THẾ GIỚI
SIÊU HÌNH
Câu hỏi
của Từ Tuệ
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Thế giới siêu
hình. Dựa
theo lời Thầy dạy con hiểu thế giới
siêu hình
như cái tivi, đầu vidéo, những cuốn
băng hình
do con người tạo ra, để thu giữ
những hình
ảnh của thế giới con người hoặc là
thế giới
thần tiên cũng do con người diễn xuất.
Nếu đập
vỡ phương tiện thì chẳng còn gì. Con
sợ con sa
vào tưởng tượng nên con mạnh dạn
trình Thầy
để Thầy chỉ dạy.
Đáp: Đúng,
con đã hiểu được ý của Thầy
nói về
thế giới siêu hình. Còn có sắc thân này
còn có
cảnh giới siêu hình, nếu sắc thân này
mất, thì
cảnh giới siêu hình cũng mất. Bởi vì con người đang sống trong thế
giới
đối đãi,
thế giới duyên hợp nên cái này có cái
kia có,
cái này mất cái kia mất.
Con ví dụ
rất khéo, thế giới siêu hình như
cái tivi
đầu máy vidéo và cuốn băng quá cụ thể
và rõ
ràng, khiến cho mọi người đều có thể
nhận ra
được.
Bởi sắc
uẩn nó là cái tivi, tưởng uẩn là
đầu máy
vidéo còn cuộn băng là năng lực của
tưởng
thức. Nên chiêm bao, mộng mị, hình
bóng ma,
quỷ, linh hồn, thần, tiên, lên đồng,
nhập xác
cô, cậu đều do sắc uẩn tức là thế giới
hữu hình
của chúng ta đang sống và đóng
những vai
trò trên sân khấu của tưởng uẩn, tạo
ra những
hình ảnh sống động khiến cho mọi
người đều
lầm tưởng là có thế giới siêu hình
như thật.
Nếu không đập vỡ sắc uẩn, tưởng uẩn
và tưởng
thức (tivi, đầu máy vidéo và cuốn
băng) thì
ngàn đời người ta đều cho có thế giới
siêu hình
như thật.
Ví dụ của
con ở phần trên, rất chính xác
khiến cho
mọi người dễ nhận ra thế giới siêu
hình do từ
đâu mà có. Nếu không có sắc uẩn,
tưởng uẩn
và tưởng thức thì thế giới siêu hình
cũng không
có. Khi một người chết thì tưởng uẩn và tưởng
thức cũng
tan hoại theo năm uẩn của nó, thì
thử hỏi
linh hồn của con người làm sao còn
được?
Vậy mà sự
vô minh, mê muội của con
người không
thấy như thật, nên cho người chết
còn có
linh hồn bất tử luôn luôn đi tái sanh
luân hồi
thì thật là sống trong mơ mộng.
Do không
chân thật nhận ra bằng ý thức,
mà chỉ
nhận qua trạng thái tưởng uẩn và tưởng
thức của
chính bản thân mình lưu xuất. Vì thế ,
mà thế
giới siêu hình không một ai dám xác
nhận thế
giới siêu hình không có. Thậm chí,
cho đến
các nhà khoa học dù ở phương Đông
cũng như ở
phương Tây, không có một nhà
khoa học
nào dám khẳng định không có thế
giới siêu
hình, vì không thể đem khoa học
chứng minh
chính xác được những hiện tượng
xảy ra của
tưởng uẩn và tưởng thức.
Những nhà
ngoại cảm đã mang đến những
hiện tượng
siêu hình, khiến cho các nhà khoa
học không
thể giải thích được, nên đành phải
im lặng,
nhưng cũng không dám bảo rằng có,
cũng không
dám bảo rằng không. Nếu bảo
không có
thì không giải thích được những hiện
tượng siêu
hình thì ai tin cho, còn bảo rằng có thì không chứng minh được những
hiện tượng
như sương,
như khói, không gian và thời gian
không bị
chia cắt và trải dài là cái gì?
Khi các
nhà khoa học không chứng minh
những hiện
tượng của tưởng uẩn được là vì trí
tuệ của
các nhà khoa học còn trong sự hạn chế
của trí
tuệ hữu hạn. Còn những nhà tu hành
đạt được
trí tuệ vô hạn nên họ đã thấy biết rất
rõ ràng
các pháp trong vũ trụ. Khi họ nói ra
một điều
gì, nếu chúng ta chịu khó tư duy, suy
nghĩ thì
chúng ta sẽ hiểu một cách cụ thể,
không có mơ
hồ và trừu tượng.
Bởi vì
trong hiện tại chúng ta nói, làm,
suy nghĩ
một việc gì thì những việc ấy còn lưu
lại mãi
trong không gian mà không bao giờ
mất. Vì
thế, tưởng uẩn của các nhà ngoại cảm
bắt gặp
những âm thinh, sắc tướng đó. Nhưng
vì là
tưởng uẩn muốn trình bày sự bắt gặp đó,
nó phải
dùng hai trường hợp:
1- Phải
thể hiện qua giấc mộng (chiêm
bao).
2- Phải
thể hiện qua sự nhập xác (đánh
thiếp, lên
đồng, nhập cốt...)
Không thể
mượn ý thức diễn đạt, vì bấy
giờ ý
thức không còn hoạt động, vì thế tưởng thức chỉ còn có cách thể
hiện diễn đạt bằng hai
cách nói
trên.
Do tưởng
uẩn diễn đạt như vậy, nên chúng
ta mới lầm
tưởng có linh hồn người về nhập
xác người
sống. Và còn nhiều hiện tượng khác
nữa như:
sắc tưởng (hình bóng như sương như
khói
v.v..), thinh tưởng (tiếng than khóc, tiếng
kêu, tiếng
hú giữa ban đêm v.v..), xúc tưởng
(cảm giác
ớn lạnh, gió lay bức màn, xúc tưởng
loài bướm bay
hoặc đậu nơi người vừa chết,
v.v..).
Tất cả
những hiện tượng này xảy ra, nếu
không có
một người tu chứng, vượt qua tưởng
uẩn thì
không ai dám bảo rằng: không có thế
giới siêu
hình, có nghĩa là có đời sống sau khi
chết.
Từ khi
chúng tôi được sanh làm người thì
cái thế
giới siêu hình luôn luôn được ngự trị
trong chúng
tôi, trên hết là cõi Niết Bàn tức là
cõi Phật,
kế đó là cõi Trời tức là cõi của chư
Thiên ở,
cõi Thần, Thánh, cõi quỷ, cõi ma, v.v..
Tất cả
những cõi trên đây đều là những cảnh
giới của
thế giới siêu hình hay nói cho dễ hiểu
hơn là cõi
của những linh hồn người chết. Đến
khi tu tập,
nhập được các định, vượt qua được
tưởng uẩn,
chúng tôi mới nhận thấy, thế giới linh hồn của người chết không có,
nhưng chúng
tôi không
nói ra, nói ra sợ người ta không tin.
Đến khi
đọc lại toàn bộ kinh sách từ Đại Thừa
đến Nguyên
Thủy thì chúng tôi thấy bài kinh
Pháp Môn
Căn Bản trong kinh Trung Bộ, đức
Phật đã
xác định thế giới siêu hình không có.
Bài kinh
này là một cơ sở vững chắc để triệt
tiêu thế
giới siêu hình. Nhờ có triẹât tiêu thế
giới siêu
hình thì mới có thể xây dựng nền đạo
đức nhân
bản nhân quả cho loài người trên
hành tinh
này. Nếu thế giới siêu hình có, thì
luật nhân
quả không có, luật nhân quả không
có thì
không thể có sự công bằng và công lý và
loài người
chỉ là loài ác thú.
Muốn cho
cuộc sống của con người có công
bằng và
công lý thì đạo đức nhân bản nhân quả
phải được
triển khai, biên soạn và viết ra
thành bộ
sách đạo đức làm người để giúp cho
con người
biết cách thực hiện sự công bằng và
công lý
trên hành tinh này.
Muốn cho
cuộc sống của con người có công
bằng và
công lý thì trước tiên chúng ta phải
triệt tiêu
thế giới siêu hình, như chúng tôi đã
nói ở
trên. Vì còn có thế giới siêu hình thì
chúng ta
không thể áp dụng đạo đức nhân bản
- nhân quả
vào cuộc sống của loài người được. Nếu không áp dụng đạo đức nhân
bản -
nhân quả
vào cuộc sống của loài người thì loài
người không
còn có sự công bằng và công lý
nữa và vì
vậy cuộc sống của loài người sẽ khổ
đau không
cùng tận. Thế gian này là địa ngục
trần gian.
Cho nên, mỗi người phải có tầm
nhìn xa
hiểu rộng để dẹp bỏ những ảo tưởng
của thế
giới siêu hình mới mong có ngày trái
đất này
là Cực Lạc, Thiên Đàng v.v..
TU TẬP CĨ ĐỐI
TƯỢNG
Câu hỏi
của Từ Tuệ
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Con tu tập xả
tâm bằng
cách: lấy người khác thường làm khó
khăn, làm
đối tượng tu tập buông xả, dẹp bỏ
sân, si,
phiền não. Nhờ tu tập như vậy lần lần
thấy hết
và những khó khăn được gỡ dần, bản
thân con
thấy an ổn hơn. Bây giờ con bắt đầu
tập xả tâm
nhớ thương tương tự như vậy. Con
trình Thầy
cách tập luyện như vậy có được
không? Đáp:
Được, đó là lấy đối tượng tu tập
Định Vô
Lậu, rất thực tế và cụ thể, cô Út Diệu
Quang
thường tạo đối tượng giúp các cháu gái
tu tập
Định Vô Lậu xả tâm diệt ngã, ly dục ly
ác pháp
này.
Cách thức
tu tập này rất khó, nếu là người
có chí,
có nhiệt tâm, có nhiệ t huyết tìm đường
tu hành để
giải thoát đau khổ của cuộc đời thì
một thời
gian ngắn đã giải thoát hoàn toàn,
đắc định
và chứng Tam Minh không có khó
khăn. Bằng
ngược lại thì đau khổ nhiều, tâm
thường sanh
oán hận. Nếu tâ m thường sanh
oán hận,
người này đang sống trong cảnh địa
ngục và
cuối cùng cuộc đời tu hành của họ cũng
chẳng có
ích gì cho chính bản thân họ, lại càng
làm cho họ
khổ đau hơn.
Lấy đối
tượng tu tập Định Vô Lậu là phải
thông suốt
lý nhân quả, lý duyên hợp, thân ngũ
uẩn, và
còn phải dùng pháp hướng tâm “tâm
như cục
đất”, phải tập tỉnh thức trong mọi
công việc
làm hàng ngày, phải thiểu dục tri túc;
phải giữ
gìn sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng,
thân và ý
không cho dính mắc sáu trần: sắc,
thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Có tu tập như vậy
kết quả
giải thoát hiện tiền, mới đem lại đời sống an lạc, hạnh phúc chân
thật cho chính
bản thân
của mình.
Tu tập có
đối tượng, tức là tu tập Tứ
Chánh Cần,
tu tập Tứ Chánh Cần có bốn phần:
1- Ngăn
ngừa các ác pháp, giúp tâm không
phóng dật
theo các pháp bên ngoài.
2- Đoạn diệt
các ác pháp, quyết tâm tận
diệt các
ác pháp, khi các ác pháp đã làm
chướng
ngại tâm, làm cho tâm phiền não và
khổ đau.
3- Luôn luôn
giữ gìn và bảo vệ tâm trong
thiện
pháp, không để tâm bị ác pháp xâm
chiếm.
4- Lúc nào
cũng tìm mọi cách để tâm được
thanh thản,
an lạc và vô sự.
Tu có đối
tượng là người phải có nghị lực,
dũng cảm,
gan dạ, kiên nhẫn, bền chí. Luôn
luôn chiến
đấu, nhưng quyết định phải giành
được phần
thắng về mình, nhất định là không
chịu thất
bại trước các ác pháp nào cả.
Người có
ý chí có quyết tâm như vậy thì
chắc chắn
phải thành tựu viên mãn trong sự tu
tập.
Tu có đối
tượng tuy khó, nhưng kết quả dễ
nhận ra và
nhận ra rõ ràng, cụ thể. Tu tập có
-154- đối
tượng không sợ bị ức chế tâm, không sợ lạc
vào thiền
tưởng, nhưng phải tránh sự chịu
đựng.
Tu tập có
đối tượng dễ phát triển tri kiến
giải
thoát, vì phải thường xuyên quán xét, tư
duy, suy
nghĩ, làm việc nhiều về trí óc. Phát
triển tri
kiến giải thoát tức là phát triển trí tuệ
đạo đức
nhân bản - nhân quả.
Người tu
tập phát triển tri kiến giải thoát
là người
sống đúng giới luật không hề vi phạm
một lỗi
nhỏ nhặt nào cả. Nhờ đó tâm họ ly dục
ly ác pháp
một cách dễ dàng.
Tâm ly dục
ly ác pháp là tâm không
phóng dật.
Người tu hành tâm không phóng
dật là tâm
giải thoát. Như Đức Phật đã dạy:
“Ta thành
Chánh giác là nhờ tâm không
phóng dật,
muôn pháp lành cũng từ nơi
đó sanh
ra”.
XÂ SẠCH
Câu hỏi
của Hải Tâm
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Biết bao giờ tâm
con mới xả
sạch?
Đáp: Nếu
thấu rõ đời sống con người là
khổ, khổ
như thật. Trong cõi đời này không có
một vật
gì là của mình, là mình cả. Và những
vật ấy
không bao giờ thường còn mãi mãi, luôn
có sự thay
đổi vô thường từng phút giây. Vì thế,
sáng vui,
chiều khóc, chiều vui, sáng khóc. Đời
sống con
người là vậy vui ít, khổ nhiều, có gì là
hạnh phúc
đâu; có gì mà tham đắm.
Nếu một
người không biết nhàm chán
những sự
cám dỗ của cuộc đời này, để vượt ra
khỏi những
khổ đau của kiếp làm người, mà cứ
mãi đắm
chìm theo dục lạc của nó thì khó mà
buông xả
sạch.
Nếu không
chịu khó thường quán xét, tư
duy thì
không thể nào thấu suốt lý vô thường,
khổ đau và
vô ngã của vạn pháp trong thế gian
này, thì
làm sao buông xả sạch vạn pháp cho
được. Nếu
tâm còn ham thích, chưa ngao ngán,
chán
chường cuộc sống này, thì làm sao xả bỏ
sạch được,
nếu xả bỏ sạch không được thì cuộc
đời tu
hành chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Đạo Phật
là đạo buông xả, có nghĩa buông
xuống không
dính mắc bất cứ một vật nào cả,
còn dính
mắc, dù cho một pháp nhỏ nhất như
đầu mũi
kim thì cũng chưa chấm dứt sanh tử,
luân hồi.
Buông
xuống, không có nghĩa trốn tránh,
tiêu cực
trong cuộc sống, như có một số nhà học
giả hiểu
Phật giáo như vậy, hiểu trong tinh
thần tiêu
cực, thụ động. Ngược lại, Phật giáo
buông
xuống, nhưng có nghĩa là tích cực, năng
nổ làm
việc để đem lại cho mình cho người có
một cuộc
sống ấm no đầy đủ, nhưng không vì
vật chất
mà chà đạp, xâu xé lên nhau để chiếm
đoạt về
phần mình nhiều hơn. Do đó, buông
xuống có
nghĩa là không dính mắc, chứ không
có nghĩa
tiêu cực không làm việc.
Nhàm chán
không có nghĩa là chán đời. Ở
đây có
nghĩa là thấu suốt được vạn pháp không
có thực
thể, nên tâm không còn tham đắm và
dính mắc
nó nữa. Nói buông xả có nghĩa là sống một đời
sống ly
dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình
thanh thản,
an lạc và vô sự.
Nói buông
xả, là nói đến một đời sống đạo
đức nhân
bản - nhân quả, không làm khổ
mình, khổ
người. Một đời sống đức hạnh tuyệt
vời mà
mọi người hằng mơ ước.
Bởi vậy
con hãy cố gắng xả cho thật sạch.
Xả cho
thật sạch thì tâm con được an lạc,
thanh thản
và vô sự. Một trạng thái vô cùng an
ổn và lợi
ích cho muôn vạn người và tất cả
chúng sanh,
chứ không ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp
hòi như
cuộc sống của con người hiện nay. Con
người hiện
nay đang sống trên sự đau khổ của
muôn loài
chúng sanh, nhưng vô tình họ nào có
hay biết
gì đâu.
Con hãy cố
gắng xả cho thật sạch thì sự tu
tập của
con không phí bỏ vô ích một kiếp làm
người. Vì
những điều con muốn biết, muốn hiểu,
con đều sẽ
hiểu biết tất cả. Không gian và thời
gian không
còn chia cắt và ngăn cách đối với
con nữa.
Rồi con sẽ hiểu: “Con người từ đâu
sanh ra và
chết đi về đâu?” .
Và con còn
sẽ hiểu hơn nữa: “Không có
con người
sanh tử mà chỉ có sự thay đổi hợp, tan của môi trường sống theo định
luật của
nhân quả”.
Hãy cố
gắng tu tập buông xả con ạ! Không
uổng phí
công tu tập, không hoài công đâu con
ạ!
Buông xuống
đi! Hãy buông xuống đi!
Chớ giữ
làm chi có ích gì?
Ôm vào đau
khổ vô cùng tận,
Buông xuống
ngay liền vạn khổ đi.
Buông xuống
đi! Hãy buông xuống đi, con
sẽ thấy
hạnh phúc vô cùng, vô tận.
Cuộc sống
của con người chỉ là một vở
tuồng trên
sân khấu nhân quả, có đáng gì cho
chúng ta
đắm mê, mà không buông bỏ được
phải không
hỡi con? Chỉ toàn là khổ đau, khổ
đau vì
tranh ăn; khổ đau vì danh lợi; khổ đau
vì hơn
thua, v.v..
Cho nên,
đạo Phật ra đời dạy: “Con
người bỏ
xuống tất cả các ác pháp và sẽ
được tất
cả các thiện pháp”. Đó là một bí
quyết bảo
vệ môi trường sống trên hành tinh
này, đem
lại cho muôn loài một đời sống công
bằng và
công lý.
TÂM NHƯ
ĐẤT
Câu hỏi
của Hải Tâm
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Tâm như cục đất có
xả sạch
được chưa?
Đáp: Tâm
như cục đất là tâm con đã xả
sạch,
chừng đó con chẳng cần tu tập thiền định
nào cả,
lúc nào con cần nhập định là nhập được
ngay liền,
không có khó khăn, không có mệt
nhọc, không
có phí sức.
Tâm như cục
đất, đó là sự ước muốn của
con. Muốn
cho tâm không còn tham, sân, si,
mạn, nghi
nữa, khi tâm không còn tham, sân,
si, mạn,
nghi nữa là tâm hết khổ đau. Sự ước
muốn như
vậy, nếu con không cố gắng khắc
phục tâm
mình ly tham, đoạn ác pháp thì làm
sao tâm
thành đất được.
Muốn cho
tâm thành đất thì con phải tu
tập Bát
Chánh Đạo. Nói tu tập Bát Chánh Đạo
là nói
cách thức sống ngăn ác diệt ác pháp,
sanh thiện
tăng trưởng thiện pháp hay nói
cách khác
là sống toàn thiện.
Muốn sống
toàn thiện thì phải có Chánh
kiến,
Chánh kiến tức là thấy đúng nhân quả thiện và ác, chứ không phải
thấy đúng, sai,
phải,
trái, tốt, xấu, v.v..
Trong cuộc
sống bất cứ một việc gì xảy
đến, chúng
ta đều phải nhìn với lòng thiện,
lòng từ,
lòng bi, lòng hỷ, lòng xả. Nếu chúng ta
nhìn thấy
bất cứ việc gì với lòng bất thiện,
lòng không
từ, không bi, không hỷ, không xả
thì ác
pháp sẽ đến với chúng ta. Và vì thế tâm
chúng ta
sẽ khổ đau, và như vậy tâm không thể
thành đất
được.
Muốn tâm
thành đất chúng ta phải có sự
tư duy, suy
nghĩ thiện và ác trong bất cứ một
sự việc
gì xảy ra, thiện thì chúng ta tăng
trưởng để
mà sống, không làm khổ mình, khổ
người, còn
ác thì chúng ta tư duy suy nghĩ quét
sạch những
pháp ác ấy ra khỏi tâm, để đem lại
cho tâm một
sự thanh thản, an lạc và vô sự.
Nhờ có tu
tập được như vậy thì cuộc sống mới
có an vui,
hạnh phúc.
Muốn tâm
thành đất thì chúng ta khéo léo
giữ gìn
tâm không phóng dật. Giữ gìn tâm như
thế nào?
Muốn giữ
gìn tâm thì luôn lúc nào cũng
phải nhớ
nhắc tâm: “Tâm không được phóng
dật, phải
định vào thân đi” hay “Tâm định vào hơi thở đi”, hoặc “Tâm như đất lìa
tham, sân,
si, mạn, nghi đi”.
Trong tất
cả câu pháp hướng này, tùy theo
mọi người
mà chọn lấy cho mình một câu phù
hợp với
đặc tướng, còn riêng Thầy thì câu:
“Tâm không
được phóng dật phải định
vào hơi
thở đi”, thì rất phù hợp. Tại sao vậy?
Tại vì câu
này có hai tác dụng:
1- Bắt
buộc tâm không được phóng dật
theo ra các
pháp.
2- Bắt
buộc tâm phải định vào hơi thở
(định vào
thân).
Nếu tâm
không phóng dật là tâm thành
đất, tâm
thành đất là tâm bất động, tâm bất
động là
con đã viên mãn con đường tu tập theo
Phật giáo
của mình.
ĐỘC CƯ
Câu hỏi
của Hải Tâm
Hỏi:Kínhthưa
Thầy và cô Út, xin
giảng lại
cho con hiểu rõ chỗ độc cư? Đáp: Mục đích của độc cư là giữ tâm
chuyên nhất
vào pháp hướng để tu tập, không
phóng tâm
ra ngoài. Người không giữ hạnh độc
cư, thường
để tâm phóng dật chạy theo trần
cảnh bên
ngoài, sanh ra trạo cử gọi là tuôn
trào, khi
tâm tuôn trào chạy đi nói chuyện đầu
này, đầu
kia, sanh ra nhiều ác pháp, khiến cho
mình và
người khác không an để tu tập, đó là
đã phá
hạnh độc cư, làm hại mình hại người.
Người phá
hạnh độc cư, được xem là người đã
tu sai
pháp, khiến tâm không bao giờ buông xả
được. Họ
chỉ nói buông xả, chứ thật ra tâm
tham, sân,
si, mạn, nghi vẫn còn đầy đủ. Vì thế
lòng
thương, ghét, thù, oán, tị hiềm, v.v..
không mất
một chút nào cả. Và cuối cùng họ
còn hiểm
độc, gian xảo, hung ác hơn những
người chưa
tu, chỉ vì họ bị ức chế tâm.
Đức Phật
gọi tâm này là tâm phóng dật.
Người tu
hành còn để tâm phóng dật thì không
thể tu theo
đạo Phật được, nên trở về sống đời
sống thế
gian, trau dồi đạo đức nhân quả, thì
không mang
nợ của đàn na thí chủ.
Người tu
hành nhập thất từ 1 thá ng đến 3
tháng, rồi
xả thất ra đi ta bà chỗ này đến chỗ
kia... Sau
đó rồi trở về tu tập lại. Nếu người nào cứ tu như vậy thì suốt
đời tu hành cũng
chẳng tới
đâu, vì luôn luôn phá hạnh độc cư.
Người sống
độc cư không chịu nổi là người
không thể
tu thiền định của đức Phật được.
Người muốn
sống độc cư được trọn vẹn thì
phải giữ
tâm trong các pháp hành thật miên
mật, không
được để có kẽ hở.
Còn có kẽ
hở thì tâm theo kẽ hở đó mà
phóng ra,
khiến cho chúng ta cảm thấy cô đơn
vô cùng.
Từ đấy tâm dễ sanh buồn chán và sự
tu hành
bắt đầu chểnh mảng, tâm không còn
thích tu
nữa. Do đó, sự tu hành chỉ còn tu lấy
lệ cho qua
ngày.
Khi sống
không đúng độc cư, con bị phóng
tâm chạy
theo ngoại cảnh. Do đó , con tu thiền
dù bất cứ
loại thiền nào, con cũng sẽ rơi vào tà
thiền.
Tà Thiền
ở đây có nghĩa là loại thiền
không làm
chủ được sự sống chết và không
chấm dứt
luân hồi tái sanh.
Bởi hạnh
độc cư rất quan trọng, nếu một
người tu
mà không giữ gìn trọn vẹn hạnh này
thì uổng
phí một đời tu, chẳng có kết quả gì.
Những tu
sĩ đến đây tu hành nhìn qua
hạnh độc
cư là biết người tu được hay không tu được. Ngày xưa, Đức Phật đã
đuổi 500 vị Tỳ
kheo không
giữ gìn hạnh độc cư, mặc dù đó là
những đệ
tử của ông Xá Lợi Phất và ông Mục
Kiền Liên.
Gần 20 năm
Thầy đón nhận những người
về đây tu
tập chưa tìm thấy một người nào giữ
hạnh độc
cư trọn vẹn.
VỀ KẾT QUÂ
BÂN THÂN
Câu hỏi
của Liễu Thiện
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Nương theo sự
chỉ dạy
của Thầy, con đã y cứ vào đó mà thọ
trì tu
tập, càng ngày con càng nhận được sự
thanh thản,
an lạc rõ ràng hơn. Hiện nay trước
một loạt
các khó khăn và bất an xảy ra thường
ngày con
đã vững vàng, bình tỉnh hơn, và đã
vượt qua
được. Nếu so với trước đây thì khó
khăn lắm
con mới làm chủ được. Tất cả những
gì con làm
là đều do ánh sáng trí tuệ của Phật,
của Thầy
chỉ dạy, con hiểu ra rằng chỉ có sống
đúng đạo
đức nhân bản bằng những giới luật
hằng ngày
thì ta mới có bản lĩnh và nghị lực để vượt qua được mọi sóng gió
của cuộc đời.
Tuy kết
quả chưa được to lớn nhưng cũng là
một sự
khích lệ, động viên để con vững bước
trên con
đường mình đã chọn.
Kính thưa
Thầy, trong khi tu tập thực
hành có
nhiều lúc con phải kìm nén, những
giọt nước
mắt trước sự tấn công của ác pháp, vì
hiện tại
con chưa đủ đạo lực để vượt qua.
Nhưng qua
những lần như vậy con lại cứng cáp
hơn, mạnh
mẽ hơn. Con luôn tự nhủ nếu mình
chùng bước
trước mọi ác pháp thì mình sẽ mãi
mãi trôi
lăn trong khổ đau vô tận. Những lần
như vậy con
lại nghĩ đến Thầy, đến cô Út với
tất cả
tấm lòng kính trọng vô biên trước mọi
khó khăn,
cực nhọc mà Thầy và cô đã trải qua.
Do vậy,
trong lúc học đạo làm người có những
việc con
chưa làm được, còn phạm phải những
lỗi lầm
không đáng có. Ví dụ, như vẫn còn hay
cãi lại
mẹ hay lời nói không được đẹp tai, dịu
dàng lắm,
v.v.. Mỗi lần như vậy con thật sự
xấu hổ
với bản thân. Hôm nay con viết những
dòng này
kính bạch lên Thầy những việc con
chưa làm
được mà tự nơi tâm con không thể
nói hết
được, kính xin Thầy từ bi hoan hỉ tha
thứ và
chỉ dạy. Đáp: Mặc dù con rất cố gắng khắc phục
tâm mình,
nhưng gặp những pháp cực ác thì
không sao
làm chủ được. Đó là nghiệp lực sân
hận con đã
huân tập nhiều đời, nhiều kiếp, nó
đã thành
khối. Vì thế, muốn tu tập quét cho
thật sạch
khối nghiệp lực này thì phải kiên trì,
bền chí tu
tập với một ý chí sắt đá hằng ngày
phải
thường nhắc câu pháp hướng “Tâm như
đất, tham,
sân, si phải chấm dứt”, mỗi lần
vấp ngã
thì con hãy đứng lên tiếp tục tu tập
nữa; mỗi
lần vấp ngã là mỗi lần rút ra nhiều
kinh nghiệm
xả tâm; mỗi lần vấp ngã là mỗi
lần giúp
con tỉnh giác nhận được ác pháp ngay
liền nơi
con và thiện pháp nơi người; mỗi lần
vấp ngã
là mỗi lần pháp hướng tâm hiện ra
như một
người bạn lành tốt bụng nhắc con,
khiến cho
tâm con được an ổn ngay liền; mỗi
lần vấp
ngã là mỗi lần trí tuệ tri kiến giải
thoát của
con phát triển, nếu con biết cách
triển khai.
Nhờ đó mà tâm hồn con thanh
thản, an
lạc và vô sự.
Một người
tu theo đạo Phật mà sợ gặp ác
pháp,
thường tránh né, tìm chỗ an ổn để tu
tập, thì
khó mà xả tâm, thường bị ức chế tâm.
Mục đích
của đạo Phật là tâm bất động
trước các
ác pháp. Muốn tâm bất động trước các ác pháp thì con nên nhớ hằng
ngày phải trau
dồi những
pháp sau đây:
1- Pháp
hướng tâm “Dẫn tâm vào đạo
chứ đừng
dẫn đạo vào tâm”, nghĩa là tu tập
nhiều chứ
đừng học nhiều, học nhiều không tu
thì chẳng
ích lợi gì, giống như cái tủ đựng kinh
sách.
2- Triển
khai trí tuệ tri kiến nhân quả
“Đừng thấy
mọi sự việc đúng, sai, phải,
trái, mà
hãy thấy nó thiện và ác”.
3- Đừng
thấy lỗi người mà hãy thấy lỗi
mình.
4- Hãy
khởi tâm yêu thương những người
đang sống
trong ác pháp.
5- Hãy
khởi tâm tha thứ những người
đang sống
trong ác pháp.
6- Chúng ta
lớn hơn, cao thượng hơn mọi
người là
nhờ ở chỗ biết nhẫn nhục, tùy thuận
và bằng
lòng.
7- Chúng ta
có được một tâm hồn thanh
thản, an
lạc và vô sự, đó là nhờ biết buông xả
các ác
pháp.
8- Chúng ta
làm chủ được sanh, già,
bịnh, chết
và chấm dứt tái sanh luân hồi là
nhờ biết
ly dục ly bất thiện pháp, biết diệt ngã, xả tâm, biết buông xả các
ác pháp, biết giữ tâm
bất động
trước ác pháp và các cảm thọ và luôn
luôn lúc
nào cũng biết giữ tâm thanh thản, an
lạc và vô
sự.
Một cuộc
đời tu tập theo đạo Phật mà biết
buông xả,
tâm bất động trước các ác pháp, thì
không có
một vật gì quý báu nhất trong đời
này mà đem
trao đổi được.
Vì biết
tâm thanh thản, an lạc và vô sự là
một vật vô
giá, không có vật quý báu nào trên
thế gian
này hơn được. Vì thế , chúng ta hãy cố
gắng tu
tập, tu tập cho bằng được, vì nó rất lợi
ích cho
chúng ta và cho mọi người trên hành
tinh này.
TRAI HAY LÀ
CHAY
Câu hỏi
của Liễu Thiện
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Trong một bài
giảng về
chánh tín và mê tín đăng trên nguyệt
san Giác
Ngộ. Hòa Thượng Thích Thanh Từ có
giảng...
Trong Miền Nam các nhà sư Nguyên
Thủy chỉ
có ăn trai chứ không ăn chay. Vì
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!