TIẾNG CHUÔNG
CẢNH TỈNH
“Tiếng
chuông cảnh tỉnh răn trần thế
Giọng mõ từ
bi nhắc mọi người Phật pháp hiện giờ mê tín quá Ai ơi! Nên hiểu chớ lầm mê”
Lời nói đầu
Từ nay về
sau trong phần vấn đạo, để trả lời mỗi câu hỏi, chúng tôi sẽ giải đáp, thành một
bài pháp, chỉ thẳng những pháp
nào của đạo Phật và những pháp nào không phải của đạo Phật, bằng cách chứng minh cụ thể, xác thực qua những bài kinh
Nguyên Thủy của đức Phật, để quý vị tránh khỏi bị
tà giáo ngoại đạo lấy pháp của mình mạo danh là giáo pháp của Phật
giáo.
Ngoài đời,
trên thương trường có biết bao nhiêu mặt hàng giả mạo bằng những bao bì, nhãn
hiệu, nhưng bên trong toàn là đồ “dỏm”. Trong Phật giáo cũng thế, chắc chắn
phải có pháp môn giả. Tại sao chúng tôi biết như vậy?
Vì trải qua
nhiều thời gian năm tháng, trước kia chúng tôi
chỉ nghe các bậc tôn túc thuật lại
sự tu chứng đắc của các Tổ mà
không trực tiếp thấy, còn hiện giờ chúng tôi đã thấy biết rất rõ ràng với thời gian hơn thế kỷ nay (100
năm). Thầy Tổ của chúng tôi từ người nầy đến
người khác qua đời (viên tịch), không để
lại cho chúng tôi một niềm tin sâu với Phật pháp. Khi còn sống các
Ngài thuyết pháp rất hay, nào là thấy
các pháp
như mộng, như huyễn; nào là tiếp xúc với sáu trần như hoa đốm giữa hư
không; nào là chết biết ngày, biết
giờ, biết khắc, biết được tánh
linh; nào là làm chủ sự sống chết. Nhưng đến giờ phút cuối cùng,
chúng tôi chỉ thấy một hình ảnh đau
thương nằm trên giường bệnh mệt
nhọc khổ sở, đau đớn trăn trở và còn có lúc lại
mê man chẳng còn biết gì cả trước
khi viên tịch (chết).
Thầy Tổ
chúng tôi, họ đều là bậc chơn tu, tinh cần
siêng năng, thức khuya, dậy sớm, xâu chuỗi không rời tay, lúc nào cũng thấy ngồi thiền, niệm Phật, công phu, bái sám không thời nào
không có mặt, trừ khi làm Phật sự hoặc bệnh đau.
Từ lúc
bé, tám tuổi
chúng tôi được
vào chùa tu
học với các Thầy Tổ, đến ở chùa nào cũng mang
dòng phái Thiền Tông, Lâm Tế, Tào Động, Liễu Quán, Thái Thượng
v.v.. Nhưng không thấy Thầy Tổ tu Thiền
Tông, mà lại tu Tịnh Độ Tông.
Sau những năm tháng theo Thầy tu học, lòng tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, noi
theo gương hạnh của Thầy Tổ tu tập, nuôi hy vọng niệm Phật cầu vãng sinh để về cõi Cực Lạc Tây Phương.
Thời gian ấy,
bỗng dưng làn gió Thiền Tông thổi đến,
kinh sách Thiền rộ nở như hoa
mùa xuân: nào là Pháp Bảo
Đàn Kinh, Thủ
Lăng Nghiêm Kinh, Kim
Cang Kinh; nào
là Nguồn Thiền,
Luận Tối Thượng Thừa, Sáu Cửa Vào
Động Thiếu
Thất, Thiền Luận,
Thiền
Đốn Ngộ
v.v..
Càng đọc những
kinh sách này, chúng tôi càng say mê và
tưởng mình như được của báu. Chúng tôi được theo tu học thiền, lớp học
đầu tiên tại tu viện Chơn Không, do Hòa Thượng Thích Thanh Từ đảm trách
hướng dẫn, ba tháng an cư tu học ở đó, sau ba tháng tu học, chúng tôi liền rời khỏi tu viện về Trảng Bàng thuộc tỉnh
Tây Ninh, nhập thất tu tập suốt chín năm
trời, chuyên cần tu tập pháp môn “Tri vọng” (Biết vọng liền buông), và hằng
ngày thường sống nhìn các pháp như mộng, như huyễn, thấy lục trần như hoa đốm
giữa hư không. Gần chín năm mài miệt tu
hành, chúng tôi ngộ tất cả “công án Thiền Tông,
ngồi thiền thì không
còn
vọng tưởng,
(chẳng niệm thiện niệm ác) trạng thái tâm
hồn yên lặng như hoà mình trong
vũ trụ, lúc bây giờ chúng tôi tỉnh thức
rất rõ. Nhưng xét lại không biết cách
nào làm chủ sự sống chết,
tâm mình cũng
vẫn còn bất an, bất toại nguyện, phiền não, (tham, sân, si), biết rằng gặp những việc bất toại nguyện thì thấy
những việc đó như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa hư không. Dù biết vậy, nhưng tâm vẫn còn phiền não chưa thật sạch, phải đợi có thời gian nữa, nhưng
phải đợi đến bao lâu? Hay đời này hết qua đời khác... Các Tổ dạy:
“Tuỳ duyên tiêu cựu nghiệp”, có chỗ dạy: “Hồn nhiên” câu nói này là một lý
thuyết suông, “tuỳ duyên” như thế
nào để tiêu cựu nghiệp? Không
có pháp hành cụ thể rõ
ràng, lời nói suông để lừa người.
Đối với các
pháp Đại Thừa, từ Tịnh Độ Tông cho đến
Mật Tông, sự tu tập đối với chúng tôi gần như mất hy vọng. Vì chính ông thân của chúng tôi là một
tu sĩ Mật Tông, chú thuật của ông có nhiều thần lực lạ kỳ, nhưng lại
để trị bệnh, bói toán như một
phù thủy, bùa chú tuy linh hiển nhưng
chúng tôi không thấy nó làm chủ sự sống chết, tự tại an vui trong cuộc sống mà chỉ làm chuyện danh
lợi như các nghề khác trong thế
gian.
Chúng tôi tư
duy, suy nghĩ và rất khắc khoải trong lòng, nghĩ đến mình tu hành đến giờ nầy
"Đời chẳng ra đời, Đạo chẳng ra đạo”. Nếu bây giờ chúng tôi trở ra đời thì
quá muộn
màng, tuổi đã 44 rồi còn gì nữa,
ở trong đạo
thì biết pháp nào tu cho đến nơi đến chốn đây: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, độ hết chúng sanh thì thành Phật”. Những
điều kinh sách phát triển đã dạy, chúng tôi
đều chuyên cần siêng năng,
tinh tấn tu hành không dám biếng trễ, thế mà xét lại tâm mình
chưa được làm chủ, cuộc sống còn nhiều bất toại nguyện, tâm
vẫn còn ham muốn “danh lợi, ăn ngủ còn thích,
thấy nữ sắc còn muốn nhìn”, gần suốt chín năm trời, sự tu hành dường như tránh né và trốn chạy các
pháp thế gian, không tìm thấy một sự giải
thoát chân thật ở nội tâm mình, chúng
tôi tư duy và suy
nghĩ: “có phải chăng các pháp môn
của hệ phái phát triển là pháp môn ức chế tâm chăng?”.
Để được trả lời câu hỏi này một cách
cụ thể. Sau
này chúng tôi tự tu “Giới, Định, Tuệ” pháp môn của đức Phật, theo kinh sách Nguyên Thủy dạy, chúng
tôi thấy kết quả xả tâm ngay khi bắt đầu
tu rất rõ ràng. Nhờ có tu tập, có kết quả trong pháp môn, “Tam Vô Lậu Học”. Bây
giờ chúng tôi đã thấu biết được rõ và mới dám quả quyết xác định
“kinh sách phát triển là pháp môn ức chế tâm thuộc loại thiền tưởng” (tà thiền).
“Chẳng niệm
thiện niệm ác, thấy các pháp như mộng, như
huyễn, thấy sáu trần
như hoa đốm giữa hư không”, chúng tôi đã thực hiện những câu này
đã nằm lòng, hễ có các pháp đến thì những
câu này xuất hiện nhanh chóng, chúng tôi dùng nó đuổi các ác
pháp đi hoặc tâm tham muốn của mình (tâm
dục), đuổi một
lúc nó mới chịu tan biến. Đuổi mãi
chúng, chúng mới đi, nhưng chẳng bao giờ
diệt chúng được, một bằng chứng hiển nhiên, vì không có đối tượng thì chúng
không có mặt, mà hễ có đối tượng thì chúng hiện ra. Thấm thoát thời gian gần
chín năm trời mà tâm chúng tôi vẫn chưa an. Tự cảm thấy như mình
là kẻ trốn chạy các pháp thế gian, tránh né sáu trần và cuối cùng xét lại
các pháp môn tu hành của Đại Thừa và Thiền
Đông Độ này không thể giải thoát được thân tâm.
Không biết giờ này các bạn đồng tu của chúng tôi,
tu hành ra sao? Riêng chúng tôi lúc
này (năm 1980), chúng tôi rất
ngao ngán với số phận làm thầy tu. Một
hình
ảnh đen tối đến
với chúng tôi, và tự nghĩ:
“hay mình
tìm một nơi đâu, trong rừng hoang vắng rồi tự tử cho xong đời (kiếp đời tu
sĩ)”, nhưng một hình ảnh hiện lên trong chúng tôi, một người mẹ già yếu đuối,
tóc bạc phơ, lưng còm, tuổi đời gần chín mươi, sự
sống không còn bao lâu nữa, hằng
ngày nấu cơm bưng vào thất, giúp chúng tôi
sống tu hành. Nhờ hình ảnh ấy, nếu
không có mẹ, chắc chúng tôi không thể sống và tiếp tục tu theo con đường
giải thoát của đạo Phật, niềm hy vọng tu hành giải thoát đã trở thành mây
khói.
Trong lúc
tâm hồn chúng
tôi đang chán nản tận cùng, trước
mặt là bước đường cùng của kiếp đời tu
sĩ.
Bỗng nhiên, chúng tôi nhớ đến lời
của
Hòa Thượng
Minh Châu, Ngài đã nói trong bài tựa kinh Trung Bộ tập 2 Pàli- Việt đối chiếu: “Càng dịch chúng tôi
càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ Tiểu Thừa để gán vào những lời dạy thực sự Nguyên Thủy của đức Phật và khiến cho các
Phật tử, không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc
của các Bà La Môn, đã khôn khéo
xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo
lý căn bản, tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen
lẫn, bị ruồng bỏ, bị che giấu
không được biết đến, không được
học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao
giờ cũng là
chân
lý. Mặt trời
bao giờ cũng
là mặt trời”.
Nhớ đến đây, những lời này, chúng
tôi cố tìm lại
bộ kinh Nguyên Thủy Pàli- Việt để trên
tủ sách trong thất, do Hòa Thượng Minh Châu dịch lần đầu tiên. Tôi lấy xuống và bắt đầu nghiên
cứu lại bộ kinh sách này. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu lời Phật dạy rất kỹ,
chúng tôi sống và tu tập đúng theo lời dạy của đức Phật: “Giới, Định, Tuệ”.
Theo lộ trình “Tam Vô Lậu Học”, sống đúng giới hạnh,
lấy giới luật phòng hộ sáu căn, đời sống thiểu dục ít muốn, biết đủ luôn theo
pháp “Định Tư Cụ”, ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Nhờ đó, kết quả tâm hồn thanh
thản, an lạc, tâm thường quay vô, không
phóng dật, biết rõ
những hoạt động trong nội thân, tâm luôn không để
ý sáu trần, nên thấy rõ thân tâm có một cuộc sống giải thoát an lạc, vô
sự.
Càng giữ
gìn “Giới luật”, càng tu tập “Tứ Chánh Cần” thì kết quả thân tâm giải thoát
rất rõ ràng và cụ thể. Càng tu
lại càng ham thích, tự tâm siêng năng và tinh tấn không cần cố gắng nhiều và bắt buộc mình, tự
nó siêng năng tinh tấn.
Nhờ sự
nghiên cứu và tu tập các pháp môn này kết quả tâm bất động trước các pháp, nên
trí tuệ được triển khai, nhờ thế chúng
tôi rất am tường thông hiểu kinh sách
Nguyên Thủy và có đầy đủ kinh nghiệm, vì vừa nghiên cứu lý thuyết, vừa thực hành lời dạy của đức Phật nên từng bài kinh, từng câu, từng chữ
trong tạng kinh Pàli chúng
tôi hiểu rất
vững vàng.
Riêng về
kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ, chúng tôi đã bỏ công tu tập chín năm trời, nên những trạng thái ức chế tâm,
tu tập các pháp
hành của thiền Đông Độ và Đại Thừa chúng tôi đều biết rất rõ. Vì vậy, khi được hỏi điều
gì đến những trạng thái định có liên
quan đến Phật giáo dù ở bộ kinh nào của: Đại Thừa, Thiền Tông và Nguyên Thủy của
Đại Thừa, Thiền Tông và Nguyên Thủy. Chúng tôi xin trình bày ngay đến quý vị,
đáp ứng các yêu cầu để làm sáng tỏ lại
Phật giáo, còn nếu không có ai hỏi thì thôi. Đối với chúng tôi ai tu sao cũng được, có giải thoát hay không
giải thoát là quý vị nhờ và chịu lấy.
Chuyện Phật Pháp
không phải
chuyện riêng
của chúng tôi mà là của chung mọi người.
Chúng tôi trả
lời đây, vì duyên của quý vị hỏi, chứ
không phải tự chúng tôi đặt ra câu hỏi để trả lời
nhằm có mục đích gì. Mặc dù, chúng tôi biết phật giáo phát triển đã truyền vào đất nước
Việt-Nam đầu thế kỷ thứ ba cuối thế kỷ
thứ hai và Thiền Tông truyền vào thế kỷ
thứ năm, thành một truyền thống dân tộc
của đất nước này, muốn xóa nó không phải là
một việc dễ làm, nhưng chúng tôi
nghĩ đến số phận của những người
tu như chúng tôi, nên chúng tôi nói, ai
có tin thì tin, không tin thì thôi, tu hành có được thì quý vị nhờ, không được
thì quý vị chịu, giải thoát cho quý vị đâu có lien quan gì đến chúng tôi.
Chúng
tôi trả lời vì sự bắt
buộc ở câu hỏi của quý vị, nếu không trả lời, chúng tôi phụ lòng quý vị, mà trả lời cho quý vị thì phải nói thẳng, nói đúng, nói cái
sai, cái không đúng của đạo Phật; nói cái sai tu hành sanh ra bệnh tật
điên khùng; nói cái sai để quý vị
không bị kẻ khác lừa đảo bởi những pháp
mê tín, phi đạo đức; nói cái sai để quý vị khỏi bị kẻ khác lường gạt, làm tiền, làm danh, hoặc buôn Phật, bán pháp (kinh
doanh tôn giáo).
Vì cảm thông
sự tu hành rất khó khăn và dễ bị lầm
đường lạc lối. Do đó, chúng tôi
nói ra cái sai để quý vị không uổng
phí một đời tu hành, ngược lại quý vị cho rằng
chúng tôi
bài bác các Tổ sư, chống trái kinh
sách phát
triển.
Kính thưa
quý vị! Chúng tôi chống trái để làm gì? Khi chúng tôi cũng là một nạn nhân của các pháp môn này,
chúng tôi nói ra vì quý vị, quý vị có hiểu thấu chăng? Chúng tôi là chiếc xe đã lọt hố muốn cho các xe sau đừng
lọt hố nữa nên cảm thông những câu hỏi của
quý vị mà chúng tôi trả lời, biết như thế
nào chúng tôi nói như thế nấy, đúng sai
quý vị còn suy ngẫm.
Khi chúng
tôi trả lời, chỉ mong quý vị suy ngẫm kỹ lời
chúng tôi nói và lời kinh Nguyên
Thủy dạy, có tương ưng, có phù hợp,
có đúng nghĩa
hay không? Đúng thì quý vị tin
chúng tôi, bằng không đúng thì quý vị đừng tin và cũng đừng cười chê vì chúng
tôi cũng chỉ là con người như quý vị.
Chúng
tôi cũng là một con người phàm phu như quý vị, nhờ sống
đúng giới hạnh và giới đức, tu tập đúng
các pháp của Phật đã dạy. Từ đó, chúng tôi
sống trong đạo đức “Nhân quả không làm
khổ mình, khổ người”. Hằng ngày tu
tập tỉnh thức trong mọi oai nghi tế hạnh, cả niệm hơi thở, chúng
tôi đều
hướng tâm ly tham, sân, si và ái dục, nhờ thế chúng tôi thấy
được tâm mình giải thoát, đó cũng là mãn
nguyện lắm rồi.
Vì đã không
làm khổ mình, khổ người, chúng tôi thấy rất rõ là tâm
chúng tôi đã “ly dục, ly ác pháp”. Ly dục ly ác pháp, tức là chúng tôi đã làm chủ được cuộc sống của chúng
tôi. Làm chủ cuộc sống, tức là làm chủ được
“Sanh” như trong
kinh Phật đã
dạy. Sanh
là một trong
bốn cái khổ của
kiếp con người.
Chúng tôi trở
về pháp môn Nguyên Thủy, tu tập chỉ
trong vòng sáu tháng, làm chủ được tâm, không còn thấy các pháp như mộng, như
huyễn, sáu trần như hoa đốm giữa hư không nữa mà lại được giải thoát.
Nhờ tu tập
có kinh nghiệm và nghiên cứu toàn bộ kinh
Nguyên Thủy, nên lập trường trả lời của chúng tôi đều dựa vào đó dựng lại Phật giáo, trong lúc
giáo pháp của Phật đã bị dìm mất, ít có
người được biết đến. Vì vậy, chúng tôi trả lời
quý vị không ngoài lời Phật dạy.
Tin hay không tin, đó là quyền của quý vị, chúng tôi thì nói thẳng, nói thật mà thôi, chứ không có tâm
phỉ báng
giáo pháp ai hết.
Xin thưa
cùng quý vị, chúng tôi biết rằng, “lời thật mất lòng”,
nhưng vì bị hỏi chúng tôi phải nói toạc sự thật thẳng thừng để cho mọi người không bị tà giáo ngoại đạo của kinh sách phát triển lừa
đảo và những người đang tu hành không lầm lạc
pháp môn của ngoại đạo này đã tu dở chết dở sống (Đời chẳng ra đời, Đạo
chẳng ra đạo) giống như chúng tôi
tu hành
ở những năm
1980. Chúng
tôi cảm thông với những người tu sĩ ấy,
có nhiệt tâm có quyết tâm tìm đường giải thoát trong đạo Phật như chúng tôi lúc
trước.
Chúng
tôi chỉ ước mong những câu trả lời của chúng tôi
sẽ làm sáng tỏ những gì của đạo Phật đang bị che mờ bởi giáo pháp
của Bà La
Môn. Với thâm ý của chúng tôi không muốn chống trái ai hết, ai có duyên tu pháp
môn nào cũng được, nhưng có tu giải thoát được thì dạy người, bằng tu chưa có kết
quả thì đừng dùng lý thuyết suông lừa đảo
gạt người, gây mê tín, dị đoan khiến cho mọi người khổ sở, phí hết kiếp người
và cũng đừng vì quyền lợi, ích kỉ, nhỏ mọn mà gán các pháp môn của ngoại đạo đó
cho là của Phật giáo, thì chúng tôi rất
đau lòng.
Phật giáo
không có các pháp môn thiền tưởng, không có pháp mê tín, trừu tượng, mơ hồ. Vì thế, buộc lòng chúng tôi phải nói thẳng
để cho người đời sau đừng lầm lạc một cách đáng thương.
Chúng tôi tu
hành theo Phật giáo mà
đã bị lừa gạt
và lầm lạc pháp môn của ngoại đạo, nhiều
khi chúng tôi muốn chết hơn là sống. Vì
sống làm gì “Đời chẳng ra đời, Đạo chẳng ra đạo”, sống bằng ba tấc lưỡi, gạt người, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình, vợ con, bỏ cả thân bằng quyến
thuộc, bỏ của cải, tài sản, sự nghiệp, nhà cửa, để đi tu, mong tìm đường giải thoát thân tâm mình, chứ đâu phải để thành tên lừa đảo có sách
vở.
Vì cảm thông
nỗi khổ đau của những
người đồng
“bệnh”, nên chúng tôi nói thẳng, chẳng hề
sợ hãi trước thế lực quyền uy của kẻ khác, dù chúng tôi có ra sao và như thế
nào, chúng tôi cũng vui mừng, vì đã nói một sự
thật, có lợi ích cho
muôn người, không phải vì cá nhân của chúng tôi.
Chúng
tôi trả lời thẳng vì tín đồ Phật giáo khắp
năm châu bốn biển đang hướng về Phật
giáo chân chánh.
Chúng
tôi trả lời thẳng vì đạo đức của Phật giáo đã bị đánh mất, bởi giáo pháp của ngoại đạo (Đại Thừa),
thay thế vào một đạo đức mê tín,
làm cho nhân loại mất đi một nền
đạo đức sống thực, một nguồn hạnh phúc,
an vui của mọi người.
Chúng tôi trả
lời thẳng, chỉ vì con người trên hành tinh
này đang cần một nền đạo đức
“nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người”.
Trên cuộc đời này duy chỉ có đạo Phật
mới có một nền đạo đức
công lý và công bằng đúng đắn
như vậy mà thôi.
Chúng tôi
nói thẳng vì lợi ích chung cho con người trên hành tinh này, dù ai có nghĩ sao
về chúng tôi, cho chúng tôi là điên
khùng, dốt nát, không thông suốt kinh
sách Phật giáo, không hiểu giới luật Phật là gì, nói bậy bạ không trúng vào
đâu, chúng tôi vui lòng chấp nhận cả.
Nhưng xin mọi người hãy theo đúng giáo pháp Nguyên Thủy của đức Phật mà tu
tập và sửa những gì sai trái để
xây dựng cho mình một tâm hồn thấm nhuần đạo đức nhân quả của đạo Phật (không làm khổ mình, khổ
người) thì chúng tôi đã mãn nguyện lắm rồi.
Trải qua thời gian tu tập
chúng tôi biết
rất rõ con
đường nào tu tập đi đến kết
quả làm chủ sanh, già, bệnh, chết của Phật giáo. Con đường ấy không phải để cho những người tu hành phạm giới, bẻ vụn giới,
phá giới như các vị Tỳ
Kheo của Phật giáo phát triển bây giờ.
Phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng giới đức, giới hạnh, đời sống
không thiểu dục tri túc, không lấy giới bổn phòng hộ sáu căn, ăn uống ngủ nghỉ
phi thời, không sống độc cư thì dù họ có tu trăm ngàn kiếp vẫn không đến đâu,
chỉ uổng cho một đời tu mà thôi.
Trả lời những câu hỏi của quý vị, nói thẳng sẽ đụng chạm rất nhiều, mong quý vị vui lòng tha thứ cho và quý vị hãy suy ngẫm những lời chúng tôi
nói, nếu sai xin quý vị bỏ
qua
cho, còn đúng xin cầu chúc quý vị may
mắn gặp thiện hữu tri thức
có kinh nghiệm hướng dẫn tu tập đến
nơi đến chốn.
Tu hành giải
thoát làm chủ thân tâm không phải việc dễ làm, nếu tu
tập một mình, giống như người
đi biển không có la bàn, vào rừng không
có người hướng đạo.
Nếu chúng
tôi có trả lời điều chi sai sót xin những
bậc cao minh, chân tu, thạc đức chỉ giáo,
chúng tôi thành kính tri ân.
Kính ghi
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc
Ngày 11- 12-
1998
BỒ TÁT BỆNH VÌ CHÚNG SANH BỆNH
Câu hỏi của
Diệu Quang
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Như trong kinh Duy Ma Cật dạy: “Bồ tát bệnh vì
chúng sanh bệnh”, câu kinh
này dạy có
đúng theo giáo lý của
đạo Phật hay
không? Kính xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Kinh
Duy Ma Cật
là kinh phát triển. Kinh giáo phát triển là kinh
sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của
con người trên hành tinh này mà
thành lập ra giáo
lý của mình, nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ
khéo dùng những
danh từ thật
kêu và cũng giống
như vẽ rắn
thêm chân, thêm
râu, khiến cho mọi người
dễ bị lầm tưởng là rồng thật. Giáo lý kinh sách phát triển cũng lường
gạt tín đồ như vậy, tưởng là một
chân lý siêu việt của
đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý
chắp vá, như chiếc áo may nhiều
loại vải thô xấu.
Câu: “Bồ
tát bệnh vì
chúng sanh bệnh”
cũng giống
như câu: “Chúa chịu đóng đinh trên thánh giá
là vì Chúa
chịu khổ thay cho con
người”.
Trên bước đường
hoằng hóa độ sanh của Phật giáo, các vị lãnh đạo Phật
giáo, lúc bấy giờ
nguồn gốc là những giáo
sĩ Bà La Môn
và lục sư ngoại đạo. Vì
thế, kinh sách phát
triển do các vị này biên soạn và viết ra, nên các ngài cố tình dìm giáo
lý của đức Phật xuống và lồng giáo lý của mình vào, để phát triển một Phật giáo
mới mang tên mới theo ý mình.
Trước khi nhập
diệt, Đức Phật
đã nhìn thấy đám môn đồ của
mình chưa có ai là người đủ khả
năng lãnh đạo giáo hội
và duy trì giáo pháp của mình.
Ngài biết rất
rõ, những kẻ có khả năng, có trí tuệ,
có học thức đều xuất
thân từ trong
các gia đình của
Bà La Môn
và Lục sư ngoại
đạo, họ còn mang đầy ắp những kiến chấp trong tôn giáo của họ. Do những
kiến chấp này họ không thực hiện theo giáo pháp của đức Phật. Và cũng vì thế, họ
tu hành không giải thoát, không chứng đạt. Còn những đệ tử của đức Phật đã tu chứng
thì họ đã nhập
diệt trước Phật
còn lại một số ít, khi đức Phật
nhập diệt xong và giáo đoàn bị phân hóa chia làm nhiều bộ phái, do những người
có trình độ kiến thức tranh danh,
đạt lợi với
nhau. Vì thế, đức Phật
biết rất rõ trong
số những đệ tử này,
nên không trao quyền
thừa kế lãnh đạo Giáo Hội Phật
Giáo cho ai cả, chỉ nhắc nhở các đệ tử của mình nên lấy giới luật và giáo pháp làm thầy,
không nên nương tựa vào
ai cả. Ngài
đã từng dạy:
con người có ba tướng:
1- Nhân tướng
2- Hành tướng
3- Đặc tướng
Do ba đặc tướng ấy nên
con người không ai giống ai được.
Vì thế, đức Phật không trao quyền thừa kế cho
người đệ
tử nào hết, nếu
được trao quyền, họ
sẽ dạy đạo theo đặc tướng
riêng của họ,
thì Phật Pháp sẽ bị lệch đi, không còn đúng chánh pháp, dù đó là những
người đệ tử đã tu chứng, còn những hạng
đệ tử tu không chứng, thì lại còn không được trao quyền thừa kế hơn nữa. Vậy mà
sau này, các vị giáo sĩ Bà La Môn còn bịa chuyện “Niêm hoa” trên núi
Linh Thứu rằng đức Phật
đã trao quyền cho Ngài
Ca Diếp thừa kế
làm tổ thứ nhất. Đó là một câu chuyện bịa đặt thế mà
mọi người vẫn tin và
còn tiếp tục xây dựng
thành
33 vị Tổ Sư
Thiền Đông Độ.
Tuy rằng, không được trao
quyền thừa kế, nhưng họ đã
khéo léo biến
Phật giáo thành thần
giáo. Giáo lý của Phật
biến thành một giáo lý chấp ngã, thần quyền, mê tín, mơ
hồ, trừu tượng, lạc hậu, phi đạo đức
đi ngược lại giáo lý chân chánh của đạo Phật.
Những vị
giáo sĩ Bà La Môn và giáo sĩ của Lục Sư
Ngoại đạo đã
theo Ngài tu
hành đạt được đạo giải thoát
thì lần lượt họ
đã thị tịch trước hoặc sau Ngài không bao lâu, còn lại
những người tu chưa chứng đắc, tâm danh lợi còn
dẫy đầy. Những
vị Tỳø Kheo này
là những Tỳ Kheo phá giới, phạm
giới, sống không đúng Phạm hạnh, tu
không đúng lời dạy của
Ngài, họ là những người ngoại đạo, với những thâm ý sâu độc, mang
lớp tu
sĩ Phật giáo, ẩn núp chờ
khi đức Phật thị tịch
là sẽ
biến giáo pháp của
Phật thành giáo pháp Bà La Môn và Ấn Độ Giáo.
Quý vị,
nên đọc lại
kinh Phạm Võng “Bồ Tát
Giới” cấm không
cho tu sĩ và cư
sĩ học
và tu theo pháp
môn Nguyên Thủy,
Bồ Tát Giới cho giáo
pháp Nguyên Thủy của Phật
là ngoại đạo, là Thinh Văn Thừa,
là Nhị Thừa, là Phàm Phu Thiền v.v..
Đọc “Bồ Tát Giới” chúng ta mới thấy rõ
thâm ý
ác đôïc của
ngoại đạo quyết
tâm diệt Phật giáo, có thủ đoạn
và sách lược rõ ràng với ý đồ lật đổ đức Phật Thích Ca Mâu Ni thay vào bằng đức
Phật Di Lặc, để dễ sử dụng toàn bộ giáo pháp Đại Thừa mà không còn ai nghi ngờ.
Và sẽ cấm không cho tín đồ tu và học theo giáo pháp của đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, kinh sách và giáo lý của đức Phật Thích
Ca Mâu Ni sẽ bị đốt sạch.
Đúng vậy,
sau khi đức Phật tịch, trong giáo hội chia làm hai bộ phái:
1- Thượng Tọa Bộ
2- Đại Chúng Bộ
Thượng Tọa Bộ
là những tu sĩ già thủ cựu, cố giữ nguyên giáo lý căn bản Nguyên Thủy của đức Phật
không cho ai thêm bớt một chữ nào cả.
Đem kinh sách
này hoằng hóa
và phát triển đi về phương Nam
nên người thời bấy giờ gọi là Phật giáo Nam Tông.
Trên đường
hoằng hóa độ
sanh, Thượng Tọa Bộ
tuy cố giữ gốc Nguyên
Thủy, nhưng vì các
vị tu hành
chưa chứng đắc nên
có sự kiến giải
trong giáo lý ấy bằng
trí tuệ học giả hoặc
bằng những kinh
nghiệm chưa đến
nơi đến
chốn như: Thiền sư Mahàsi (Miến Điện), Thiền
sư A-Chaan-chah (Thái
Lan). Hai Ngài
có những bài kinh
soạn theo kiến
giải kinh nghiệm tu hành của
mình như: Mặt Hồ Tĩnh Lặng, Thiền Minh
Sát Tuệ v.v..
Làm sai ý nghĩa và giáo pháp của đức Phật rất lớn.
Vì tu hành
chưa tới nơi tới chốn, nên
các Ngài biên soạn những loại kinh sách này trong hiện tại và mai sau sẽ
để lại cho loài người những tai hại rất lớn,
làm hao tài tốn của và phí
cả cuộc đời của họ chẳng
ích lợi gì, khi họ theo tu những pháp
môn này.
Trong thế kỷ
này tín đồ Phật giáo khắp năm châu bốn biển đua nhau tu tập thiền Minh Sát Tuệ.
Tu tập thiền này phải tập trung theo cơ
bụng (Phồng, xẹp)
nhằm diệt “vọng
tưởng”, loại thiền ấy thuộc về thiền ức chế tâm nó
không phải là thiền của đạo Phật,
thiền của Phật giáo
là loại thiền
xả tâm “ly dục ly ác
pháp” lấy giới luật đức hạnh chuyển hóa nhân quả, làm chủ nhân quả (Các pháp ác
không nên làm, nên làm các pháp thiện hoặc ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện
tăng trưởng thiện pháp). Mục đích tu
hành của đạo Phật là phải khắc phục
cho bằng được tâm
tham ưu, tức là diệt
ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, để đạt được tâm
thanh tịnh bất động. Theo
kinh nghiệm tu hành
của những người
đã trải qua
thì tâm thanh tịnh bất
động ấy là
tâm không còn tham, sân, si. Khi tâm không còn tham,
sân, si thì tâm có đủ bảy năng lực
Giác Chi (đạo lực). Từ bảy năng lực Giác Chi mới có đủ
Tứ Thần Túc. Tứ Thần Túc là những năng lực siêu việt điều khiển làm chủ sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Năng lực điều
khiển làm chủ sự sống chết của kiếp người mà đức Phật gọi là “Bốn Như Ý Muốn”.
Bốn Như Ý Muốn tức
là Tứ Thần
Túc chứ không phải “Minh Sát’’ theo kiểu thiền sư Mahàsi dạy.
Cũng trong
thế kỷ này, thiền sư A Chaan- Chah người Thái Lan đã kiến giải qua kinh nghiệm
tu hành của mình sản xuất ra một loại thiền “Tĩnh Lặng”.
Qua hồi ký
tu hành của
Ngài, do ức chế tâm
hết vọng tưởng,
Ngài đã rơi
vào thiền tưởng, thay vì
Ngài tu đúng pháp
“ly dục ly ác pháp”
thì tâm Ngài thanh tịnh,
khi tâm Ngài thanh tịnh thì Ngài nhập được Nhị Thiền,
Tam Thiền đến Tứ Thiền và thực hiện Tam Minh, làm chủ
sanh, già, bệnh,
chết một cách dễ
dàng, không có
khó khăn mệt nhọc. Nhưng
vì
ức chế tâm để được tâm tĩnh lặng nên thanh tưởng
phát ra tiếng nổ trong đầu Ngài. Ngài cảm thấy như cả vũ trụ đều tan biến (giống
như thiền sư Đông Độ lúc ngộ đạo), rồi từ đó tưởng giải phát ra. Ngài đối đáp vấn đạo giống
như thiền sư Đông Độ không khác.
Cho nên,
kinh sách Nguyên Thủy hiện giờ bên phái Nam Tông chưa hẳn đã là Nguyên Thủy. Vì
các nhà học giả mượn lời Phật dạy rồi thêm bớt rất nhiều theo tưởng giải của
mình, khiến cho người đời sau sưu tầm và nghiên cứu những lời Phật dạy,
không biết đâu
là đúng, đâu là sai. Thật khó cho
những ai ở đời sau, muốn tu theo đạo Phật, nhưng vì không rõ nên lại rơi
vào pháp ngoại
đạo, rồi chấp nhận giáo pháp của ngoại đạo là giáo pháp của
Phật, thật đau lòng.
Ở đây nói
về kinh sách Nam Tông, tức
là kinh sách Nguyên Thủy mà các sư còn dám thêm bớt
và còn nghĩ tưởng theo
kiến giải của mình biên
soạn và viết
ra, thì làm sao đúng ý của Phật được, bằng chứng chúng ta thấy rất
rõ thiền sư Mahàsi đã
dám làm thì các
vị trước kia làm sao không dám
thêm bớt. Thế mà kinh sách này lại được phổ biến rộng rãi khắp các nước trên thế
giới.
Kinh sách Bắc Tông với sự phát triển theo kiến giải
phóng túng của
các nhà học giả thì thử
hỏi sự sai biệt với lời Phật dạy còn gấp
trăm ngàn lần.
Vả lại,
kinh sách Đại Thừa bị thế tục mê
tín lạc hậu hóa rất nhiều. Ví dụ: một sự mê tín trong dân gian, ngày hai ba
tháng chạp, tất cả mọi gia đình đều làm lễ cúng
đưa “Ông Táo” chầu
trời thì trong chùa
cũng làm lễ
cúng bái đưa “Chư
Thiên”. Như vậy
các bạn nghĩ
sao? Phật giáo mà bị tư
tưởng hủ tục thế gian đồng hóa thì Phật giáo còn có nghĩa tự
thắp đuốc lên mà đi hay không? Còn
có trên Trời
dưới Trời con người là duy nhất
không?
Từ khi Tăng
Đoàn Phật giáo
được chia làm hai nhóm:
1- Thượng Tọa Bộ
2- Đại Chúng Bộ
Sự phân
chia này, thì Đại Chúng
Bộ không còn bị sự kềm chế của Thượng Tọa Bộ, nên kinh sách
tự do phát triển
theo kiến giải học giả, không cần có kinh nghiệm tu
hành, phần nhiều chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác và phong tục tập quán của
dân gian.
Lợi dụng Phật giáo không có người tu chứng điều
khiển, nên mặc sức phát triển theo tâm
danh lợi của họ. Do
đó, kinh sách phát triển
ra đời với một khối lượng
vĩ đại. Những người có khả năng viết lách, ai muốn viết
muốn luận như thế
nào, cứ mặc
tình viết và lý luận
miễn luận sao có
lý, nghe xuôi tai là được,
đời sau tu được hay
không được mặc kệ. Chỉ
bây giờ ngòi bút phóng túng viết cho thỏa thích mà
thôi.
Muốn truyền
bá loại kinh sách này – kinh sách phát triển không thể hướng phương Nam được, vì
nơi đó đã
có kinh sách Nguyên
Thủy do Thượng Tọa Bộ
truyền bá, nên
tín đồ ở đó xem
kinh sách này (kinh sách
phát triển) là kinh sách Bà La Môn giáo, chẳng ai thèm
theo và đọc.
Vì thế, kinh
sách này truyền về phương Bắc, những người
dân ở phương Bắc chưa hiểu gì
về Phật giáo,
nên kinh sách
phát triển truyền đến đâu đều được
họ chấp nhận ngay, là vì các họ đã biết
dựa theo phong tục mê tín lạc hậu của người
dân địa phương),
triển khai thành kinh sách
và sử dụng thần
thông, kỳ lạ v.v.. Do thế kinh
sách này phát
triển về
phương Bắc dễ dàng, nên gọi là Phật Giáo Bắc Tông.
Trên đường
hoằng hóa độ sanh về phương Bắc gặp tôn
giáo nào thì nó
thu thập tinh ba của
tôn giáo ấy rồi biến
thành giáo lý của
mình, như đến Trung
Hoa lấy tinh ba của Lão Giáo biến
thành giáo lý Tối Thượng Thừa của mình,
mà các nhà
khoa học, tâm
lý học gọi “Thiền Tông” là Phật giáo bị thế tục hóa.
Đến Việt Nam
không có tôn giáo nào đặc biệt,
không có tinh ba triết
lý nào vĩ đại nên nó
đã dung hợp
ba tôn giáo lớn: Phật
(Đại Thừa), Lão (Tiên Đạo), Khổng (Nho Đạo) lại thành một Phật Giáo Việt
Nam.
“Vạn Hạnh dung
tam tế”.
Sinh hoạt của
“Phật Giáo Mới”
này tiếp tục triển khai
kinh sách phát triển, bằng cách dựa theo phong tục tập quán
dân gian biến dần thành kinh sách của mình,
để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của dân
gian, cho nên trong
chùa thờ đủ loại; Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ma, quỷ, cô, cậu,
các bà chúa,
Quan Thánh Đế
Quân, Thập Điện Minh Vương, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Long Thần Hộ Pháp, Bát
Bộ Kim Cang, cô hồn, các đảng, thập
loại âm binh,
Nam Tào, Bắc Đẩu,
hài cốt loài
hổ và vong
linh của những người chết
trận mạc (Chiến
sĩ trận vong) v.v..
Kinh sách
phát triển dạy đầy ắp những điều mê tín, nào
là cúng vong,
tiễn linh, thí thực cô hồn các đảng,
nào là cúng sao, giải hạn, cúng ếm Thần Trù, quỷ dữ, nào là cầu siêu, cầu
an, xin
xăm, bói quẻ,
xem ngày tốt xấu, trừ linh, trừ thần v.v.. Mỗi chiều ở các chùa
cổ xưa đều cúng thí thực cô hồn các đảng, quỷ chùa, bạch hổ bằng gạo muối v.v..
Phung phí của đàn na thí chủ vô ích.
Hình thức cúng bái tạo ra có vẻ thật sự có thế giới
siêu hình đang sống chung
đụng với thế giới hữu hình của con người,
mà mỗi tai ương, hoạn nạn, tật bệnh của loài người đều
do con người của thế giới siêu
hình tạo ra thưởng phạt.
Kinh sách
phát triển đã lừa đảo con người bằng một thế giới siêu hình mang nhiều hình thức mê
tín, lại còn gạt
người khác bằng
cách hy sinh to lớn với
lòng đại từ, đại bi “Bồ Tát bệnh vì chúng sanh bịnh”.
Có bao giờ Bồ
Tát “bệnh” để
chia sẻ nỗi
khổ đau của
chúng sanh được chăng?
Đạo Phật đã dạy cho chúng
ta biết rất rõ
ràng: Nhân nào quả nấy, ai đã tạo nhân
ác thì phải gặt lấy quả khổ,
không ai chịu
thay quả khổ đó cho
ai được,
đó là một đạo luật
nhân quả công bằng
và công lý của nhân
loại. Vậy mà có Bồ Tát chịu khổ,
chịu bệnh thay cho chúng sanh, hành động của Bồ Tát
làm như vậy có
phi đạo đức
chăng? Con người sanh
ra trên thế gian
này, đức Phật
đã xác định,
từ nhân quả sanh
ra, sống trong nhân
quả, chết về nhân quả. Xác định
như vậy thì không có đấng tạo hóa nào sanh ra con người. Vì thế, không có kẻ nào
ban phước giáng họa
cho con người, mà cũng
không có kẻ
nào thay thế sự
khổ đau của con người được.
Cho nên câu:
“Bồ Tát
bệnh vì chúng
sanh bệnh” là câu lừa đảo gạt người của kinh sách phát triển, để chứng tỏ
Bồ Tát là kẻ vĩ đại, Bồ Tát có lòng từ bi rộng lớn
thương xót đối với
tất cả chúng sanh, nhưng không ngờ lời nói dối trá, thành
phi đạo đức. Đối với đạo Phật
câu nói này là câu nói gian xảo, lừa bịp người đệ nhất.
Vì thế,
ai đã tạo
nhân ác thì phải
gánh chịu quả khổ,
không một ai chịu thay
cho ai
được, đó
là luật nhân quả
công bằng tuyệt đối, không sai một
hào li nào cả.
Khi còn tại
thế đức Phật đã từ chối: “Các con tự thắp
đuốc lên mà đi, ta chỉ là một người hướng đạo chỉ đường
mà thôi”. Lời dạy này đức Phật đã khẳng định sự từ chối
không cứu độ ai hết mà mọi người phải tự cứu mình. Cho
nên, những lời dạy của
Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta
phải tự hành thiện, chỉ có hành thiện mới đem lại sự an vui cho mình, cho người
và cho tất cả muôn loài sanh linh.
Vậy mà lại
có một Duy Ma Cật dám bệnh thay cho chúng sanh, dám chia sẻ
nỗi khổ đau của chúng sanh, thật là gan dạ dám phá bỏ
luật nhân quả. Nếu
có một Duy
Ma Cật làm được
như vậy thì đạo đức trong thế gian này còn gì?
Chúng sanh
do không hiểu (vô minh)
làm điều ác, tạo tội lỗi rồi phải
chịu nhiều thống khổ
do hành động đó. Đạo Phật
ra đời chỉ có mục
đích cứu giúp
con người thoát khổ bằng
cách chỉ
dạy cho họ thấu
hiểu những điều họ
làm là ác, là bất
thiện và sẽ đem đến quả
khổ đau cho họ, chứ không ai làm cho họ khổ mà chính họ. Để chứng minh lộ trình nhân quả cụ thể
cho họ thấy và hiểu rõ hơn thì từ đó họ không
còn hành động
làm ác, làm khổ mình,
khổ người nữa;
thì chừng đó họ sẽ không
còn chịu sự khổ đau nữa, tâm hồn họ sẽ được thanh thản, an lạc và
luôn sống tùy
thuận hòa hợp với mọi người.
Đạo Phật cứu người là
giúp con người vén sạch màn “vô minh”, để từ đó họ sáng suốt
hiểu rõ không còn lầm lạc trong hành động ác, để không tự tạo khổ cho mình cho
người nữa. Sự hiểu biết tránh làm điều ác và luôn thực hiện làm điều lành, nên
đạo Phật gọi sự hiểu biết đó là trí tuệ hay gọi là tri kiến giải thoát. Nhờ có
tri kiến giải thoát, nên đạo Phật gọi là đạo giải thoát, tri kiến
giải thoát đó
không phải của ai
khác mà
phải chính của
mình mới giải
thoát cho mình được.
Cho nên câu
nói: “Bồ Tát bệnh vì
chúng sanh bệnh” là câu
nói nghe rất
hay nhưng ý nghĩa
rất dở, vì
phi đạo đức,
thiếu công bằng và công lý.
Đối với luật
nhân quả, không ai có thể đau bệnh hoặc chịu tai nạn thế cho ai được và cũng
không thể chia sẻ nỗi
đau khổ với chúng sanh được.
Câu nói:
“Bồ Tát bệnh
vì chúng sanh bệnh”
là câu nói
láo, lừa đảo thật sự. Nếu quả có một
Bồ Tát bệnh thay cho chúng sanh hoặc
chia sẻ nỗi
đau khổ này, thì chúng
sanh phải hết khổ và
ít nhất
cũng phải giảm
thiểu được sự đau khổ,
nhưng con người trên
hành tinh này có hết đau khổ
đâu, vậy thì Bồ Tát
nói có đúng không? Các bạn nghĩ
sao?
Nhưng luật
nhân quả đã không chấp nhận điều này, nếu chấp
nhận điều này thì thế gian
này còn
lấy đâu gọi
là đạo đức
công bằng và công lý.
Một kẻ làm
ác mà có người chịu thay tội khổ, thì
nhà giàu
có, người làm
quan, kẻ làm vua chắc không bao
giờ có khổ đau bệnh tật và tai nạn v.v..
Nhưng thật sự nhìn
cuộc sống con người trên thế gian này từ vua chúa,
quan, dân, người giàu có và đến những kẻ nghèo cùng, khốn khổ, mỗi giới, mỗi
giai cấp đều có
sự khổ đau, bệnh tật
như nhau mà không có
ai thoát khỏi, nhất là bốn sự khổ: sanh, già, bệnh, chết
và cũng chẳng ai thay thế cho ai được bốn sự khổ này chút nào.
Câu nói
phi đạo đức nhân bản - nhân quả của Bồ
Tát Duy Ma Cật đã
làm cho kinh sách phát triển mất
giá trị, nhất là đạo đức của con người.
Nếu bảo rằng kinh sách là chỉ để dùng cho bậc Thánh, Hiền, Bồ Tát
chư Phật, tâm không còn sống
trong các pháp đối
đãi (bất nhị), nên lời nói của Bồ Tát Duy Ma Cật vượt
thoát các pháp đối đãi. Nếu luận như vậy thì còn sai hơn nữa. Thánh, Hiền, Bồ Tát
và chư Phật không còn biết đạo đức làm người nữa hay sao? Tức là không có pháp
thiện và cũng không có pháp ác nữa (bất nhị).
Hàn Sơn,
Thập Đắc, Tế
Công Hòa Thượng, Phật Sống Cựu
Kim Sơn v.v.. Ăn uống dơ bẩn lại còn ăn
thịt uống rượu, phạm giới tận cùng, đó là các Ngài sống tự tại vô ngại trong
pháp môn
bất nhị của Đại Thừa,
vì thế các Ngài
không còn là con người mà là loài
ác quỷ từ pháp
môn bất nhị
đã sanh ra và
hiện giờ trong pháp môn bất nhị ấy
còn sanh biết bao nhiêu là loài ác quỷ nữa, nếu chúng ta không chặn đứng được
pháp môn bất nhị thì một nguy cơ khiến
cho con người không tiến bộ mà còn
sống lạc hậu thụt lùi dã man hung ác.
Nếu bảo rằng:
“Chấp giới” thì phạm hạnh, tức là đạo đức của người tu sĩ
Phật giáo ở chỗ nào? Không lẽ đạo Phật không có đạo đức sao? Hay toàn là những
thầy tu phạm giới, phá giới
v.v.. sống ngang nhiên ngoài vòng pháp luật,
là những người vô pháp luật, phi đạo đức.
Hai trăm năm chục giới Tỳ Kheo Tăng và ba trăm bốn
mươi tám giới Tỳ Kheo Ni, không phải
là đạo đức của Phật
giáo sao? Phật
giáo còn nhiều giới đức giới hạnh nữa,
chứ không phải có bây nhiêu giới
đó sao?
Người tu
sĩ nào phạm
giới, phá giới
là người tu sĩ
không có đạo đức
và thiếu giáo dục
đạo đức.
Đừng dùng những
danh từ: “chấp giới và tự
tại vô ngại
hoặc thõng tay
vào chợ” để bưng bít hay bịt miệng
thiên hạ, để được sống
chạy theo dục lạc thế
gian mà người
ta vẫn tưởng đó là Phật sống. Nên
các vị giáo sĩ Bà La Môn dựng lên những
nhân vật phá giới,
phạm giới: Tế Điên Tăng, Phật Sống Cựu Kim Sơn, Hàn Sơn, Thập Đắc, để giúp cho
quý thầy của Phật giáo phát triển
và các Thiền Sư Đông Độ tự do phá giới, sống phạm giới
mà tín đồ không dám phê phán, đó là một tấm bình phong che đậy cho những người
tu danh, tu lợi.
Kinh sách
phát triển đã lầm, hay nói cách khác là không hiểu đạo đức của đạo Phật là gì?
Nên thường nói giọng cao kỳ: “Đại
Thừa, Tối
Thượng Thừa”,
tự xưng kinh sách của mình là trên hết,
không có kinh sách nào bằng.
Dù Thánh Hiền,
chư Phật, chư Bồ Tát, tất cả phàm phu
và chúng sanh đều từ
nhân quả sanh ra. Mà đã từ nhân quả sanh ra thì không sống trong hành
động thiện, ác sao?
Hành động
thiện không phải
là đạo đức sao?
Và hành động
ác không phải
là phi đạo đức ư?
Toàn bộ
“giới luật” của
Phật đều dạy chúng ta phải sống và hành động đạo đức
làm người, làm Thánh nhân, làm Phật. Cớ sao những người
thiếu hành động
đạo đức mà chúng
ta lại xem họ
như Phật. Họ chỉ có một
vài thần thông tưởng lòe bịp thiên hạ, chứ đức hạnh
chẳng ra gì, thì làm gì ai
cung kính tôn trọng ho.ï
Sao mọi người
vô minh điên đảo, hễ thấy
ai có chút ít thần thông đều cho họ là Phật, Thánh, Tiên
cung kính và lễ
bái, cúng dường trong khi những hành động đạo đức của họ
chẳng ra
gì, còn tệ
hơn người phàm
phu là khác nữa.
Phật và
Thánh đều là những con người phàm
phu tu tập
trau dồi thân
tâm xa lìa ác
pháp không
còn xảo quyệt,
gian ngoa, lừa đảo, luôn
luôn sống trong
hành động đạo đức, thì mới gọi là Thánh nhân, Phật. Có đâu dùng
những lời hoa mỹ
cao thượng như: “tự tại vô ngại, chấp giới, thõng tay vào chợ, đói ăn
khát uống mệt ngủ liền”, khiến cho những người chưa hiểu đạo đức nhân quả của
Phật, dễ bị lầm lạc, họ tưởng những người này là bậc Thánh cao thượng dám hy
sinh mình vì mọi người, chịu khổ đau vì
nhân loại, vì loài người dẹp bỏ cá
nhân mình thật
là vĩ đại.
Nhưng trong cái vĩ đại đó, là không vĩ đại gì hết. Vì ai đã làm ác thì người đó phải chịu gánh quả khổ
không thể ai gánh vác được cho ai, dù kẻ đó Thánh, Thần, chư Phật, chư Bồ Tát
cũng không thể gánh chịu cho ai
được, thế mới gọi là công bằng, công lý. Còn có người chịu
thay thế được quả khổ đau cho kẻ khác, thì trên thế gian này con người làm
sao có một đạo luật gọi
là công bằng và
công lý được?
Nếu có người
chịu khổ cho kẻ khác
thì thế gian này sẽ ra sao?
như trên đã nói.
Nếu trên thế
gian này không có một đạo luật công bằng
như đạo luật nhân
quả, thì con người chỉ còn là
loài ác thú, một loài ác quỷ mà thôi.
Vì thế, những
lời nói chịu
khổ cho nhân loại là lời lừa đảo, bịp
người với những
người còn đang sống trong giấc mơ “siêu
hình”. Thế giới siêu
hình chịu khổ
cho loài người
hay mang lại tai họa cho loài người!?
Chúng ta
là những người
còn phàm phu tục
tử, còn sống
trong cảnh đối
đãi, nên chỉ biết
ở trong cảnh đối đãi
mà tu tập
trau dồi đạo đức như thế nào, để
cùng sống chung nhau, đối xử với
nhau mà tâm hồn thanh
thản, an lạc, không
làm khổ mình,
khổ người thì đó
là chân hạnh phúc của loài người và đó cũng là sự giải thoát của đạo Phật.
Giải thoát chung cho loài người, chứù
không riêng như
kinh Duy Ma Cật chỉ dành cho những bậc Bồ
Tát, Chư Phật và Thánh Hiền với trí tuệ “Bất Nhị”.
Nhìn chung các tôn giáo hiện có mặt trên thế gian
này đều xây dựng cho loài
người một thế giới tuyệt vời “bất
nhị”. Cái thế giới ấy rất xa vời với loài
người, vì con người
không thể với tới,
không thể có trí
tuệ: “Nhất nguyên” đó được, chỉ có những bậc Thánh, Hiền
như Bồ Tát Duy Ma Cật trong kinh sách phát triển mà thôi. Thậm chí như Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni cũng còn sống phạm hạnh trong
đạo đức nhân quả, vì thế Ngài
còn thua xa Bồ
Tát Duy Ma
Cật. Chính
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Ngài cũng
không dám sống
trong pháp môn “Bất
Nhị” vì đó là pháp môn phi đạo đức.
Những bậc
Thánh “Bất Nhị”
này lý luận mơ
hồ, trừu tượng,
ảo tưởng, hư tưởng, tưởng giải, chỉ là giấc mộng đẹp của Bà La
Môn Giáo mà thôi.
Nhìn chung giáo
lý của các
tôn giáo đều xây dựng cho loài người một giấc mơ đẹp để
an ủi tinh thần con
người trong cuộc sống lầm than và nhiều đau khổ hơn là trên thực tế
giải khổ cho họ. Ngoài những giáo lý ấy, có một thứ giáo lý khác được
mang một cái
tên nhỏ bé “Tiểu Thừa Phật Giáo”.
Tiểu Thừa
Phật Giáo chỉ
mang một cái tên như vậy cũng đủ khiến cho người ta
xem thường, coi rẻ, người ta tưởng tượng trong đầu giáo pháp đó chẳng ra gì, chẳng
bằng ai, không cao siêu, vi diệu, nhỏ
mọn, hạn hẹp,
tầm thường chẳng có gì để cho mọi người đáng quan
tâm.
Chính chúng
tôi trong những
ngày đầu mới xuất
gia tu học
theo Phật, thấy
kinh sách Tiểu Thừa Phật Giáo là chúng tôi cũng có tư tưởng không muốn đọc và cũng không muốn tu theo nó nữa.
Các bậc Thầy
tổ thường ca ngợi kinh sách phát triển, khuyên chúng tôi nên học, đọc và tu
theo những bộ
kinh như: Pháp Hoa Kinh, Thủ Lăng
Nghiêm Kinh, Viên Giác Kinh, Qui Nguyên Kinh, Đại Bửu Tích Kinh, Huê Nghiêm
Kinh, Pháp Bảo Đàn Kinh v.v..
Khi học và đọc những bộ
kinh này, chúng tôi thấy nó quá vĩ đại, lý luận tuyệt vời, chỉ rõ bản thể
con người rất cụ thể, nếu không
có kinh sách này dạy thì khó mà ai nhận ra được “Phật Tánh”
từ đó chúng
tôi tin kinh sách này như là của
báu.
Các Tổ,
các bậc Tôn
Túc và các Thầy từ bao nhiêu
thế kỷ nay đã
bị kinh sách
này lừa đảo khiến tu hành lầm lạc,
cứ tu theo các pháp môn đó mà
tu chẳng đi đến đâu cả, kết quả
cũng chẳng có gì, chỉ có cảm giác an lạc của dục tưởng xúc
và cuối cùng
thì có một vài thần
thông tưởng, các Thầy Tổ đã tự mãn nguyện, hoặc thấy sắc tưởng, thanh tưởng,
phát hiện thấy trước mắt và tiếng nổ trong tai là tự cho mình tu chứng đạo. Con đường tu như vậy thật
là đau lòng, họ không biết
chứng đạo là chứng cái gì? Hay chỉ
cần nói: “Vô sở đắc” là đủ mãn nguyện tu hành.
Phật tánh, thần thông, các cảnh giới siêu
hình: xuất hồn,
nhập định, hay
là tự tại vô
ngại, ngũ uẩn giai không, phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn
hữu, v.v.. đó chỉ là
sống trong thế giới tưởng của tưởng tri.
Ngộ nhận những
trạng thái tưởng này cho là chứng đạo,
nên các Ngài
truyền thừa với nhau
về phương Bắc,
nhưng vì danh lợi, nên hùng cứ một phương chia ra làm năm tông bảy
phái (Thiền Tông Trung Quốc).
Đến Việt Nam
Thiền Tông thành lập ra phái Thảo Đường, Trúc Lâm, Liễu Quán v.v.. Nhưng tên
thì có khác, khuôn
Thiền Đông Độ thì không có gì khác cả, đều phỏng theo
khuôn mẫu của Trung Quốc.
Đến thời đại
chúng ta vẫn phát triển đều đều, người tu thì
đông vô
số kể, mà đạt được thì chẳng có gì, chỉ là một trò lừa đảo
bịp bợm người mà thôi. Truyền thừa với nhau từ đời này sang đời khác lúc thịnh
lúc suy, nhìn chung chẳng có ai
tu đến đâu cả,
chỉ
là diễn xuất tuồng hát trên sân khấu, hết màn Tịnh Độ
Tông, đến màn Thiền Tông; hết màn Thiền Tông,
đến màn Mật Tông;
hết màn Mật
Tông, đến màn Pháp Hoa Tông v.v.. Cứ những Tông này diễn tới diễn lui chẳng
có gì mới mẻ cả.
Người truyền
Đạo thì cũng
chẳng biết mình truyền
đúng hay sai của đạo Phật, người tu thì lại nhắm mắt tu
đùa, chẳng cần suy nghĩ xem xét kỹ
lưỡng, chỉ nghe
Đại Thừa, Tối Thượng Thừa là ngon lành, là siêu việt,
còn những loại kinh
sách Tiểu Thừa
Nguyên Thủy thì xem chẳng ra gì,
liệt kê những loại kinh sách này là ngoại đạo.
Lúc chúng
tôi mới
bước vào chùa tu
hành, thích học được kinh sách Đại
Thừa và thích tu thiền Tối Thượng
Thừa, xem kinh sách Tiểu Thừa A Hàm như đồ bỏ
(ngoại đạo) mà
trong kinh Phạm Võng Bồ Tát giới đã cấm không cho học và tu giáo lý này.
Tu như ông
Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên,
tiên nữ rắc
hoa còn dính mắc,
các Ngài chỉ là hàng Thinh Văn
không bằng Bồ Tát và Phật, uổng công tu
hành chỉ ở những bậc thấp lè tè. Đối với Phật giao phát
triển lời dạy của đức Phật là ngoại đạo, sao bằng kinh sách Đại Thừa của các Tổ
biên soạn ra dạy: kiến tánh thành Phật, nhanh
chóng như trở bàn tay.
Đó là
quan niệm hết
sức sai lầm của chúng
tôi, do bị ảnh hưởng
kinh sách phát triển. Vì Thầy Tổ truyền dạy cho nhau
không ngoài kinh sách phát
triển thì làm sao chúng
tôi biết đâu
là kinh sách Phật,
đâu là kinh sách của Bà La Môn ngoại đạo.
Xương minh
pháp môn Tịnh Độ, Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ lại còn khuyến cáo người hơn nữa bằng
những từ ngữ rất kiêu: “Người tu Thiền mà không tu Tịnh Độ 10 người chưa được một
người tu chứng”. “Người tu thiền mà
tu thêm Tịnh Độ như cọp mọc sừng 10 người đều chứng cả”.
Tịnh Độ còn
dùng những lời lẽ cám dỗ. Những lời lẽ ở trên
đã đưa đường dắt
tín đồ một cách có thủ đoạn.
Tịnh Độ Tông cho rằng thời đại chúng ta là thời đại mạt
pháp, loài người sắp tận thế chỉ có pháp
môn Tịnh Độ tu hành dễ chứng và tu chưa
chứng đạt cũng được đức Phật A Di
Đà rước về
cõi Cực Lạc rồi tiếp tục tu hành.
Sau những năm
tháng tu hành với hoài bão làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chấm
dứt sự khổ đau của kiếp người.
Nhưng bị các
pháp môn của các hệ phái phát triển lừa đảo, đã phí hết thời gian của tuổi
thanh xuân. Hơn nửa đời người đem hết sức
lực tu hành theo các pháp môn đó, chúng tôi kiến giải (triệt ngộ) được tất cả các
công án và
đang sống trong trạng
thái tĩnh lặng, biết
bao nhiêu trạng thái
tưởng xảy
ra, như thần thông biết chuyện quá
khứ vị lai, dù
biết như vậy,
nhưng xét kỹ
chúng tôi cũng chưa làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Chúng tôi
đã trở về với pháp
môn Tiểu
Thừa may ra,
hy vọng còn làm chủ được thân tâm.
Chúng tôi sống
độc cư, sống đời sống trầm lặng, sống đúng
giới luật không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào,
với đời sống thiểu dục tri túc, chỉ xin
cơm ngày một bữa
mà thôi, chẳng có mong cầu gì khác.
Chúng tôi
tu pháp Tứ
Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định, kết quả chúng tôi hướng tâm đến
Tam Minh, chỉ trong vòng sáu tháng với một
nhiệt tâm nồng
cháy; với một nghị
lực dũng mãnh; với một ý chí sắt
đá kiên cường, chúng tôi thành tựu, làm chủ sự sống chết, tâm chẳng hề dao
động trước bất cứ một đối tượng nào.
Từ đó, chúng
tôi xác định rõ, kinh sách phát triển là của tôn giáo khác hoặc bị thế tục hóa
tôn giáo, với dụng tâm của các vị Tỳ
Kheo giáo sĩ Bà La
Môn, thâm ý
sâu độc muốn
diệt trừ Phật giáo tận gốc. Chỉ
vì Phật giáo tồn tại và phát triển thì
các tôn giáo khác không phát triển được mà còn có thể bị diệt vong.
Tại sao vậy?
Tại vì Phật giáo đập phá thế giới
siêu hình, hủy diệt thần quyền
sáng tạo đem lại cho loài người một nền đạo đức giải
thoát không làm khổ mình, khổ người,
biến cảnh thế gian thành Thiên Đường, Niết Bàn. Đó là một chân lí đi ngược
lại giáo điều
giáo lý của
các tôn giáo, làm cho họ không
còn đất đứng trên hành tinh này, chỉ còn
có nước di cư
lên cung trăng sao hỏa, sao mộc
mà xây dựng
Niết Bàn, Cực Lạc, Thiên Đàng v.v..
Đạo Phật
và các tôn
giáo khác không
thể đi chung nhau một đường. Vì các tôn giáo khác có thế giới siêu
hình, có thần
quyền sáng tạo, có cảnh giới mơ hồ, trừu tượng, ảo huyền,
có cuộc sống sau khi chết.
Ngược lại, Phật
giáo thiết thực và cụ thể
hơn nhiều, không
có thế giới siêu hình, không có
thần quyền sáng tạo, không có thế giới mơ hồ,
trừu tượng, ảo huyền
và không có cuộc sống sau khi chết.
Nếu chánh
pháp và đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo,
được phổ biến
sâu rộng, khiến mọi người am tường và thực thi sửa đổi thói hư tật xấu,
thì xã hội loài người mới sống đúng đời sống công bằng, bác
ái, thì các
tôn giáo khác làm sao còn có chỗ đất đứng trên
hành tinh này như trên đã nói.
Thấy rõ điều
lợi
hại này, nên bằng mọi giá, các tôn giáo khác đều ước muốn biến
dần Phật giáo thành một tôn giáo chấp ngã, có bản thể vạn hữu (Phật
tánh, Đại ngã)
và còn đạo đức
của Phật giáo
thì biến thành một thứ đạo đức
nhân quả mê
tín, để Phật giáo
cũng giống như các tôn giáo khác
trên hành tinh này.
Cho nên, câu
nói “Bồ Tát bệnh vì chúng sanh bệnh” cũng
là một câu
nói lừa đảo
phi đạo đức, nhằm để lường gạt những người chưa hiểu đạo đức
nhân quả thiện ác của Phật
giáo. Chứ không thể lừa đảo, lường
gạt những người có giới đức và giới hạnh
của Phật giáo được.
Hiện giờ, mọi người
chưa ai thông
suốt đạo đức nhân quả và luật nhân quả,
kinh sách nhân quả Phật
giáo phát triển
là loại kinh sách
mê tín, dị đoan. Đó
toàn là kinh
tưởng, hiện nay tín đồ
Phật giáo phát
triển họ đặt trọn lòng tin những vị Bồ Tát.
Vì những vị Bồ Tát này thường ban
phước lành và cứu khổ cứu nạn, cùng chia sẻ
những sự đau khổ của chúng
sanh. Không ngờ sự cứu khổ, cứu nạn và
chia sẻ sự đau khổ với
chúng sanh, là một điều không
thể làm được,
không thể làm được là vì
luật
nhân quả rất
công bằng và
công lý, cho nên
hành động cứu khổ và
chia sẻ khổ nạn là phi
đạo đức, làm mất công bằng và
công lý, trong kiếp sống của loài
người.
THẾ GIỚI
SIÊU HÌNH
Câu hỏi của
Cô Châu
Hỏi: Kính
thưa Thầy, theo Đạo Phật Thầy đã giảng là không có thế giới siêu hình,
nhưng trong các kinh
Nguyên Thủy, Đức Phật
đã dạy, có 33
cõi Trời
và các cõi địa ngục,
cõi ngạ quỷ, A Tu La, súc sanh,
và cõi Người, như trong kinh có thuật lại:
“Một hôm Đức Thế
Tôn cùng tôn giả A Nan đi khất thực, trên đường về, tôn giả A
Nan thấy đức Phật mỉm cười, nên lấy làm lạ, muốn thưa hỏi Phật liền, nhưng giới
luật Phật cấm, “Chẳng đặng nói chuyện
trên đường đi”. A Nan chờ sau khi thọ thực xong, Ngài đến thưa hỏi Phật: “Kính
bạch Thế Tôn, trong lúc đang đi khất thực về, có duyên cớ gì mà Như Lai mỉm cười?
Đức Phật bảo:
“Trên đường
đi khất thực về ta
thấy trên trời có một loài ngạ quỷ đang
đói khổ, sau lưng bị một đoàn ó theo cắn rỉa, thật là đau khổ”.
Kính bạch Thầy, có
phải cảnh giới này là
địa ngục không? Nếu quả có địa
ngục thì
phải có đời sống sau
khi chết. Nếu
có đời sống
sau khi chết thì phải có thế giới siêu hình?
Và đây là
câu chuyện thứ hai:
“Vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật
ngự có một Thiên nữ Câu-Ca-Ni có dung sắc tuyệt diệu, cúi đầu lễ dưới chân
Phật, từ thân tỏa
ánh sáng
chiếu khắp tịnh xá
Sơn Cốc. Thiên nữ đọc lên một bài kệ. Khi Đức Phật
nghe xong bảo Thiên nữ:
– “Đúng thế!
Đúng thế!”
“Thiên nữ
Câu Ca Ni
nghe Phâït khen, hoan
hỷ cúi đầu lễ dưới
chân Phật rồi biến
mất”.
Thưa Thầy, câu
chuyện trên đây
trong kinh Tạp A-Hàm
tập IV trang
483 kinh số
1.271. Theo
bài kinh
này như vậy
có cõi Trời, có
cõi Trời tức
là có thế giới siêu
hình, có thế giới
siêu hình, tức
là có sự sống sau khi
chết. Xin Thầy dạy rõ cho chúng
con hiểu?
Đáp:
Đã từ lâu,
cũng chỉ vì thế giới
siêu hình điên đảo này, Thầy
đã xác định nhiều lần không có thế giới
siêu hình, mà chỉ có thế giới siêu hình
tưởng. Thế mà đến giờ
này các con vẫn chưa đủ niềm tin hay sao?
Sự thật
thế giới siêu
hình không có, nhưng biết nói làm sao cho các con tin.
Một thế giới siêu hình đã ăn sâu vào lòng người, từ khi con người có mặt trên
hành tinh này, với một
tưởng thức của con người tạo ra. Đó là một điều không thể trách được các con ạ!
Các hiện tượng của thế giới
siêu hình tưởng
hằng ngày đang diễn biến chung quanh cuộc sống con người
thì thử hỏi làm sao người ta tin rằng không có thế giới siêu hình.
Thêm vào các
tôn giáo và cả Phật giáo Đại Thừa đều
xác định có thế giới siêu
hình thì dù tiếng nói của Thầy
có thật sự
đi nữa là
không có, cũng khó
có ai tin theo
được. Đức Phật
đã dạy kinh Ngũ Uẩn, kinh
Thập Nhị Nhân Duyên
mà Thầy đã giảng, nhưng
các con chưa đủ niềm
tin. Bây giờ Thầy sẽ dẫn chứng một bài
kinh khác cụ thể
rõ ràng hơn
chính lời Phật đã dạy: “Bài kinh
Pháp Môn Căn Bản” trong kinh Trung Bộ tập I trang 9.
- “Này
các Thầy Tỳ
Kheo. Ta sẽ giảng cho các Người:
“Pháp môn căn bản tất cả
pháp”.
“Này các Thầy
Tỳ Kheo! Ở đây có kẻ phàm phu ít
nghe, không được
thấy các bậc Thánh,
không thuần thục
pháp của các bậc Thánh, không tu
tập pháp các bậc Thánh, không được
thấy các bậc
chân nhân, không thuần
thục pháp các
bậc chân nhân, không
tu tập pháp
các bậc chân nhân, tưởng tri đại
địa là đại địa. Vì tưởng tri đại địa là đại địa, người ấy nghĩ đến đại địa (là
có thật). Nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đại địa thì tự
ngã có thật. Cho nên, người ấy nghĩ “Đại địa là của
ta” sanh ra ưa thích chấp đắm đại địa.
Vì sao vậy? Ta nói
người ấy không
liễu tri đại địa.
Người ấy tưởng tri thủy
đại là thủy đại.
Vì tưởng tri
thủy đại là
thủy đại người ấy
nghĩ đến thủy đại (là
có thật) nghĩ đến tự ngã đối chiếu với thủy đại thì tự ngã là có
thật, cho nên người ấy nghĩ “Thủy đại là của ta”
sanh ra ưa
thích
chấp đắm thủy đại. Vì sao
vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.
Người ấy tưởng
tri hỏa đại là hỏa đại: Vì tưởng tri hỏa đại
là hỏa đại,
người ấy nghĩ đến hỏa đại (là có
thật) nghĩ đến tự ngã đối chiếu
với hỏa đại thì tự ngã là có
thật, cho nên người ấy nghĩ hỏa đại là của ta,
sanh ra ưa thích chấp đắm hỏa đại.
Vì sao vậy? Ta
nói người ấy
không liễu tri hỏa đại.
Người ấy tưởng tri phong đại là
phong đại. Vì tưởng tri phong đại là
phong đại,
người ấy nghĩ đến phong
đại
(là có thật),
nghĩ đến tự ngã đối chiếu với phong đại là tự ngã có thật, cho nên người ấy nghĩ
phong đại là của ta,
sanh ra ưa thích, chấp đắm
phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy
không liễu tri phong đại.
Người ấy tưởng tri sanh
vật là sanh vật.
Vì tưởng tri sanh
vật là sanh
vật, người ấy nghĩ đến sanh vật (là
có thật), nghĩ đến tự ngã đối chiếu
với sanh vật thì tự ngã
có thật, cho
nên, người ấy
nghĩ “sanh vật là của ta’’ sanh
ra ưa thích chấp
đắm sanh
vật. Vì sao vậy? Ta nói người ấy
không liễu tri sanh vật”.
Đọc qua những
lời dạy của đức Phật trên đây, chỉ cho thế
giới hữu hình của chúng
ta là thế giới
tưởng. Tưởng đất
đai, sông, núi,
cây, cỏ, vạn vật là có thật. Vì
tưởng nó có thật nên con người sanh
ra chấp đắm, ham
thích, rồi mới tranh chấp
đấu tranh, giành giựt của cải, tài
sản, đất đá,
sông, rạch, núi, rừng, vàng, bạc, châu, báu v.v.. Giết người, cướp của,
dùng mọi thủ đoạn phương tiện lừa đảo, lường gạt người bằng mọi cách, thậm chí
có kẻ lợi dụng ngay cả tôn giáo, buôn Phật, bán Pháp, buôn Thần, bán Thánh
v.v..
Do chỗ
không hiểu thế giới hữu
hình là thế giới
tưởng nên mới
sanh tạo ra nhiều
thứ dính mắc và tạo biết bao
nhiêu sự đau khổ cho mình, cho người, từ
kiếp này đến kiếp khác và mãi
mãi chịu khổ
đau vô cùng tận, cũng chỉ vì “tưởng tri của loài người”.
Đức Phật
đã thấy thế giới hữu
hình của con người
là thế giới
tưởng, cách đây
2542 năm, Người đánh
tiếng chuông cảnh tỉnh cho mọi
người, thế giới hữu
hình là thế giới tưởng, nhưng ai là người đã tin Ngài. Nếu không phải là người
tu đúng giáo
pháp của Người
thì làm sao tin được thế giới này là thế giới tưởng.
Thế giới hữu
hình là thế giới tưởng thì thế giới vô
hình làm sao có
thật, thế giới
vô hình là bóng dáng của thế giới
hữu hình, đã là bóng dáng thì làm gì có sự sống sau khi chết,
đó chẳng qua chỉ là một ảo tưởng của
loài người mà thôi.
Cho nên,
hiện giờ các
tôn giáo trên
thế gian này, ngay cả Đại Thừa Phật
Giáo cũng thấy thế giới hữu hình
này là thế giới tạm bợ không có thật,
vì mọi vật đều vô thường, như lời đức Phật đã dạy qua bài kinh trên
“Pháp môn căn bản”.
Từ đất, đá, cỏ, cây
và tất cả sinh
vật đang sanh sôi nảy nở trên
hành tinh này đều do tưởng
tri của chúng sanh, tưởng
là có thật, chứ thực ra thế
giới hữu hình
này là thế giới duyên hợp. Mọi vật
có mặt (vạn hữu) trên hành tinh
này đều do
duyên hợp mà thành,
mọi vật (vạn
hữu) hoại diệt
đều do duyên tan
rã mà hoại
diệt, không có một vật nào
thường còn bất biến, toàn
là vạn vật đều
vô thường.
Chỉ vì người thế
gian với trí hữu
hạn không thấu rõ thế giới hữu hình
này cho là thật có. Đối với người
có trí vô hạn thì thế giới
hữu
hình là thế
giới tưởng của
loài người. Nhưng các
tôn giáo kể cả Đại Thừa Giáo
cũng cho thế giới hữu hình là
không thật, nhưng lại xây dựng một thế giới vô hình có thật, thì đó là đi ngược
lại Phật giáo.
Phật giáo cho thế
giới vô hình là thế giới tưởng
tri (không có).
Cũng trong
bài kinh Pháp Môn
Căn Bản trong Trung
Bộ kinh tập 1 trang
11 kinh dạy: “Người ấy tưởng
tri Phạm thiên là Phạm
thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm
thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng
tri Biến tịnh thiên là Biến
tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng
quả thiên là Quảng
quả thiên.... Người ấy tưởng
tri Abhibhù (Thắng giả) là
Abhibhù.... Người ấy tưởng
tri Không vô biên xứ là
không vô biên xứ
thiên... Người ấy tưởng tri Thức vô biên
xứ là Thức vô biên xứ thiên... Người ấy tưởng tri vô sở hữu xứ
là vô sở hữu xứ
thiên... Người ấy tưởng
tri Phi tưởng phi
phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên... Người ấy tưởng
tri Sở kiến là Sở
kiến... Người ấy tưởng tri Sở văn là Sở văn...
Người ấy tưởng tri Sở tư niệm
là Sở tư niệm...
người ấy tưởng
tri Sở tri là Sở tri...
Người ấy tưởng
tri Đồng nhất
là
Đồng nhất... Người ấy tưởng tri Sai biệt là
Sai biệt.... Người ấy tưởng tri Tất cả là Tất cả.... Người ấy tưởng
tri Niết Bàn là Niết
Bàn... Vì tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn người ấy nghĩ đến Niết Bàn (là có thật),
nghĩ đến tự ngã đối chiếu Niết Bàn (thì tự ngã có thật nhập Niết Bàn) cho nên,
người ấy nghĩ “Niết
Bàn là của
ta” sanh ra ưa thích chấp đắm Niết Bàn (dục hỷ).
Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri (không hiểu, không biết) Niết
Bàn.”
Phật giáo
không chấp nhận
thế giới hữu hình
là có thật tri mà chỉ là tưởng tri, đến thế giới siêu hình các cõi trời địa ngục và Niết Bàn cũng là tưởng
tri chứ không phải thật tri.
Vì, thế giới
siêu hình là bóng dáng của thế giới hữu
hình như trên chúng tôi đã nói. Vì thế,
con người hữu hình
như thế nào
thì thế giới siêu hình
con người giống như thế nấy, tất cả núi, sông, đất, đá, cây, cỏ, thảo, mộc, nhà, cửa, đền, đài,
cung, điện đều giống thế giới hữu hình.
Chỉ khác hơn ở thế giới hữu
hình là không có không gian và
thời gian mà thôi.
Bởi vậy, những
người ông lên, bà xuống, nhập đồng, nhập
xác, nói chuyện
quá khứ, vị lai,
chỉ nơi siêu mồ, lạc mả cho người
lấy cốt đều đúng không sai một mảy,
là nhờ tưởng uẩn không có không gian và thời gian, nhưng khi tưởng uẩn1
hoạt động thì biết
đúng, nói không sai, còn khi tưởng uẩn không hoạt động
thì không biết, thường nói sai.
Do chỗ nói
chuyện quá khứ, vị lai
không sai, khiến người
ta tin rằng có
linh hồn người chết, ông
này, bà kia, cậu
nọ nhập xác,
lên đồng, nhập cốt v.v..
Bởi tưởng uẩn
làm việc như vậy người ta không rõ, rồi
tin rằng có thế giới siêu
hình thật sự.
Từ tưởng
tri thế giới hữu
hình là thật
có người ta đã
mang đến cho chính mình mọi sự khổ đau cho đến ngày nằm xuống lòng đất,
xuôi tay vẫn còn đau khổ, thế mà
có ai biết rõ điều này, mọi người đếu vô minh, ngay đến
những nhà khoa học
cũng đành bó
tay không giải thích
được vì các hiện tượng
kỳ lạ mà mọi
người đều phải chấp
nhận thế giới
siêu hình,
1 Tưởng uẩn là danh từ trong kinh sách Phật để chỉ cho nhóm tế
bào thần kinh
não hoạt động
không có không gian
và thời gian
trong một đời
khi nhóm tế bào thần
kinh não ý thức (sắc uẩn) ngưng hoạt động.
cho nên thật khó cho ai không tin thế giới
siêu hình là không có.
Sự sợ hãi và
sự đau khổ do các hiện tượng thời tiết của thế giới hữu hình mới khiến con người
tạo ra thế giới siêu hình để có sự phò hộ
che chở giúp cho tinh thần
con người được an ổn, bớt sợ hãi.
Từ khi sản
xuất ra thế giới siêu hình, mọi người
luôn tin tưởng có sự gia hộ, che chở, ban phước, giáng
họa, nhưng sự thật, không
thể phò hộ, gia bị, giáng họa,
ban phước cho ai cả, chỉ con người
tưởng ra để an ủi
tinh thần như vậy mà thôi.
Cho nên, sự
tưởng ra thế giới siêu hình lại còn tạo
thêm một lớp khổ cho con người
nữa, đã khổ vì thế giới hữu
hình dính mắc trói buộc các pháp thế gian, rồi lại bị
lường gạt bởi thế giới siêu hình nữa. Do
đó có một số tà sư, ngoại đạo lợi dụng sự vô minh và lòng mê tín này tạo
ra các
vị thần linh để
khiến con người
tôn sùng, cung kính, sợ
hãi và chịu
biết bao nhiêu tốn hao tiền của và giết hại
sanh linh, làm tội ác thêm để cúng
bái, tế lễ, cầu khẩn,
van xin
v.v..
Cách thức
làm ăn của bọn tà sư, ngoại đạo này
có hiệu quả
làm giàu trên
xương máu của
kẻ khác
không phí sức
lao động, chỉ cần tụng đọc ê
a, hoặc vẽ bùa, đọc
chú, ợ, ợ, ngáp, ngáp nói bậy bạ là hốt tiền bạc của những kẻ đang gặp nhân
quả nghiệp báo xấu, nặng nề, trong lúc
quá khổ đau, quá sợ hãi trước
tai họa hiểm nghèo, trước bệnh tật nan y, trước sự sống chết như chỉ
mành treo chuông,
trí óc không còn sáng
suốt. Lúc bây giờ, bọn thầy lừa đảo này nói
sao họ nghe vậy, họ
làm tiền một
cách dễ dàng (ngồi mát ăn bát
vàng).
Lại có một số
tà sư ngoại đạo
khéo léo hơn, dùng ba tấc lưỡi lý
luận như Trương Nghi
– Tô Tần thời
Lục Quốc bên Trung Hoa, pháp môn
này, pháp môn nọ, triết
lý này triết
lý kia, chân lý này
chân lý nọ, lường gạt những
kẻ vô
minh chạy theo
pháp này, chạy
theo pháp kia tu tập để chứng đạt chân lý này chân lý khác.
Từ xưa đến
nay, ai là người đã đi tìm chân lý thoát khổ? Chân lý ấy được bao nhiêu người đạt
được? Hay chỉ là một lý luận suông?
Tại sao các
người không nói thật? Để biết bao nhiêu con người phải mất công, mất của và còn
tốn biết bao công lao khổ công tu tập mà chẳng được những gì. Từ tôn giáo này đến
tôn giáo khác, từ
pháp môn này đến pháp
môn
khác,
để nuôi một
hy vọng hão
huyền giải thoát, Thiên Đuờng, Cực
Lạc, Niết Bàn v.v..
Danh lợi ở
thế gian có nhiều việc làm nên danh,
nên lợi mà rất “thiện”.
Tại sao các người
không làm việc kia mà
lại làm việc này, để lường gạt
người khác chi vậy. Biết bao nhiêu thế hệ con người
đã qua, họ đã chạy theo tu
hành và rèn luyện thân tâm, nhưng họ được những gì ở các chân lý ảo tưởng ấy?
Trong khi đó
họ đã đổ biết bao nhiêu
mồ hôi, công lực, tiền của và công sức. Giải thoát đâu không
thấy chỉ thấy
khổ và khổ,
cho đến lúc chết lại càng khổ hơn, (Các Hòa Thượng khi viên tịch
quá khổ sở) họ chỉ
mua được cái “danh” và cái “lợi” giả.
Bởi vậy, các
thế giới siêu hình tưởng, tai ương bệnh tật đều là tưởng, Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đều là tưởng, pháp
môn tu hành cũng đều là tưởng, vì thế cái khổ của
con người cũng hoàn lại cái khổ.
Do đó, Phật giáo
ra đời quyết
đập tan tành cái thế giới hữu
hình duyên hợp và xé nát cái thế giới
siêu hình tưởng. Giống như một vị Thần
để đem lại sự
công bằng và
công lý cho loài
người, giúp họ sống an vui, thanh thản và
hạnh phúc. Tạo sự sống
an vui trên hành tinh này là một cảnh giới
Thiên Đàng.
Bài pháp
Thân Ngũ Uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên, Pháp Môn Căn Bản trong tạng kinh Nikaya và
kinh A Hàm không
đủ để chứng minh
đập phá thế giới siêu
hình và hữu
hình này sao?
Nếu đập phá được cả hai thế giới này, thì sẽ mang lại cho con người một đời sống
thoải mái, thanh thản, an lạc và hạnh phúc. Bằng ngược lại,
thì con người phải chịu
khổ vô cùng tận và vô lượng kiếp.
- “Trên giường
bệnh hấp hối của một vị
quan sát thủ,
được nhà vua đến thăm căn dặn ông nhiều lần: “Khanh là một vị
quan chuyên môn
giết người” như vậy
khanh phải đọa
địa ngục, khi
vào địa ngục, bằng mọi cách khanh về
báo cho trẫm biết, khanh đã xuống
địa ngục và địa ngục có thật, khanh nhớ kỹ lời trẫm, đừng phụ lòng trẫm. Vị
quan sát thủ gật đầu và xin hứa.
Nhà vua căn
dặn xong chẳng
bao lâu vị quan này chết.
Chờ mãi, chờ
mãi từ 1 tháng đến một năm rồi đến 3 năm
mà chẳng có tin
tức gì cả. Nhà vua đến một vị Đạo sư hỏi:
- “Thưa
Ngài, Ngài nói có địa ngục, trẫm có một vị quan
sát thủ trước khi chết trẫm
đã căn dặn
đôi ba lần: “Khi
xuống địa ngục, bằng mọi cách khanh hãy về báo cho trẫm biết,
nhưng đến nay
đã ba năm rồi
chẳng có tin tức
gì cả, như vậy
theo trẫm nghĩ “chẳng có địa ngục”.
Vị Đạo sư trả
lời:
- “Tâu bệ hạ, vị
quan ấy là tội
nhân làm sao có quyền đi lại được để về báo cho bệ hạ hay”.
Nhà vua gật
đầu chấp nhận ra về,
sau ba năm nhà vua trở lại thăm vị Đạo sư và hỏi:
- Thưa Ngài,
Ngài nói có Thiên Đàng phải không?
Vị Đạo sư
tâu:
- Vâng,
thưa bệ hạ, có Thiên Đàng, ai làm thiện
sẽ sanh lên
Thiên Đàng, ai làm ác sẽ đọa xuống Địa Ngục.
Nhà vua
phán:
- Ta có một vị quan đại thần suốt đời làm thiện,
làm quan thì cần kiệm, liêm chánh, chí
công, vô tư, làm người thì hằng ngày thường trường chay, không sát hại
sanh linh, trước giờ
phút lâm chung,
hấp hối trẫm đến
căn dặn nhiều
lần: “Khanh là một
người hiền lành sống thì trường chay, chẳng hề giết hại chúng
sanh, làm quan thì liêm
chánh ngay thẳng,
chắc chắn khi chết khanh được về
Thiên Đàng. Vậy bằng
mọi cách sau
khi chết, nhà ngươi về
báo cho ta biết có cảnh Thiên Đàng chân thật hay không? Để trẫm yên
lòng”.
Như thế đến nay
đã ba năm
mà ta chẳng được tin tức gì, chắc
chắn là chẳng có Thiên Đàng.”
Trong bài
kinh này, Đức Phật còn
xác định thêm: “Nếu
có cảnh
giới siêu hình thật
thì phải có người
đến và người
về, đàng này đi thì có, về thì không”.
Như vậy, chứng
tỏ không có thế giới siêu hình mà chỉ
có một thế giới siêu
hình tưởng mà thôi. Kinh Pháp Môn
Căn Bản đức Phật đã dạy rất rõ ràng và cụ thể nhất.
Cho nên,
trong kinh Nguyên Thủy
các vị Trời đến bạch Phật
cũng như Ma
Vương, Ác quỷ và quỷ đói đều là cảnh giới
tưởng của thế giới tưởng ấm của con người tạo ra. Tạo
ra như vậy để mà chịu khổ
thêm chẳng ích lợi
gì cho đời sống mà còn làm hao tốn tiền của một cách vô lý.
Các tôn
giáo khác, Phật
Giáo phát triển đua
nhau xây dựng
thế giới siêu
hình bằng nhiều hình
thức và những
xưng danh khác nhau để khéo lừa đảo con người, chứ kỳ
thật cũng chỉ là thế giới tưởng mà thôi.
Nên trong
kinh Pháp Môn Căn Bản Đức Phật đã xác định rõ
ràng: “Người ấy tưởng
tri Sở kiến là Sở kiến... Người ấy tưởng tri Sở văn là Sở văn.. Người ấy tưởng
tri Sở tư niệm là Sở tư niệm.. Người ấy tưởng Tri sở là Tri sở.. Người ấy tưởng
tri Đồng nhất là Đồng nhất.. Người ấy tưởng tri Sai biệt là Sai biệt... Người ấy tưởng tri Tất cả là Tất
cả... Người ấy tưởng tri Niết
Bàn là Niết Bàn..” Đó toàn là sống trong tưởng mà mọi
người mấy ai biết. Trên đời chỉ
có một mình đức Phật biết rất rõ.
Bởi vậy,
nhìn chung các tôn giáo trên thế gian này đang xây dựng một thế giới
siêu hình để thỏa mãn lòng tham vọng của loài người.
Xưa, vua Tần
Thủy Hoàng vì tham vọng sống lâu, nên đã
cho người đi tìm thuốc trường sanh
bất tử. Theo lời
dạy của các vị tu
Tiên, nhưng nào có được gì đâu, chỉ hoài công vô ích.
Phương pháp
tập dưỡng sinh và đạo Yoga đều tập luyện kéo dài tuổi thọ để đạt được “Trường
sanh bất tử’’, nhưng có vị nào không bệnh đau và trường sanh bất tử đâu. Cuối
cùng rồi cũng bệnh đau mà chết.
Những việc
làm này, con người
trên thế gian ai đã làm được. Đó là một tưởng vọng của loài người,
không thể thành sự thật. Như đức Phật
đã dạy đó là sự tưởng
tri của loài người. (tưởng tri là tưởng tri làm sao sự thật
được).
Tìm mọi
cách để loài
người sống mãi muôn đời, nhưng không thành tựu, nên con
người quay lại tìm “sự sống sau khi chết”.
Do đó, mới sản xuất ra cảnh giới Thiên Đàng, Địa Ngục, Bồng
Lai Tiên Cảnh,
Cực Lạc Tây Phương, cõi Niết Bàn, Bản Thể Vạn Hữu, Đại
Ngã, Phật Tánh v.v..
Riêng đức Phật, Ngài dạy: “Tưởng tri Niết
Bàn là Niết
Bàn”.
Câu nói của
Ngài có một giá trị rất lớn đối với các Tôn giáo. Toàn bộ tất cả cảnh giới siêu hình của các Tôn giáo đều đối với đạo
Phật là cảnh giới tưởng, không thể lừa đảo lường gạt người đệ tử của Phật được,
vì đức Phật đã dạy
cho các đệ tử của mình rất rõ ràng và cụ
thể.
Các pháp môn
của các tôn giáo này chỉ lừa đảo, lường gạt được những người vô minh, vì cuộc sống
còn mang dẫy đầy tham vọng nên mới
tìm tu và nghe
theo các giáo
phái đó mà
thôi.
Sáu nẻo luân
hồi chỉ là sáu trạng thái của tâm, chứ không phải sáu cõi giới gồm có từ hữu
hình đến siêu hình. Sáu cõi giới ấy là:
1/ Cõi Trời
2/ Cõi Người
3/ Cõi A Tu
La
4/ Cõi súc
sanh
5/ Cõi Ngạ
quỷ
6/ Địa ngục.
Chỉ trong một
thời gian ngắn, nếu một người không biết
phương pháp tu
theo Phật
giáo
thì có thể luân hồi sáu nẻo ngay tại
kiếp sống của họ.
Ví dụ: Một người
đang sống trong
mười điều thiện (Thập thiện) thì trạng thái tâm hồn của họ cảm nhận được
sự an lạc yên vui hạnh phúc và cơ thể
của họ không
có một chút
nào mỏi mệt, đau
nhức khổ sở,
mà người khác không sống đúng mười điều lành thì không
thể cảm nhận biết
được. Nhưng khi họ
rời khỏi mười điều lành này mà chỉ
còn giữ được năm điều lành (ngũ giới) thì lúc bây giờ họ luân hồi vào cõi người
sự bình an của họ không bình an và
an vui bằng trạng
thái của cõi Trời. Trong khi họ
đang ở trong trạng
thái tâm cõi
người họ không giữ
gìn được tâm để cơn sân
bừng cháy trong lòng thì ngay đó họ đã
luân hồi vào cõi A Tu La.
Nếu ở trạng thái
cõi người họ
không giữ gìn năm giới trọn vẹn
thường thiếu lòng yêu thương sự sống của
muôn loài, không buông xả các pháp ác cố chấp tị hiềm,
ganh đua, hơn thiệt, dâm dục, thiếu
thành thật nói những lời hung ác, nói những lời vu khống,
chuyện có nói không, chuyện không nói có, tâm hồn họ luôn luôn buồn phiền khổ
đau lo sợ, sống bất an, đó
là họ đã
luân hồi vào
cõi súc sanh một trạng thái khổ đau như vậy.
Từ ở trạng
thái cõi người họ không giữ gìn tâm sống đúng năm giới, để tâm khởi muốn ăn, muốn
uống và bụng cảm giác thấy đói khát rồi đi
ăn uống phi thời, đó
là họ đã
luân hồi vào trạng thái cõi giới ngạ quỷ.
Từ ở trạng
thái cõi người họ không giữ gìn tâm sống đúng
năm giới, thường
giết hại, ăn thịt chúng sanh và chạy theo khẩu vị ăn những
món ăn hảo hạng ngon miệng, nhưng trong đó có chất độc, sống không yêu thương sự
sống, không giữ vệ sinh chung, thường làm ô nhiễm môi trường
sống, nên cơ thể
dễ sinh ra nhiều bệnh
tật nan y. Cơ thể
bị bệnh đau nhức
khổ sở, đó là luân hồi vào trạng thái địa ngục.
Cho nên, sáu
nẻo luân hồi không phải là sáu cõi giới hữu hình
và vô hình
mà là sáu trạng
thái của tâm
trong một con người
như trên đã nói.
Còn những
câu chuyện trên,
Phật đã nói với ông A Nan là những câu chuyện của tưởng
uẩn lưu xuất
phóng ra những
hình ảnh từ trường trong không gian. Khi nào một người
có tưởng uẩn mạnh tức là tưởng uẩn hoạt động thì sẽ bắt
gặp những hình
ảnh cảnh giới
của
những từ trường này. Hình ảnh này không phải là cõi giới mà là
hình ảnh từ trường của những người còn sống
cũng như của những người đã chết phóng xuất còn lưu giữ trong không gian.
Trong kinh
Pháp Môn Căn Bản Phật đã dạy: Tất cả
cõi Trời, cõi
Người, A Tu
La, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục
đều là tưởng
tri chứ không phải liểu tri.
GIỚI LUẬT
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Tại sao tu sĩ Phật giáo hiện
giờ không giữ gìn giới
luật, sống phi giới luật, sống bẻ vụn giới luật. Như vậy con đường tu của
họ sẽ đi về
đâu? Và có ích
lợi gì cho kiếp sống tu hành của họ?
Người tu sĩ
giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đúng Phạm hạnh, thiểu dục tri túc, phòng hộ
các căn đầy đủ, con đường tu của họ sẽ đi về
đâu?
Và có ích lợi
gì cho kiếp sống của họ? Con cúi mong Thầy chỉ dạy để cho
chúng con được rõ.
Đáp: Như Thầy đã dạy giới luật là một
pháp môn
tu hành của đạo Phật,
chứ không phải là
pháp luật của một quốc
gia. Cho nên các bộ giới luật do
các Tổ biên soạn thành một bộ pháp luật của Phật
giáo hơn là một pháp môn tu tập để tâm được vô lậu.
Pháp môn giới
luật cùng với pháp môn Thiền định và
pháp môn Trí tuệ, gọi
chung có tên là “Tam Vô Lậu Học”.
Tam Vô Lậu Học
là ba pháp môn tu tập không còn lậu hoặc, tức
là ba cấp tu tập
trong tám lớp học sẽ chấm dứt đau khổ của kiếp
người hay nói cách khác là làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật.
Ba pháp môn
vô lậu này, kỳ thật chỉ là ba cấp học đạo đức duy nhất của Phật giáo, nên nó được chia
ra làm ba
giai đoạn tu tập: Giới, Định, Tuệ.
Ba cấp học
này chỉ có giới luật là cấp học quan trọng nhất và tu tập khó nhất trên
đường tìm cầu đạo giải thoát theo đạo Phật.
Bởi thế,
người nào tu
hành mà không
giữ gìn giới luật, không tu giới luật, không sống đúng giới luật, thì có
tu suốt đời cũng tu chẳng tới đâu, chỉ
còn tu danh,
tu lợi, tu tưởng, tu
chùa to Phật lớn mà thôi (chẳng bao giờ có giải
thoát thật sự).
Nếu không
tu giới luật
mà tu định,
thì
Thiền định
đó là tà thiền, định tưởng.
Nếu không tu
giới luật mà tu trí tuệ thì trí tuệ đó là tà tuệ, kiến giải, tưởng giải, là trí
tuệ tích lũy, nhai lại bã
mía của người
xưa, thêm râu, thêm ria, vẽ rắn thêm chân.
Từ xưa đến
giờ các Tổ chỉ lặp đi, lặp lại lối mòn của nhau, chỉ
dùng từ hiện đại cho lạ
tai mà thôi, chứ lối mòn vẫn là lối mòn, không thể nào lối mòn là đường
cái được.
Như trên Thầy
đã dạy, giới luật là pháp môn quan trọng nhất
trong Tam Vô Lậu Học. Cho nên,
vì lợi ích chúng sanh, vì muốn
thoát ra sự đau khổ của kiếp người
đức Phật đã dạy:
“Vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đệ tử, những việc ấy Ta
đã làm xong,
vì lòng thương tưởng Ta đã dạy
các ngươi”.
Đây là một
bài kinh mà Đức Phật đã khéo nhắc nhở cho các vị Tỳ Kheo tu tập giới luật, vì
giới luật rất quan trọng trên đường cầu đạo giải thoát. Bài kinh “Ước Nguyện”
Trung Bộ tập 1 trang 79 Phật dạy:
-
“Này các Thầy
Tỳ Kheo, hãy sống
đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng
hộ với sự
phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy
hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.
Đoạn kinh này
là lời dạy
khuyên nhắc nhở của đức Phật thấm
thía vô cùng, một lời khuyên từ cõi lòng vì thương tưởng chúng sanh đang sống
trong cảnh khổ mà chẳng biết đường nào ra. Trên thế gian này chỉ còn có con đường
duy nhất
để tu tập,
thoát ra sự đau khổ
của kiếp người “Giới, Định, Tuệ”. Không thể còn có con đường thứ hai nào
khác được nữa.
Biết rất rõ
điều này, trên bước đường tầm sư học đạo.
Ngài đã
sáu năm gian
khổ, nhưng vẫn không
tìm ra con đường giải thoát.
Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề trầm tư và nhập Tứ Thánh
Định, chứng Tam Minh.
Ngài đã tự tìm ra chân pháp, chân pháp ấy là thầy của
Ngài, đã dẫn
đường Ngài đi đến đích,
thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt
luân
hồi.
Chân pháp ấy
là gì?
Chân pháp ấy
là “Giới, Định, Tuệ”. Ngài luôn luôn
nhắc nhở chúng
ta với lòng
yêu thương tha thiết đối với chúng ta như con một: “Hãy sống đầy đủ giới
hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn,
đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ
nhặt, chân chánh
lãnh thọ và học tập
các giới học”.
Thế mà người tu
sĩ Phật giáo
hiện giờ lại xem thường giới luật, oai nghi chánh hạnh không có, xem thường
trong các lỗi nhỏ nhặt, phạm giới không biết xấu hổ, chẳng bao giờ lấy giới phòng
hộ sáu căn, sống ăn uống phi thời,
nam nữ trai gái kề cận chẳng biết đó là tai họa khổ đau, chẳng
biết đó là con
đường sanh tử luân hồi.
Bài kinh Ước
Nguyện, đức Phật
đã xây dựng nó trên nền tảng đạo
đức nhân bản -nhân quả. Ngài không dạy chúng ta cầu nguyện mà dạy chúng ta ước
nguyện.
Muốn ước
nguyện được thành
tựu sở nguyện thì phải sống đúng
giới luật, giới luật là thiện pháp, do
nhân thiện pháp
thì chuyển được ác
pháp. Vì thế,
do nhân thiện pháp
thì
quả của thiện
pháp là ước nguyện của chúng ta viên mãn.
Ví dụ: Một người có
bệnh tật, tai nạn xảy đến hoặc tai nạn bệnh tật chưa xảy đến nhưng ước
nguyện bệnh tật tai nạn sẽ chấm dứt và bệnh tật tai nạn sẽ không xảy ra, thì người ấy phải sống đầy đủ giới hạnh,
đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự
phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy
hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và học tập
các học giới,
thì ước nguyện sẽ
thành
tựu.
Nếu ai giữ gìn giới
luật đúng như vậy
thì tai nạn, bệnh tật sẽ qua
và không
xảy đến. Như vậy,
Ngài đã dạy
chúng ta tu tập giải thoát
trên nền đạo đức nhân bản - nhân
quả, lấy hành động thiện làm gốc, diệt trừ mọi hành động ác và lòng ham
muốn.
Trong bài
kinh Ước Nguyện,
Đức Phật
dạy:
“- Mong
rằng ta được mọi người
thương
mến, yêu quý,
cung kính, và tôn
trọng”.
“- Mong rằng ta được các vật dụng đầy đủ không thiếu hụt”.
“- Mong rằng những người bố thí cúng dường các
vật dụng sẽ được quả báo và lợi ích lớn”.
“- Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi bệnh
tật tai nạn chết, mệnh chung với tâm
hoan hỷ, an lạc, được quả báo và lợi ích
lớn”.
Trên đây là
những ví dụ ước nguyện trong bài kinh, muốn được toại nguyện cho mình cho người thì chỉ tu tập và giữ gìn giới luật
nghiêm túc.
Kinh Phật đã
dạy như vậy, thế mà kinh sách phát triển lại dạy cúng tế, cầu khẩn, tụng kinh,
niệm chú, niệm Phật, cầu an, cầu siêu để được tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu
trừ (do chư Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ).
Kinh
sách phát triển
lối dạy tu tập đều cầu
tha lực, (Tam bảo gia hộ) cho đến
những ước nguyện cho mình,
cho người đều dựa
vào tha lực. Còn ngược lại, kinh sách Nguyên Thủy dạy tự lực. Muốn lợi mình lợi người
thì người ấy phải tự
mình tận lực sống đúng
giới hạnh, nói cách khác là phải
sống đúng thiện pháp không được sống trong ác pháp.
Nói chung đức
Phật dạy, con người
muốn có cuộc sống an vui, hạnh phúc thì phải sống có đầy đủ đạo đức
không làm khổ
mình, khổ người, thì được mọi toại
nguyện.
Đọc qua bài
kinh Pháp Môn Căn Bản ta thấy rõ Phật
giáo không đi nhẩm lại lối mòn của các tôn giáo khác, tự mình vạch ra một lối đi độc
đáo, tự lực, cụ thể
không mơ hồ, chính xác để giải quyết kiếp sống con người,
thoát ra mọi cảnh khổ, tạo thế gian, có cuộc sống con người thành một cõi Thiên
Đàng, Cực Lạc.
Để chiến
thắng sự ưa thích
dục lạc thế gian, sự không ưa thích, sự bất toại nguyện,
và sự khiếp đảm, sợ hãi, Phật dạy: “- Này các Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo có ước nguyện:
Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chứ không phải lạc và bất lạc nhiếp phục
ta. Mong rằng ta sống luôn
luôn nhiếp phục lạc và bất lạc được khởi lên. Mong rằng
ta nhiếp phục khiếp
đảm và sợ
hãi, chớ không phải
khiếp đảm và sợ hãi
nhiếp phục ta. Mong
rằng ta sống
luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm
và sợ hãi được khởi lên nơi Tỳ Kheo, Tỳ
kheo ấy “phải thành tựu
viên mãn giới
luật, kiên trì nội
tâm tịch tĩnh, không
gián đoạn thiền
định
(tỉnh thức), thành tựu quán hạnh (vô lậu),
thích sống tại các trụ xứ
không tịch (độc cư)”.
Lời dạy trên
đây rất cụ thể cho người tu, muốn nhiếp
phục tâm ham muốn và
sợ hãi thì chỉ có giới luật và bốn pháp định, Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở (không gián đoạn thiền định), nội
tâm tịch tĩnh (Định Sáng Suốt),
thành tựu quán hạnh (Định
Vô Lậu), thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư).
Trong bài
kinh Ước Nguyện đức Phật dạy
nhập Bốn Thánh Định rất rõ ràng và dễ dàng không có khó khăn.
Vì muốn
nhập Bốn Thánh
Định này không khó khăn, không có ức chế tâm
như các nhà học giả kiến giải dạy ra. Chỉ cần sống
đúng giới hạnh và tu tập các pháp Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ để xả tâm cho thật sạch
(không còn tham
sân, si, mạn,
nghi) nữa, thì chỉ ra lệnh nhập thiền định nào thì nhập
ngay thiền định ấy.
“- Này các
Thầy Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo có ước nguyện:
Mong rằng, Tỳ
Kheo ý muốn, không
khó khăn, không
có mệt nhọc, không có phí sức,
ta chứng được bốn thiền thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú, Tỳ Kheo ấy phải
thành tựu viên mãn giới luật, kiên
trì nội tâm tịch tĩnh
(Sáng Suốt Định), không gián đoạn thiền định (Thân Hành Niệm Nội Ngoại),
thành tựu quán hạnh (Định Vô Lậu), thích sống tại các trụ xứ không tịch (độc cư)”.
Nếu người
nào muốn tu tập thiền định của đạo Phật nhập Bốn Thánh Định, làm chủ sanh, già,
bệnh, chết, không có khó khăn, chỉ cần thành tựu viên mãn giới luật, tức là sống đúng giới luật.
Xét ra từ khi đức
Phật nhập diệt đến
giờ, không có ai nhập được Bốn Thánh Định, chỉ vì không thành tựu viên mãn giới
luật.
Nếu đã
có người nào
viên mãn được
giới luật sống đầy đủ chánh
hạnh thì Phật pháp đâu bị ngoại đạo biến thể như ngày nay
và như thế này. Phật giáo
ngày nay đã trở thành một tôn giáo hỗn tạp mang đủ thứ pháp
môn của ngoại đạo (84 ngàn pháp môn) mà còn tự xưng những danh từ ngã mạn cống
cao khác.
Như trên Phật
đã dạy trong bài kinh Ước
Nguyẹân. Từ đức hạnh
làm người, sống
không
làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng
sanh. Để đem lại sự giải thoát, an lạc, hạnh phúc cho nhau trên
hành tinh này thì “Hãy
sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới
bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh,
thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ
và tu học
các học giới
thì được toại nguyện, mãn nguyện làm người có đạo đức đầy đủ”.
Nếu muốn
thành tựu những đức hạnh của bậc Thánh nhân và thực hiện thiền định làm chủ sự
sống chết của bậc chân nhân mà người đời thường hay ưa thích tu thiền định,
nhưng không biết thiền định nào đúng sai, cứ nghe thiền định là cứ tu, nhắm mắt
tu đùa, tu không suy nghĩ đúng sai phải trái, đã mất công sức tu hành lại còn mất
tiền mất của, bỏ đời sống thế gian, bỏ vợ, bỏ con, bỏ
cha, bỏ mẹ, bỏ thân bằng
quyến thuộc v.v.. Chỉ
vì muốn thoát khỏi mọi sự đau khổ
của cuộc đời, để trở thành bậc Thánh nhân, nhưng lại tu sai đường, Thánh
nhân đâu
không thấy, giải
thoát đâu không thấy,
ngẫm lại cuộc đời mình
mà đau lòng, bị các nhà tôn giáo lừa đảo mà không dám nói
ra, ngậm miệng tự an ủi mình, phải tu
nhiều kiếp,
kiếp
này chưa xong thì kiếp khác tu nữa,
Phật Thích Ca ngày xưa còn tu vô lượng kiếp mới thành Phật,
câu này là
câu an ủi nhất của những
người bị lừa đảo, tu lạc tà
pháp, họ muốn hy vọng hão huyền để
mà hy vọng,
để mà sống.
Nhưng trong
bài kinh Ước Nguyện
Phật dạy tùy theo
ý muốn, không
có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta
chứng được bốn thiền, thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú.
Như vậy,
thiền định tu tập đâu
có khó khăn gì, thế mà người tu
thiền thời nay lại tu quá khó khăn,
tu mãi từ
hai ba chục
năm, nhưng không thành
tựu. Các Tổ như
Ngài Đại An 12 năm, Diệu Cao Phong 30
năm mà chỉ có triệt ngộ những công án mà thôi, còn làm chủ sanh tử thì chẳng biết
gì, tâm sân hận thì vẫn còn cao
ngút. Giải thoát
đâu không thấy,
làm chủ sanh, già, bệnh, chết đâu không thấy, chỉ thấy được mồm mép
bén nhạy đối đáp như gió thổi (cơ phong).
Còn một số người nữa lại tu vào
các loại thiền
khác, xuất hồn,
Khí công, Yoga, Mật Tông
luyện bùa, niệm
chú, bắt ấn v.v.. Biến thành các tu sĩ này, thay vì tu
giải thoát họ lại tu để làm thầy trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ hoặc tập luyện
dưỡng sinh, tức
là thiền định biến thái thành
phương pháp ngừa bệnh.
Thiền định
thời nay biến
dần thành phương pháp ngừa bệnh
(dưỡng sinh) chứ đâu còn là thiền
định làm chủ sự sống
chết như thời đức Phật.
Nhìn sự
tu hành của Phật giáo
hiện giờ, ta rất buồn
cười,
thiền định của Phật
thì dẹp qua không tu, mà lại tu thiền của
ngoại đạo, chỉ vì thiền của ngoại
đạo không có giới luật nghiêm túc, đời sống theo dục lạc dễ dàng, ăn uống ngủ
nghỉ phi thời.
Do đó, tu
mãi không kết quả, chạy sang tu các pháp môn
khác như Tịnh Độ “vừa
tu Thiền vừa niệm
Phật” như các
Tổ Vĩnh Minh, Vân Thê, Từ Vân
v.v..
Có người
chuyển sang Tịnh
Độ hẳn chuyên ròng niệm Phật cầu
vãng sanh Cực Lạc như Tổ Tông Bổn, Khánh
Anh, Thiện Hoa, Thiện Hòa v.v..
Có người
chuyển sang vừa tu Tịnh Độ cầu
vãng sanh vừa
tu Mật Tông;
có người lại chuyển sang qua hẳn Mật Tông, chuyên
ròng niệm chú, bắt ấn.
Có người tu Tịnh
Độ lâu
ngày chẳng thấy kết quả gì chuyển
qua tu Thiền Tông,
lại cũng có người tu Mật Tông lâu
ngày chẳng thấy linh ứng chuyển qua tu
Thiền Tông. Họ chuyển qua pháp
môn này, chuyển
lại pháp môn
kia, tu mãi từ đời
này sang đời khác
mà chẳng ra gì, vẫn chết trong
đau khổ và còn đau khổ hơn người thế gian.
Hiện giờ người
ta tu theo Phật Giáo Đại Thừa, cứ chạy theo ba pháp môn Thiền, Tịnh, Mật và
chuyển qua chuyển lại tu tập, cứ thế tu tập
cho đến bây giờ chẳng ai
tu đến đâu, cứ
loanh quanh, lẩn quẩn trong
vòng lẩn quẩn, loanh quanh.
Có người
tu các loại
tà thiền Yoga, xuất hồn lại rơi vào trạng thái Định tưởng;
có người tu Thiền Đông Độ rơi
vào Pháp tưởng
nên gọi là triệt ngộ.
Tịnh Độ Tông
thì rơi vào sắc, thanh tưởng thấy cảnh giới
Tây Phương, Phật
Di Đà và Thánh chúng, thấy hoa sen, thấy tên họ được
đăng ký trên hoa sen và thấy ánh sáng hào quang, nghe Phật Di Đà thuyết pháp
v.v.. Đó toàn là sắc thanh tưởng.
Mật Tông thì rơi
vào Tha tâm tưởng, nên biết chuyện quá khứ vị lai khiến
cho mọi người quá nể phục và thường làm trò ảo thuật (thần thông) lừa đảo người.
Tất cả những
sự việc đã xảy ra khiến cho người tu tưởng mình
đã chứng đạo,
nên trong kinh Pháp Môn Căn Bản
Phật dạy: “Tất cả những kết quả
đó là tưởng
tri chứ không phải thực chứng giải
thoát (liễu tri)”.
Bởi vậy,
một người tu
tìm cầu sự
giải thoát mà không sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống không
phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, không đầy đủ oai nghi chánh hạnh,
không thấy sự
nguy hiểm trong các
lỗi nhỏ nhặt,
không chân chánh
lãnh thọ và tu học các học giới,
thì dù tu
ngàn đời Thiền, Tịnh, Mật cũng chẳng
đi đến đâu, chỉ uổng phí một đời tu
hành mà thôi,
rồi cũng chạy theo danh, lợi,
buôn Phật, bán Pháp mà sống, sống trong
cách thức lừa đảo tín đồ
để ngồi mát ăn bát vàng.
Thần thông
của ngoại đạo do
dùng tưởng tu tập
như: Yoga, Mật
Tông, Khí công,
Nội công v.v.. Do dùng tưởng tu tập nên có thần thông mà tâm dục chưa diệt,
ác pháp chưa trừ, nên dễ sa ngã trong nữ
sắc, danh, lợi thế gian v.v.. Do sa ngã
nữ sắc, danh,
lợi thế gian
nên thần thông mất dần.
Vì vậy,
có nhiều vị
giáo chủ mới xuống
núi, thanh sắc đầy đủ, uy nghi chánh hạnh nghiêm trang khiến cho mọi người ai
cũng kính nể, lại có thần thông kêu mây, hú gió, sai binh, khiển tướng,
sái đậu thành
binh, tàng hình, biến hóa, đi trên nước lửa như đi trên
đất bằng, ngồi trên hư không
như thuyền nổi trên
nước, đi xuyên qua vách đá, chôn dưới đất mà vẫn sống, đi trong hư không
như chim bay v.v..
Những hành động
trên đã khiến cho mọi người kính trọng,
đem dâng cúng của cải, tài sản và ngay cả sắc đẹp, không có vật gì
mà họ
tiếc.
Thử hỏi, thần
thông như vậy để làm gì, có ích lợi gì cho loài người đâu? Chỉ là một trò ảo
thuật cho người ta xem chơi mà thôi, để cám dỗ những người nhẹ dạ, ham mê thần
thông, chứ không thể lường gạt những người đệ tử Phật được.
Chỉ có một
hành động lừa đảo gạt người, một vị đạo sư chỉ dùng một tờ báo nấu sôi một nồi nước
đã làm cho mọi
người kính nể. Nấu
sôi một
nồi nước chỉ có một
tờ báo, hành động
đó ích
lợi gì cho con người ở thế
gian. Vậy mà mọi người vô minh đều kính
phục.
Các vị giáo
chủ loại này tâm dục chưa trừ, ác
pháp chưa diệt, nên
khi thấy của cải,
tài sản, sắc đẹp thì ham thích nên lần lần sa ngã và thần
thông tưởng tiêu mất.
Cho nên, thỉnh
thoảng báo chí Công an phát giác ra đăng
tin, vị giáo chủ
này, vị giáo chủ
kia, ông đạo này
ông đạo kia
làm chuyện lừa đảo tín đồ nhẹ dạ.
Ngược lại,
thần thông của
đạo Phật, không do tu tưởng mà
có, chỉ dùng pháp hướng như lý đạo tác ý, để ly dục, ly ác pháp, diệt ngã xả
tâm, đoạn dứt tâm tham, sân, si, mạn, nghi cùng diệt sạch thất kiết sử. Do tu tập
đoạn dứt những điều này
mà tâm được
thanh tịnh. Nhưng, phải
biết rõ, muốn
dùng pháp hướng tâm
như lý tác
ý có hiệu
quả, thì phải sống đúng giới luật, lấy giới luật phòng hộ
sáu căn, sống đời sống
thiểu dục tri túc,
oai nghi tế hạnh hẳn hòi, đi đứng trang nghiêm, đức hạnh
trọn vẹn, không hề sai sót một lỗi nhỏ.
Thần thông của
đạo Phật là thần thông vô dục, vô ác pháp. Người tu sĩ đạo Phật, phải biết
rõ, vô
dục vô ác
pháp chỉ do nhờ
có giới luật, mới
diệt trừ được dục và
ác pháp, nên
trong
kinh Ước
Nguyện Phật dạy: “Nếu Tỳ Kheo có ước nguyện:
“Mong rằng ta chứng
được các loại thần thông, một thân ta hiện ra nhiều thân,
nhiều thân ta
hiện ra một thân ta, hiện hình tất
cả các loài vật, biến hình đi ngang qua
vách qua thành,
qua núi đá như đi ngang qua hư không; ta độn thổ trồi
lên ngang qua
đất liền như ở
trong nước; ta
đi trên nước
không chìm như trên đất liền,
ta ngồi kiết
già đi trên hư
không như con
chim; với bàn
tay ta chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy ta có
thể, thân ta
có thần thông bay cho đến Phạm Thiên.
Muốn được vậy,
Tỳ Kheo hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự
phòng hộ của giới bổn đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi
nhỏ nhặt, chân chánh lãnh thọ và tu học các học giới”.
Qua bài
kinh Ước Nguyện
đối với đạo Phật,
ta muốn những
gì để đạt được kết quả
theo ý
muốn của mình,
thì đều phải thực
hiện tu tập và sống đúng
giới luật, đó
là một nền
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!