Giới luật Phật
là chỗ
quy tụ những bậc tu hành chân chánh, còn mất giới luật là chỗ quy tụ
những bậc tu
danh, tu lợi,
tu chùa to, Phật
lớn, tu ăn, tu ngủ v.v..
Tóm lại,
muốn tìm cầu sự giải thoát
chân thật trong Phật giáo thì phải
tin theo lời Phật dạy: ‚KHÔNG KẾT BÈ BẠN‛
--o0o--
5- KHÔNG TỰ
KHOE KHOANG
Người tu sĩ
đệ tử của đức Phật sống không thích khoe khoang, không cầu danh, cầu lợi thì Phật
pháp mới hưng thịnh, bằng ngược lại thì Phật pháp suy đồi, thường là những tu
sĩ tu hành chưa tới nơi tới chốn nên muốn làm danh, làm lợi, thường nhai lại những
‚Bã mía‛ của người xưa để thực hiện
‚Bồ Tát Đạo‛
hành
‚Bồ Tát hạnh‛,
đó là
để lừa bịp
thiên hạ, những vị Bồ Tát này
cũng ví như một người mù dẫn một bầy mù đi và sẽ bị sa hầm, lọt hố chết chìm
nhau cả đám. Khoe khoang chính
là mục đích cầu danh, cầu lợi,
người tu sĩ đệ tử của đức Phật mà còn
khoe khoang thì tu
hành chẳng bao giờ
giải thoát. Xưa đức Phật
dạy: ‚Có danh có lợi
thì nên ẩn bóng‛.
Thế mà thời nay trên bước đường tu hành theo đạo Phật
người tu
sĩ chưa có danh
thì muốn tạo danh
như: học tập
có cấp bằng này cấp bằng kia như cử
nhân, tiến sĩ, thạc sĩ, giảng sư, chưa có
lợi thì tìm làm quen cho có nhiều Phật tử để có sự cúng dường hoặc soạn
viết những kinh sách lý luận sai lệch
giáo pháp của đức
Phật vì không có kinh nghiệm
tu hành nên chỉ có tưởng giải theo
kiểu vay muợn.
Những loại kinh
sách danh lợi này đã hằng giết chết hằng bao thế hệ con người từ xưa đến
ngày nay.
Tóm lại TỰ
KHOE KHOANG là một tai hại trên đường tu tập để tìm
cầu sự
giải thoát. Vì khoe khoang là nuôi dưỡng tính ngã mạn,
càng khoe khoang ngã mạn
càng to. Ngã mạn càng to
thì càng chịu nhiều khổ
đau. Ngã mạn càng to thì không
bao giờ sống có đạo đức, luôn làm khổ mình
khổ người.
Cho nên
người tu hành
theo Phật giáo, cần
phải tránh xa
tính tự khoe khoang. Nếu một
người hay khoe khoang chúng ta hãy lắng nghe họ
nói chuyện chỉ một vài
câu chuyện ngắn gọn mà họ tự
đề cao họ như thế
nầy như thế khác hoặc
khoe khoang về sự học. Đấy là
một con người mang đầy tính ngã mạn. Những hạng
người đó chúng
ta không nên
chơi thân với họ, phải tránh xa.
--o0o--
6- KHÔNG KẾT
BẠN VỚI NGƯỜI XẤU
Người tu sĩ
và người cư sĩ đệ tử của đức Phật, muốn tu
hành giải thoát
và Phật pháp hưng thịnh thì như trên đã dạy, không
nên kết bạn bè dù là bạn tốt còn không kết bạn, huống là bạn xấu, nhưng chỉ vì
muốn dựng lại con đường của đạo Phật, làm cho nó hưng thịnh thì phải sống ‚Độc
bộ, độc hành, độc cư‛, nếu không sống như vậy,
thì chẳng bao giờ tu đến
đích.
Ở đây đức Phật dạy, không
nên kết bạn bè
xấu, kết bạn bè xấu là một
tai hại cho bước đường tu tập của mình.
Người tu sĩ và
cư sĩ đệ tử của đức Phật nếu kết
bạn bè xấu, sẽ làm cho Phật pháp suy thoái. Vì bạn bè xấu, sẽ lôi cuốn vào chỗ
phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới và đi đến chỗ phi oai
nghi tế hạnh, thường sống phi đạo
hạnh và đạo đức của bậc thánh tăng. Đó là những điều sẽ xảy đến, khiến cho Phật
pháp không hưng thịnh.
Những người
bạn xấu như thế nào?
Những bạn xấu là những
người phạm giới như trên đã nói, thích vui chơi, thích
ngủ nghỉ, thích nói chuyện,
thích tranh luận, thích nghe ca hát và ca
hát, thích trang
điểm làm dáng làm
đẹp, thích vật chất quần
áo, giày dép,
xe
cộ, máy
móc, chùa cao, Phật
lớn, phong cảnh đẹp v.v..
Người tu
sĩ chân chánh
thì nên tránh xa những
người bạn xấu ấy, vì
kết bạn
với những người ấy, thì Phật pháp
không hưng thịnh. Những người bạn ấy, sẽ
lôi cuốn chúng
ta vào
đường danh,
nẻo lợi.
--o0o--
7- THÍCH SỐNG
MỘT MÌNH
Người tu sĩ
và cư sĩ đệ tử của đức Phật, muốn
tu hành giải
thoát và Phật
pháp hưng thịnh thì phải sống một
mình. Vả lại, sống một mình là pháp môn
phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng,
thân, ý tốt nhất; nó
là pháp lắng nghe lại thân tâm mình để biết thân tâm mình đang nói gì và đang làm gì, nhờ
đó chúng ta mới xả tâm ly dục ly ác
pháp rốt ráo;
nó là bí quyết nhập
các loại định, nếu
không sống một
mình thì dù có tu
nghìn kiếp cũng
chẳng nhập định được. Người tu sĩ sống độc cư một
mình là
làm hưng thịnh cho Phật pháp. Tại sao vậy?
Tại vì người ấy sống một
mình, tâm mới ly dục, ly ác pháp trọn vẹn, tâm có ly dục,
ly ác pháp trọn vẹn thì tâm mới không phóng dật, tâm không
phóng dật là
tâm định trên
thân,
tâm định trên
thân là tâm ly
dục, ly ác pháp nhập Bất Động Tâm, nhờ có nhập Bất Động
Tâm thì mới có đủ Tứ Thần Túc, nhờ Định Như Ý Túc mới nhập Sơ Thiền, Sơ Thiền
là một thứ thiền giải thoát của đạo Phật rất rõ ràng và cụ thể. Người tu hành
nhập được Sơ Thiền thì giới luật phải sống
nghiêm túc, không
hề vi phạm, dù một giới luật nhỏ
nhặt nào. Giới luật không hề vi phạm thì đức hạnh của người này đã đầy đủ. Nhờ sống đức hạnh đầy đủ làm
người, làm thánh thì làm sao Phật giáo không hưng thịnh. Vì thế, đức Phật dạy: ‚Thích sống một
mình là Phật giáo
hưng thịnh‛, lời nói này không dối người, lời nói này là lời nói chân thật.
Người an
vui thích sống
một mình là người
đã giải thoát
rồi, người giải
thoát là người sống một
mình. Sống một mình khó lắm quý vị ạ! Có sống một mình mới biết
khó, chứ không phải như lời nói
suông đâu. Có sống rồi mới biết,
quý vị ạ!
CĨ BÂY PHÁP
GIÚP
TA LY DỤC,
LY ÁC PHÁP
LỜ I PHẬT
DÄY
1- Có lòng
tin.
2- Biết xấu
hổ với những điều sơ suất.
3- Tự thẹn với
những việc làm ác.
4- Học rộng
hiểu nhiều.
5- Nỗ lực dứt
ác, tu thiện.
6- Những điều
đã học, phải ghi nhớ mãi không quên.
7- Tu về trí
tuệ.
CHÚ GIẢ I:
1- CÓ LÒNG
TIN
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Động Tâm và Sơ Thiền thì trước tiên, chúng
ta phải đặt trọn lòng tin sâu xa nơi
đức Phật và giáo
pháp của Ngài.
Ngài đã dạy như
thế nào giải thoát
là thật sự
có giải thoát,
có làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Lòng tin ấy
sẽ giúp chúng ta tiến bước mà không bao
giờ chùng bước,
dù trên bước
đường tu tập, có nhiều gian nan thử thách chúng ta cũng không
nản lòng và thối chuyển.
Đó là pháp môn thứ nhất để chúng
ta ly dục, ly ác pháp.
Nếu thiếu
lòng tin thì con đường đạo Phật, chúng ta không thể đi đến
nơi, đến chốn được, vì nó là con đường tự lực chứ không tha lực, cho nên lòng
tin được đứng hàng đầu trong
các pháp tu tập, nhưng muốn có lòng tin bền bỉ thì sự tu tập phải có kết quả, nếu
không kết quả thì tu
sĩ và cư sĩ
Phật giáo sẽ biến thái
giống như các tu sĩ Bà La Môn giáo (cúng bái, tụng niệm, ngồi thiền, niệm
chú, bắt ấn v.v..) và làm những việc mê tín khác.
Người tu
sĩ và cư sĩ
tu không kết quả, sẽ mất
lòng tin, nên dễ bị thế tục
hóa, khiến cho Phật pháp càng
ngày, càng suy thoái
và Phật
giáo mất gốc.
--o0o--
2- BIẾT XẤU HỔ VỚI NHỮNG
ĐIỀU SƠ SUẤT
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Động
Tâm Định và Sơ Thiền thì phải biết xấu hổ với những
điều làm sơ suất
tạo ra cảnh khổ mình, khổ người.
Làm người ai
mà không có những việc làm sơ suất, nhưng có những kẻ làm sơ suất lại không biết xấu hổ sửa sai những lỗi lầm của mình,
mà còn vỗ ngực xưng tên.
Ví dụ: Như
các vị tỳ kheo phạm giới, phá giới,
ăn uống phi thời, sống
trong nhung lụa sang giàu, chùa to, Phật lớn, tu hành
chưa tới đâu, thuyết giảng lung tung, lừa đảo lường gạt nhiều người, bằng cách
cầu siêu, cầu an làm những điều mê tín, v.v.. Thậm chí, có những vị tỳ kheo có
cả vợ con, thế mà không biết xấu hổ, không
chừa bỏ, sửa
sai thì thử hỏi,
Phật pháp còn gì và tu
hành như vậy, thì làm sao ly dục,
ly ác pháp được.
Đây là phương
pháp thứ hai mà đức Phật đã dạy chúng ta ly dục, ly ác
pháp để nhập Bất
Động Tâm Định
và nhập Sơ
Thiền.
--o0o--
3- TỰ THẸN VỚI
NHỮNG VIỆC LÀM ÁC
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Động Tâm Định và Sơ Thiền thì phải tự thẹn
với những việc làm ác.
Ví dụ: Có người bị người khác
chửi mắng, mạ nhục
tâm sanh tức giận,
lúc bấy giờ
người ấy rất khổ
đau, trạng thái khổ
đau đó là ác pháp, tức là vì pháp ác bên ngoài tác động,
chúng ta không đủ sức kham nhẫn nên pháp
ác trong tâm ta phát khởi, nếu
một người tu theo đạo Phật thì phải
tự thẹn với lòng mình và tự
trách mình. Tại
sao mình lại ngu si
để những pháp ác
sanh khởi làm khổ mình?
Tại sao mình lại
điên đảo quá độ để cho
tâm duyên theo nhân quả ác của người
khác dẫn mình vào bước đường khổ đau?
Muốn ly dục,
ly ác pháp để nhập Bất Động Tâm Định và Sơ Thiền mà bị pháp ác tác động,
không ly ác pháp
trong tâm thì làm
sao nhập Bất Động và Sơ
Thiền được, do đó
đức Phật dạy: ‚Phải tự thẹn với
lòng mình‛ vì mình quá yếu hèn
không ngăn được
ác pháp trong tâm, để chịu khổ đau, đó là dại dột của
một con người quá ngu si, không sáng suốt.
Người biết tự
thẹn là người biết cố gắng khắc phục mình,
biết sửa lỗi
mình, biết chiến đấu lại tâm mình v.v..
Người không
biết tự thẹn là người không biết xấu hổ với mình, không biết cố gắng khắc phục tâm
mình, không biết sửa lỗi
mình và cũng không biết chiến đấu
lại tâm ác của mình, để rồi phải
chịu suốt một đời khổ
đau và tiếp tục trong
muôn đời khổ
đau. Đây là
phương pháp thứ ba đức Phật dạy chúng ta biết tự thẹn khi làm việc ác để
tâm ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động Tâm Định và nhập Sơ Thiền.
--o0o--
4- HỌC RỘNG HIỂU NHIỀU
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động
Tâm Định và nhập
Sơ Thiền thì phải học rộng hiểu nhiều. Học rộng hiểu nhiều nghĩa
là gì? Học rộng hiểu
nhiều nghĩa là phải hiểu rõ đường
lối tu hành chân thật của đạo Phật, nếu
không học rộng
hiểu nhiều về đạo Phật thì dễ bị người khác lừa đảo bằng
những giáo pháp của ngoại đạo như hiện giờ, tu sĩ và cư sĩ đệ tử của Phật mà lại
tu tập theo những pháp môn mê tín, ảo tưởng, hư cấu ảo giác, không
chịu học rộng,
không chịu hiểu nhiều
về kinh sách Nguyên
Thủy, nên nghe theo
kinh sách phát
triển và Thiền
Đông Độ. Họ lầm tưởng đó
là kinh sách của Phật
giáo chơn thật, nhưng
không ngờ đó
là kinh sách
giả mạo. Chỉ
vì trước khi tu hành, quý vị không chịu
học rộng, hiểu
nhiều về kinh
sách chơn thật của đạo Phật.
Ở đây
đức Phật dạy muốn ly dục,
ly ác pháp nhập Bất Động Tâm
và nhập Sơ Thiền mà
không học rộng,
hiểu nhiều về giáo pháp của Ngài
thì sẽ tu sai lạc,
mà đã
tu sai lạc
thì không làm sao ly dục,
ly ác pháp được,
không ly dục, ly
ác pháp thì
không bao giờ nhập
chánh định được,
chỉ có nhập
vào những tà định
mà thôi. Đây
là pháp thứ tư, học rộng,
hiểu nhiều về
giáo pháp của
Ngài để không
bị ai lừa đảo và lường gạt
được mình rơi
vào giáo pháp ngoại đạo, của thiền tưởng.
--o0o--
5- NỖ LỰC DỨT
ÁC TU THIỆN
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động
Tâm Định và nhập
Sơ Thiền thì phải nỗ lực dứt ác, tu thiện. Trong kinh Tứ Chánh
Cần dạy: ‚Ngăn
ác diệt ác
pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện pháp‛. Đó là
một phương pháp nỗ lực dứt ác tu thiện.
Hầu hết mọi
người tu theo đạo Phật đều không nhận ra ác pháp và thiện
pháp như thế nào, nên dễ tu lầm lạc,
do lầm lạc nên
tu mãi
không có kết
quả. Trong đạo Phật, pháp nào có lậu hoặc là
pháp ác, vì
có lậu hoặc
là có đau khổ, có đau khổ là ác pháp.
Ví dụ: Tu tập
tọa thiền hai chân ngồi kiết già bị tê, đau nhức, khổ sở, nóng rát, v.v.. đó là
pháp ác.
Nhớ thương những
người thân làm cho
tâm hồn đau khổ, đó
cũng là pháp
ác. Người có phước hữu lậu
sanh ra trong gia đình giàu
sang, quyền cao chức
lớn, có danh
giá trong xã hội,
nhưng đó là phước hữu lậu, cho nên
trong sự giàu
sang, quyền cao, chức
lớn vẫn có những sự khổ đau, có những sự khổ đau, tức là có ác pháp.
Đối với đạo
Phật thì không cầu phước hữu lậu, phước hữu lậu là phước danh và lợi mà danh
lợi là ác
pháp, vì thế
người tu theo đạo
Phật phải xa lìa danh lợi, xa lìa danh lợi là ly dục,
ly ác pháp, ly dục, ly ác pháp
là phước vô lậu, phước vô lậu là giải thoát. Vì thế,
người tu sĩ đạo Phật chọn lấy phước vô lậu, từ khước hữu lậu, từ khước phước hữu
lậu là từ khước chùa to, Phật lớn, tiền bạc danh lợi. Xin nhắc lại một
lần nữa,
đức Phật dạy:
‚có danh có lợi
thì nên ẩn bóng‛, đó mới chính là đệ tử của đức Phật.
Người có phước
hữu lậu, giàu sang quyền tước mà không từ bỏ, xa lìa, tức là không ngăn ác, diệt
ác pháp thì không thể nào ly dục, ly ác pháp được. Người ta phải hiểu rằng, phước
hữu lậu là phước báo còn trong đau khổ, cho nên người có phước báo này thì lại
càng đau khổ nhiều, quý vị không tin lời
chúng tôi nói
thì quý vị hãy đọc báo chí sẽ thấy các vị Tổng Thống, nhất
là Tổng Thống
nước Mõỹ “Kennedy” và gần đây
những người giàu
có hằng tỷ tỷ bạc như:
Minh Phụng, Trần
Đàm, v.v.. họ đang khổ hơn chúng ta nhiều.
Thưa quý vị,
đấy là phước hữu lậu, Hòa Thượng Thanh Từ,
Thầy của chúng tôi, đã thực hiện Bồ Tát Đạo, hành Bồ Tát Hạnh, Ngài có đầy đủ
phước báo hữu lậu, không có một vị Hòa Thượng nào sánh kịp, nhưng cơ thể Ngài
không lúc nào mà không uống thuốc và không giờ nào mà Ngài được nghỉ ngơi. Ngài
đã tuyên bố với Tăng, Ni và Phật tử, Ngài nợ Tăng, Ni và Phật tử. Đó là phước hữu
lậu, trong cái danh, cái lợi thì phải có cái không giải thoát, cái không giải
thoát tức là ác pháp.
Đức Phật dạy: ‚lậu
là khổ đau, vô
lậu là hết khổ đau‛. Do đó, chúng ta suy ra lậu là ác pháp.
Vậy người tu
sĩ đệ tử của đức Phật,
phải ngăn
ác diệt ác,
thì còn có cầu
mong tạo phước báo hữu lậu nữa
hay không? Tu
hành theo đạo Phật,
mà cố tạo phước báo
cho nhiều thì con đường tu để đi đến giải
thoát được hay không?
Đó là một
câu hỏi để mọi người
dễ nhận ra sư thật của kiếp làm người.
Người có phước
báo hữu lậu thì không bao giờ tu giải
thoát được. Tại
sao vậy? Tại vì
phước báo hữu lậu là ác pháp mà đạo Phật
chủ trương ngăn ác, diệt ác pháp thì mới có ly dục, ly ác pháp, có ly dục, ly
ác pháp thì mới có giải thoát, có giải
thoát thì mới gọi
là vô lậu,
cho nên phước báo của đạo Phật gọi
là phước vô lậu,
phước báo vô lậu là phước báo
không còn đau khổ. Phước
báo hữu lậu
là phước báo
còn đau khổ là phước báo của kinh sách phát triển của các tôn giáo khác.
Phước báo hữu lậu
và phước báo
vô lậu là hai phước báo không thể đi chung nhau một
đường. Người chấp nhận phước hữu lậu thì không
thể có phước
vô lậu được,
người chấp nhận phước
báo vô lậu
thì không thể chấp
nhận phước hữu lậu được, vì chấp nhận phước hữu lậu thì vô lậu không có.
Phước hữu lậu
và phước vô lậu chúng ta ví nó như mặt trời và mặt trăng,
cái này có thì
cái kia
không, cái này
không thì cái kia có
cũng như đêm và
ngày, ngày có thì
không thể là đêm được, mà đêm có thì
không thể là ngày được. Phước hữu lậu và phước vô lậu cũng vậy.
Cho nên, các
nhà học giả do chỗ nghiên cứu, chứ không
phải chỗ tu
hành đã hiểu
sai lệch về Phật giáo, vì vậy các Ngài hướng dẫn người tu làm những điều
lành như: Trai tăng, cúng dường, cất chùa, xây tháp, đúc chuông và làm những
việc từ thiện
khác nữa, v.v..
đó là tạo phước
hữu lậu, vì thế cuộc sống của họ
không giải thoát,
chỉ sống trong
cảnh giàu sang, danh lợi như người
giàu sang thế gian.
Bởi người ta
không hiểu được phước vô lậu và phước hữu lậu như thế
nào, nên đã đưa con người vào
con đường khổ chỉ được lời khen suông của thiên hạ mà thôi, nhưng lại biến
những người làm từ thiện trở thành những chủ nợ của những người khác mà cho
vay, “vay một trả mười”. Ngược lại, Phật
giáo không làm từ thiện, mà chỉ sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả, tự không
làm khổ mình, khổ người, nên khi thấy ai khổ là thấy nhân
quả của họ, chứ không phải ta làm khổ họ, mà chính họ
đã tự làm khổ họ, chúng ta có duyên gặp họ trong cảnh khổ,
đó là duyên
nhân quả của
chúng ta
và với họ, nên mới có sự gặp gỡ như thế này thì chúng
ta giúp đỡ
và an ủi họ,
tùy ở nhân quả
của họ, chứ
chúng ta không
làm từ thiện như
kinh sách phát
triển dạy, vì
chúng ta không làm sao cho họ
hết khổ được, tại họ tạo ra nhân ác thì họ phải gánh chịu lấy quả
khổ.
Chúng ta
không làm từ thiện theo
kiểu kinh sách phát triển dạy “làm thiện để mong cầu được lên Thiên
đàng, Cực lạc và để được giàu sang phú quý, làm vua, làm quan v.v..”. Chúng ta
chỉ biết làm theo đạo đức nhân bản – nhân quả làm người mà đức Phật đã dạy:
“Không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai‛.
Người không
hiểu Phật pháp
tuyên dương
‚phước huệ
song tu‛, đó là một sự sai lạc rất lớn
trong đạo Phật.
Có phước hữu lậu thì làm sao tu huệ được, huệ
là giới luật,
là đức hạnh của
con người và của những bậc
thánh tăng. Nói đến giới luật đức
hạnh những bậc thánh tăng, thì chỉ còn ba
y một bát đi
xin ăn hằng ngày
thì làm sao gọi là phước hữu lậu được. Trong
kinh Nguyên Thủy đức Phật đã xác định rõ
ràng: ‚Trí tuệ ở
đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì trí tuệ ở đó; trí tuệ làm
thanh tịnh
giới luật, giới
luật làm thanh
tịnh trí tuệ‛.
Người có phước hữu lậu thì không bao giờ có trí tuệ; người có phước
hữu lậu thì không bao giờ giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh; người có phước hữu lậu
thì không bao giờ được gọi là thánh tăng, thánh ni, thánh cư sĩ, nghĩa là
không chứng quả giải thoát,
vì chẳng bao giờ họ ly dục, ly ác pháp, chẳng ly dục,
ly ác pháp thì chẳng bao giờ ngăn ác, diệt
ác pháp, do đó họ tu
hành chỉ uổng
phí một đời
mà thôi. Họ đã
bị phước hữu lậu xỏ mũi dắt đi. Đây là pháp thứ năm, giúp chúng ta ly dục,
ly ác pháp nhập Bất Động Tâm và Sơ Thiền như đức Phật đã nhắc nhở ‚Phải hết sức mình nỗ lực, dứt ác
tu thiện‛, chứ không
thể tu lơ
là được, mà phải
nhiệt tâm, năng nổ từng
giây, từng phút thì mới
có thể ly dục,
ly ác pháp. Quý vị nên nhớ kỹ những lời dạy này, những lời dạy
này là những lời tâm huyết của đức Phật vì thương tưởng chúng
sanh, vì sự khổ đau của chúng sanh mà Ngài nhắc nhở. Đừng dựa vào phước
hữu lậu của kinh sách phát triển mà trở thành những chủ nợ của kẻ khác, để rồi
đời đời phải trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi vĩnh cửu.
--o0o--
6- NHỮNG ĐIỀU
ĐÃ HỌC CẦN GHI NHỚ MÃI KHÔNG QUÊN
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp để nhập Bất Động
Tâm và Sơ Thiền
thì những điều đã học phải ghi nhớ mãi không quên. Vậy, ghi nhớ mãi
không quên những pháp môn gì?
Những pháp
môn phải ghi nhớ mãi trong tâm không quên đó là:
1- Có năm pháp tu tập ly dục, ly ác pháp.
2- Có bảy pháp
khiến cho Phật
pháp hưng thịnh.
3- Có bảy pháp giúp ta ly dục, ly ác pháp.
4- Có bảy pháp hằng ngày cần tu.
5- Có sáu pháp cần phải giữ gìn.
6- Oai nghi của người tu sĩ.
7- Người mới vào đạo cần nên tu tập.
8- Người
mới tu có
năm pháp cần
nên tránh.
9- Người
mới tu có
ba đức chánh
hạnh cần phải thực hiện 11.
11 Chín
pháp trên đây,
trong tập tám
không ghi đủ xin
đọc lại những
tập sách “Những Lời Gốc Phật Dạy”.
Trên đây
là những pháp
môn đã học, cần phải ghi nhớ mãi không quên để thực hiện
con đường giải thoát của đạo Phật.
--o0o--
7- TU VỀ TRÍ TUỆ
Đức Phật dạy:
Muốn ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động Tâm và Sơ Thiền thì phải tu về trí tuệ. Vậy
tu về trí tuệ là tu như thế nào?
Trong kinh
SONADANDA đã dạy: ‚Tôn giả Gotama, không thể được. Tôn giả Gotama, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh
tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh,
chỗ ấy có trí
tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh,
nhất định có trí tuệ, người có trí
tuệ, nhất định có
giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ
được xem là tối thắng ở trên đời. Tôn giả Gotama, cũng như lấy bàn
tay rửa bàn tay, lấy bàn chân rửa bàn chân cũng vậy‛. Ở đoạn
kinh này đã xác định cho chúng ta thấy tu về trí tuệ tức là phải tu về giới luật.
Giới luật là đức hạnh của tu
sĩ và cư sĩ, nếu ta không tu về giới luật thì chúng
ta không có trí tuệ.
Cho nên, lời dạy
‚Tu về trí tuệ‛, tức
là tu tập về giới
luật, tu về giới luật
tức là sống đúng đời sống
phạm hạnh của một
vị thánh tăng, sống đúng đời sống phạm hạnh của một vị
thánh tăng là trí tuệ giải thoát
của đạo Phật. Như vậy, đức Phật mới nhắùc nhở chúng ta nhớ đừng quên phải
chăm lo tu về trí
tuệ.
Tu về trí tuệ
không phải là ở chỗ học hỏi
cho thông suốt
tam tạng thánh
điển hay có nhiều
cấp bằng Tiến
sĩ mà chỉ
là người biết sống
và giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, luôn luôn
lúc nào cũng thấy sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt. Chính người tu
sĩ và cư
sĩ biết giữ
gìn giới luật nghiêm chỉnh, đó là người trí tuệ, người
trí tuệ là người biết sống đời sống ly dục, ly ác
pháp, sống đời sống ly dục, ly ác pháp tức là đã nhập Bất Động
Tâm. Ngược lại,
người có cấp bằng
cao và thông suốt
tam tạng thánh
điển mà sống phạm giới, phá giới
thì người ấy không được gọi là người
có trí tuệ, theo Phật
giáo thì người ấy
là người vô
minh, người không
hiểu biết chánh kiến.
Người nhập
Sơ Thiền là người sống đúng phạm hạnh của một vị tỳ kheo đệ tử của đức Phật, người ấy không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt
nào trong giới
luật, người ấy sống ba y
một bát,
ngày một bữa
đi xin ăn, cuộc sống trầm
lặng độc cư một
mình như nước hồ mùa thu, người ấy là
người phạm hạnh, bậc
Trưởng Lão, Thánh Tăng; người ấy là người đức hạnh thánh thiện
vì đã ly dục
ly ác pháp, người ấy
xứng đáng là thầy của chúng ta, vì đức Phật đã xác định: ‚Giới luật là thầy của
các vị tỳ kheo‛. Vì thế, người nào sống
đúng giới luật là thầy của chúng ta dù người đó chỉ là một vị Sa Di,
một cư sĩ, còn
ngược lại dù vị đó
là một vị tỳ
kheo Thượng Tọa,
Hòa Thượng có hạ lạp cao, có học thức rộng, thông suốt tam tạng
kinh điển mà giới
luật không nghiêm
chỉnh thì không phải là thầy của
chúng ta.
Như trên đã
nói tu về trí
tuệ, tức là tu về giới luật, tu về giới luật tức là tu về thiền định, như vậy
tu về thiền
định tức là
tu về trí tuệ, chứ
không phải thiền
định chăn trâu,
kiến tánh thành Phật, đốn ngộ tiệm tu, hay là tham công án, tham thoại đầu,
phình xẹp Minh Sát hoặc luyện bùa, niệm
chú, tụng kinh, niệm Lục Tự Di Đà v.v..
mà có thiền định.
Từ giới hạnh là trí
tuệ, từ
trí tuệ là giới hạnh, đó là giai đoạn tu tập trí tuệ thứ
nhất về giới luật của đạo Phật
mà tất cả
các vị tu sĩ
Phật giáo, không phân biệt tỳ kheo tăng, ni và
cư sĩ, tất cả
đều phải lấy giới luật làm thầy, vì giới luật là trí tuệ của người tu sĩ Phật
giáo.
Khi tu tập ở giai
đoạn thứ hai
trí tuệ là thiền định,
thiền định là trí
tuệ, từ
trí tuệ là thiền định, thiền định
là trí tuệ đó là giai đoạn tu tập trí tuệ thứ hai về giới, định, tuệ của đạo Phật. Trong
kinh SONADANDA đức Phật
đã dạy: ‚...Vị ấy
chứng và trú
Sơ Thiền… chứng và
trú đệ Nhị
Thiền… đệ Tam Thiền… chứng và
trú đệ Tứ Thiền…
Này Bà La Môn như vậy
là trí tuệ‛. (Trường
Bộ kinh tập I trang 223).
Ở đây chúng ta thấy đức Phật đã xác định rõ
ràng: ‚giới luật
là trí tuệ, là thiền định; thiền định là giới luật, là trí tuệ;
người có trí tuệ nhất định
có giới luật,
có thiền định; người có giới luật
nhất định có trí tuệ, có thiền
định; người có thiền định nhất
định có giới luật
và có trí tuệ”.
Đạo Phật tu tập
như vậy, nên đức Phật mới nhắùc nhở chúng ta nhớ đừng quên, phải lo tu
về trí tuệ. Người nhập Sơ thiền là người sống đúng phạm hạnh của một vị tỳ kheo
đệ tử của đức Phật, người ấy không hề vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt nào trong giới luật.
Từ đó,
chúng ta suy ra, lời
dạy trên đây của
đức Phật, chúng
ta biết mình
phải tu trí tuệ, tức là tu giới luật và Tứ Thánh Định.
Tứ Thánh Định là trí tuệ của đạo Phật, nếu người không nhập được Tứ Thánh Định
thì không thể gọi là trí tuệ về thiền định.
Chúng ta học được
những điều rất
hay về trí tuệ của đạo Phật. Mới vào đạo, chúng ta học trí tuệ về giới luật. Sau khi trí tuệ về giới
luật thành tựu, ta làm chủ được tâm ta, tức là ta đã ly dục, ly ác
pháp, ta đã ly
dục, ly ác pháp
là tâm ta bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Khi tâm ta
ly dục, ly ác pháp là tâm ta đã thanh tịnh, từ đây, ta tiếp tục tu tập trí tuệ
về thiền định. Sau khi trí tuệ về thiền định thành tựu, ta làm chủ được thân
ta, tức là ta làm chủ được già, bịnh,
chết do ta tịnh
chỉ các hành trong thân.
Khi ta thành
tựu trí tuệ thiền
định xong, ta tiếp tục tu tập trí tuệ về Tam Minh. Sau khi trí tuệ Tam
Minh thành tựu,
chúng ta chấm dứt
nguyên nhân tái
sanh luân hồi, tức là ta
chỉ còn có một đời sống này mà thôi.
Trong kinh Sonadanda dạy: ‚Tâm hướng đến
tri kiến... Này Bà
La Môn như vậy là trí tuệ‛
(Trường Bộ kinh tập I trang 223). Đoạn
kinh này đức
Phật dạy: “Tam Minh là trí tuệ, trí tuệ là
Tam Minh, người có trí
tuệ, tức là có
Tam Minh, người có
Tam Minh, tức là có trí
tuệ‛. Đây là trí
tuệ vô
lậu, người có trí tuệ này, là người đã đi suốt quảng đường
của đạo Phật ‚Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
việc cần làm
đã làm, sau đời hiện tại
không có đời
sống nào khác
nữa‛ (Trường Bộ kinh
tập I, trong
kinh Sa Môn Quả
trang 155).
Đây là ba giai
đoạn tu tập trí tuệ của đạo Phật bằng lộ trình ‚Giới, Định, Tuệ‛, ngoài
lộ trình này, không bao giờ
còn có một lộ trình nào khác nữa, để tìm tu có trí tuệ giải
thoát.
QUAN ÂM THỊ
KÍNH
Câu hỏi của
một cư sĩ miền Bắc
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Câu chuyện Quan Âm Thị Kính,
tuy rằng câu chuyện dân gian, nhưng
làm ảnh hưởng
đến đạo Phật
ít nhiều không tốt. Xin Thầy cho
biết sự nhẫn nhục của Quan Âm Thị Kính
có phải là đạo Phật đã dạy như vậy hay không?
Tu hạnh nhẫn nhục như vậy để thành Bồ Tát, rồi thành Phật. Một Bồ
Tát, một đức Phật tu như vậy
có trí tuệ, có đạo đức
hay không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Câu
chuyện Quan Âm Thị
Kính tuy là câu
chuyện dân gian
nhưng ảnh hưởng
rất lớn đối với Phật giáo. Từ lâu, những tu sĩ và tín đồ Phật giáo rất
hãnh diện với sự nhẫn nhục của vị tu
sĩ này, qua lăng
kính của kinh sách phát triển.
Khi hoàn tất đức hạnh nhẫn
nhục này, cho đến lúc bỏ thân
xác, Thị Kính
thành Bồ Tát Quan Âm.
Thị Kính
là một người
phụ nữ Việt
Nam, có chồng và chồng ly dị vì sự hiểu lầm “sát phu”.
Ngài buồn cho
duyên nghiệp thân
phận
của
mình và nhân tình thế thái, nên giả trai
đi tu.
Khi vào chùa
xuống tóc xuất
gia tu hành, Ngài
được lòng với một tín nữ
Thị Mầu. Thị Mầu gian dâm với người khác có thai, khai
đổ trút cho Ngài là tác giả, Ngài nhẫn nhục làm thinh trước sự đánh đập chửi rủa,
phỉ báng, mạ nhục của làng xã và mọi người. Vị trụ trì không cho Ngài ở trong
chùa, Ngài phải ra cất một cái chòi nhỏ ở
ngoài cửa Tam
quan chùa. Khi Thị Mầu sanh và
đem con đến giao cho Ngài nuôi, Ngài
phải nhẫn nhục
ôm con Thị Mầu nuôi nấng từ sơ sinh cho đến lớn khôn, chịu
biết bao nhiêu cay đắng nhọc nhằn và sự chửi rủa của những người khác, nhưng
Ngài vẫn kiên gan, nhẫn nhục, chẳng hề than thở
cùng ai với một lời nào cả, là một
phụ nữ, Ngài chăm nom cháu bé rất là chu đáo.
Đến khi Ngài
trút hơi thở cuối cùng, người ta mới phát
giác ra. Ngài là nữ nhi cải nam trang.
Qua sự nhẫn
nhục vĩ đại
này, mọi người tôn xưng Ngài là Bồ Tát Quan Âm hay là
Phật Bà Quan Âm.
Câu chuyện dân gian này, cũng giống như một câu
chuyện trong kinh sách phát
triển, có
nêu ra câu
chuyện nhẫn nhục
ba la mật như sau: “Có
một ông lão đến xin vị Hòa
Thượng trụ trì đang cai quản trong một
ngôi chùa có khoảng
trên năm trăm
(500) Tăng chúng
tu
học.
Vị Hòa Thượng
này được xem là một vị đã chứng quả A La Hán, Ngài chấp nhận cho ông lão vào ở
tu học. Sau một thời gian tu tập, Ngài muốn
thử chúng Tăng
và ông lão,
ai là người tu
hành đã đạt được hạnh
nhẫn nhục ba la
mật.
Nửa đêm,
chúng Tăng đều yên giấc, Ngài lén lấy một cái
chén ngọc quý nhất trong chùa và đập bể.
Sáng hôm
sau, Ngài họp chúng Tăng lại, hỏi từng người
một và cố
ý hỏi ông
lão người mới vào tu sau cùng. Tất
cả năm trăm chúng Tăng được hỏi đều bảo rằng: “Chúng con không có đập bể”.
Hòa Thượng
quay lại hỏi ông lão mới
vào xin tu tập:
“Ông có đập bể chén
ngọc trong chùa không?”
Ông lão làm thinh không đáp, Hòa
Thượng lại bảo: “Chắc
Ông đập bể
chén ngọc
quý của chùa phải
không?”. Ông vẫn làm thinh không đáp.
Mọi người đều
nhìn ông nghi ngờ, ông lão vẫn một mực
làm thinh và mặt nhìn xuống.
Hôm đó,
có tất cả
năm trăm Tăng
chúng và các cư sĩ ở quanh
vùng đến dự họp, mọi người đều cho rằng chính ông lão đã đập bể.
Trước bao
nhiêu đôi mắt nhìn ông và lộ vẻ khi dễ,
ngụ ý trách ông đập bể mà không can đảm
dám nhận chịu, thật là hèn nhát, ông lão đã nhận
ra và biết rất
rõ sự khinh bỉ
này, nhưng ông vẫn một mực điềm tĩnh làm thinh.
Vị Hoà Thượng
tức giận la hét và chỉ tay điểm mặt ông: “Ông đã đập bể chén ngọc quý của chùa
mà không dám thú tội là một người hèn hạ, một
người đáng khinh bỉ,
ông có biết hay không?”.
Ông lão vẫn
làm thinh như không có chuyện gì xảy ra cả. Hòa Thượng càng tức giận hơn, Ngài
bảo: “Từ đây
tôi phạt ông phải lên rừng đốn củi và xay lúa nấu cơm cho năm
trăm Tăng chúng ăn”.
Ông lão vẫn an nhiên,
vui vẻ chấp
nhận và thui thủi một mình,
chấp hành công
việc nặng nhọc này,
mà không hề
có một tiếng
kêu
ca than oán.
Suốt mười mấy năm trời lao tác nặng nhọc, ông
chẳng hề mở miệng than trách một điều
gì cả. Cuối cùng,
ngày viên tịch sắp đến,
ông báo trước
chúng Tăng biết:
“Đức Phật Di Đà sẽ đem tòa sen đến
rước linh hồn ông về Cực lạc”.
Sau khi
ông lão tịch,
bây giờ vị
Hòa Thượng trụ trì mới báo cho chúng Tăng biết chính Hòa Thượng là người
đã đập chén ngọc quý đó để thử thách chúng Tăng, xem ai là người đã tu hạnh nhẫn
nhục ba la mật có kết quả”.
Câu chuyện hàm
oan này, cũng giống như câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Ông lão chịu hàm oan đã
thành Phật trong
kinh sách phát triển. Thì câu chuyện Quan Âm Thị Kính
cũng từ hạnh nhẫn
nhục trong kinh sách
đó được triển khai ra, để nhằm dựng
lên một đức hạnh nhẫn nhục cao quý
tuyệt vời mà
khó có người thực hiện được, chứ trong dân gian làm
gì có người bịa chuyện
ra như vậy được,
chỉ có các nhà
sư của kinh
sách phát triển
bịa chuyện nhẫn nhục ba la mật
này, nói lên sự tuyệt vời, cao cả của Phật giáo phát triển mà thôi.
Xét qua hai
câu chuyện nhẫn nhục ba la mật trên của
kinh sách phát triển
(nhẫn nhục
ba la mật)
thì không đúng đường
lối tu hành đạo đức của đạo Phật.
Như quý vị
đã biết, đạo Phật xây dựng tôn giáo của mình
trên một nền tảng đạo đức nhân bản
- nhân quả. Đạo đức nhân
quả là một thứ
đạo đức nhân bản, tự không làm khổ mình,
khổ người. Thế mà hai câu chuyện trên, lại sử dụng một thứ đạo đức anh hùng
phi đạo đức,
anh hùng làm khổ
mình, khổ người.
Đối với đạo Phật không chấp nhận đạo đức quân tử này,
quân tử
một cá nhân
mà làm khổ biết bao nhiêu người, đạo đức này xem thì thiện,
nhưng toàn là ác pháp, khiến cho bao nhiêu người tạo tội lỗi.
Trong Luận Bảo
Vương Tam muội, các nhà kinh sách
phát triển rất
ưng ý câu này:
‚Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch nhân quả chưa xả”. Các nhà
kinh sách phát triển không hiểu luật
nhân quả, họ hiểu luật
nhân quả như luật định mệnh (số mệnh, định mệnh), vì thế, nên
khi bị oan ức một điều gì, họ
nghĩ ngay kiếp trước họ
đã tạo nhân
oan ức cho ai, nên hiện giờ phải trả quả oan ức đó, nếu minh oan,
nói rõ ra cho mọi người
biết thì nhân quả kiếp trước không trả được ‚vì biện bạch nhân quả chưa
xả‛.
Luật nhân quả
không phải là định luật số mệnh, luật nhân quả di chuyển liên tục, luôn
luôn thay đổi
theo hành động
nhân quả thiện ác của nó, quả của luật nhân quả trong
quá khứ không cố định, nó cũng luôn luôn chuyển biến theo hành động nhân quả
trong hiện tại.
Ví dụ: Ta đi
đường thấy một gói bạc của ai làm rớt, ta lượm
đem đến trụ sở
Công An nhờ họ tìm
người chủ trả lại, nhưng
giữa đường chưa đến trụ sở
Công An, người
ta đã thấy mình
mang gói bạc, họ xúm lại bắt
trói mình và dẫn đến Công
An. Nếu các
nhà kinh sách phát triển thì làm thinh để xả nhân quả,
xả nhân quả kiểu đó tức
là tạo
nhân quả ác thêm cho những người
khác, nghĩa là làm khổ mình, khổ người, rõ ràng ở trong ác pháp mà không biết. Người
tu theo pháp
môn của kinh sách phát triển
không có trí tuệ
giải thoát, hay gọi là
tri kiến giải thoát,
còn gọi là trí
tuệ nhân quả, do không
biết nên tu hạnh nhẫn
nhục ba la mật như vậy, đã không
giải thoát mà còn mở cửa địa ngục
cho mình, cho
người bước vào. Thay vì quý vị tu theo đạo giải thoát,
nhưng lại tu theo đạo
anh hùng phi đạo đức.
Đó là một câu
trong kinh sách
luận phát triển,
chứng
minh rất cụ thể,
một loại kinh phi đạo đức, phi nhân quả.
Hai câu
chuyện trên, Quan Âm
Thị Kính và Ông
lão tu hạnh
nhẫn nhục ba la
mật, lại làm khổ
mình, khổ người,
tu như vậy, có đúng là hạnh nhẫn nhục của đạo Phật hay
không?
Không,
tu như vậy hoàn toàn không đúng đường lối tu hành của đạo
Phật. Đạo Phật dạy:
‚Ngăn ác, diệt
ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp‛.
Tu nhẫn nhục ba la mật là đi ngược lại giáo pháp của đạo Phật ‚Ngăn thiện, diệt
thiện pháp, sanh
ác, tăng trưởng ác
pháp‛. Lời chúng
tôi nói quý vị
đừng vội
tin mà hãy suy ngẫm
tư duy, rồi quý vị sẽ thấy rõ lời nói của chúng tôi không
sai.
Đạo Phật còn gọi là đạo trí tuệ, vậy hành động nhẫn
nhục ba la mật
đó, có trí tuệ
hay không?
Thưa quý vị:
Không! Hạnh nhẫn nhục của đạo Phật
là nhẫn nhục trong trí tuệ nhân quả, chứ không phải nhẫn nhục vô nhân quả,
vô đạo đức như nhẫn nhục của kinh sách phát triển, nhẫn nhục một cách tiêu cực,
yếm thế, nhẫn nhục để tự làm khổ mình,
khổ người thì có ích lợi gì cho
mình, cho người đâu?
Chỉ được tiếng
khen suông
‚quân tử‛ hay
là ‚anh hùng cá nhân‛.
Đối với đạo
Phật không chấp nhận những hạng người quân tử và anh hùng cá nhân như vậy. Vì
những người quân tử và anh hùng cá nhân này đã
tự làm khổ mình, khổ người khác
và còn
tạo duyên nhân
ác cho kẻ khác.
Người đời không hiểu, ca ngợi, khen tặng, tưởng đó là những hành động cao thượng,
chứ không ngờ, đó là những hành động vô đạo đức, phi đạo
đức nhân bản làm người.
Nhẫn nhục để
được thành Bồ Tát, thành Phật mà tạo
duyên cho kẻ khác làm ác, tạo
sự đau khổ cho người khác,
cho mình, thế gọi là
tâm từ
bi, nhẫn nhục
ba la mật, như vậy có đúng không?
Không!
Không! Một ngàn lần không, đạo Phật
không có dạy những
hành
động phi đạo đức như vậy.
Làng,
xã vì không biết
trắng đen như thế nào nên mới mắng chửi, mạ
nhục và đánh đập Thị Kính, Thị Kính
ngậm miệng chẳng hề than oán một lời, mặc cho kẻ khác mắng chửi mạ nhục,
mặc cho họ đánh đập lằn ngang lằn dọc, Ngài
vẫn một mực
làm thinh một cách
gan dạ và anh hùng, sự nhẫn nhục
đó đã làm
cho bao
nhiêu người
tức giận, tạo ra
vô số
hành động ác. Sự nhẫn nhục
như vậy, theo đạo Phật
có đúng không? Như chúng tôi đã trả lời ở trên, không bao giờ đúng được.
Để xác
quyết một lần nữa, chúng
tôi đã nói, đạo Phật không
chấp nhận những
điều nhẫn nhục này,
vì nhẫn nhục
như vậy là
tiêu cực, yếm thế, vô trí tuệ đã hại mình, hại người.
Khi giặc Hầu
Nhân Bảo bao vây vào công thành, vua Lương Võ Đế nghĩ mình đã từng
có công với đạo Phật, ông đã cho xây bảy mươi hai cảnh chùa và độ biết bao nhiêu
Tăng chúng tu hành, do tin ở những
công đức này
mà kinh sách phát
triển đã dạy
ai làm những
công đức như vậy, sẽ được phước
báo vô lượng và người nào tu hạnh
nhẫn nhục ba la
mật sẽ có
công đức rất lớn,
có chư Phật, chư Bồ
Tát gia hộ, nên vua và các quan tụng kinh, niệm Phật
cúng bái, cầu khẩn,
thì chắc chắn chư Phật
và chư Bồ Tát cùng với những công
đức tu hành của chúng Tăng hợp lại thành một sức mạnh vô lượng và sẽ đẩy lùi giặc.
Lòng tin mê
muội, mờ ám của vua quan nhà
Lương đã bị
kinh sách phát triển
lừa đảo mà không
biết, cứ tin theo
lời dạy trong kinh sách
phát triển, chư Phật và
chư Bồ Tát sẽ
đuổi giặc,
nên không lo chiến đấu. Vua và các quan cứ
lo gõ mõ, tụng kinh cầu
chư Phật gia hộ, cho giặc lui
quân. Không ngờ thành vỡ giặc bắt vua quan nhà Lương giết sạch.
Vua quan nhà
Lương đã bị Phật giáo phát triển lường gạt
dạy: ‚nếu ai cúng dường trai Tăng, cất
chùa, xây tháp độ chúng
Tăng tu học thì công đức ấy vô lượng, không thể nghĩ bàn, nhờ công đức
đó, có thể chuyển nghiệp giải thoát khỏi cảnh khổ đau và luôn luôn sẽ được
Tam Bảo gia hộ, tai qua nạn khỏi, tật bệnh
tiêu trừ, giặc giã bệnh khổ đều chấm dứt‛.
Lúc bị
vây thành, sao chư Phật
và công đức của chúng Tăng không
hợp lại để cứu vua Lương Võ Đế thoát cảnh giặc bắt giết (như đã cứu bà
Thanh Đề trong địa ngục A Tỳ vậy)?
Thời đức Phật
còn tại thế, vua Bình Sa Vương là một vị vua cư sĩ rất sùng tín đạo Phật nhất,
ông đã cất tịnh xá Trúc Lâm cúng dường
cho đức Phật và chư
Thánh Tăng. Hằng
năm, ba tháng an cư kiết hạ ông đã
cúng dường trai phạn đầy đủ Phật và một ngàn hai trăm năm chục vị tỳ
kheo. Công đức cúng đường ấy đâu phải nhỏ, thế
sao ông bị A- Xà
Thế cướp ngôi, cầm
tù và bỏ
đói cho đến chết.
Phật và chư
Thánh Tăng
lúc bấy giờ là những bậc tu chứng đạo
mà còn cứu
không được, huống
là bây giờ đức
Phật và chư
Thánh Tăng đều nhập diệt
hết.
Bởi vì luật nhân
quả rất công bằng và công lý, nếu ai làm ác thì phải thọ tội
không có một đức Phật, một đức thánh tăng nào giải cứu họ được, trừ ra, chỉ có
chính kẻ làm ác đó, phải tự cứu mình, bằng những hành động thiện thì mới thoát
khổ.
Vua
Bình Sa Vương đã tạo nhân
quả ác trong quá khứ thì hiện
giờ ông phải
thọ quả khổ bị giặc cướp
nước và giết
chết, không thể lấy sự cúng dường (hối lộ) của ông mà đức
Phật và chư thánh tăng cứu ông được.
Đạo Phật
xây dựng giáo
lý của mình trên nền tảng của luật nhận quả, nên không cứu độ ai hết. Cho nên, đức Phật chỉ có dạy cho mọi
người phải nhìn
thấu suốt lý
và luật của nhân quả, để tránh làm những điều ác, thường
làm những điều thiện, chính là để không làm khổ mình, khổ
người; không làm khổ mình,
khổ người là để vượt thoát ra cảnh khổ của chính mình; vượt
thoát ra cảnh khổ của chính
mình là đã thông suốt lý duyên hợp của nhân quả; thông suốt
lý duyên hợp của nhân
quả, tức là
quét sạch
màn vô minh,
quét sạch màn vô
minh, tức là tri
kiến giải thoát.
Người có tri kiến giải thoát là người thoát khổ trong
kiếp sống làm người, tức là làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Muốn được vậy, hành
giả phải tu tập giới, định, tuệ. Tu tập giới, định, tuệ thì phải tự lực mình,
chứ không nhờ tha lực ai được cả.
Xét lại
trường hợp vua Bình
Sa Vương và vua Lương Võ Đế,
ta thấy rõ đạo Phật
là một tôn giáo rất công bằng và
công lý, không vì người khác cúng
dường mình, dù
cúng dường của cải, chất như núi
như non mà cứu khổ họ hoặc giải nguy
cho họ. Họ
làm ác, làm khổ
người khác thì họ phải chịu thọ tội khổ bằng những hành vi của chính họ đã làm.
Xưa, dòng họ Thích
Ca đã làm
điều ác phải thọ lấy sự
tru di của
vua Lưu Ly Vương, đức Phật và chư thánh tăng đều biết và
thấu suốt lý nhân quả, nhưng đức Phật và thánh chúng không
giải cứu, chỉ
có ông Mục Kiền
Liên, ông không thể làm ngơ được, nên dùng thần thông cứu dòng họ Thích Ca,
nhưng hoài công vô ích, chỉ còn một bát máu mà thôi.
Đấy là luật nhân
quả rất công bằng và công lý dù là dòng họ của đức Phật, đức Phật
cũng không cứu được. Bởi thế, kẻ
nào tin theo
giáo lý phát
triển là đã tự giết mình như vua Lương Võ Đế, là phi đạo đức như Quan Âm Thị
Kính và
Mục Liên Thanh
Đề. Đó là những
hành động đi ngược lại đạo đức
nhân bản và giáo lý của đạo Phật.
Cho
nên, câu
chuyện Quan Âm Thị
Kính và Mục Liên
Thanh Đề là những câu
chuyện bịa đặt của
các nhà phát
triển để lừa đảo tín đồ, tạo cảnh mê tín báo hiếu và anh hùng
nhẫn nhục ba la mật phi đạo đức, để họ thọ dụng của mồ hôi, nước mắt của đàn na
thí chủ mà không ai biết.
Vì thế,
ngày lễ Vu
Lan là ngày
Phật tử phải hao tốn tiền của rất
nhiều, chỉ vì lòng báo hiếu, nhớ công
ơn sanh thành dưỡng
dục của mẹ cha,
nhưng báo hiếu
theo kiểu của
kinh sách phát triển
đã dạy thì việc làm
đó là một sự thiếu hiểu biết, mê tín, dị đoan, lạc
hậu, phi đạo đức, nên không ích lợi thiết thực cụ thể cho mình và cho những người thân quá vãng. Hiện giờ tục
lệ này, đã trở thành một truyền thống của dân tộc Việt Nam rất là khó bỏ.
Chuyện vua
Lương Võ Đế và các quan đặt trọn niềm tin ở sự cứu độ của
Phật và chư Hiền Thánh Tăng trong kinh sách phát triển, nên chết một cách oan uổng,
thật là đáng thương và
cũng đáng
chê trách, thật là tin tưởng một cách mù quáng, thiếu hiểu biết. Trên đời này
không có sự gia hộ
và cứu độ của ai cả, nếu những ai tin rằng có sự cứu độ và gia hộ đó là bị lừa
đảo.
Người tu
theo đạo Phật
mà không hiểu đạo
Phật, không rõ đạo đức của đạo Phật, thì làm sao tu hành theo đạo Phật cho đúng được?
Nếu hiểu
không đúng đạo Phật thì đi
tu uổng cả cuộc đời mà chẳng ích
lợi cho mình và cho người khác.
Hầu hết các
nhà nghiên cứu Phật giáo, chỉ dựa theo ngôn thuyết kinh điển phát triển mà giảng
thuyết ra, thường dùng những từ lý luận, mơ hồ, trừu tượng, viễn vông mà không chịu
nghiên cứu đạo đức của đạo Phật. Một đạo đức rất thực tế và cụ thể, giúp cho loài
người thoát
khổ.
Thế mà hiện
giờ, có người nào thử hỏi các nhà Phật học
phát triển: “Đạo
đức của đạo Phật là gì?”. Thì họ đều ngớ ngẩn, ngẩn
ngơ chẳng biết đâu
mà trả lời.
Chỉ vì Đại Thừa
Giáo đã dạy cho họ những điều mê tín,
phi đạo đức, vì thế không bao giờ giáo
lý phát triển có đạo đức để dạy.
Giáo lý này
chỉ còn biết hù dọa mọi người
bằng sự
mê tín cảnh giới
“Địa ngục”. Khi một
người làm
ác, chết đọa xuống địa ngục bị hành hạ mọi thứ cực hình,
giống như trong
những câu chuyện Hồi Dương Nhân Quả của văn học Trung Quốc đã từng ghi chép thành sách do các
nhà văn
giàu tưởng tượng.
Trong kinh sách phát triển, có những
loại kinh mê tín như: Hồi Dương Nhân Quả, Kinh Nhân Quả Luân Hồi, Những Gương
Nhân Quả Luân Hồi v.v..
Thường, người
ta chỉ nghĩ tưởng và hiểu biết đạo Phật là một tôn giáo có những pháp môn cao
siêu huyền diệu hơn các tôn giáo khác trên
hành tinh này. Ngay cả thiền
sư Vạn Hạnh một vị Cao Tăng Việt
Nam mà còn chẳng biết đạo đức của đạo Phật như thế nào,
nên Ngài phải lấy ba tôn giáo lớn hiện có mặt tại Trung Quốc
và Việt Nam
như: Nho giáo,
Lão giáo, Phật giáo hợp lại:
“Vạn Hạnh dung tam
tế”.
1- Nói về đạo đức làm
người, Ngài lấy đạo đức Khổng giáo (Nho Giáo) làm chuẩn,
mốc thứ nhất.
2- Nói về sự thoát ly, yếm thế trần gian, thế tục,
để được sống tự tại thung dung, ích kỷ
cá nhân, Ngài lấy Lão giáo (Tiên Đạo) làm chuẩn, mốc thứ hai.
3- Nói về cảnh
giới Niết Bàn, cảnh giới siêu thoát huyền diệu, Phật Tánh, Chơn
Như, Ngài lấy Phật giáo làm
chuẩn, mốc thứ ba. Đó là
lối dung hợp, lấy đạo đức của các
tôn giáo khác làm đạo đức cho tôn
giáo của mình. Chính vì giáo lý
phát triển đã che khuất
và làm mất đạo đức của đạo Phật, nên chính Thiền Sư Vạn Hạnh Ngài cũng không biết đạo đức làm người của đạo Phật là gì?
Trong cuốn
Thiền Lâm Bảo Huấn của các Thiền Sư Trung
Hoa, thường khuyên dạy chúng Tăng đạo đức làm người bằng đạo đức của Nho giáo. Kinh sách Thiền
Tông và kinh sách phát triển không thấy
có dạy đạo đức làm người.
Người ta đâu
biết rằng, Phật giáo có một nền đạo đức
nhân bản -
nhân quả cho
con người tuyệt vời. Phật giáo ra đời vì kiếp sống của con người quá khổ đau,
sanh, già, bệnh, chết. Sanh là một nỗi khổ đau nhất của
con người, nếu không có một đạo đức giúp cho con người thì con người sẽ tự làm
khổ cho nhau, muôn đời muôn kiếp, không bao giờ dứt.
Vì giải
quyết sự khổ
đau của con người, nên Phật giáo
phải xây dựng tôn giáo của mình trên một nền tảng đạo đức nhân bản – nhân
quả tự
không làm khổ
mình, khổ người.
Giúp
cho mọi người
đến với đạo Phật là đến với sự
giải tỏa khổ đau của kiếp làm người, ngay khi không làm khổ mình, khổ người là
có sự giải thoát liền, không phải có thời gian. Vì thế
đức Phật dạy: “Pháp Ta không có thời
gian đến để mà thấy‛.
Đứng trên nền
tảng đạo đức nhân bản – nhân quả vô
giai cấp này,
nên việc xử
lý rất bình đẳng và công bằng, dù
cho một nhà vua có quyền uy thế lực,
nhưng khi làm tội
ác, tức là làm
khổ người thì phải
trả quả khổ
đó, không thể dùng quyền uy thế lực
mà tránh khỏi được, cũng như một
nhà giàu có nhất trần
gian này mà đã làm tội
ác, tức là
làm khổ người
khác, khổ tất cả chúng sanh thì chẳng chạy trốn đâu khỏi, đều phải thọ lấy quả khổ, dù tiền của có
đem hối lộ, lo lót bao nhiêu cho các bậc Vạn Năng, Thần,
Thánh, Tiên, chư Phật, chư Bồ
Tát cũng chẳng giải cứu được ai.
Đó là một nền
đạo đức công bằng và công lý nhất trên thế gian này, người cầm cán cân
công lý
này, không sợ
sai sót một ly
hào nào cả. Ai làm ác thì phải chịu khổ
thọ tai ương, bệnh tật v.v..,
ai làm lành
thì hưởng được phước báo, phiền não tật bệnh tiêu trừ,
tai qua,
nạn khỏi v.v..
mà chẳng cần cầu khẩn
ai cứu giúp cả.
Chuyện nhẫn
nhục của Quan Âm Thị Kính và ông lão
tu hành đều
là sự nhẫn
nhục thiếu trí tuệ nhân
quả, tự làm khổ mình
và còn tạo nhân
duyên bất thiện
cho những người khác làm
ác, đó là phản lại
giáo lý và đạo đức của
đạo Phật.
Kẻ làm ác
như Thị Mầu thì lại phây phây không
có khổ đau chút
nào. Như vậy
trái với luật nhân quả
quá rõ ràng. Luật
nhân quả bao giờ cũng đi đôi
với trí tuệ (tri kiến giải thoát), kinh sách phát
triển dạy người
tu nhẫn nhục như vậy, tức là dạy người tu như cây đá,
chẳng có tri kiến giải thoát chút nào.
Nếu Thị
Kính là người tu theo đạo Phật có đầy đủ
đạo đức nhân bản – nhân quả tự không làm
khổ mình, khổ
người, thì sự kiện
không xảy ra, Ngài dùng
trí tuệ nhân quả giải quyết để
không làm khổ mình, khổ người khác, Ngài không khổ và mọi người cũng không
khổ, chỉ có kẻ làm ác
như Thị Mầu là
phải
thọ lãnh quả khổ. Có như vậy, mới đúng nghĩa đạo đức
nhân bản - nhân quả.
Ông lão
tu hành kia cũng
vậy, không có trí tuệ nhân quả, nên dùng hạnh nhẫn nhục
ba
la mật làm
thinh, không thốt ra lời nói để vạch trần tội ác của kẻ ác tâm vu khống người
khác.
Thị
Kính và ông lão vẫn giữ một mực làm
thinh, có nghĩa là không chấp nhận mà chấp nhận hành động như vậy, đã khiến cho
mọi người tức giận
(ác pháp) chửi mắng, mạ nhục,
xỉ vả,
đánh đập (ác
pháp) và mình
đang chịu đựng sự mạ nhục và sự hành hạ đau khổ
cả thân và tâm (ác pháp).
Mặc dù
chúng ta cho rằng nhân đời trước thì đời nay ta phải trả và chịu đựng sự
trả quảû đó. Nếu ta lý luận và tư duy nhân quả như vậy là không
đúng, luật nhân
quả không phải
là luật định mệnh, luật nhân quả được chuyển hoá bằng trí
tuệ để không
làm khổ mình,
khổ người. Vì thế đạo Phật lấy tiêu chuẩn thiện của luật nhân quả để giải
thoát đời sống con người, bằng trí tuệ, do đó
đạo Phật còn gọi là đạo
‚TRÍ TUỆ‛.
Muốn thoát
ra cảnh khổ của cuộc đời thì hành giả phải nhìn
đời bằng đôi mắt nhân quả và giải quyết bằng trí tuệ nhân quả thì cuộc đời
này mới trở thành Thiên đàng, Cực lạc.
Nếu chúng ta
sống đúng đạo đức nhân bản
- nhân quả,
không làm khổ mình, khổ người thì
Thiên đàng
và Cực lạc
đâu cần phải
tìm nơi
đâu xa và có
cần gì phải tu tập cho phí sức. Vì Cực lạc, Thiên
đàng không có thật, mà cỡ có thật thì cũng chẳng có ích lợi gì cho con
người? Cõi Cực lạc, Thiên đàng chỉ là một cõi ảo mộng tưởng tượng
mà thôi. Cực lạc, Thiên
đàng chỉ có với những
người có
trí tuệ nhân bản - nhân quả,
không làm khổ
mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sanh.
Người
nhìn đời bằng đôi mắt nhân quả và giải quyết
mọi sự việc với trí tuệ
nhân quả thì chỉ dùng một lời
nói rất tầm
thường không quân tử, không anh
hùng gì cả, chỉ cần biết không làm khổ mình,
khổ người là đủ, như Thị Kính chỉ cần
nói: ‚Tôi là phụ nữ‛,
thì ngay đó đã chuyển
được nhân quả khổ cho mình
và không tạo duyên nhân quả ác cho người. Ngài muốn làm người quân tử, người
anh hùng nên tu
hạnh nhẫn nhục
ba la mật.
Vì thế, Ngài phải chịu khổ suốt mười mấy năm trời và
cũng tạo duyên cho mọi người làm ác. Đối với đạo Phật, những
hạnh nhẫn nhục
này là phi đạo
đức nhân quả.
Ông lão tu
hành kia cũng vậy, chỉ một lời nói tầm thường
mà đã chuyển
được nhân quả khổ
của mình và
không tạo duyên
cho mọi người làm
ác: ‚Bạch Hòa
Thượng, xin Hoà
Thượng xét kỹ, đừng
để oan ức
cho kẻ khác và đừng
tạo nhân
ác cho mình‛. Câu nói tuy
đơn giản, nhưng
lại nhắc khéo
nhân quả cho Hòa Thượng. Nếu là một người sống có đạo đức nhân
quả thì Hòa
Thượng sẽ giật mình
trước lời nói của ông lão.
Luật nhân quả
sẽ không tha một kẻ nào, dù người
đó tu đã
thành Phật và chứng
quả A La Hán như vị Hòa
Thượng đó mà dùng
pháp ác để thử
thách đệ tử thì
vẫn phải
thọ quả. Làm những
điều ác bằng
cách gọi là
‚thõng tay vào chợ, tự tại vô ngại‛ như Thiền Đông Độ, rượu thịt bê bối
như Tế Điên Hoà Thượng cũng vẫn phải bị trừng trị do luật nhân quả. Đừng nghĩ rằng,
tôi đã tu xong thì làm gì cũng không có tội, hiểu như vậy là không hiểu đạo đức
nhân quả; hiểu như vậy là không hiểu đạo Phật, vì những người tu sĩ đạo Phật đều
có oai nghi tế hạnh, tức là Sa Môn hạnh của người tu sĩ hay nói cách khác cho dễ
hiểu hơn, đó là kết quả giải thoát
của những người
quyết tâm đi tìm chân lí mà Phật dạy những hành động sống
đúng phạm hạnh gọi
là Sa Môn Quả tức là kết quả của những người tu theo Phật giáo.
Người tu
xong luôn luôn sống bằng trí tuệ nhân quả, thể hiện một
gương hạnh đạo đức,
không làm khổ
mình, khổ người, khổ cả hai, do đó đức Phật gọi
trí tuệ. Trí tuệ
đó được gọi là
tri kiến giải thoát.
Xét qua câu
chuyện Quan Âm Thị Kính và ông lão
tu hành là những người
thiếu trí tuệ đạo đức
nhân quả, tức
là không có trí
tuệ tri kiến giải thoát cho mình cho người,
như vậy, hạnh nhẫn nhục ba la mật đó là phi đạo đức, là không phải của đạo Phật dạy,
chỉ là một đạo
đức quân
tử Nho giáo,
một anh hùng
cá nhân mà thôi.
Những đạo đức
đó thường làm khổ
mình, khổ người, nhưng lại được những người thiếu hiểu biết ca ngợi tán thán.
Đạo Phật là
một tôn giáo không nêu cao gương anh
hùng cá nhân,
mà chỉ biết
giữ gìn đạo đức
nhân bản –
nhân quả tự
không làm khổ mình,
khổ người. Quan
Âm Thị Kính
và ông lão tu hành đã chứng tỏ
mình là anh hùng nhẫn nhục
ba la mật, anh
hùng cá nhân
làm khổ mình, khổ người. Đã làm khổ mình, khổ người thì làm sao gọi là
giải thoát được.
Đạo Phật chỉ
biết dùng trí tuệ nhân bản - nhân quả tự không
làm khổ mình,
khổ người và khổ cả hai để được
giải thoát khổ
đau của kiếp sống làm người. Như vậy, chúng ta đã biết luật nhân quả
là có sự
chuyển hoá và thay đổi
rõ ràng, từ
nhân thiện chuyển hóa được quả ác
ngay liền chứ
không phải đợi
có thời gian. Người có trí tuệ
nhân quả thì chuyển hoá được luật nhân
quả, hay nói một cách
khác là làm chủ
nhân quả hoặc
nói một cách
khác nữa là làm chủ sanh, già, bệnh, chết, tức là giải
thoát mọi sự đau khổ của kiếp người.
Ví dụ: Chúng
ta bệnh nhức đầu là do thiếu trí tuệ, tạo ra nguyên nhân bệnh nhức đầu như:
đi mưa, đi nắng
không đội nón,
mũ, dù, v.v.. hoặc tắm khi mồ hôi đang ra. Đó là những
nguyên nhân đểâ sanh ra bệnh cảm nhức đầu.
Nếu chúng
ta có trí
tuệ, khi đi
ngoài đường gặp mưa thì che dù, mặc áo mưa hoặc đi nắng thì che ô, đội
nón, mồ hôi đang ra thì không nên tắm, biết phòng ngừa và ngăn chặn như vậy thì
làm sao bị bệnh cảm nhức
đầu, đó là trí tuệ biết
phòng ngừa không
gieo nhân bệnh tật
đau khổ thì làm sao có
quả bệnh tật khổ đau.
Ví dụ: Ta bị
bệnh ruột thừa đau như sắp chết mà cứ bảo rằng: “đó là nhân quả đời trước ta
đã gieo, thôi
đành nhẫn chịu đau
để trả quả”. Nếu
thiếu hiểu biết
nhân quả mà luận
theo lý
nhân quả của của kinh sách
phát triển là để trả quả
như thế này,
thì chúng ta sẽ là
người vô trí
tuệ, dại dột, vô minh thì phải đành chịu đau khổ và mạng vong. Nếu ta là người
có trí tuệ, ta biết nhân quả là chuyển hóa được, do đó ta
đi đến bệnh
viện mổ ruột
thừa là chúng ta sẽ hết đau nhức và bệnh lành, không
bị tử vong oan uổng. Đó là trí
tuệ chuyển hoá
nhân quả, do biết như vậy, nên
chúng ta không
có khổ đau tức là giải thoát.
Bởi sự giải
thoát của đạo Phật, rất đơn giản, chứ không
như người ta dựa theo
kinh sách phát triển và thiền Đông Độ, nghĩ rằng sự giải thoát
của đạo Phật rất là cao
siêu, huyền bí, cần phải có một sức thiền định sâu mầu và một trí tuệ siêu việt.
Nếu Thị
Kính chỉ cần biết sự giải thoát của đạo Phật trong đời sống hằng ngày,
không có gì cao siêu, huyền bí, rất gần gũi sự sống của con người, đơn giản, cụ
thể, thiết thực v.v.. Như lời chúng tôi
thường nhắc nhở:
“Sống là tu, tu
là sống”. Ai hiểu biết đạo Phật được như
vậy là giải thoát ngay liền.
Thị Kính
hiểu đạo Phật
qua lăng kính giáo
pháp của kinh
sách phát triển,
nên tu hạnh nhẫn
nhục ba la mật, để rồi chịu một
hàm oan cho đến ngày cuối cùng của đời mình.
Ngài được mọi người
tán thán ca ngợi
và tôn xưng Ngài là Phật Bà Quan Âm, tức là tán thán một
anh hùng cá
nhân, chứ không
phải tán thán ca ngợi
một người có đạo đức
nhân bản - nhân
quả, không làm khổ mình,
khổ người.
Khi
Ngài chết rồi
thì sự ca ngợi tán thán đó, đối với Ngài không còn có nghĩa
lý gì cả. Cũng ví như một người đã chết, khen họ cũng không mừng, chê họ
cũng không buồn, chửi họ cũng
không giận, dù tôn xưng họ là gì, họ cũng chẳng
ham và cũng
chẳng biết. Thị
Kính có thành Phật hay không thành Phật là do ở chỗ tu hành giải thoát hay không giải thoát,
nhưng Thị Kính đã tự làm khổ mình và còn
làm khổ người khác, đối với đạo Phật Thị Kính
là người chưa giải thoát, tu hạnh nhẫn nhục đó chưa xứng đáng
làm Phật, đi
sai con đường đạo đức
của đạo Phật.
Đạo Phật giải
thoát trong đạo đức, chứ không phải giải thoát ngoài đạo đức,
Thị Kính tu hành nhẫn
nhục ba la mật
là phi đạo đức
làm khổ mình,
khổ người, đó
là giải thoát ngoài đạo đức. Giải thoát ngoài đạo đức
là phi đạo đức.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!