“Tấc bóng thời
gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm
được không gì khó
Tấc bóng thời
gian khó hỏi han”
Lời nói đầu
“Người đi tu
mà không học là tu mù, người có học mà không tu như
cái tủ đựng kinh sách”. Người tu có học hiểu
mà không thưa hỏi kinh nghiệm của thiện hữu tri thức, tự kiến giải, tự tu
thì cũng giống như người đi lạc
trong rừng sâu chẳng biết đường ra. Cho
nên sự tu hành theo Phật giáo không thưa hỏi, không nghiên cứu thông suốt
giáo pháp tu tập thì trăm ngàn người đều tu
sai, tu
không tới nơi tới chốn, tu vô ích.
Tự kiến giải
tu, đó là một điều sai. Tu tập chưa tới
đâu, vội đem ra hướng dẫn người khác tu hành, thì cũng giống như người mù, dắt
một bầy mù đi. Tất cả đều có thể sa hầm lọt hố và chết chùm nhau cả đám trong rừng sâu, trong biển cả, trong sa mạc
v.v..
Tất cả những
người tu theo đạo Phật
hiện nay đều đang đi trên lộ trình này, đang lạc vào mê hồn trận của kiến giải, tưởng giải của
các Tổ, của kinh sách các Tổ biên soạn viết ra.
Ngôn ngữ
danh từ không đủ để diễn tả chính xác những
trạng thái kinh nghiệm tu hành.
Một khi, muốn hành động tu tập thân
tâm một điều
gì, thì cần phải thưa hỏi rất kỹ với một thiện hữu tri thức, một người tu hành
đã chứng đạt chân lí. Đừng vội vàng nghe
những lý thuyết suông của người tu hành chưa chứng đạt chân lí. Đó là sự kiến giải, tưởng giải của họ. Và các bạn cũng
đừng tự nghĩ cho rằng mình đã hiểu, rồi
cứ theo sự suy nghĩ hiểu biết đó mà tu tập, thì chẳng bao giờ tu tập có kết
quả, chỉ dậm chân tại chỗ hoặc thành bệnh mà thôi.
Sự tu tập như
vậy chẳng tu tập đến đâu, mà còn
dẫn đến chỗ tu sai lạc, nhất là sai lệch vào chổ thiền ức
chế tâm, rất là nguy hiểm có thể bị điên khùng, tẩu hỏa nhập ma, thường tu hành không tiến bộ, tu
mãi chẳng đi đến đâu, còn lại thêm bệnh tật
khổ đau, chỉ
uổng phí một đời tu, chẳng lợi
gì cho mình
cho người, còn hoài công vô ích.
Trong phần vấn
đạo vừa có lợi cho mình, vừa có lợi
cho người, khiến cho mình thông suốt đường lối và phương pháp cách thức tu tập, không còn nghi ngờ đường
lối và giáo pháp tu hành của Phật giáo là
sai lạc nữa, khiến cho tâm mình
tin chắc tu tập sẽ thành công, đến nơi đến chốn.
Bắt đầu tu tập
từng bước một, không vội vàng, không nôn
nóng. Mỗi bước tu tập là mỗi bước đi vững
vàng, mỗi kết quả cụ thể. Tu tập như vậy,
càng ngày càng thấy tiến bộ xả tâm rõ rệt, nhờ thế tu tập có kết quả như vậy, nên
khiến mình thông suốt, đâu là Chánh pháp của Phật và đâu là tà pháp của ngoại đạo.
Và cũng biết rất rõ tà giáo
ngoại đạo đang
xen lẫn trong giáo pháp của
đạo Phật. Biết
rõ như vậy, nên khiến cho mình vững vàng
niềm tin ở Chánh pháp môn của mình đang
tu tập.
Đó chính là
pháp môn của đạo Phật, chứ không còn sợ sai lạc vào tà pháp của ngoại đạo như trước kia nữa.
Từ lâu ai
cũng đang sống trong sự vô
minh, đen tối, mờ mịt, chẳng thấy rõ pháp môn nào của đạo Phật và
pháp nào của ngoại đạo. Nhiều khi chúng ta nhận lầm pháp môn của ngoại đạo (Đại
Thừa) là pháp môn của Phật. Đó là điều chắc chắn, mà không còn ai dám khẳng định
giáo pháp Đại Thừa là giáo pháp chân
chánh của Phật giáo.
Nhờ
có vấn đạo
ta mới thoát
khỏi
màn mây đen
tối của các pháp tà sư ngoại đạo đang phủ
mờ giáo pháp của Phật giáo từ bao thế kỷ nay.
Nhờ có vấn đạo
ta mới hiểu rõ, thế giới siêu hình và hữu
hình đều là thế giới tưởng (thế giới không có thật).
Nhờ có vấn đạo
ta mới rõ thế giới hữu hình và siêu hình
là thế giới tưởng của con người, nên mạnh tay đập phá cái thế giới siêu
hình mê tín đó, đã gây biết bao nhiêu sự
rắc rối, tạo biết bao nhiêu hao tốn
tiền của và đau khổ của loài người, cũng vì cái thế giới đó, khiến cho con
người đánh mất đạo đức nhân
bản – nhân quả, sống
không làm khổ mình, khổ người và khổ cả
hai.
Từ thế giới siêu hình đó, con người đã
mất đi sức tự
lực, chỉ còn lại một tinh thần yếu đuối tha lực, luôn luôn biết dựa
nương và cầu cạnh vào những hình ảnh trừu tượng, mờ ảo của những vị thần
linh, của những vị Bồ Tát tưởng tượng thuộc tưởng tri do sự hoạt động của tưởng
uẩn.
Bởi vậy,
chúng ta cần phải cảnh giác đừng để những
mánh khóe lừa đảo của các nhà học giả giàu tưởng tượng.
Nhờ vấn đạo
ta mới thấu rõ các pháp thế gian là
do duyên hợp, nên ta dễ
dàng buông xả thế giới hữu hình vật chất.
Nhờ vấn đạo
ta đã biết rõ thế giới chúng ta đang sống,
cũng chỉ là một thế giới tưởng của con
người. Nhưng chúng ta đang bị trí tuệ
u tối, vô minh che khuất từ biết
bao nhiêu đời kiếp, khiến cho con người lầm
chấp cho thế
giới chúng ta đang sống là thật có. Do cho thế giới chúng ta đang sống là thật
có nên dính mắc các pháp, chạy theo các
pháp, tạo biết bao điều ác độc đau khổ
cho mình, cho người và cho tất cả chúng
sanh, cũng vì thế mà con người chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi từ kiếp này
sang kiếp khác mãi mãi không bao giờ dứt.
Nhờ có vấn đạo,
ta mới biết cách tu tập xả ly, đoạn diệt
thế giới hữu hình và thế giới siêu hình. Chính nhờ ly dục, ly ác pháp của ý thức
và của tưởng thức mà thân tâm chúng ta mới được thanh thản, an lạc và vô sự.
Nhờ có vấn đạo ta mới thấu rõ thiền
định nào
đúng hoặc sai của đạo Phật,
không bị giáo pháp Bà La Môn lừa đảo.
Nhờ có vấn đạo
ta mới thấu rõ đạo
Phật có bốn
loại định:
1/ Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác.
2/ Định Vô Lậu.
3/ Định Niệm
Hơi Thở.
4/ Định Sáng
Suốt.
Khởi đầu tu
bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện
tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
Nhờ có vấn đạo
ta không rơi vào thiền ức chế tâm và tu tập đúng thiền xả ly
tâm,
nên thân tâm chúng
ta thường thanh
thản,
an lạc và vô sự như đất
trời bao la giải thoát .
Nhờ có vấn đạo
ta mới thông suốt “Tam Vô Lậu Học”. Đó chính là pháp môn của đạo Phật. Nhờ biết
chính pháp môn của Phật nên không bị tà
sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt
chúng ta được.
Cho nên vấn
đạo là một điều cần thiết cho những người
mới tu, cũng như người tu lâu năm. Người mới tu cũng cần phải thưa hỏi kỹ để tu tập đúng cách, đúng pháp, nhờ đó tu hành mới
có căn bản. Còn người đã tu lâu năm thì gặp nhiều trạng thái kỳ lạ, nhất
là tu
thiền tưởng, những trạng thái ấy xuất hiện, có khi đúng, cũng có khi
sai. Nếu không thưa hỏi kỹ thì rất có nhiều tai hại và
còn nguy hiểm đến tánh mạng là khác nữa.
Nên vấn đạo
có nhiều điều lợi ích rất lớn cho người mới tu, cũng như người tu lâu năm.
Trong giai
đoạn Phật giáo hiện nay, người ta bảo rằng Phật giáo có tám mươi bốn ngàn pháp
môn. Nếu không vấn đạo rõ ràng, chúng ta sẽ bị kinh sách phát triển lừa đảo bằng
84 ngàn pháp môn và bằng câu kinh
này:“Pháp pháp đều vô ngại và
dung thông”. Theo như kinh sách thì pháp nào cũng của đạo Phật, người có duyên
với pháp môn nào đều tu cũng tốt, cũng
được giải thoát, cũng được giác ngộ tùy theo căn cơ của mỗi người có thấp, có cao nên pháp môn tu hành nào cũng vậy. Đó là lối lý luận sai không đúng của Phật giáo. Đức
Phật dạy: “Ngoài
Bát Chánh Đạo
thì
không có
pháp môn nào của đạo Phật cả”.
Cho nên hiện
giờ, tất cả mọi người ai cũng tin lời
nói này, nhưng không ngờ đã bị lừa đảo, bỏ hết sự nghiệp, gia đình, vợ dại, con thơ, cha già, mẹ
yếu và cả cuộc đời mình, cuối cùng tu chẳng thấy gì là giải thoát, là
làm chủ sanh tử luân hồi,
đoạn diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi của mình.
Bởi vậy, kẻ
nào cho rằng tất cả các pháp môn đều tu cũng tốt, cũng được, cũng thiện, cũng được
giải thoát, cũng chấm dứt đau khổ và luân hồi,
thì đó là kẻ nông nổi, u mê,
không biết tai hại về sau như thế nào? Không trí tuệ, thiếu nhận xét, nhắm mắt
tin càng, tin bừa, để rồi phải ân hận về sau.
Nếu các pháp
tu đều tốt, đều thiện,
đều tu tập
có kết quả giải thoát như nhau, thì đạo
Phật ra đời để làm gì? Có phải bằng dư thừa không quý Phật tử?
Chúng ta nên
tìm hiểu, tại sao đức Phật tu các pháp môn của ngoại đạo, nhập
đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, nghiệm xét lại thấy thân tâm mình không giải
thoát, để rồi tự mình phải tìm ra một
giáo pháp, một đường lối, một đạo lộ tu tập đi đến giải thoát cứu kính làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà Lục Sư ngoại
đạo và các tôn giáo khác, thời bấy giờ không có pháp môn này.
Một giáo
pháp chỉ có 49 ngày tu tập, nhiệt tâm, quyết chí xả ly, lìa tâm ham muốn, từ bỏ
ác pháp, Ngài đã thành tựu đạo giải thoát, chứng quả Bồ đề.
Sáu năm trời khổ hạnh, Ngài tu tập
mọi loại
pháp môn ức chế tâm, nhất là pháp môn
hơi thở Ngài nín thở ức chế tâm
tối đa, tưởng chừng như Ngài sắp
chết. Nín thở Ngài tìm thấy pháp môn này không giải thoát, nên Ngài chuyển qua
pháp môn ức chế thân khổ hạnh tối đa,
ngày ăn bảy hạt mè hoặc một ít cháo đậu.
Vì tiết thực nên cơ thể kiệt quệ, Ngài đi hết nổi. Nhờ bát sữa dê, phục hồi cơ thể, Ngài tỉnh táo và tư
duy, biết các pháp ức chế thân tâm không thể tu tập đi đến giải
thoát được, Ngài từ bỏ và viễn ly các pháp đó.
Qua sự tu tập
của đức Phật, chúng ta rút tỉa ra được
những kinh nghiệm thực tế và cụ thể. Các giáo pháp phát triển cùng tất cả các
pháp môn của các tôn giáo trên thế gian
này, đi đến
kết luận không thể làm chủ sự
sống chết
và chấm dứt
luân hồi của kiếp
người.
Giáo pháp
Ngài tìm ra được, là một giáo pháp không giống bất cứ một giáo pháp nào của Lục
Sư ngoại đạo và các tôn giáo khác trên hành tinh này.
Vì thế, đạo
Phật ra đời, không nhai lại bã mía của các tôn
giáo khác. Pháp môn của Ngài đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục
ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm
nào cả.
Lấy tâm
nương hành động của thân nội và ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng
thái tĩnh lặng, ức chế tâm mà đi vào trạng
thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho
tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.
Từ đó suy
ra, ta
biết pháp môn của đạo Phật, không giống một pháp môn nào của ngoại đạo.
Vì thế, kẻ nào cho rằng 84 ngàn pháp môn là
của Phật giáo, kẻ đó quá si mê, u
tối bị tà giáo ngoại đạo lừa đảo
mà không biết.
Bởi vậy, vấn
đạo là một điều quan trọng hết sức trong giai đoạn Phật giáo hiện nay, khi giáo
pháp của đạo Phật đã bị pha trộn nhiều thứ pháp ngoại lai.
Vấn đạo khiến
chúng ta hiểu rõ, phần đông giáo pháp ngoại đạo, phi đạo đức, dạy người cầu tha
lực, thường mang đến tai họa
khổ
đau cho người
hơn là mang
đến hạnh
phúc. Vì hướng
dẫn con người đi vào cảnh giới siêu hình
mang đầy tính chất mê tín, dị đoan, thần
thánh hoá, lạc hậu v.v..
Cho nên,
trong vấn đề tu tập theo đạo Phật, vấn đạo
là điều cần thiết, để thăm dò các pháp môn, pháp nào đúng, pháp
nào sai, pháp nào tu tập có kết quả, cụ thể và thực tế.
Qua cuộc vấn
đạo trong bộ sách “Đường Về Xứ Phật”, quý vị đã được đọc, đừng vội vàng tin những
lời nói trong đây, mà hãy suy nghĩ kỹ, nếu
sách chỉ vạch chỗ phi đạo đức xét thấy
là thật sự phi đạo đức, chỗ lý luận sai mà thật sai, chỗ tu tập giải thoát mà
có giải thoát thật sự, chỗ mê tín lạc hậu,
đúng là chỗ mê tín lạc hậu thật
sự như
vậy thì quý vị hãy tin, còn ngược lại
thì quý vị đừng
nên tin, vì chúng tôi cũng chỉ là một người như quý vị.
Qua một cuộc
vấn đạo, chúng tôi trả lời chỉ muốn làm
sáng tỏ lại đạo Phật mà thôi. Bởi vì,
chúng tôi không muốn đạo Phật mất đi trên thế gian này, nhất là đạo đức
nhân bản - nhân
quả của đạo Phật.
Một đạo đức sống“không làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai”.
Nếu đạo Phật
mất đi thì loài người trên hành tinh này, chịu thiệt thòi một điều rất lớn, một tai họa không thể
lường được, một bằng chứng hiển
nhiên trên hành tinh này không
lúc nào mà chiến tranh chấm dứt. Con người
giết con người không gớm tay và không
thương xót, đó chỉ vì, đạo Phật có
mặt, nhưng đạo đức của đạo Phật đã mất
từ lâu.
Con người thiếu đạo đức làm
người, một đạo đức nhân bản -
nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Vì thế, trong khi khoa học lại tiến
triển phát minh, những vật chất phục vụ đời sống con người rất tiện nghi. Vì vật chất tiện nghi
này, tâm dục con người tăng trưởng, biến dần con người trở thành ác thú
hung dữ. Từ đó con người tự sát mà
không biết, tự làm khổ mà không hay, tự
chuốc họa vào thân mà không ngờ, nếu không có một đạo đức quân bình với khoa học thì quả địa cầu này, một ngày nào đó sẽ bị hủy diệt, bởi tâm tham đắm của con người.
Người muốn
tu theo đạo Phật cho đúng Chánh pháp của đức Phật, thì phải
chịu khó nghiên cứu cho kỹ các pháp môn, vì
kinh sách hiện
giờ, toàn là của các nhà học giả biên soạn,
đụng đâu viết đó theo sở thích của mình, không có kinh nghiệm tu hành, viết mà
chẳng thấy trách nhiệm của mình, chỉ biết
nêu tên tuổi (cầu danh). Họ đâu hiểu rằng soạn viết ra kinh sách như vậy
là để
lại một tai hại cho bao nhiêu thế
hệ con người sau này, như kinh sách phát triển hiện giờ.
Muốn soạn viết
kinh sách có lợi ích cho người đời sau,
thì phải có thực hành tu tập đến nơi đến chốn, đời sống phải có một đạo hạnh hẳn hoi,
phải nhập được các định, làm chủ được sự sống chết,
phải có Tam Minh, đoạn dứt các lậu hoặc, chấm dứt luân hồi sinh tử, thì
soạn viết kinh sách mới
có ích lợi thiết thực cho người đời sau, bằng
ngược lại là giết
người, không những
giết một đời người, mà giết nhiều thế hệ con người. Xin quý Phật tử
lưu ý những loại kinh sách đang được phổ
biến hiện hành.
Còn ngược lại,
tu hành chưa đến đâu, đời sống đạo hạnh chưa ra gì, đức hạnh không có, giới luật vi phạm, thiền định chỉ có hình thức ngồi thiền, sống với những cấp
bằng và những kiến giải suông, dựa vào sở tri và nhai lại bã mía
của người xưa viết soạn kinh
sách, thì loại kinh sách đó, là kinh sách giết người, giết cả bao thế hệ về tương
lai.
Phần vấn đạo
là phần rất quan trọng,
nên chúng
tôi muốn trả lời cho một câu hỏi
nào, đều phải đứng trên lập trường đạo đức
của đạo Phật mà trả lời.
Những câu trả lời của chúng tôi, đều góp ý xây dựng
lại nền đạo đức của Phật giáo đã bị tà
sư ngoại đạo đã biến đạo đức của Phật giáo, thành một thứ đạo đức
mê tín (nhân quả ba đời).
Thiền định của đạo Phật đã biến thành thiền định ức chế tâm, để nhập vào các
định tưởng, triển
khai tưởng tuệ, biến thành một loại
thiền miệng (khẩu đầu thiền). Còn loại thiền làm chủ sự sanh, già, bệnh, chết như Tứ Niệm Xứ; làm chủ
sống chết và chấm dứt luân hồi như
Bốn Thánh Định thì được xem là
thiền Tiểu Thừa, là thiền
phàm phu, là thiền ngoại
đạo. Thật là đau
lòng phải không quý
Phật tử?
Cuối cùng, chúng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh,
giới đức, đạo hạnh, vì con người trên
hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì đạo Phật, hãy vui lòng chỉ
dạy cho chúng tôi, những điều còn sai sót
và cùng chung với chúng tôi xây dựng lại
một nền đạo đức cho con người, để
không còn ai tự làm khổ mình,
làm khổ người thường mang đến cho mọi cá nhân con người một nguồn sống thanh thản, an lạc, vô sự và yên vui; một gia đình hòa hợp, hạnh phúc;
một xã hội có trật tự an ninh; một đất nước phồn vinh thịnh vượng; một thế giới hòa bình, an lạc. Và thắp
sáng lại ngọn đèn Phật giáo đang
bị những trận cuồng phong tà giáo thổi tới
tấp sắp bị tàn rụi.
Kính thưa các bậc Tôn túc! Quý Hòa Thượng, Thượng
Tọa, Đại Đức,
Tăng Ni cùng quý vị
nam nữ Phật tử bốn phương!
Phật giáo phát triển đã hoằng truyền một thời gian
quá dài hơn 2500 năm không đủ để chúng ta xác định giáo pháp phát triển là một
giáo pháp phi đạo đức, phi chân lí; một giáo pháp đầy mê tín, dị đoan,
ảo tưởng; một giáo pháp lừa đảo mọi người tu hành chẳng có kết quả giải
thoát, chỉ tu danh, tu lợi, tu cấp bằng, tu chùa to, Phật lớn, tu trong dục lạc
thế gian sao?
Vậy,
kính xin quý vị Tôn
túc Hòa
Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức,
Tăng
Ni và nam nữ Phật tử bốn
phương đại
diện Giáo Hội Phật Giáo xem xét quán triệt đình chỉ ngay những kinh sách
phát triển là giáo pháp không phải Phật thuyết, để triển khai kinh sách Nguyên Thủy xây dựng
chương trình giáo dục đào tạo tám lớp (Bát Chánh Đạo) để giảng dạy đạo đức nhân bản – nhân quả sống
không làm khổ mình, khổ người cho mọi
người.
Kính ghi
Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Ngày 5-11-1998
TRÍ VÔ HẠN VÀ
HỮU HẠN
Câu hỏi của Viên Minh
Hỏi: Kính thưa Thầy! Xin Thầy dạy cho con hiểu trí hữu hạn và vô hạn?
Đáp: Có lần Thầy đã giảng về trí hữu hạn và vô hạn rồi.
Trí hữu hạn
là sự hiểu
biết có giới hạn,
không vượt ra ngoài
không gian và thời gian. Trí hữu hạn chỉ là sự hiểu biết
trong thế giới hữu sắc mà
thôi, sự hiểu
biết còn bị hạn
cuộc trong không
gian và thời
gian như trên đã
nói, nên sự hiểu biết rất cạn cợt. Vì thế,
thỉnh thoảng các
nhà khoa học
tìm kiếm hay phát minh ra một vật thể gì mới lạ thì con người hết sức vui mừng. Đó là một
bằng chứng cho biết trí hữu hạn, sự hiểu biết rất hạn cuộc.
Đối với thế giới siêu hình, trí hữu hạn không thể nào hiểu biết nổi.
Phần đông, người ta dùng tưởng
tri để hiểu biết
nên đã lầm lạc.
Do đó,
tưởng tri của con người
cho rằng con người có
Linh hồn, Thần thức,
Tiểu ngã, Phật tánh, Bản thể Vạn hữu, Đại ngã, Chơn Không, Chơn Như, v.v.. Người chết
oan ức, chết bất đắc kỳ tử, linh hồn không
đi đầu thai
được, không
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IV
chỗ
nương tựa, sống vất vưởng
theo cây cao bóng
mát, thành ma, thành
quỷ, đói khát bắt
bớ người
còn sống, bệnh
đau hoặc tai nạn để
được cúng bái, tế lễ. Những người làm tướng xông pha trận
mạc dẹp giặc bảo vệ non
sông, đất nước, khi chết linh hồn thành Thần, thành Thánh. Những
người bỏ thế tục ly gia
cắt ái vào rừng
sâu núi thẳm
tu hành, đến
khi chết linh hồn thành Tiên, thành Phật, v.v..
Phải nói trí hữu
hạn, chỉ là sự hiểu
biết của con người trong
hạn cuộc không
gian và thời gian.
Ngăn sông cách
núi thì không thấy, tương
lai thì không rõ,
quá khứ, cách một đời, hai đời thì không biết, không nhớ.
Chỉ có trí vô
hạn mới hiểu
biết thế giới siêu
hình, không gian
và thời gian
không còn hạn cuộc.
Trí vô hạn tức là trí
tuệ Tam Minh của nhà Phật. Muốn
có trí vô hạn,
chúng ta phải chịu
khó tu tập,
trau dồi thân
tâm và xa lìa vật chất dục lạc thế gian, thường
tránh xa các ác pháp (ly dục, ly ác pháp).
Người tu theo
Phật giáo, phải
tu tập theo lộ trình, “Giới, Định, Tuệ” và nhập bốn
loại định hữu sắc, “Sơ Thiền, Nhị Thiền,
Tam Thiền, Tứ Thiền” tức là tịnh chỉ ngôn hành, tịnh chỉ khẩu hành,
tịnh chỉ tưởng
hành và
tịnh chỉ thân
hành. Khi đó, thân định trên tâm,
tâm định trên
thân, rồi hướng
tâm đến Tam Minh, tâm đã viên mãn
Tam Minh, thì trí vô hạn mới có.
Mục đích để đạt được trí vô hạn, hành giả phải nhập
“Bất động tâm định”.
Muốn nhập bất động tâm định,
hành giả
phải sống đúng giới đức và giới hạnh của đạo Phật. Nếu
sống không đúng giới đức và giới hạnh, thì dù quý vị có tu pháp thiền định nào
cũng chẳng có trí vô hạn, duy chỉ có pháp môn “Tam Vô Lậu Học”, tu tập mới có
trí vô hạn mà thôi.
Tam Vô Lậu Học là pháp môn chia làm ba giai đoạn
tu tập hay
còn gọi là ba
cấp tu
học trong chương trình giáo dục
đào tạo của Phật
giáo:
1- Tu tập đức
hạnh không làm khổ mình, khổ người tức là ly dục ly ác pháp.
2- Tu thiền định tức là phải nhập từ Sơ
Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đến Tứ Thiền.
3- Tu tập
Tam Minh tức
là hướng tâm đến Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu
Tận Minh.
Sau khi tu tập xong ba giai
đoạn này thì trí vô hạn hiện tiền.
KIẾN GIÂI
Câu hỏi của
Viên Minh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nhà thiền
gọi
người tu rơi
vào kiến giải,
là như người
chết mà như hồn phách chưa tan. Người tu như vậy có nhập định được hay
không?
Không nhập vào được định là
do thân tâm yếu
hay nghị lực không
có, hoặc bị trạng
thái nào cản trở mà không thể vượt qua được? Hay là
tu đến đó
không còn cách
nào tu tập được nữa?
Đáp: Người tu hành rơi vào “kiến
giải” là người tu thiền theo
ngoại đạo, tu tập thiền định
ức chế tâm
“dừng vọng tưởng”.
Khi vọng tưởng dừng, hành giả rơi vào định tưởng (Không Vô Biên Xứ Tưởng),
từ đó triển khai tưởng tuệ, được
xem như hành giả
tu đến đây có những “tiểu ngộ” hoặc “đại ngộ” về những công
án và các
kinh sách phát
triển. Trên lộ trình này,
hành giả tiếp tục đi
sâu vào trạng thái
tĩnh lặng, vượt
qua không vô
biên xứ, nhập vào trạng thái thức
vô biên xứ, trạng thái
này hành giả
“triệt ngộ” (ngộ tất cả
các công án và kinh sách phát triển).
Các loại thiền định này, không phải là thiền định xả
tâm của đạo Phật (ly dục ly ác pháp) nên đắm chìm trong các pháp thế
gian, tâm còn say mê
ăn, uống, ngủ,
nghỉ phi thời v.v.. và
còn ham thích chùa to, tháp lớn, danh tiếng vang lừng. Vì tâm dục
và ác pháp
không trừ, nên con đường
tu tập không
thể nhập vào Chánh định, chứ không phải thân tâm và
nghị lực yếu kém.
Vì đã rơi
vào kiến giải,
tưởng mình như đã tu chứng, do đó
bản ngã to lớn ra, cũng từ đó đường tu chấm dứt, chỉ còn biết lợi dụng kiến
giải này, để
buôn Phật, bán
Pháp, làm cho cuộc sống danh lợi càng
ngày càng phát triển to lớn như một
lãnh chúa.
Hạng tu
sĩ này họ
đâu biết rằng,
kinh sách kiến giải của họ soạn viết
ra, là đã giết biết bao nhiêu thế hệ con người đã
qua. Những kinh sách kiến giải này, đã
đưa những người tu sĩ Phật giáo
đi đến chỗ “Đời chẳng
ra Đời, Đạo chẳng ra Đạo”.
Giới luật chẳng
nghiêm túc, đạo hạnh chẳng có gì, oai nghi tế hạnh thì thô tháo, ăn,
nói, cười cợt không đúng cách, khiến mọi người
nhìn thấy tu
sĩ Phật giáo
mà đau lòng.
Những kiến giải
này, được phổ biến sâu rộng, trong mọi từng lớp con người ở xã hội, khiến cho mọi người đều
sống trong tưởng tuệ. Sống trong một thế giới mơ hồ, trừu tượng, ảo ảnh
Phật tánh, Thượng Đế, Thần linh, v.v.. Họ đã
dẫn dắt bao nhiêu
thế hệ con người
đi vào thế giới
siêu hình, đến chỗ mê
tín, cuồng tín, lạc hậu. Từ đó
ông lên, bà xuống, bói khoa, bùa chú, trị bệnh,
trừ tà, ếm quỷ, cúng
bái, cầu khẩn, tế tự, xin
xăm, bói quẻ,
xem ngày tốt xấu, ngồi thiền nhập định tưởng, v.v..
Từ chỗ kiến
giải đưa người
tu sĩ chơn chánh
của đạo Phật trở thành
những tu sĩ của ngoại đạo, rồi tiếp tục lừa đảo, lường gạt
tín đồ, bằng những hình thức tu hành ức
chế tâm, tạo ra thế giới siêu hình tưởng,
trừu tượng, ảo ảnh, mê tín dị đoan khiến bao nhiêu người hao tiền, tốn của mà
chẳng ích lợi gì.
Kiến giải là một
tai hại rất lớn
cho người tu sĩ chân
chánh, tưởng là
thông suốt giáo
lý kinh sách, thiền ngữ, nào ngờ sự thông suốt ấy lại là một tai họa hiểm
nghèo cho kiếp đời tu
sĩ, đi
đến bước đường
cùng của sự
tu tập. Tu đến
đây kể như đời họ chấm dứt,
ngoài danh lợi họ không còn thấy
gì khác hơn với một số ngôn ngữ bã mía của người xưa, họ chỉ biết cắm
đầu vào những
kiến giải đó mà thôi. Bởi vậy, người tu sĩ chơn chánh, quyết tìm tu giải thoát
cho cuộc đời mình, thì rất sợ kiến giải.
Kiến giải không
phải là trí tuệ
hiểu biết chân thật mà là tưởng
tuệ, phát triển theo chỗ ức chế tâm của thiền định tưởng.
Cho nên, trong nhà thiền gọi ngườøi tu rơi vào kiến
giải như người
chết mà hồn
phách chưa tan là vậy.
Người tu theo đạo Phật phải cảnh giác, phải nghiên
cứu kỹ các loại thiền
định: loại thiền định nào
ức chế tâm
là loại thiền
định rơi vào kiến
giải, chỉ có thiền định của đạo Phật là Bốn Thánh Định, là loại thiền định
xả tâm. Vì thế, thiền định này không rơi vào kiến giải và đưa hành giả đến nơi
giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử.
Bởi vậy, người
tu sĩ cần phải lưu
ý, khi tâm thanh tịnh, tức là vọng
tưởng vắng bóng trong lúc tọa
thiền, thường phát
khởi niệm kiến giải, cảm thấy như
mình thông suốt nghĩa lý kinh sách và
công án, thì coi chừng bị ma pháp tưởng. Đây
không phải là
trí tuệ mà chính là ma tưởng.
Người tu sĩ
đã bị ma tưởng cũng giống như người chết chưa chôn. Do ma tưởng nhập, vị tu sĩ
này bản ngã ngày một to lớn hơn, họ đang nuôi
bản ngã ngược
lại với đạo Phật diệt
ngã xả tâm.
Từ chỗ tu
theo đạo Phật, họ đã trở thành tu
sĩ ngoại đạo
mà không biết,
cứ tưởng mình là
tu sĩ Phật
giáo. Hiện giờ
tình trạng tu sĩ Phật giáo là như vậy.
Tóm lại, người tu sĩ Phật giáo phải cảnh giác với
trí tuệ này, vì trí tuệ này là trí tuệ tưởng,
được xem như là một
trí tuệ nguy hiểm nhất, dẫn dắt chúng
ta vào con đường
phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, bế tắc sự tu tập giải thoát, chứ
không phải trí tuệ
giải thoát của Phật giáo. Xin các Phật tử hãy lưu ý cảnh
giác xa lìa.
THIỆN PHÁP
Câu hỏi của Viên Minh
Hỏi: Kính thưa Thầy! Người mới vào tu thiền định,
giai đoạn cơ bản và sơ cơ của người
mới tập tễnh vào
thiền định. Vậy Sơ Thiền
có phải theo lời Thầy dạy: Trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng đều sống
trong thiện pháp, tức
là tu tập
Tứ Chánh Cần, thường ngăn ác diệt ác pháp và khởi thiện
tăng trưởng thiện pháp.
Thưa Thầy! Diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp cho thật
sạch thì thân, thọ, tâm, pháp của người
đó có thanh tịnh. Phải không thưa Thầy?
Đáp:
Đúng vậy, Thầy dạy người
mới sơ cơ tu tập
thiền định cơ bản, lúc nào cũng phải sống trong
thiện pháp. Muốn sống
trong thiện pháp, thì phải tu tập Tứ
Chánh Cần, tức là
ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp,
chứ không phải
ngồi thiền nhiều, ức chế tâm, dừng vọng diệt vọng như
kinh sách phát triển và Thiền Đông Độ dạy.
Đó là đường lối tu tập
thiền định của đạo Phật
mà trong kinh sách Nguyên Thủy dạy
rất rõ ràng: “Định Tư Cụ là Tứ Chánh cần”.
Câu hỏi thứ hai: Hành giả mới diệt ngã xả tâm, ly dục
ly ác pháp cho thật
sạch thì thân, thọ, tâm, pháp của
người đó có thanh tịnh hoàn toàn chưa? Hành giả diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác
pháp cho thật sạch thì thân, thọ, tâm, pháp của
người đó mới được thanh
tịnh chứ chưa
hoàn toàn chỉ
mới nhập được Bất Động Tâm, làm chủ được tâm, tâm mới được thanh thản, yên tịnh
và vô sự. Chính tâm mới được thanh thản,
yên tịnh và
vô sự là thiền định
sơ khởi của đạo Phật.
Con nên
ghi nhớ và
phân biệt thiền
của đạo Phật và Thiền Đông Độ, Thiền của Phật là chỗ tâm hết tham, sân, si, chứ không phải
chỗ hết vọng tưởng;
còn thiền Đông Độ và
kinh sách phát triển là chỗ hết vọng tưởng.
Người mới nhập Bất Động Tâm Định, chỉ làm chủ được đời
sống (sanh y), chứ chưa làm chủ được thân, có nghĩa là làm chủ sanh, già, bệnh, còn làm
chủ sự chết
chưa được, phải đợi nhập xong Tứ Thiền. Con nên nhớ Bất Động
Tâm Định chỉ có ly dục ly ác pháp, chứ chưa có diệt dục và diệt ác pháp. Vì vậy
thân, thọ, tâm, pháp chưa làm chủ trọn vẹn, tức là lậu hoặc chưa xả
sạch, còn phải
trải qua một thời
gian tu tập nữa.
Đây là giai đoạn đầu tiên của người mới tu tập Tam
Vô Lậu Học
“Giới, Định, Tuệ” mà giáo pháp của đức Phật đã chỉ dạy rõ ràng.
Thế mà người đời
nay chẳng tu
theo Chánh pháp của Phật, lại chạy theo
tu giáo pháp của
ngoại đạo (Thiền Đông Độ và
giáo pháp phát
triển).
Cho nên, tu
mãi mà chẳng làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chấm dứt sanh tử luân hồi. Họ chỉ sống
trong ảo tưởng (Phật tánh, Tánh không, Tánh biết, Tánh nghe, Tánh Thấy và những
trạng thái xúc tưởng hỷ lạc).
Tâm ly dục ly ác
pháp là tâm mới thực hiện
được sự thanh
tịnh giới luật,
tức là giới luật nghiêm tịnh, không còn vi phạm một
lỗi nhỏ nhặt nào.
Còn muốn thân,
thọ, tâm, pháp thanh tịnh thì phải
tu tập “Tứ Niệm Xứ”. Khi tu
tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì Tứ Thần Túc xuất hiện, nhờ Tứ Thần Túc chúng ta
mới nhập “Tứ Thánh Định và thực hiện Tam
minh”, tức là tu tập hai giai đoạn sau: “Định
và Tuệ”.
Muốn diệt lậu hoặc cho sạch, tức là ngũ triền cái
và thất kiết sử thì phải
tu tập Tứ Niệm Xứ rồi nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam
Thiền, Tứ Thiền và thực hiện Tam Minh mới làm
chủ được thân, thọ nghĩa là
thân, thọ mới được thanh tịnh, tức
là bệnh tật, sống, chết đã được tự tại theo ý muốn (bệnh, tật, sống, chết không
còn chi phối thân, tâm).
Muốn chấm dứt
sanh tử luân hồi, diệt sạch
gốc lậu hoặc
(không còn đi
tái sanh luân hồi nữa)
thì phải tu tập
Tam Minh quét sạch
gốc lậu hoặc, mới làm chủ tất cả các pháp.
Theo đường lối
tu tập của đạo Phật, phải nhập từ Sơ Thiền, Nhị Thiền đến Tứ Thiền, thì
thân, thọ thanh
tịnh, rồi tiếp tục thực
hiện Tam Minh mới dễ dàng. Thực hiện Tam Minh xong thì mới làm chủ được sự sống
chết hoàn toàn, còn diệt ngã xả tâm,
ly dục ly ác pháp, thì hành giả được tâm bất động giải
thoát. Diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp
chỉ là mới nhập được tâm Bất Động Định, giai đoạn thứ
nhất trong đường lối tu tập của Phật giáo. Nhưng đó là
đạt mục đích
giải thoát của Phật giáo
làm chủ trong thân.
Vì thế, hành
giả còn phải
tu tập và trải qua nhiều giai đoạn thử thách ngoại ma và nội
ma, nếu vượt
qua những giai đoạn này,
thì tâm định trên
thân, thân định
trên tâm chừng đó hành giả
mới dễ dàng thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh.
Khi thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh thì tâm mới
vô lậu hoàn toàn. Tâm vô lậu hoàn toàn
thì mới chấm dứt
tái sanh luân hồi. Tu theo
Phật giáo đến
đây mới thành
tựu viên mãn, chỉ còn một kiếp
này nữa mà thôi.
PHẬT TÁNH
Câu hỏi của Viên Minh
Hỏi: Kính thưa Thầy! Thiền Tông gọi Phật tánh. Phật
tánh có phải là ý thức hay không?
Công án thiền có câu chuyện thiền ngữ: “Con chó có
Phật tánh không?”, nếu có Phật tánh, tại sao lại
chui vào cái
đãy bẩn thỉu để
làm gì
cho khổ? Cầu mong Thầy chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Câu này có hai câu hỏi, nhưng rất liên hệ với
nhau (tuy hai mà một). Câu hỏi một, trong tất cả kinh sách Đại Thừa đã xác nhận
ý thức, không niệm
thiện niệm ác,
là “Phật tánh”. Kinh
Kim Cang dạy: “Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Bồ tát độ
hết chúng sanh thì thành Phật”, kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Tánh thấy, tánh
nghe, tánh biết và chủ, khách”,
kinh Pháp Bảo
Đàn dạy: “chẳng niệm
thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”, v.v..
Đó là chỉ
cho ý thức
chẳng khởi niệm, kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông
cho trạng
thái đó
là “Phật tánh”.
Cho nên, câu công án “con chó
có Phật tánh
không?” đó là
công án của Thiền Sư Triệu Châu.
Một hôm, có một thiền Tăng đến hỏi Ngài:
“Con chó có Phật tánh không?”. Ngài
đáp: “có”. Vị thiền
Tăng lấy làm lạ hỏi lại: “Có Phật tánh tại sao nó lại chui vào đãy da bẩn thỉu để làm gì
cho khổ?”.
Phật
tánh là một
“tánh giác”, tánh
giác là tánh sáng
suốt, không có
si mê, thế mà
không sáng suốt lại chui
vào đãy da uế
trược, hôi thúi. Nếu
theo ý thức
phân biệt thì đây
là một điều vô lý hết sức.
Còn Thiền Tông, cách thức lập công án, có nghĩa là khiến cho
người ta bặt đường suy nghĩ;
bặt đường suy
nghĩ, thì ý thức
không hoạt động; ý thức không hoạt động thì niệm thiện niệm ác không có;
niệm thiện niệm ác không có thì trạng thái đó Thiền Tông và kinh sách phát
triển cho đó là Phật tánh. Mục đích câu công
án trên giúp
cho người tu thiền
định không suy tư phân biệt được để nhận ra gọi là “ngộ” trạng thái này thành Phật
“kiến tánh thành Phật”. Ngược lại, trong kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Ý thức
thanh tịnh (chẳng niệm thiện niệm ác), không liên hệ
năm căn
(vô phân biệt)
thì hành giả rơi vào không vô biên xứ định”, một loại định
tưởng vô sắc của ngoại đạo trong bốn loại định tưởng. Thời đức Phật còn tại thế,
Ngài đã được ngoại đạo dạy và
đã thực hiện
được các loại định này đến nơi đến chốn, nhưng không
tìm thấy có sự giải thoát gì trong đó và cũng không tìm thấy “Phật
tánh” ở đâu,
nên Ngài bỏ các
pháp môn
này, trở lại
tìm lộ trình Tứ Thánh Định.
Cho nên, đức Phật đã xác định: “Chỗ không niệm thiện
niệm ác không phải là Phật tánh, mà là Không vô biên xứ định tưởng”. Các nhà tu
hành hệ phái phát triển và Thiền
Đông Độ đã lầm lạc ở trạng
thái này, nên dựng nó
thành “Phật tánh,
Thần thức”. Bồ Đề Đạt Ma gọi là
“Tâm”, Lục Tổ Huệ Năng gọi là “Bản lai diện mục”.
Khi tu đến đây,
các Thiền Sư Trung
Hoa và các Thiền Sư Thiền Trúc Lâm Yên Tử (Việt
Nam) sau này không
chấp nhận, cho “Vô
tâm còn cách một lớp rào”.
Họ lấy tưởng
thức làm Phật tánh, vượt qua trạng thái không vô biên xứ định tưởng nhập
vào thức vô
biên xứ định tưởng, ở trạng thái
này họ tưởng, thấy các pháp chỉ là “một”
chứ không hai (bất nhị) nên
trong Thập Mục Ngưu Đồ gọi là “Phản bổn hoàn nguyên”
hoặc còn gọi là “Bản thể vạn hữu”.
Bà La Môn
Giáo cho đó là “Đại ngã”, kinh sách Nguyên Thủy Phật giáo cho đó
là “Thức vô biên xứ tưởng”.
Như vậy Phật tánh chỉ là ý thức không niệm thiệân niệm
ác. Giả dụ nếu Phật tánh có thật đi nữa mà không làm chủ sanh, già, bệnh, chết,
không chấm dứt được sự luân hồi tái sanh thì chúng ta cũng ném bỏ như đức Phật
đã ném bỏ các pháp ức chế
thân tâm và bốn định vô sắc tưởng của ngoại đạo, như ném bỏ một
chiếc giày rách.
Trong thế kỷ thứ hai mươi, Thiền Tông đã phát triển
cao độ, người theo
tu có hằng vạn
triệu, nhưng nhìn
lại ai là người đã
tu tập thiền định này mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết chấm dứt luân hồi chưa?
Nếu một loại thiền định tu tập mà không làm chủ sanh,
già, bệnh, chết mà chỉ có đạt được trạng thái tĩnh lặng và khinh an cùng một số
ngôn ngữ đối đáp lý luận và trực
giác biết chuyện quá
khứ vị lai của người
khác, người tu
hành đạt được
như vậy để làm
gì? Kính thưa
quý Phật tử!
Quý Phật tử hãy trả lời đi!? Để làm sáng tỏ pháp môn tu hành của Phật
giáo.
Kính thưa quý vị! Điều này quý vị cần suy ngẫm kỹ, thời gian
làø thước đo của sự xác
chứng nghiêm chỉnh
về sự chứng
đắc của các loại thiền định giáo pháp phát triển này,
riêng chúng tôi có nói gì, xin quý vị đừng tin mà hãy tự xét, tự kiểm lại
mình trên bước đường tu tập theo kinh
sách phát triển và Thiền Tông.
VÔ MINH
Câu hỏi của Viên Minh.
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Ngồi
tu chỉ một niệm
“gục” là tâm
người ấy bị
vô minh che đậy.
Nếu trong một tháng
mà tu không
một niệm “gục”, thì tâm người ấy đã được thanh thản. Nếu
con tu mỗi lần
10 hơi thở,
con xả nghỉ một phút
và tiếp tục tu
30 phút, như vậy con không bị “gục”. Khi xả nghỉ
tâm con có lúc nhẹ nhàng, nếu
con cứ tu như vậy, con còn
bị vô minh che đậy nữa không? Cầu
xin Thầy chỉ
dạy.
Đáp: Nếu con tu
tập không bị “gục” và thất
niệm thì con đã phá sạch
vô minh, chỉ vì
thời gian
con tu hiện giờ
còn ngắn lắm,
chỉ cách khoảng 10 hơi thở xả nghỉ một phút, sức tỉnh thức chưa kéo dài
được, nhưng con khéo thiện xảo tu
như vậy và
siêng năng không biếng
trễ niệm “gục”
và thất niệm
không có, thì sức tỉnh thức
sẽ cao độ, thời gian sẽ chiếm trọn ngày
đêm, lúc bây giờ vô
minh bị quét sạch.
Vốn chúng ta sanh ra đời, mang nghiệp thân nhân quả
khổ đau này, do từ nơi vô minh. Nếu quét sạch vô minh, thì chúng ta đã giải
thoát hoàn toàn, đâu còn gì phải tu nữa. Chính vì phá
vô minh, mà đạo Phật dạy ta
tu tập, nhắm vào sức tỉnh giác. Từ
Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở, đều phải tu trên Thân Hành Niệm, lấy mọi hành động của thân tu tập để tạo sức tỉnh thức,
do tu như vậy nên không bị niệm “gục”. Nhưng con cũng nên nhớ: chỉ có giới luật
nghiêm túc thì niệm “gục” mới không thăm
con, như lời Phật đã dạy.
Hiện giờ niệâm “gục” đến thì nên dùng pháp Thân Hành Niệm mới quét sạch, ngoài
pháp môn Thân Hành Niệm khó mà thắng niệm “gục”.
Tỉnh thức có thì
vô minh
không có, cho nên
người tu còn gục và thất miệm
là chưa có
sức tỉnh
thức. Do tu sai
pháp, tu quá sức,
ngồi nhiều, không đi kinh hành, không tu trong mọi hành động.
Sức tỉnh thức
chưa có thì vô minh còn;
vô minh còn
thì tham, sân, si
còn; tham, sân, si
còn thì ác pháp
còn; ác pháp
còn thì tâm dục còn; tâm dục còn
thì chưa giải thoát.
Muốn phá vô minh mà hành giả cứ tìm kiếm học hỏi và
nghiên cứu, để được thông suốt giáo lý kinh
điển thì hành giả
đó, chỉ là học
giả, vô minh lại càng vô minh hơn. Đừng nghĩ rằng học hỏi nghiên
cứu thông suốt
tam tạng kinh điển là hết vô
minh. Đó là một điều nghĩ
sai.
Các Thiền Sư,
các nhà học
giả, họ là những ngườøi thông suốt kinh sách, lý luận
sắc bén, đối đáp như gió thổi, nhưng đối với đạo Phật, họ
là những kẻ
vô minh, chỉ
vì chưa có sức tỉnh thức, còn “Gục”.
Các pháp môn
tu tập thiền
định của đạo
Phật, được chia
làm hai loại rất rõ
ràng và cụ thể:
1- Các pháp môn tu tập Tỉnh thức.
2- Các pháp môn tu tập Chánh niệm.
Vấn đề tu tập,
quan trọng trong đạo Phật, là phải tu tập như thế nào, để phá sạch vô minh?
Vì biết rõ do
vô minh, nên nghiệp lực của con người,
tiếp tục mãi
tái sanh luân hồi và chịu biết bao đau khổ từ kiếp này sang kiếp
khác.
Muốn chấm dứt khổ đau thì phải đoạn dứt vô minh.
Vì thế, đường
lối của đạo Phật, bắt đầu phải tu tập pháp nào trước. Vì đức Phật
là hành giả tu tập các pháp môn của ngoại đạo, không đạt được giải thoát, nên
Ngài đã quá thông suốt, khi dạy
người tu thiền
định, bắt đầu phải thực hành pháp
môn trước tiên: là “Thân Hành Niệm”. Thân Hành Niệm, tức là nương theo hành
động của thân nội và ngoại để tập tỉnh thức, nhờ có tỉnh thức tâm mới phá vô
minh, tức là tâm luôn tỉnh thức trong Chánh niệm (Thân niệm), nên đức Phật ghép
hai danh từ này lại thành một tên thiền định của đạo Phật “Chánh
Niệm Tỉnh Giác Định”. Một loại
định xả tâm diệt
ngã, ly dục ly ác
pháp, mang đến cho hành
giả từng phút,
từng giây giải thoát.
Pháp môn Chánh niệm tỉnh giác định là một pháp
môn trong bốn
pháp môn để
tu tập
ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, nên có tên gọi là “Tứ Chánh Cần”, một
pháp môn ngăn ác, diệt ác tuyệt vời, luôn sống
trong thiện pháp,
an vui trong
thiện pháp, khiến cho
hành giả có một tâm hồn
thanh thản, an lạc và vô sự.
Để tiếp tục pháp
thứ hai, con đường
của đạo Phật diệt
ngã xả tâm,
ly dục ly ác pháp hành giả tu tập “Định Vô Lậu” để triển
khai tri kiến giải thoát.
Muốn tu tập
Định vô lậu, hành giả phải có sự tỉnh thức
khá cao, dùng sức tỉnh thức
đó quán xét nhân
quả trong mỗi
tâm niệm, mỗi đối tượng, mỗi sự việc và mỗi hoàn cảnh.
Từ đó sẽ thấy các pháp vô thường như thật, khổ như thật, vô ngã và bất tịnh như
thật.
Trên đường
tu tập, nếu
con tu đúng như lời dạy trên đây, thì phải tu tập kế tiếp
những pháp môn sau
đây: Định Niệm
Hơi Thở và Định Sáng
Suốt, vì các loại định
này rất cần thiết
để đẩy lùi các
chướng ngại pháp.
Do đẩy lùi các chướng ngại pháp thì mới phá sạch vô minh. Nhờ đó con không còn gục và thất
niệm nữa, từ đây về sau tâm hồn con thanh thản, an lạc và
vô sự. Từ
đó một niềm
vui vi diệu của
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP IV
đạo Phật
xuất hiện mà
không tìm nơi đâu có
được.
NHƯ LÝ TÁC
Ý
Câu hỏi của
Viên Minh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nếu con tu
pháp hướng tâm như
lý tác ý (ám thị), luôn
không dứt “Tâm như đất”.
Giai đoạn đầu
con tu còn vọng tưởng khi hướng
tâm (ám thị), tuy vậy con vẫn ám thị
luôn không dứt,
như thế lâu
ngày tâm con có hết tham, sân, si
không ? Xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Muốn
hướng tâm như
lý tác ý (ám
thị) “Tâm như đất” có hiệu quả,
nghĩa là tâm hết
tham, sân, si thì không
phải chờ hết vọng
tưởng, mà ở chỗ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh: ăn, ngủ, độc cư, sống trầm lặng
một mình. Thường sống biết nhẫn nhục, tuỳ thuận, bằng lòng. Đó
là vừa hướng
tâm “ám thị”,
vừa lấy giới luật
phòng hộ sáu
căn, vừa sống lập đức lập hạnh, do tu đúng như vậy, thì tâm lần
lượt sẽ thanh tịnh,
tức là lần lượt
tâm ly dục ly ác
pháp cho đến thanh tịnh hoàn toàn (tham, sân, si bị quét sạch).
Phải nhớ
trong đạo Phật, duy nhất pháp hướng tâm là một pháp môn mầu nhiệm tuyệït vời, nếu
siêng năng tu tập và giữ đúng
giới luật, đừng vi phạm một lỗi lầm nhỏ nào thì kết quả pháp
hướng tâm này
có đủ năng lực (đạo lực)
điều khiển, truyền lệnh làm chủ
thân tâm (nhân quả), giải
thoát sanh, già, bệnh, chết hoàn toàn. Nếu con có đủ niềm tin ở pháp
môn tác ý này, thì hãy cố gắng hằng ngày đừng sao lãng lúc
nào cũng nhớ hướng tâm:
“Tâm như đất ly tham, sân, si cho
thật sạch; tham, sân, si là pháp ác, là đau
khổ”.
Xưa Đức Phật cũng
nhờ pháp này diệt
ngã xả
tâm, đi đến cứu kính
giải thoát hoàn toàn, thời nay Thầy cũng nhờ nó mà tâm hồn
được thanh thản, an lạc.
Vậy các
con có đủ niềm
tin chăng? Nếu đủ thì các con hãy
siêng năng hằng ngày tu tập đừng nên biếng trễ tác ý.
PHƯỚC HỮU LẬU
Câu hỏi của
Viên Minh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Câu chuyện Bách Trượng và
ông già chồn,
vì không hiểu
nhân quả nên ông
già chồn phải đọa 500 kiếp
làm thân chồn. Về câu chuyện này, các nhà học giả xưa và nay ai cũng biết.
Ngày nay,
các nhà học giả soạn kinh viết sách, họ
không viết đúng
theo lời Phật dạy,
thêu dệt, thêm bớt theo sự nghĩ tưởng của mình qua tưởng giải và còn dám cả gan
cắt xén kinh điển làm lệch
ý Phật, ý
kinh khiến cho đoàn hậu
học sau này, ham
tu dựa vào
kinh sách này, tu hành chẳng đến
đâu, uổng công sức và phí cả cuộc đời. Họ đã khéo léo ca ngợi, kêu gọi mọi người
và còn bắt buộc phải tu theo năm bộ kinh
lớn của Đại Thừa như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Thủ Lăng Nghiêm,
v.v…
Nếu thọ trì
tu chứng theo kiểu tưởng pháp này và làm những việc từ thiện xã hội, nhưng
không làm chủ được thân tâm, thì các nhà
dịch giả và soạn giả những bộ kinh này
có công đức hay phước báo gì? Cúi xin Thầy chỉ dạy cho con được rõ!
Đáp: Câu chuyện “Bách Trượng dã hồ” là câu
chuyện bịa đặt của Thiền
Tông để lừa đảo người khác. Câu chuyện “Bách Trượng
dã hồ” là câu chuyện chấp
nhận định mệnh nhân quả tức là nhân quả không chuyển hoá được, không
thay đổi được, chỉ đừng mê muội nhân quả mà thôi, chỗ “chẳng muội nhân quả” tức
là định mệnh. Khi quả
đến ta chấp
nhận tai nạn, bệnh tật, khổ đau,
nhưng không sợ hãi trước tai nạn khổ đau đó. Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì ông
già chồn nói không đúng: “Bậc đại tu hành
chẳng lạc nhân
quả”. Chữ “lạc” ở
đây có nghĩa
là rơi, bị,
nghĩa là bậc đại
tu hành không
bị nhân quả
tác dụng, đó là hiểu sai, đã mang
thân nhân quả thì phải có tai nạn, bệnh tật, dù người đó tu đã thành Phật, thân
nhân quả vẫn là thân nhân quả không thể thay đổi được,
nên vẫn phải
có tai nạn, bệnh tật. Nhưng
tu đúng theo
pháp của đức Phật,
thì tâm không dao động trước
tai nạn, bệnh tật
và kế đó
dùng pháp hướng
tâm tịnh chỉ, làm cho các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất
lạc, không tác động được
vào thân và tâm
và còn
khắc phục chuyển
hóa khổ thọ, lạc thọ ra khỏi thân tâm (Trên thân quán thân để
khắc phục tham ưu). Cho nên pháp của Phật,
tu
hành làm chủ
sanh, già, bệnh,
chết mà đã làm
chủ sanh, già, bệnh, chết thì nghiệp nhân quả làm sao chi phối được,
nghiệp nhân quả tuy có nhưng không chi phối được tâm người tu chứng, tức là làm
chủ nhân quả, làm chủ nhân quả tức là làm chủ nghiệp, chứ không phải làm chủ
cái thân nhân quả duyên hợp như ông già chồn đã nói, còn bảo không mê muội như
Thiền Tông mà không
làm chủ được
các thọ, thì không đúng pháp Phật.
Cho nên, cuộc
sống (sanh y) không còn đối với tâm ham muốn và
các ác pháp
(tham, sân, si, mạn,
nghi đã chấm
dứt), “Tâm như đất trời”
thì hành giả tu được như vậy những
oai nghi tế hạnh đầy đủ,
không còn vi phạm
giới luật, dù một lỗi nhỏ nhặt nào, đó là tâm giải thoát của đạo Phật.
Ngược lại, Thiền Tông chỉ cần không mê muội nhân
quả, nghĩa là
thân tâm có bệnh tật, tai nạn, phiền não, sân hận, thương ghét v.v.. Mặc
nó chẳng lo, chẳng sợ, chẳng dẹp, chẳng dứt, cứ để mặc tình, tâm luôn tự tại vô
ngại, danh, lợi, dâm dục, ăn ngủ cũng mặc miễn đừng mê muội sợ hãi nó là được.
Do lý luận
chẳng mê muội nhân quả như vậy, nên Thiền Tông mới có sản xuất Tế Điên Hòa Thượng,
Phật sống Cựu
Kim Sơn, Thượng
Sĩ Tuệ Trung.
Khi đã chứng đạo thì họ “Thõng tay vào chợ”. Chẳng cần giới luật, chẳng
trọng đạo đức và đức hạnh.
Do đó, tu sĩ Thiền
Tông và Đại Thừa
đã đưa Phật giáo
đi vào triết học hiện sinh, đi đến ngõ cụt của cuộc đời tu
hành.
Còn các nhà
học giả xưa và nay soạn và viết
kinh sách Đại Thừa, họ chỉ dạy
người tu làm phước thiện “Tứ nhiếp
pháp”, tạo phước báo ở đời,
chứ không dạy
như kinh Nguyên Thủy tu tập để làm chủ sanh tử luân hồi. Cho nên, y báo
và phước báo của họ đều gắn liền
trong hiện kiếp
rõ ràng, nhưng
về tội viết
sai lời Phật dạy, họ phải chịu quả báo địa ngục, tức là họ phải thọ chịu quả bệnh tật khổ đau trên giường bệnh rất khổ sở, thời
gian có thể
kéo dài đôi ba năm, bằng chứng trước mắt chúng ta đã chứng kiến các bậc tôn túc đã viên tịch
một cách khổ đau.
Trong suốt
khoảng đời sống của chúng
ta đã chứng kiến y báo và phước
báo, cũng như sự đọa địa ngục của các Ngài.
Đó là công đức
thiện pháp của pháp môn Đại Thừa, cũng
như công đức
thiện pháp của các
tôn giáo khác
ngăn chặn được ác
pháp của một số người, nhờ đó ta
mới thấy được phước hữu lậu của họ, với những pháp
môn này họ
không thể hưởng được phước vô lậu. Duy chỉ có
pháp môn
của Phật giáo
Nguyên Thủy thì mới hưởng
được phước vô lậu, tức
là làm chủ sự
sống chết và cũng chính là làm chủ nhân quả của kiếp người. Đối với các pháp
môn của Đại Thừa chỉ dạy tu
tập chẳng mê muội nhân quả, chứ không làm chủ được nhân quả.
Việc làm của
các nhà học giả là để thọ hưởng phước báo tột đỉnh danh lợi của cuộc đời, chứ
không phải giải thoát. Tuy rằng hưởng phước báo như vậy, nhưng đã dạy sai ý Phật,
khiến cho Phật pháp suy đồi, không người tu chứng giải thoát và
toàn bộ tu sĩ đều thiếu đức hạnh,
phạm giới, nên
các Ngài phải
chịu quả báo về tội đọa như trong
luật đã dạy. Trước khi sắp viên tịch phải
chịu luật nhân quả hành hạ xác thân
đau khổ trên giường
bệnh, mà chúng ta đã
chứng kiến, không có vị Hòa Thượng nào tránh khỏi,
Tăng cũng như Ni càng
phước báo lớn càng đau khổ nhiều.
Luật nhân
quả đã dạy,
trong các pháp thiện có
các pháp ác, trong các
pháp ác có các
pháp thiện. Tại sao vậy?
Tại vì các
pháp môn của kinh sách phát triển dạy
làm thiện mà
không có pháp dạy ly dục ly ác
pháp, nên tâm dục của các ngài chưa
ly,
ác pháp chưa diệt,
các Ngài đều phạm giới, bẻ vụn giới, ăn ngủ phi thời, sống
phóng dật, chạy theo sáu trần bên
ngoài, nên chấp
nhận học hành cấp bằng, chùa
to, tháp lớn
(giống như nhà giàu). Những phước báo mà kinh sách phát triển
dạy là phước
báo hữu lậu,
bằng chứng cụ thể rõ ràng như: Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Nhất Hạnh
đã đạt được những phước báo đó. Còn nói đến phước báo vô lậu thì không thể
nghĩ bàn, đó
là sự làm chủ sanh, già,
bệnh, chết chỉ
có kinh Nguyên
Thủy của Đạo Phật mới có những pháp
hành này mà thôi.
XÁ LỢI
Câu hỏi của Viên Minh
Hỏi:
Kính thưa Thầy, thế
nào là xá lợi
của một người
tu chứng? Một vị tu chứng hoàn toàn
khi bỏ xác
thân có xá lợi
hay không? Khi vị đó để lại
xá lợi thì
người giữ xá lợi có
công đức hay phước báo gì?
Đáp:
Xá lợi là những mảnh
xương được trà tỳ (thiêu đốt) còn
sót lại.
Người có tu
thiền nhập được định, sau khi viên tịch, thân
xác được đem
trà tỳ (thiêu) những mảnh
xương cháy, chảy
ra đóng lại thành khối nhỏ hoặc những mảnh xương
cháy không hết còn
sót lại. Người
không tu thiền định, khi chết đem thân
xác thiêu đốt,
những mảnh xương này
cháy hết không
còn sót, nhưng cũng có người còn
sót lại rất nhiều mà chẳng tu thiền định gì cả.
Người giữ
xá lợi giống
như người giữ mồ
mả không
có công đức
và phước báo
chi hết. Nếu giữ xá lợi có công đức
phước báo thì cần gì phải làm điều
thiện. Luật nhân
quả không chấp nhận
điều này và như
vậy thì không còn có công bằng, công lý.
Muốn có công
đức và phước báo thì phải tu Thập Thiện, làm tất cả những điều thiện, do hành động
thiện mà hưởng được phước báo và công đức, chứ không phải giữ xá lợi mà có được
phước báo. Giữ
xá lợi của
người chết, có
nghĩa là ta biết ơn người đó cũng như thờ xá lợi vậy.
Người ta xây
tháp để
thờ xá lợi của Phật, tức là để nhớ
ơn Phật, đời đời chẳng
quên. Ngày nay chúng ta còn có pháp môn tu tập làm
chủ
sanh, già, bệnh,
chết chấm dứt
tái sanh luân hồi,
ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ,
thì ơn nghĩa đó làm sao chúng ta
quên được, nên đâu đâu cũng đều có cất chùa thờ tượng Phật. Đó là thầm tưởng nhớ
công ơn của Người.
PHẬT VÀ A LA
HÁN
Câu hỏi của
Viên Minh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Thầy dạy
trên bản thể giải
thoát của một vị A-La-Hán
và Phật hoàn toàn đồng nhau. Cả hai đồng nhau mà sao vị
A-La-Hán không thành Phật liền và
đến bao giờ vị đó thành Phật?
Đáp: “Phật”
là một danh từ chỉ cho người tu hành đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt
tái sanh luân hồi, gọi là “Chứng đạt chân lí’’, tâm vô lậu hoàn toàn.
“A-La-Hán”
cũng là một danh từ chỉ cho người đã tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết chấm
dứt tái sanh luân hồi, cũng gọi là “Chứng
đạt chân lí”, tâm cũng vô lậu hoàn toàn.
Nếu
chúng ta gọi Phật là
A-La-Hán có đúng không?
Đúng, vì
tâm vô lậu
và làm chủ
sanh tử luân hồi giống nhau,
nhưng Đức Phật
cũng tự xưng mình là A-La-Hán.
Nếu chúng
ta gọi A-La-Hán
là Phật có đúng không?
Đúng, vì
A-La-Hán tu hành giải thoát như Phật, cũng tâm vô lậu, cũng làm chủ sanh tử
luân hồi như nhau.
Hai người giải
thoát giống nhau, làm chủ giống nhau,
người thì gọi là “Phật”,
người
thì gọi là “A-La-Hán”, đó là thâm ý độc ác của các nhà hệ phái phát triển,
quyết tâm dìm các bậc tu hành chơn chánh
của đạo Phật, xuống hàng chót “Tiểu Thừa”,
thiền của bậc A-La-Hán tu hành, thì gọi là “Thiền Phàm Phu”, còn thiền của Bồ
tát tu thì gọi
là “Đại Thừa
Thiền, Phật Thiền, Như Lai
Thiền”. Chỉ được
có danh từ rất vĩ đại còn tu
tập thì rơi vào tưởng
định, một loại bệnh thiền định.
Mưu đồ
nham hiểm của
ngoại đạo, đưa giáo pháp của mình vào đạo Phật và tìm mọi
cách tiêu diệt giáo pháp của đạo Phật để thành lập một
Phật giáo mới
“Đại Thừa Phật
Giáo”. Ý đồ rất rõ ràng qua kinh sách phát triển,
Bồ Tát Giới và nhất là bốn bộ kinh A Hàm. Một bộ kinh mà các Tổ biên soạn để
làm bước chuyển tiếp bằng những bài kinh móc nối chuyển qua giáo
pháp phát triển
một cách có hệ thống, khiến cho hàng tín đồ Phật giáo
không cách nào tìm ra sự gian dối và thâm ý ác độc của các giáo sĩ Bà La Môn.
Đọc bốn bộ
kinh A Hàm và năm bộ kinh Nguyên Thủy, so sánh lại ta thấy có
nhiều bài kinh mà các Tổ bịa đặt thêm để chuyển
tiếp qua giáo pháp phát
triển một cách
rõ ràng và cụ thể, nếu có dịp thuận tiện Thầy sẽ kê
ra những bài kinh đó
để cho tất cả tín
đồ Phật giáo hiểu rõ thâm ý độc ác của họ
hơn.
Hiện giờ, mọi người
tu theo đạo Phật mà lại tu tập theo giáo pháp của ngoại đạo (Bà La Môn) thì thật là đau lòng, mọi
người bị gạt mà không biết, tu
hành chẳng đi đến đâu
mà không hay, chỉ có ba
hoa tranh luận hơn thua cao thấp
bằng ba tấc lưỡi,
thiền miệng, thiền ngôn ngữ.
Các Bà
La Môn giết đạo Phật
mà không cần gươm đao, chỉ bằng
những danh từ cay độc, hiểm ác sâu
sắc “Đại Thừa,
Tối Thượng Thừa, Phật
Thừa của giáo
pháp Bà La
Môn còn Phật
Giáo chánh gốc thì gọi là Tiểu Thừa”, những
danh từ đó cũng đủ đã giết chết đạo Phật.
Thật sự là vậy, đạo Phật đã chết từ lâu.
Hiện giờ
tu sĩ Phật
giáo đều chịu ảnh
hưởng rất sâu về giáo lý Bà La Môn Đại Thừa, Tối Thượng Thừa. Kinh sách của họ
viết ra đều lý luận theo kiểu Đại Thừa và Tối Thượng Thừa thuộc kinh sách Vệ
Đà. Còn Phật Giáo Nguyên Thủy thì họ đã bỏ quên mất, mặc
dù có nhiều thầy Tỳ kheo đi học đại học Phật Giáo
Nguyên Thủy ở Ấn Độ về, nhưng lối lý luận của họ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc
giáo pháp của Bà La Môn.
Tại sao vậy?
Tại vì
giáo pháp Nguyên
Thủy của đức Phật giới luật và đạo đức rất nghiêm chỉnh,
đời sống phạm hạnh không thể tu sĩ thời nay sống nổi, chỉ vì tâm tham đắm vật
chất danh lợi thế gian nên quý thầy dù học kinh sách Nguyên Thủy, nhưng vẫn
thích sống đời sống Đại Thừa.
Bởi vậy, Phật
là A-La-Hán, A-La-Hán là Phật. “Phật là chúng sanh đã thành và chúng sanh là Phật
sẽ thành”, câu nói này giữa chúng sanh
và Phật còn
không khác, chỉ
khác nhau chỗ thời gian mà thôi, còn bậc A-La-
Hán là người tu đã giải thoát hoàn toàn mà gọi là Tiểu Thừa, như vậy quý vị có
thấu hiểu lòng dạ của các nhà Đại Thừa như thế nào không?
Hai người
tu hành đều chứng như
nhau, làm chủ sự sống chết
như nhau, có khác
nhau là chỗ Phật
là Đấng Giáo
Chủ, người sáng lập
ra tôn giáo Phật giáo (Đạo Phật).
Tuy biết rằng
giáo pháp của đạo Phật tu hành
không phải khó,
nhưng khó với thời đại vật
chất hiện nay, vì quá tiện nghi và
quá đầy đủ, khiến người ta không
bỏ được lòng tham muốn, giáo pháp của Phật rất rõ ràng và cụ thể tu hành đến đâu
có giải thoát đến đó, không có mơ hồ trừu tượng. Vậy mà đã bị dìm mất hằng bao thế kỷ nay, khiến cho tín
đồ Phật giáo không còn biết đường tu hành. Chúng tôi hiện giờ khai hoang lại
con đường này, mong sao những thế hệ sau
này có
lộ trình tốt đẹp
hơn để có pháp
môn tu tập,
đi đến nơi đến chốn giải thoát hoàn toàn. Và những ước nguyện
của chúng tôi được thấy con người trên hành tinh này, sống đối xử với nhau bằng đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ
mình, khổ người. Nếu được vậy thì đó là
đạo Phật đã sống lại với con người và sống mãi mãi.
BÂN THỂ TUYỆT ĐỐI
Câu hỏi của
Viên Minh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Bản thể tuyệt đối là gì? Người
xả tâm sạch, có phải đạt được bản thể
tuyệt đối hay không?
Thỉnh Thầy chỉ dạy
cho con được rõ.
Đáp: Với
trí hữu hạn của
con người, mà đòi hiểu bản thể
tuyệt đối của vạn hữu,
cũng như dùng mắt
thường mà muốn
tìm thấy vi trùng trong
ly nước. Do đó, cả thế
gian hiện giờ, người ta xây dựng
bản thể tuyệt đối bằng “tưởng tri”.
Bởi vậy,
con người với trí hữu
hạn không hiểu, lại không chịu
không hiểu, rồi dùng tưởng tri để hiểu, nên hiểu sai tất cả, mà cứ ngỡ rằng
mình là
hiểu đúng, rồi
đem truyền dạy
cho người khác cũng hiểu như vậy. Từ đó thế giới tưởng thành hình, mọi người ai cũng tôn thờ và cung kính, xem như một thế giới vĩnh hằng bất biến của
loài người.
Người xả tâm
sạch, không phải đạt được bản thể tuyệt
đối, mà chỉ mới làm chủ tâm mình
(ly dục ly ác pháp). Đối với đời sống hằng
ngày,
không còn phiền
não đau khổ,
thương, ghét, giận hờn, hận thù, v.v..
Trong bốn cái
khổ của kiếp người, họ mới làm chủ được một cái, trên đường đi đến cứu
cánh giải thoát, họ còn phải tu tập nhiều nữa.
Bản thể tuyệt
đối, do các tôn giáo khác tưởng ra như:
Đại Thừa, Thiền
Tông, Mật Tông, Bà La Môn, v.v..
Riêng đạo Phật biết đó là tưởng tri của
loài người và của các
tôn giáo khác, nên
Ngài nhắm vào mục đích
khác, để giải quyết
bốn nỗi khổ của kiếp
người “sanh, già, bệnh, chết”.
Sau khi giải
quyết bốn cái khổ của kiếp người
xong thì đức Phật
xác định: “sanh
đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc làm đã làm
xong, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Đến đây nếu ai có hỏi: Còn có
cái gì không? Nếu nói còn, tức là chấp thường, chấp ngã, nếu nói không thì chấp
đoạn.
Bởi vì,
trí hữu hạn của
con người, đừng nên hiểu
xa hơn, mà chỉ biết tu tập như thế
nào để
thoát khổ của đời người
là hạnh phúc lắm
rồi. Theo mục
đích của đạo Phật là như
vậy, còn tìm hiểu thêm thì hiểu sai và hiểu sai thì lại sanh
ra chấp đắm, tạo
nhiều điều đau
khổ
và còn đau khổ
nhiều hơn. Vì
chính hiểu sai (vô
minh) sự vật, nên đã lầm chấp thế giới
hữu hình
và thế giới vô
hình là thật
có, vì thế mới tạo ra muôn vàn đau khổ cho nhau.
Bây giờ
đã thoát khổ
mà lại hỏi,
còn có hay không thì thật là điên
đảo. Không còn chỗ nói được, đã giải
thoát hết kiếp khổ của đời người mà hỏi
có còn gì
không. Chỗ này
trí phàm phu, ai hiểu sao cứ hiểu, còn người tu đến đó, có trí vô hạn
thì hiểu rõ ràng, kẻ không tu mà muốn biết,
cố tìm hiểu cũng chỉ tưởng hiểu mà
thôi (hiểu sai bét), và sự
hiểu sai đó tạo ra sự mê tín, lạc hậu của những con
người cổ xưa, mà bây giờ
chúng ta còn giữ mãi,
không dám bỏ những cái sai đó, thật
là ngu si điên đảo.
Trong thời đại
văn minh khoa học như thế này, mà con người
còn tin bản thể
tuyệt đối. Cách đây 2548 năm Đức
Phật đã xác định, qua bài kinh “Pháp Môn
Căn Bản”. Lúc bây giờ con người còn lạc hậu, dân
trí còn thấp kém, sự
hiểu biết chưa có
khoa học chứng minh cụ thể,
nên dùng
tưởng tri quá nhiều,
biến thành một thế
giới siêu hình
vĩ đại, điều
khiển thế giới hữu
hình, từ đó con
người đã
lạc vào thế giới
mê tín, trừu tượng.
Còn bây giờ
chúng ta như thế
nào? Cũng sống
trong tưởng tri nữa
sao?
Cũng lạc hậu
như những người
xưa nữa sao? Trong khi khoa học tiến triển hiện đại hóa đời sống
con người mà còn dại khờ, ngu ngốc để kẻ khác lừa đảo, lường gạt lặp lại những
bài vở lỗi
thời.
Đời sống con
người đầy đủ vật chất tiện nghi, bệnh đau có
bệnh viện, có
bác sĩ chăm sóc,
có thuốc thang
đầy đủ, cớ sao
lại còn
lạc hậu mê tín, tin vào cái thế giới siêu hình ấy, để tự
làm khổ mình
và người khác,
phỏng có ích lợi gì. Thật là ngu si vô minh không chỗ
nói.
Chân lí của
đạo Phật là gì? Là tâm không còn tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si là
tâm không còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu,
tức là tâm bất động
trước các ác
pháp và các cảm thọ. Đó
là tâm thanh
thản, an lạc và vô sự, là chân lí thứ ba của Phật giáo.
Cho nên, Phật và A La Hán
đều chứng đạt
chân lí này, chứ không phải bản
thể tuyệt đối mơ hồ của ngoại đạo.
CHÁNH PHÁP, TÀ PHÁP
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con có người bạn đồng tu,
luôn nhắc nhở con, tất cả
mọi giáo lý của Thầy không được đưa ai xem.
Thưa Thầy!
Các bạn của
con, tuy chưa được
quy y làm đệ tử của Thầy, nhưng tâm
trí thường xuyên hướng
theo pháp môn của Thầy,
thì con đưa những bài vấn đạo và giáo lý của Thầy có được không thưa Thầy?
Đáp: Được,
giáo lý và đường lối tu tập của đạo Phật đã bị ngoại đạo dìm gần như mất gốc.
Hôm nay
được Thầy tu tập, thấy
có kết quả thật sự, giải thoát được tâm hồn của
mình, nên triển khai lại những lời Phật
dạy chính gốc Nguyên Thủy, để giúp cho người đời sau không còn tu hành lầm lạc.
Hiện giờ người
ta chỉ biết qua Phật giáo hữu ngã (Phật
tánh), siêu hình
(thế giới Cực Lạc,
Niết Bàn), thần
quyền (bùa chú),
v.v.. mang đầy tính chất mê tín, mơ hồ, trừu tượng, dị đoan, lạc hậu, v.v..
Kinh sách
phát triển do các
nhà học giả xưa và nay biên soạn theo tưởng giải của
mình, đã biến giáo lý của đạo Phật thành
một giáo lý hỗn tạp đủ mọi loại pháp môn (84 ngàn pháp môn). Nhìn đống kinh sách quá vĩ đại, kẻ tu pháp này,
người tu pháp khác, nhưng nhìn lại cuối cùng, chẳng ai tu đến đâu cả, càng ngày
càng thấy tu
sĩ sống bừa
bãi, phi Phạm hạnh
và phạm
giới luật nhiều
hơn, do đó sanh
ra nhiều tệ hại trong Phật giáo, người tu sĩ không còn có đạo đức,
thiếu Phạm hạnh,
xem thường tín đồ chẳng hiểu
gì về giáo lý của đạo Phật,
nên muốn
giảng nói như thế nào tự do nói, nghĩa là xem tín đồ ngu dốt, ông thầy
thuyết giảng gì cũng chẳng biết, bảo đúng cũng làm, bảo sai cũng làm, nói sao
nghe vậy, chẳng dám cãi, chẳng dám sửa, chẳng
dám nói. Đó
là tín đồ Phật giáo hiện giờ.
Sau mười năm
mài miệt tu tập trong thất, gần chín năm trời tu Thiền Đông Độ, nhưng không kết
quả, đành trở về pháp môn Tiểu Thừa, tu tập “Giới, Định, Tuệ”, Tam Vô Lậu Học
mà kinh sách phát triển Đại Thừa xem nó như
là một pháp
môn của ngoại
đạo, cấm không cho tu
sĩ (Tỳ kheo
Tăng và Ni)
tu học theo nó.
Nhưng bắt đầu nghiên cứu và tu tập pháp môn
này, Thầy đã thấy có kết quả
ngay liền. Một sự giải thoát thật sự của kiếp sống con người, bằng cách
sống đúng giới luật và hằng ngày tu tập “Tứ Chánh Cần”, ngăn ác diệt ác, lìa xa
lòng ham muốn vật chất thế gian. Từ đó nhận
xét rõ, tâm hồn sống
thanh thản và an
lạc, tâm
gần như cục đất, chẳng
biết thương ghét giận hờn ai hết.
Tâm thường quay vô ít phóng dật, thân
tâm ít muốn, biết đủ, luôn sống
trầm lặng, thích
thú độc cư, sống một mình
mà an vui cả trời.
Sau khi
ra thất, Thầy
triển khai giáo pháp
Nguyên Thủy, nhưng
sợ đụng chạm
các hệ phái khác,
lúc đầu tùy
thuận với họ,
nên Thầy cấm không cho lưu hành rộng rãi, vì thế bạn đồng
tu của con, nhắc
nhở không cho ai xem là vậy.
Giai đoạn
này thì khác, cần phải vạch
rõ và làm sáng tỏ lại Phật giáo,
con nên đưa những bài vấn đạo và giáo lý Nguyên Thủy
mà Thầy đã triển
khai, để mọi
người hiểu rõ về
Phật giáo hơn.
SINH HỘT PHẬT GIÁO
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Chúng con nhóm họp lại, đề ra
một bản
nội quy và phân nhóm, thì người bạn đồng tu của con sợ
Thầy không đồng ý
và chánh quyền
địa phương theo dõi làm khó dễ.
Thưa Thầy,
trước kia chúng con cũng thường
xuyên sinh hoạt ở khu ấy, nhưng
cũng chưa hề thấy ai nhắc nhở gì cả, trong những sự sinh hoạt của chúng
con chưa hề mâu thuẫn và thắc mắc với nhau những điều gì.
Đáp: Con
đường tu theo
đạo Phật rất khó, nhất là khó về cách sống (sống đạo).
Đời sống phải đúng cách đạo hạnh, ăn, ngủ không được phi thời, thiểu
dục tri túc, ít nói,
sống trầm lặng độc cư, lúc nào cũng phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng,
thân và ý.
Cho nên khi có
tổ chức, thành
tổ tu tập, thì phải
khéo léo, linh động, chia
ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm độ bốn
năm người, nhóm nào sinh hoạt theo nhóm nấy, chứ không được tập trung
làm ồn náo, mỗi nhóm
phải giữ gìn
độc cư trầm
lặng, ít nói trong
suốt thời gian sinh hoạt tu tập.
Xưa đức Phật
đuổi năm trăm vị Tỳ
kheo, đệ tử của
ông Xá Lợi Phất và
ông Mục Kiền Liên làm ồn náo ra khỏi khu rừng mà đức
Phật đang ở. Xem thế, mới biết kỷ luật của Phật rất nghiêm chỉnh, không tư vị một
ai, mặc dù là đệ tử của ông Xá Lợi Phất và ông
Mục Kiền Liên là hai vị đại đệ tử của Phật
nhờ cậy nhất, điều khiển và hướng dẫn 1250 vị Tỳ kheo. Đức Phật nghiêm chỉnh
trong giáo pháp
và giới luật,
đó là vì vấn đề lợi ích chung cho toàn thể
tu sĩ ở đó.
Ta hãy lấy
gương sinh hoạt của thời
đức Phật mà sinh hoạt tổ nhóm cho đúng
cách.
Sau khi soạn
thảo nội quy được gửi về Thầy, Thầy sẽ góp thêm ý kiến để bản nội quy được hoàn
chỉnh.
Nếu chánh
quyền địa phương
có theo dõi thì nên
nói thật với họ, chúng
tôi tu tập
theo Phật giáo, pháp
môn tu tập
đã được nhà nước
cho phép
rõ ràng (tự do
tín ngưỡng), đưa bộ sách Văn Hóa Phật
Giáo Đường Về Xứ Phật đã được Nhà Nước
cho phép để họ xem
và nghiên cứu biết rõ đường lối
tu tập của Phật giáo cụ
thể và
thực tế đầy đủ
đạo đức sống không làm khổ mình,
khổ người.
THA THỨ
Câu hỏi của Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Bạn đồng tu của
con đến dự, thấy chị em
chúng con vui vẻ,
thì lại có ý không vui. Vậy, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con sống tùy
thuận như thế
nào, để không làm khổ mình, khổ người?
Đáp: Phàm
con người còn là
chúng sanh thì phải còn phạm vào
những lỗi lầm, nhưng những lỗi lầm đó để
chúng ta rút ra những bài học, tu tập đức nhẫn
nhục, tùy thuận,
bằng lòng và tha thứ, để mình
không còn lầm lỗi và được an vui, giải thoát cho mình cho người.
Các con có
đoàn kết, có
thương yêu nhau, có
khích lệ sách tấn nhau
trên đường tu tập,
thì đó là các con đã thắp sáng lại ngọn đèn chánh pháp của Phật, còn nếu các
con chia rẽ xấu bụng với
nhau, đó là các
con đã diệt Phật giáo, dù các con có ngồi thiền nhập định
năm bảy ngày, nhưng
cách sống không
đoàn kết, chia rẽ nhau, thì Phật
giáo sẽ mất và mất mãi trên thế gian này, dù có hằng vạn Tỳ kheo tu hành nhưng
đó là hình
thức Phật giáo,
chứ thật ra Phật giáo đã mất từ lâu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!