áp dụng vào
pháp tu Tứ
Chánh Cần thì ngay liền có giải
thoát. Ngày xưa khi chúng tôi đọc đến
hai câu kệ
này và nhớ đến pháp như lý tác ý của Phật dạy thì chúng tôi
như bắt được của báu.
Nhờ nó mà
hôm nay chúng
tôi mới được yên tâm
ngồi viết sách đạo đức nhân bản -
nhân
quả để giúp
cho mọi người sống thoát ra khổ ải của cuộc đời.
Và khi biết
rằng: Tâm không phóng dật là bất tử, là
không chết, biết
rõ như thật
điều này, thì chúng tôi đã cố gắng giữ gìn tâm mình
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
bằng mọi cách,
dùng mọi pháp, nhưng rất cảnh giác
không được ức chế tâm, để xả
tâm dục và ác pháp. Và cuối cùng tâm không phóng dật.
Chúng ta là
những người tu theo đạo Phật, được xem
là những
người trí tuệ, những
người trí tuệ xem sự phóng
dật của tâm
là một điều tối
kị nhất trong
đạo Phật. Muốn
làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà
tâm còn phóng dật thì chẳng bao giờ làm chủ được.
Cho
nên, giữ
gìn tâm không phóng dật là một điều
rất hoan hỷ cho cuộc
đời tu hành của mình. Khi tâm thuần thục không phóng dật thì một trạng
thái an lạc vô cùng hiện đến, đầu óc rỗng
rang, khiến cho
hành giả tưởng
chừng mình đã được vào thế giới
thần tiên.
Đúng vậy, nếu tâm
ai không phóng
dật, mới thấy sự an vui trong cõi Thánh.
Chỉ có tu tập
giữ gìn tâm đừng cho phóng dật. Chỉ
có tâm không
phóng dật mà sao
các bạn tu chẳng vào được?
Nếu với sự nhiệt
tâm tinh cần tu tập của các bạn, thì chúng tôi tin chắc rằng: các
bạn sẽ vào cõi Thánh dễ dàng như trở bàn tay. Bài kệ trong kinh Pháp Cú này đã
xác định:
“Biết rõ sự
thật ấy
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Người trí
không phóng dật”
Khi biết rõ
sự thật ấy, người có trí quả quyết, nhất định bằng mọi cách, chúng ta phải giữ
gìn tâm không phóng dật.
“Hoan hỷ
không phóng dật
An vui trong cõi Thánh”
Như vậy, con
đường tu tập giải thoát của đạo Phật đã xác định rõ ràng: “tâm không phóng dật”.
Tâm không phóng dật là một điều hết sức quan
trọng trong sự việc tu tập giải thoát sanh tử luân hồi. Được xem nó là đệ
nhất pháp.
THIỀN ĐỊNH
LỜ I PHẬT DẠY
- 23 -
Người hằng
tu thiền định Thường kiên trì tinh tấn Bậc trí hưởng Niết Bàn Đạt an tịnh vô thượng”.
(Kinh Pháp
Cú: II. Appamàdavagga.
Phẩm Không
Phóng Dật)
CHÚ GIẢ I:
Bài kệ
thứ 23 đức
Phật khuyên mọi người phải hằng tu
thiền định. Vậy thiền định ở đây là loại thiền định nào?
Bài kệ thứ
23 nằm trong phẩm không phóng dật. Như vậy rõ ràng tâm không phóng dật là thiền
định, chứ không phải ngồi hít thở, hay niệm
Phật nhất tâm,
giữ tâm không niệm là thiền định.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Ở đây, đức Phật chỉ khuyên chúng ta hằng
tu thiền
định, nhưng vì
trong đời sống của
chúng ta có nhiều loại thiền định như: Thiền Yoga, thiền Xuất hồn, thiền
Vô vi, thiền Công án, thiền Đại Thừa, thiền Tổ Sư,
thiền Nguyên Thủy, thiền Tối Thượng Thừa, thiền Mật Tông, thiền Tịnh Độ Tông,
v.v.. Với một số thiền định như thế
này, thì chúng ta biết loại
thiền định nào cho đúng, để tu tập tâm không phóng
dật?
Do hiểu
nghĩa tâm không phóng dật cạn cợt,
nên phần đông
người ta tu ức chế
tâm không còn niệm thiện niệm ác.
Như kinh Pháp
Bảo Đàn đã hiểu sai
tâm không phóng dật
là tâm không
niệm thiện, niệm ác. Tâm không niệm
thiện ác là một lối thiền ức chế
tâm, đó là đường cùng của thiền định
ngoại đạo tiến
thoái lưỡng nan.
Tu đến chỗ vô niệm thì người ta
không còn chỗ tu nữa. Nhưng nhìn lại đời thì cũng
chẳng ra đời, đạo cũng chẳng ra đạo.
Như trong
kinh Bát Chánh Đạo, đức Phật đã chỉ rõ loại thiền định nào để chúng ta tu tập
không sai, đó là Bốn Thiền hữu sắc. Trong Bát Chánh Đạo Bốn Thiền
là Chánh Định. Trong
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
Bốn Thiền
thì Sơ Thiền là loại thiền
định thứ nhất.
Loại thiền định
thứ nhất chỉ có tu tập ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp chính là tâm không phóng dật.
Tóm lại, tu
tập thiền định là tu tập tâm ly dục ly
ác pháp.
Ly dục ly ác
pháp mà không dính
mắc vào năm chi Sơ Thiền thì đó là nhập vào bất động tâm định. Trạng
thái bất động tâm định là trạng thái Niết Bàn.
Đức Phật dạy:
Người hằng tu thiền định, tức là hằng
tu tập Sơ Thiền,
tu tập Sơ Thiền chỉ
có nhiếp phục
tâm để tâm ly
dục ly ác pháp, có ly
dục ly ác pháp
thì tâm mới không phóng
dật, mà tâm
không phóng dật
là Niết Bàn tại thế gian trong cuộc
sống này.
Bài kệ này rất
quan trọng là chỗ xác định được “thiền định”.
Nếu xác định
đúng “Chánh định” thì sự tu tập mới
có kết quả đúng. Kết quả đúng thì mới có những
năng lực làm chủ sanh,
già, bệnh, chết.
Còn nếu xác định
sai “Tà thiền”
thì tu tập chẳng
có kết quả gì, thì không bao giờ
làm chủ sanh, già, bệnh, chết được.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Khi tu tập loại thiền
định của đạo Phật
thì chúng ta thường hưởng được những trạng thái Niết Bàn an tịnh, vô thượng. Và
lúc nào muốn an tịnh là tâm chúng ta sẽ an tịnh liền.
Nếu người
nào hằng ngày
tu tập thiền định, với tâm siêng năng bền chí, không
thối chuyển thì lúc nào
cũng nhập vào sự an tịnh, vô
thượng ấy được.
Trạng thái an tịnh, vô thượng
ấy không có một vật
gì trên thế
gian này sánh bằng được.
“Thường kiên
trì tinh tấn Bậc trí hưởng Niết Bàn Đạt an tịnh vô thượng”.
Chỉ có thiền
định của đạo Phật mới có sự
an tịnh vô
thượng. Sự an tịnh vô thượng, nếu ai tu
tập đúng pháp,
muốn có lúc
nào là có được
ngay lúc nấy. Do vì tu tập xả tâm, nên tâm
tự nhiên không phóng dật mà có.
NỔ LỰC TU TẬP TỨ NIỆM XỨ
LỜ I PHẬT DẠY
- 24 -
“Nỗ lực, giữ
chánh niệm Tịnh hạnh, hành thận trọng Tự điều sống theo pháp
Ai sống
không phóng dật
Tiếng lành
ngày tăng trưởng”.
- 25 -
“Nỗ lực,
không phóng dật Tự điều, khéo chế ngự Bậc trí xây hòn đảo
Nước lụt khó
ngập tràn”.
(Kinh Pháp
Cú: II. Appamàdavagga.
Phẩm Không
Phóng Dật)
CHÚ GIẢ I:
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
TỊNH HẠNH VÀ
CHÁNH NIỆM
Bài kệ thứ
24 đức Phật đã xác định pháp hành để chúng ta tu tập tâm không phóng dật. Vậy
pháp hành đó là gì?
1- Tịnh Hạnh
2- Chánh Niệm
• Tịnh hạnh
tức là giới luật.
• Chánh niệm
tức là Tứ Niệm Xứ.
Người tu
sĩ hằng ngày
phải nỗ lực
tu tập Tứ Niệm Xứ và thận trọng
giữ gìn giới
luật đừng để vi phạm, tức
là tự điều
chế tâm trong sự sống
thiện. Nếu tu tập đúng
pháp như vậy, thì thân tâm sẽ không
phóng dật. Bài kệ trên đây dạy chúng ta chọn pháp tu
hành cho đúng chánh pháp.
Bài kệ thứ
25 đức Phật đã xác định: Nếu người nào nỗ lực tu tập 2 pháp trên, tự điều và
khéo chế
ngự tâm dục
và ác pháp
thì cũng ví như xây trường thành
để bảo vệ chống giặc, thì giặc phiền não, giặc tham, sân, si sẽ không bao giờ
xâm chiếm được.
Người trí, tức là người hiểu
biết, thì cố gắng tu tập, sự cố gắng
tu tập giống như người
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
xây hòn đảo nên nước không
thể lọt và
tràn vào, khiến cho đời sống được an ổn yên vui.
Tâm không
phóng dật là một điều quan trọng hết sức trong đạo Phật. Chính ngày xưa đức Phật
thành đạo cũng nhờ tâm không phóng dật. Đời nay người tu hành không giữ gìn
tâm, nên tâm thường phóng dật chạy theo sáu trần, vì thế mà chịu
trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, khổ đau
vô cùng vô tận.
Người trí là
người khôn ngoan, sống
theo đúng pháp (Tứ niệm xứ, và giới luật) thường tự điều chế
tâm mình, không
cho phóng dật, nên thường sống
trong an ổn. Chỉ
có những người ngu si,
thiếu trí mới để
tâm phóng dật. Bởi
vì còn có tâm phóng dật là còn có khổ đau; còn có khổ đau là
còn bị sự
chi phối của luật nhân quả. Tâm không còn khổ đau, phiền lụy,
là tâm đã chuyển hóa nhân quả. Tâm đã chuyển hóa nhân quả
là tâm bất động. Tâm bất động
là tâm không phóng dật.
“Ai sống
không phóng dật Tiếng lành ngày tăng trưởng” “Bậc trí xây hòn đảo
Nước lụt khó
ngập tràn”
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Đức Phật dạy: “Người
ngu không trí tuệ,
chuyên sống đời
phóng dật, tự làm
khổ mình, khổ người”. Đúng vậy, phóng dật như
chết rồi chưa chôn;
phóng dật là tự đem đau khổ vào cho mình. Người tự đem đau khổ
vào mình, có phải là người ngu không
hỡi các
bạn?
Nhưng quán
xét nhìn lại đời này,
ai là người khôn, tâm không phóng
dật?
Những hạng
người này rất khó tìm thấy quá. Phải không hỡi các bạn?
Tìm một
người tâm không
phóng dật trong đời thật là hiếm,
là không có.
Người trí là
người có sự
hiểu biết thì không
bao giờ để tâm
mình phóng dật,
luôn luôn nỗ lực giữ gìn chánh niệm, tịnh hạnh. Mỗi hành động đều thận
trọng, luôn tự điều chế tâm
mình sống đúng
giới hạnh và
giáo pháp “chư ác mạc tác,
chúng thiện phụng hành”. Đó mới thật sự là người trí.
“Người trí
không phóng dật
Như giữ tài
sản quí”
Đúng vậy, giữ
tâm không phóng dật như giữ gìn tài sản của báu mà tài sản của báu này là vô
giá.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VI
“Chớ có
buông lung phóng dật
Chớ say mê dục
lạc”
Kẻ nào sống phóng
dật buông lung,
say mê dục lạc, kẻ ấy như người chết chưa chôn, chỉ là một cái thây ma
hôi thối, bẩn thỉu, bất tịnh sống chỉ biết phục vụ cho sự hèn hạ nhất của kiếp làm
người, đó là
ăn, ngủ, đi cầu và dâm
dục.
Khi tâm không
tự chế. Để tự do chạy theo các
pháp trần, tức
là tâm phóng
dật. Tâm phóng dật
thì làm sao tránh khỏi sự cám dỗ
của các
pháp trần. Các
pháp trần đủ đầy mọi dục lạc, cho nên người nào tâm buông lung
phóng dật thì không thể tránh khỏi sự sa đọa, thường bị sự cám dỗ dục lạc thế
gian lôi cuốn. Cho nên, người biết
tự chế ngự tâm mình, thực hiện tâm ly dục
ly ác pháp (thiền định). Có như vậy,
chúng ta mới thấy được sự giải
thoát an lạc chân thật của Phật
Giáo.
Chúng ta hãy
đọc lại bài kệ mà lắng nghe lời
khuyên dạy chí tình, chí tâm của đức Phật đối với chúng sanh.
“Chớ buông
lung phóng dật
Chớ mê say dục
lạc
Người tự chế,
thiền định
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
Mới hưởng đại
an lạc”
Sự buông
lung phóng dật chỉ có đem lại sự đau khổ cho con người mà thôi. Người đời mấy ai
đã để ý đến điều
này. Vì thế,
mà họ phải chịu
nhiều sự khổ
đau, phiền lụy. Bởi vô
minh nên họ thọ nhiều sự khổ đau, phiền lụy mà chẳng biết do đâu mà ra.
Thưa các bạn!
Sự khổ đau, phiền não do từ tâm
buông lung phóng
dật. Ngoài tâm
buông lung phóng dật ra thì không còn khổ đau nữa.
Muốn giải
thoát khỏi sự sanh, già, bệnh, chết và luân hồi mà các bạn còn để tâm mình
buông lung phóng
dật, thì dù các bạn có tu
ngàn muôn kiếp
cũng chẳng bao giờ
chấm dứt sanh tử luân hồi được.
Tâm còn
buông lung phóng dật thì các bạn đừng vào chùa tu tập. Vì có vào chùa tu tập
thì cũng chẳng có ích lợi gì cho các bạn cả, mà còn mất công sức và
làm tổn hại
cho Phật pháp, mang tiếng cho Thầy
Tổ.
Nếu các bạn thấy
mình sống độc cư
trầm lặng chưa trọn vẹn được, thì xin
các bạn đừng vào
chùa tu tập.
Vì vào chùa
tu tập như vậy,
làm mang tiếng tu hành không kết quả, để
lại cho chùa những tiếng không tốt. Người ta sẽ cười vào mặt các bạn: Đi
tu mà lòng tham, sân,
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VI
si như
người thế gian.
Còn đến khi chết
thì nằm liệt trên
giường bệnh cũng
giống như người thế tục. Đi
tu không giải
khổ được mà còn
khổ đau hơn người
đời… Người ta thấy các bạn tu hành như vậy, họ ngao ngán quá còn
ai dám đi tu nữa. Phải không các bạn?
Những bài kệ
trong phẩm không phóng dật, đã xác định
được sự quan trọng con đường tu hành của các bạn. Nếu các bạn muốn giữ gìn được tâm
mình không phóng
dật thì các bạn hãy chấp hành nghiêm túc hạnh độc cư. Vì
chỉ có hạnh độc cư
mới phòng hộ giữ gìn
sáu căn tuyệt vời,
giúp sáu căn của
các bạn không
tiếp xúc với sáu trần, có
như vậy thì tâm
các bạn mới không phóng dật.
Đây là
giai đoạn bắt đầu độc cư
của sự tu tập tâm không phóng dật. Nếu
các bạn không giữ trọn giai
đoạn bắt đầu
này thì không bao giờ tu tập viên mãn. Nếu giai đoạn đầu mà
không thực hiện
được, thì còn mong gì những giai đoạn kế tiếp, làm sao các bạn tu nổi được. Vì càng tu cao tâm phóng dật càng
vi tế hơn.
Các bạn
có nghe chăng? Lời
di chúc năm xưa của
đức Phật còn
văng vẳng mãi
bên tai của các bạn: “Ta thành
chánh giác là nhờ
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tâm không
phóng dật. Muôn
pháp lành đều nơi tâm không phóng
dật mà ra”.
Chỉ có tâm
không phóng dật là chứng đạo. Sao các bạn vội quên đi lời di chúc ấy!
Đời sống một tu
sĩ chỉ nhờ sống vào mồ
hôi nước
mắt và công
lao của người
cư sĩ. Đời sống của
chúng ta có
còn làm ích lợi
gì cho ai đâu? Một đời sống ăn
bám mà còn để tâm phóng dật, chạy theo dục lạc, ăn ngủ phi
thời, phạm giới, phá giới thì còn nghĩa lý gì các bạn ạ!? Thà không đi tu mà đã
đi tu thì phải tu tập cho đến nơi đến chốn để không phụ lòng mọi người…
Các bạn phóng dật
chùa to Phật lớn, tiện nghi vật chất đầy đủ bằng mồ hôi nước
mắt của người khác thì có
hãnh diện gì
đâu các bạn? Đến khi chết các bạn có mang theo một vật gì đâu hay chỉ mang theo một món nợ vĩ đại.
Bài kệ thứ
28 này đức Phật đã xác định: “Nếu một người
tu hành diệt tâm
buông lung không chạy theo vật chất thế gian, sống đời sống độc cư trầm
lặng với hạnh không phóng dật,
là người trí tuệ
tuyệt vời, là một
bậc Thánh sống”.
Ngược lại, người phàm phu không
thể sống như những bậc Thánh được, nên tâm thường hữu sự, nay sanh
ra việc
này, mai sanh ra việc
khác, càng sanh ra nhiều việc, tức
là tâm phóng dật càng nhiều, tâm phóng dật càng nhiều thì lo âu và đau khổ càng
nhiều.
Người tu
sĩ Bà La
Môn thường tu giả dối hay dùng những danh từ để che đậy tâm
phóng dật bằng cách nói: “Làm
Phật sự”. Làm phật
sự là tâm phóng dật. Xưa, đức Phật đâu có dạy chúng ta
xây chùa to Phật lớn;
đâu có dạy chúng ta cúng bái tụng niệm; đâu có dạy
chúng ta đi thập tự trảy hội cầu
an, cầu siêu; đâu có
dạy chúng ta
làm những điều
mê tín; đâu có dạy chúng ta cày cấy, làm vườn, buôn
bán… mà chỉ dạy chúng ta đi xin ăn, sống độc cư, ly dục
ly ác pháp, diệt ngã xả tâm; mà chỉ dạy chúng ta ngăn ác diệt ác pháp trong
tâm; mà dạy chúng ta diệt
tâm buông lung,
sống hạnh không phóng dật; chứ đâu
có dạy chúng ta cầu an, cầu siêu,
xin xăm, bói quẻ, xem ngày giờ tốt xấu…;
đâu có dạy chúng
ta niẹâm chú, vẽ
bùa, tụng kinh, niệm Phật, lần chuỗi v.v..
Phật dạy
chúng ta niệm
Phật là dạy chúng ta sống như Phật, chứ đâu
có dạy chúng ta kêu gọi tên Phật
bao giờ.
Trong bài kệ
này mục đích chính là dạy chúng ta phải
sống đời sống
giữ gìn hạnh không phóng dật cho trọn vẹn của một người
tu sĩ đạo Phật. Có sống một đời sống tâm không phóng dật mới đúng nghĩa của đạo
giải thoát.
Đời sống tâm
không phóng dật là đời sống thanh cao,
vì tâm
không còn âu
lo, sợ hãi dù
bất cứ một điều gì.
Danh từ
không phóng dật
nói thì dễ, nhưng sống tâm không phóng dật là khó vô
cùng. Vì thế, muốn tâm không phóng dật thì người tu
sĩ đạo Phật
phải tu hết sức mình,
tu kỹ từng pháp một, tu cho có chất lượng chứ không phải
tu lấy có
hình thức: Ngồi
thiền, niệm Phật, tụng
kinh, niệm chú v.v..
Có kết quả gì, chỉ
là những hình
thức tu hành lấy có, lấy
danh để lừa đảo người
khác, chứ không phải tu cho mình như vậy được.
Người tu
hành phải luôn cảnh giác, tĩnh thức cao
độ trong
mỗi niệm thân
hành, khẩu hành, ý hành, để diệt
và xả những niệm ác, có tu tập như vậy cũng còn chưa đủ, mà
còn phải phòng hộ sáu
căn nghiêm ngặt
như lính ngự lâm canh gác thành vua.
Cho
nên, những câu kệ trong
kinh Pháp Cú tuy ngắn gọn
nhưng nó mang đầy đủ
tính chất pháp hành, nếu chúng ta không nhận ra được những
pháp hành trong
những câu kệ cô
đọng
này, thì kinh Pháp Cú chỉ còn
là câu ca dao, tục ngữ, cách ngôn hay theo như lời
Hòa Thượng Minh Châu giới thiệu.
Chỉ có những
người hiểu biết nhàm chán cuộc sống đời
này, thì giữ
gìn hạnh không phóng dật mới được. Ngược lại, tâm chưa
nhàm chán cuộc đời, mà
cố gắng tu tập và giữ hạnh, dù
tu pháp môn nào, giữ
hạnh gì thì tâm cũng phóng dật như thường.
Bài kệ thứ 29 đức
Phật ví người tinh cần giữ
gìn tâm không
phóng dật thì chẳng
khác nào như con tuấn mã (tuấn mã
là con ngựa
hay).
“Tinh cần giữa
phóng dật Tĩnh thức giữa quần mê Người trí như
tuấn mã
Bỏ sau con
ngựa hèn”
Ở đây,
có nghĩa là
người giữ gìn
tâm không phóng dật là người hơn tất cả mọi người.
Bài kệ
28 đức Phật
dạy: Người không phóng dật là một bậc Thánh.
“Kẻ trí diệt
buông lung
Với hạnh
không phóng dật
Leo lầu cao
trí tuệ
Bậc Thánh
không lo âu”
Khi giữ gìn
tâm không phóng dật được rồi, giống như người mù nhìn thấy được ánh sáng.
Nhìn lại mọi
người đang còn
phóng dật, thì tâm bàng hoàng kinh hãi thốt ra lời: “Trời ơi! Con người
sinh ra có mắt như mù”.
Phóng dật để trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi mãi mãi, từng giây từng phút
chịu khổ đau vô
cùng vô tận.
“Nhìn quần
sanh sợ hãi Chẳng khác lên núi cao Nhìn muôn vật dưới đất”
Bài kệ thứ
30 đức Phật dạy: Người giữ gìn
tâm không
phóng dật như
là vua Trời
Đế
Thích.
“Đế Thích nhờ
tinh tấn Thành chủ cõi chư Thiên Không phóng dật được khen Phóng dật bị khinh
miệt”
Người phóng
dật đức Phật
ví như những
người mùø,
những con ngựa hèn, những người bị khinh mệt, bị khinh rẻ v.v..
Để kết luận
phẩm không phóng dật đức Phật đã khen
ngợi và ca tụng
người giữ hạnh không phóng dật bằng bài kệ thứ 31:
“Tỳ kheo sợ
phóng dật
Ưa thích
không phóng dật Bước tới như lửa hừng
Thiêu kiết sử lớn nhỏ”
Người sợ
phóng dật thường ưa thích không
phóng dật
thì như đám lửa cháy
to, lửa không phóng
dật cháy đến
đâu thì thiêu rụi
các kiết sử lớn nhỏ đến đó.
Bài kệ thứ
32:
“Tỳ kheo sợ
phóng dật
Ưa thích
không phóng dật Nhất định gần Niết Bàn Không còn bị đọa lạc”
Nhất định người
ấy đến Niết
Bàn không
còn sợ bị đọa lạc. Đó
là hai câu kệ xác định
chắc chắn như vậy, xin các bạn hãy tin lời dạy của Phật
mà cứu mình
ra khỏi nhà sanh tử
luân hồi, đừng để kiếp
kiếp, đời đời
trôi lăn trong ba nẻo sáu đường đầy
khổ đau.
Đọc phẩm
không phóng dật
trong kinh
Pháp Cú
chúng ta thấy đức Phật
thường ca
ngợi hạnh không phóng dật. Như vậy, hạnh không
phóng dật là quan trọng cho cuộc đời tu
hành của chúng ta. Phải không các bạn?
Thế nhưng
nhìn lại chúng ta quán xét tất cả
tu sĩ Phật giáo hiện giờ với hạnh không phóng
dật thì khó tìm thấy.
Vì mọi tu sĩ Phật
giáo hiện giờ đang chạy theo vật chất danh lợi thì làm sao mà tâm không phóng dật.
Phẩm tâm
không phóng dật
đã nói lên mục đích tu hành của đạo Phật, để xác định
ai là người tu chứng
đạo. Chứng đạo là chứng cái gì? Có phải
là cái tâm không phóng dật không?
“Ta thành
chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Đó là lời xác định quả quyết của Đức Phật để cho
người sau không nghi ngờ chánh Phật
pháp.
Đúng vậy,
tâm không phóng dật là người chứng đạo, chứ
đâu phải cần
có thần thông, ngồi thiền nhiều, niệm Phật nhất tâm,
giảng kinh, tụng đọc... hay học giáo
lý có cấp bằng
này, cấp bằng kia, là chứng đạo đâu.
THIỆN
XÂO TU TẬP
LỜ I PHẬT DẠY
- 33 -
“Tâm phàm
hay dao động Khó chế khó nhiếp phục Kẻ trí khiến tâm chánh Như thợ khéo nắn
tên”.
(Kinh Pháp
Cú: III. Cittavagga.
Phẩm Tâm)
CHÚ GIẢ I:
Người tu
hành theo Phật
giáo ai cũng biết
chế ngự tâm
mình là một điều rất
khó. Nhưng khó, không có nghĩa là không chế ngự được, không làm được. Muốn
nhiếp phục và chế ngự được tâm
thì phải tu tập những
pháp môn
nào?
1/ Muốn chế
ngự tâm thì phải cố gắng giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, sống đúng oai nghi tế
hạnh của bậc Thánh Tăng. Lấy giới luật làm khuôn phép sống cho mình.
2/ Nhiếp phục tâm thì phải tu tập Bát
Chánh Đạo. Bát
Chánh đạo gồm
có: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy,
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh
Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
Từ Chánh
kiến đến Chánh
Tinh Tấn thuộc về Giới luật
tu tập giai
đoạn một. Giới luật
thì phải tu tập Tứ Chánh
Cần. Tứ Chánh Cần gồm có bốn loại định:
1- Chánh Niệm Tĩnh Giác
2- Vô Lậu Định
3- Sáng Suốt Định
4- Định Niệm Hơi Thở gồm có 18 đề mục tu tập.
Chánh Niệm
thuộc về giới,
tu tập giai đoạn hai gồm có: Tứ Niệm Xứ và Thân Hành
Niệm.
Chánh Định gồm
có Bốn Thiền:
1- Sơ Thiền
2- Nhị Thiền
3- Tam Thiền
4- Tứ Thiền
Và cuối
cùng, thực hiện Tam Minh gồm có: Tứ Như Ý Túc. Tứ Như Ý Túc gồm có:
1. Dục
Như Ý Túc
2. Tinh
Tấn Như Ý Túc
3. Định Như ý Túc
4. Tuệ Như Ý Túc
Tất cả
các pháp trên đây, khi tu tập phải
thiện xảo, linh động,
khéo léo và trí
tuệ sáng tạo trạch pháp
tác ý cho có
hiệu quả mà trong bài kệ dạy: “Như
thợ khéo nắn tên”.
KHEN NGỢI ĐIỀU PHỤC TÂM
LỜ I PHẬT DẠY
- 35 -
“Khó nắm giữ,
dao động Tâm phàm, dục chi phối Lành thay, điều phục tâm Tâm điều, hưởng an lạc”.
(Kinh Pháp
Cú: III. Cittavagga.
Phẩm Tâm)
CHÚ GIẢ I:
Tâm dễ dao
động, nên dục lợi dụng
chỗ ấy mà chi phối tâm,
khiến cho tâm chạy
theo ác pháp, tạo nhân chẳng lành, thọ lấy quả khổ đau từ đời này sang đời
khác.
Người học Phật
pháp biết mọi cách thiện xảo, chế ngự,
điều phục, v.v.. tâm mình. Khiến cho tâm
bất động, không
còn rong ruổi
chạy theo sáu trần. Do đó, dục không còn điều phục được tâm nữa, nên
tâm được an lạc, thanh nhàn, yên tịnh. Người làm được như vậy
thật là
đáng
khen, đáng ca ngợi, đáng
khâm phục, đáng kính trọng và tôn quý.
NGƯỜI CHIẾN THẮNG
LỜ I PHẬT DẠY
- 40 -
“Biết thân
như đồ gốm Hộ tâm như thành trì Dẹp Ma với
gươm trí
Hãy giữ gìn
chiến thắng
Vượt ngoài mọi
nhiễm ô”.
(Kinh Pháp
Cú: III. Cittavagga.
Phẩm Tâm)
CHÚ GIẢ I:
Thân người
như đồ gốm
giòn bở, dễ bể,
nay còn,
mai mất, như
hoa phù dung sớm nở tối tàn; như bóng câu cửa sổ, như bong
bóng nước... Nếu làm người
không nhận ra điều này mà cứ
vui chơi trong
dục lạc thì phí
một kiếp người chẳng có nghĩa lý
gì cả. Tuy thân người giòn bở như đồ gốm,
nhưng được thân
người đâu phải dễ. Vì thế, câu kệ trong kinh Pháp Cú nhắc nhở chúng ta:
“Biết thân như đồ
gốm”, thì phải lo tu
hành, sớm vượt
thoát ra khỏi kiếp làm người.
Muốn làm chủ
sự sống chết và chấm dứt luân hồi thì phải
giữ gìn sáu
căn nghiêm mật giống
như giữ thành
trì, không cho các
pháp trần bên ngoài xâm chiếm
vào, “nội bất xuất ngoại
bất nhập”. Tức là giữ hạnh độc cư trọn vẹn. Sống đơn độc
như con tê ngưu một sừng, “Hộ tâm như thành trì”.
Trong cuộc
chiến đấu với giặc sanh tử,
luôn luôn phải
dùng trí tuệ quán
xét từng tâm niệm, trong từng
giây, từng phút thì mới mong chiến thắng các loại Ma chướng. Nếu
không cảnh giác như vậy thì mặt
trận này sẽ khó
thắng mà
còn thất bại
ê chề: “Dẹp
Ma với gươm trí”.
Trong mặt trận
này, trí tuệ là vũ khí hàng đầu để chiến thắng
giặc sanh tử,
như các bạn đã
biết: Chánh kiến
và Chánh Tư
Duy trong Bát Chánh Đạo. Không phải
là trí tuệ hay sao? Đây là hai phương pháp đầu tiên tu tập của Bát Chánh Đạo.
Nó là đội
quân tiên phong
khai sơn phá thạch để tiến vào
trận đánh Tứ Niệm Xứ. Nếu không
có nó thì khó
mà giữ gìn phần chiến thắng
về mình: “Hãy
giữ gìn chiến thắng”.
Nhờ có trí
tuệ Chánh Kiến
và Chánh Tư Duy
thì chúng ta mới ly
dục, ly ác pháp;
mới diệt ngã, xả tâm. Có như vậy, tâm mới vượt ra khỏi mọi sự ô nhiễm của
cuộc đời. Cuộc đời là một bãi rác ô nhiễm, bất tịnh, hôi thối.
THƯ HƠI ĐẠO
Thư hỏi đạo
của Minh Hoàng
Kính gửi các
vị đạo hữu ở tu viện!
Trước tiên
tôi vô cùng cảm ơn các vị đạo hữu
đã làm trang
web này phổ biến chánh pháp của đức Phật.
Không biết
qua trang web này tôi có thể
hỏi Thầy một số điều nghi vấn không ạ! Nếu có thể rất
mong các đạo hữu gửi câu hỏi của
tôi đến cho Thầy, vô cùng cảm ơn các bạn.
Thưa Thầy!
Gần đây đại dịch cúm gà
đang trở
thành một mối đe
dọa khủng khiếp cho
toàn nhân loại,
dự tính nó sẽ giết
chết hằng triệu người.
Vậy đây có phải là do
nhân ác của loài người vẫn ăn thịt động vật không ạ, ngày nay
nó quay lại
tiêu diệt loài
người chăng? Với đôi mắt nhân quả của Thầy, xin Thầy chỉ rõ làm thế nào
có thể ngăn chặn đại dịch này, cứu giúp hằng triệu người trên thế giới. Con
tin rằng nếu
loài người nhận
thức được về qui luật nhân
quả ấy một
cách khoa học, họ sẽ giảm rất nhiều
các hành động ác của mình, trong đó có việc giết hại động vật. Vậy
Thầy có thể bằng trí Tam Minh của mình, giúp đỡ
các nhà khoa học,
để họ chứng
minh phần nào qui luật nhân
quả không ạ! Hoặc là hiển
thị thần thông giáo hóa, chỉ rõ cho loài người những tai hại, những
hành động ác của mình. Vì thật ra chỉ có ít người tin vào luật nhân quả, đơn giản
vì chưa có sự chứng minh
xác đáng nào, họ
không tìm thấy mối liên hệ giữa
việc sát sinh và bị giết hại. Hơn nữa những
người biết đến bộ
sách ĐVXP là rất ít,
nhưng nếu định luật nhân quả được
đăng trên một tạp chi khoa học thì sẽ rất nhiều người biết đến, phải chăng là sẽ
có ích hơn không ạ!
Rất mong Thầy,
bằng trí tuệ và pháp luật của một vị A
La Hán,
giúp mọi người
hiểu rõ hơn ạ!
Kính mong
các đạo hữu gửi câu hỏi này đến
cho Thầy giùm tôi,
vô cùng cảm
ơn các bạn.
HÜ TRÌ CÁC CĂN
Kính gửi:
Minh Hoàng
Thầy
đã nhận được
thư con, nhưng mãi đến
hôm nay con và mọi
người mới nhận
được thư trả lời của Thầy. Thầy xin lỗi các con đã để cho các con chờ đợi,
thật là một điều ngoài ý muốn của Thầy. Vì gần đây Thầy rất bận nhiều việc...,
nhất là việc mở lớp đào tạo những người tu để làm chủ: sanh, già, bệnh, chết,
nên phải hướng dẫn hành giả triển khai tri kiến giải thoát bằng Định
Vô Lậu
và còn phải
kiểm tra cách thức tu tập nhiếp
tâm và an trú tâm trong thân hành nội, ngoại tức là tu tập Chánh Niệm Tĩnh
Giác Định. Cho nên, khi nhận
được thư thưa hỏi và lời thiết
tha kêu gọi Thầy cứu giúp mọi người của con, mà Thầy không trả lời được thật là
phụ lòng, không những phụ lòng con mà còn phụ lòng nhiều người nữa. Nhưng quá bận
việc Thầy không biết làm sao hơn, mong con cảm thông.
Kính thưa
các bạn! Hiện
tượng đại dịch cúm
gia cầm là một hiện
tượng trong nhiều hiện
tượng của nhân
quả đang xảy
ra trên hành tinh này
mà loài người
là nói riêng,
còn tất cả chúng sanh là nói chung. Vạn vật trên hành tinh này đã và
đang trả những quả ác mà chính họ đã gieo nhân không thiện, cho nên họ
đã được
trừng trị theo
qui luật công
lý, công bằng của đạo luật này.
Kính thưa các bạn! Nhân quả là một đạo luật duyên
hợp thành hoại của vạn vật trong vũ trụ. Vì thế, vạn vật có mặt trên hành tinh
này là do các duyên hợp
lại mà thành và
khi vắng mặt cũng đều do các duyên tan rã mà hoại. Do duyên thành hoại
nên nó rất rõ ràng, cụ thể chân thật, vì thế gọi nó là khoa học. Luật nhân quả không
có một người
nào đứng ra xử
phạt, chỉ theo hành động thiện
ác nhiều ít của
mọi người mà lãnh quả khổ vui nhiều ít. Và cũng vì thế nó rất công bằng và
công lý. Cho
nên, nhân quả không có gì là mơ hồ, trừu tượng khó hiểu cả, nhưng vì con
người không có đôi mắt chánh kiến về nhân quả nên không giải thích tường tận
thâm sâu, bao la trùng điệp duyên sanh,
duyên khởi, duyên
diệt để giúp
cho các bạn dễ hiểu đạo luật này mà thôi.
Tại sao luật
nhân quả công bằng và
khoa
học?
Nhân quả công bằng là
vì gieo nhân
nào
thì phải
gặt lấy quả nấy,
không thể gieo nhân này mà gặt lấy quả khác được. Phải
không các bạn?
Nó xác minh và chứng thực mọi sự việc xảy ra
chung quanh vạn vật trong vũ trụ một cách cụ thể, rõ ràng nên rất khoa học.
NHÂN QUẢ THẢO
MỘC
Muốn hiểu
biết nhân quả
như thật thì trước
tiên chúng ta phải hiểu
biết nhân quả thảo mộc. Vậy muốn hiểu biết nhân quả thảo
mộc thì các bạn hãy hiểu
nghĩa chữ nhân quả. Vậy nhân quả
nghĩa là gì?
Theo chữ
Hán, nhân có nghĩa là hạt; quả có
nghĩa là trái,
ghép chung hai từ này lại
thành “nhân quả” có nghĩa là “hạt và trái”.
Ví dụ: Hạt ớt khi
được gieo trồng
lớn lên thành cây ớt, từ cây ớt
ra bông kết trái cho quả ớt, nhưng quả ớt cay; hạt
chanh khi được gieo trồng
lên thành cây
chanh, từ cây
chanh ra bông kết trái cho quả chanh, nhưng quả
chanh chua; hạt xoài, khi được
gieo trồng, nẩy mầm
lớn lên thành cây xoài. Từ cây xoài ra bông kết trái cho quả xoài, nhưng quả
xoài ngọt.
Trên đây
là nhân quả của loài
thảo mộc theo duyên
hợp trùng trùng
tạo thành nhân quả,
nhân nào thì quả
nấy rất là thiết
thực cụ thể, cho
nên chỉ có những người
không chịu hiểu mới cho rằng
không có nhân quả.
Từ hạt cây
đu đủ cho quả
đu đủ, nhưng quả đu đủ ngọt. Cũng
từ một hạt cây đu đủ cho nhiều quả đu đủ, nhưng một quả đu đủ có nhiều hạt, như
vậy các bạn thấy nhân quả chưa? Một nhân
không phải chỉ
cho có một quả
mà phải cho nhiều quả,
nhưng một quả
không thể có một nhân mà phải có nhiều nhân. Có đúng
như vậy không các bạn?
Trên đây là
nói về đặc tính nhân quả cay, đắng, ngọt, bùi của loài
thảo mộc và
còn xác định duyên
sinh khởi trùng
trùng của nhân quả. Cho nên, một nhân có nhiều quả, một
quả có nhiều nhân.
Lấy nhân quả thảo mộc để
chứng minh cho nhân quả của con người. Lấy nhân quả thảo mộc làm một bằng chứng
cụ thể để các bạn không còn có một lý do gì mà bảo rằng không có nhân quả.
Kính thưa các bạn! Con người cũng chỉ là một loài
sinh vật sống trên hành tinh này như bao
nhiêu loài khác,
nên đều chịu
chung số phận của qui luật nhân
quả. Và trên hành tinh này cũng không
có một loài vật nào
thoát ra khỏi qui luật này.
Trên hành
tinh này mọi vật gồm có từ cây cỏ thảo mộc
cho đến những loài động vật đều
có một sự sống bình đẳng như nhau. Có một
sự
sống bình đẳng như nhau thì phải theo qui luật
nhân quả điều hành. Nhưng loài động vật trong đó có
loài người vì
vô minh không
hiểu biết chạy theo lòng ham muốn
tạo nhiều điều ác độc nên tự làm mất đi sự sống
bình đẳng, vì thế
mới có kẻ sang người hèn; mới có kẻ giàu người nghèo v.v..
Và do đó, mới
có duyên sinh hợp
của nhân quả vạn trạng thiên hình, và
cũng vì vậy mà duyên
tan hoại cũng
thiên hình vạn trạng. Vì thế, vạn vật sinh diệt liên tục
trùng trùng điệp điệp
theo nhân ác,
còn ngược lại theo nhân thiện vô lậu thì sinh diệt chấm
dứt. Như đức Phật đã dạy: “Sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”.
NHÂN QUẢ CON
NGƯỜI
Nhân quả của
con người không khác gì nhân quả của loài thảo mộc, cũng cụ thể, rõ ràng, xác
thực. Nó trừu tượng, nhưng không mơ hồ, ảo tưởng, không thiếu chứng thực, không
thiếu khoa học.
“NHÂN” của con người là hành động thân, khẩu, ý.
Hành động thân, khẩu, ý là nguyên nhân để sinh ra mọi điều thiện, ác.
“QUẢ” của
con người là kết quả,
là thọ chịu, là nhận lấy những cảm nhận vui buồn,
khổ đau, phiền
não, bệnh tật,
tai nạn, tật nguyền v.v..
Như trên
đã nói: Nhân quả của con người
không khác gì nhân
quả của loài
thảo mộc. Vì con người
là một sinh vật sống
như các loài sinh
vật khác trên
hành tinh này nên đều bị chi phối theo luật nhân quả như nhau.
Một nhân có
nhiều quả, một quả
có nhiều nhân. Cho nên, một hành
động ác thì phải chịu nhiều quả khổ,
những quả khổ ấy diễn
biến theo các thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.
Ví dụ: Các bạn
mắng chưởi một người nào đó thì
trong quá khứ
các bạn đã tức giận
hay thù oán người
đó. Vì có tức giận
hay thù oán các bạn mới chưởi mắng người khác được. Tức
giận là QUẢ QUÁ KHỨ, nhưng đang chưởi người là NHÂN HIỆN TẠI. Khi người bị các
bạn chưởi mắng lấy cây đánh các bạn; các bạn bị đánh đó là QUẢ VỊ LAI.
Vì vậy, nhân
quả luôn có mặt
trong ba thời: quá khứ, vị
lai và hiện tại, nó tiếp diễn trùng trùng duyên khởi, trùng
trùng duyên sanh và
trùng trùng duyên
diệt. Đó là một nhân có nhiều quả và một quả có nhiều
nhân. Vì thế, lý nhân quả duyên khởi, duyên sanh, duyên diệt rất cụ thể, rõ
ràng mà không ai dám phủ nhận rằng
không có nhân quả. Chỉ
trừ những người sống ảo tưởng thần thánh hoá một
đấng siêu hình tối cao có vạn năng sinh
ra vạn vật thì mới
không chấp nhận
nhân quả. Bởi vì chấp nhận nhân
quả thì làm sao có đấng tối cao ấy được. Phải không các bạn?
Nhân quả còn
là một đạo luật rất công bằng, công lý trong môi trường sống trên hành tinh này
như trên đã nói. Trên thế gian này không có một toà án nào xử phạt công bằng,
công lý hơn được. Vì đạo luật nhân quả xử phạt theo thiện ác của mọi người, mọi
loài sống trên hành tinh này.
Một hành động ác
là một nhân,
nhưng một nhân không thể có một quả. Các bạn nên xem xét lại
nhân quả thảo mộc thì sẽ
rõ. Một hạt đu đủ lên
thành cây, khi
cây cho trái không thể cho một trái mà cho nhiều
trái. Phải không các bạn?
Một người
ăn cắp khi bị bắt
người ta không đánh một bạt tai
mà đánh nhiều bạt tai và còn bị nhiều đấm, đá khác nữa. Đó là một nhân mà có
nhiều quả.
Một quả mà
có nhiều nhân như trái đu đủ. Các bạn có lưu ý quả đu đủ chưa? Trong quả đu đủ có nhiều hạt đấy các bạn ạ!
Xét nhân quả thảo mộc và con người thì không
khác nhau. Vì nhân quả là một định luật chung cho vạn vật trên hành tinh này
nên một nhân ăn cắp mà phải nhận lãnh nhiều quả bị đánh đập
không sao kể hết
và mỗi hành động bị
đánh đập liền phóng
xuất ra những
từ trường ác ấy. Do những từ trường ác này tương ưng những ai có tâm trộm
cắp như vậy thì hợp duyên làm con của những người này. Mỗi hành động bị đánh đập
là một nhân, một nhân sẽ thành một con người gian tham trộm cắp. Xét theo luật
nhân quả thì một người làm ác khi chết
không phải sinh ra một người ác mà
sinh ra nhiều người ác.
Một hành động
giết hại và ăn thịt chúng sanh tức là một nhân ác. Một nhân ác thì phải trả nhiều
quả khổ. Vì thế, quả giết hại và ăn thịt chúng sanh thì phải nhận lấy quả khổ
đau bệnh tật, nhiều thứ bệnh tật, chứ không phải một thứ bệnh tật
và còn tai nạn nữa,
không phải một tai nạn mà nhiều tai nạn không
thể tính hết được. Trong những quả
khổ đau ấy lại có những nhân từ trường nghiệp
ác để tiếp tục tái
sinh ra những loài vật đã bị giết hại
và ăn thịt. Cho nên, một người ăn thịt
gà là nhân, nhưng nhân ăn thịt gà
này không phải
sinh
làm một
con gà mà sinh ra nhiều con gà; cũng như ăn cá tôm thì phải sinh làm cá
tôm nhưng không phải một
con cá tôm mà nhiều con cá tôm. Giết hại và ăn thịt chúng sanh bao nhiêu thì phải sinh
ra bấy nhiêu và
còn nhiều hơn nữa.
Vì thế, trại nuôi
gia súc và ao
hồ nuôi
cá tôm phát triển càng nhiều để đáp ứng nhu cầu ăn uống dục lạc của con
người thì nghiệp ác của họ càng cao. Nghiệp
ác của họ
càng cao thì sự sinh khởi
diệt nghiệp quả
ác báo này lại càng cao hơn.
Nhưng nghiệp quả
ác báo này
không thể dừng lại đây, vì
nhân quả
ác ngút trời của
loài động vật, nhất là loài người. Vì thế, từ trường ác thải ra ngút
trời làm nhân
quả thời tiết vũ trụ chuyển động
thành thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bão tố, chiến tranh, khủng bố,
các loại bệnh
nhất là dịch cúm
gia cầm, chim
muông, heo, dê, bò, ngựa
v.v..
Cho nên, dịch cúm
gia cầm chỉ
là một hiện tượng nhân quả duyên
tan hoại của nhiều hiện tượng nhân
quả duyên tan hoại đang xảy ra trên hành tinh này.
Nếu con người
không biết chấm dứt những hành động cực
ác giết hại
và ăn thịt
chúng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!