ngày để
dòng họ biết
nhau, gần nhau, giúp đỡ nhau.
Tóm lại,
ngày ấy nếu biết tổ chức đúng ý nghĩa theo đạo đức nhân bản làm người thì mới xứng đáng với câu:
“Uống nước nhớ
nguồn ăn quả nhớ người trồng
cây”.
CĨ BA HẠNG NGƯỜI
TU TẬP GIỚI,
ĐỊNH, TUỆ
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Có ba hạng người tu hành giới, định, tuệ:
1- Hạng
người thứ nhất
ưa thích bóng tối, sống trong bóng tối, tu tập trong
bóng tối.
2- Hạng người thứ hai ưa thích ánh sáng, sống trong ánh sáng, tu tập trong
ánh sáng.
3- Hạng người
thứ ba tùy thuận bóng tối tự nhiên, tùy thuận theo ánh
sáng tự nhiên. Sống trong bóng tối tự nhiên, sống trong ánh sáng tự
nhiên. Tu tập
theo bóng tối tự
nhiên, tu tập theo ánh sáng tự nhiên.
Trong ba hạng người
này, loại người
nào tu đúng, sống
đúng theo giáo lý của đức Phật
và có
thể tiến tới
chánh trí, chứng ngộ Niết
Bàn?
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được hiểu rõ và
theo đó hành trì.
Đáp: Trong
ba hạng người này:
1/ Hạng người
thứ nhất ưa thích bóng tối, sống
trong bóng tối,
tu tập trong
bóng tối. Đó là những hạng người làm việc mờ ám, gian lận,
lừa đảo, lường
gạt người khác,
không xứng đáng là người tu sĩ Phật
giáo.
Người ưa thích
bóng tối, sống
trong bóng tối, tu tập trong bóng
tối là những người trộm cắp, cướp giựt, là những loài thú vật đi ăn đêm, là những
người gian xảo lừa đảo, v.v..
Người tu sĩ
đạo Phật không chấp nhận những điều này,
phải ăn thật,
nói thật, làm
thật.
Vả lại tu
hành là giải thoát cho mình chứ đâu phải
giải thoát cho ai,
tu hành đâu
có cầu danh, cầu lợi, cầu
khen ngợi, ca tụng
v.v.. mà chỉ vì sự sống chết bệnh
khổ và tái sanh luân hồi.
Tại sao chúng
ta đã bỏ cuộc đời
đi tu mà lại tu giả, tu dối, tu không thật?
Tại sao chúng
ta đã bỏ cuộc đời
đi tu mà còn
ham vui thích
nói chuyện, nói
chuyện có ích lợi gì? Vừa làm cho
mình tu không được mà cũng vừa làm hại
người khác chẳng an tu hành.
Tại sao chúng đã
bỏ cuộc đời đi
tu, không tu đúng lời dạy của Thầy, nỡ tâm phá hạnh độc cư của mình bằng mọi
cách, để rồi cuộc đời tu
hành của
mình chẳng ra gì?
Đời chẳng ra đời, đạo
chẳng ra đạo, lại hằng
ngày thọ dụng của
đàn na thí chủ mà chẳng biết xấu hổ.
Những người
tu hành trong bóng tối là những người lười biếng, dụng bóng tối để thỏa thích
lòng tham ngủ, còn tham ăn, tham ngủ là người còn mang bản năng thú vật, sống
chỉ biết tranh đấu cho cái ăn, cái ngủ thì không còn nghĩa lý gì cho cuộc sống,
nhất là cuộc sống của người tu sĩ Phật giáo.
Đừng luận rằng
đức Phật ngày xưa đâu có dầu đèn thắp, nên bây giờ mình tập sống trong bóng tối.
Luận như vậy
là sai, xưa đức
Phật, đến chỗ nào sống không đèn đuốc thì vẫn sống tu không đèn đuốc như
bình thường, nhưng đến nơi có đèn đuốc thì đức Phật cũng sống tu trong ánh sáng
đèn đuốc, chứ không có đèn đuốc đòi
cho có đèn đuốc hoặc
có đèn đuốc lại tắt tối
thui để tránh sự dòm ngó của người khác trong khi mình lén ngủ.
Trong tu viện
sự tu tập có thời khóa rõ ràng, giờ tu, giờ nghỉ, người sử dụng bóng tối tu tập
là có gian ý lười biếng để đánh lừa người khác.
2/ Hạng người thứ
hai ưa thích ánh
sáng, sống trong áng sáng, tu tập trong áng sáng. Đó là những người dùng
ánh sáng làm bình phong che mắt mọi người,
dùng ánh sáng để chứng tỏ mình là người
tốt, người siêng
năng tu tập, người
làm thiện chứ thật ra cũng
là cách thức lừa đảo
lường gạt người
khác. Đối với
người tu sĩ đạo Phật còn một chút
xíu tâm lừa đảo, gian lận thì tâm niệm
đó còn mang đầy ác
pháp, làm sao tu hành cầu giải thoát được. Phật dạy: “Các pháp ác chớ
làm, nên làm các pháp thiện”. Tâm còn
gian xảo dùng
ánh sáng để che đậy sự xấu, sự lười biếng, để lường gạt
kẻ khác.
Ví dụ: Một
nhà giàu có muốn làm giàu hơn trong sự bất
chánh họ dùng
mánh khóe từ thiện để
qua mắt Nhà nước
và mọi người. Một ông thầy thuốc Nam bốc thuốc từ thiện, nhưng lại muốn
làm tiền bằng
cách khôn khéo lợi
dụng lòng tin
Phật của bệnh nhân nên đặt một tượng Bồ Tát
Quan Thế Âm
và một thùng phước
sương trong phòng
mạch. Nhờ đó ông
thầy lang tuy không nhận tiền thuốc mà vẫn làm giàu còn được tiếng làm phước
thiện. Thường trong các
chùa trước điện Phật, đặt một cái tủ nhỏ, gọi là thùng phước sương,
thùng phước sương là một
hình thức lừa đảo tín đồ mê tín, đó cũng là một nguồn lợi đáng
kể trong nhà chùa. Đó là lấy ánh sáng che mắt thiên hạ để lừa đảo dễ
dàng. Người tu
hành gian xảo dùng
ánh sáng che mắt
mọi người, cứ cho
đèn cháy sáng rồi mặc tình mà
ngủ. Họ đâu biết
rằng tu hành là tu cho
họ chứ
đâu phải tu cho
người khác, thế mà họ cũng lừa đảo người khác. Người tu
theo đạo Phật
tu như vậy để
làm gì? Có ích lợi gì?
Nên trở về sống đời sống cư sĩ với đạo đức nhân bản - nhân quả làm người
còn tốt hơn.
Những năm
tháng trong tu viện chúng tôi đã chứng
kiến mọi sự lừa đảo của tu sĩ giả dối, người dùng bóng tối ngủ thẳng chân, kẻ
dùng ánh sáng ngáy khò khò. Những điều này đã khiến cho chúng tôi rất
thương tâm cho những người còn tham đắm, si mê trong ăn ngủ mà muốn tu
theo đạo Phật thì làm sao được.
3/ Hạng người thứ ba
tùy thuận bóng tối
tự nhiên, tùy
thuận ánh sáng tự nhiên,
sống trong bóng tối tự nhiên, sống trong ánh sáng tự nhiên, tu tập theo
bóng tối tự
nhiên, tu tập theo ánh sáng tự nhiên. Đây là những hạng
người biết sống đúng nghĩa bóng tối và ánh sáng, biết
tùy thuận đúng
nghĩa bóng tối và
ánh sáng, biết
tu tập đúng
nghĩa bóng tối và
ánh sáng.
Tùy thuận
bóng tối tự nhiên như thế nào? Khi bóng
đêm đến, trời tối chúng
ta nên
sống trong
tự nhiên với
bóng đêm mà
không
đòi hỏi phải có
đèn đuốc ánh
sáng. Nếu chúng ta đòi hỏi hoặc chuẩn bị đèn đuốc hoặc
đèn sáp, đèn cầy, đó là sự không tùy thuận trong bóng đêm, khiến
cho tâm bất an phải
lo lắng, nên tâm
hồn không được
thanh thản, an lạc
và vô
sự.
Tâm hồn
không được thanh thản, an lạc và vô sự đó là chướng ngại pháp trong tâm, chướng ngại
pháp trong tâm tức là
ác pháp, nếu tâm gặp ác
pháp phải mau mau quán
xét đẩy lui hoặc diệt cho thật sạch và luôn lúc nào cũng giữ
gìn tâm bất động trước
các chướng ngại pháp,
đó mới chính
biết tùy thuận bóng tối tự nhiên.
Thời nay người
tu hành chẳng biết tùy thuận bóng tối tự nhiên nên chẳng làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Sống, tùy
thuận và tu tập theo
ánh sáng tự nhiên như thế nào?
Trong khi chúng
ta sống trong
ánh sáng ban ngày mà ước muốn
có ánh sáng trăng ban đêm, cũng như
chúng ta đang sống trong ánh sáng đèn dầu mà đòi hỏi phải có ánh sáng đèn điện, v.v..
Những sự ước muốn này
là sống không tùy
thuận, không bằng
lòng, không tu tập ánh sáng tự nhiên.
Ví dụ: chúng
ta đang ngồi dưới ánh sáng đèn điện bỗng nhiên bị cúp điện, tất cả mọi vật đều
trở thành bóng đen, do đó tâm ta rất khó chịu, phải đi tìm đèn đuốc thắp lên,
đó là sự sống không tùy thuận, không bằng lòng, không tu tập ánh sáng tự nhiên.
Ánh sáng có như thế nào thì chúng ta sống tùy
thuận, sống tu tập
theo ánh sáng đó đã có, ánh sáng không
có thì chúng ta sống
tùy thuận và
tu tập theo
ánh sáng không có. Người biết tùy thuận sống và tu tập như vậy là người
biết ngăn ác diệt ác pháp, còn ngược lại sống không biết tùy thuận và tu tập
như vậy thì dù có nói ngăn ác diệt ác pháp một
triệu lần thì cũng
chỉ là lời
nói suông mà
thôi chẳng
có ích lợi gì cho mình cho người
và tu hành như vậy chỉ hoài công vô ích, uổng một cuộc đời bỏ công tu tập.
Sống, tùy
thuận và tu tập theo bóng tối tự nhiên như thế nào?
Sống, tùy
thuận và tu tập theo bóng tối tự nhiên là sống theo bóng tối như thế nào thì
chúng ta sống
theo bóng tối
như thế nấy, không than trách, không phiền toái là
hôm nay trời tối quá hoặc trời sáng quá. Tối hay sáng không có nghĩa làm bận
tâm cho người tu sĩ. Người tu sĩ sống theo bóng tối tự nhiên là luôn luôn giữ
gìn tâm, cảnh giác tâm trong mọi thời gian để phòng hộ bảo vệ tâm lúc nào tâm
cũng thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là sống theo bóng tối tự nhiên.
Sống, tùy
thuận và tu tập theo bóng tối tự nhiên là người biết ngăn ác diệt ác pháp không
cho tâm bị chướng
ngại pháp, vì thế bóng tối
như thế
nào họ sống
như thế nấy, sống một cách an vui nhẹ nhàng thanh thản an lạc của
một tâm hồn vô sự.
Sống, tùy
thuận và tu tập theo
ánh sáng tự nhiên như thế nào?
Sống, tùy
thuận và tu tập theo
ánh sáng tự nhiên tức là không
lưu ý đến thời gian và không gian, có nghĩa là không để ý đến trời sáng, chiều,
tối, khuya luôn
luôn ôm pháp
tu tập không để kẽ hở khoảng trống
nào cả, lúc nào cũng phòng hộ sáu căn, luôn giữ gìn
tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Sống, tùy
thuận và tu tập theo
ánh sáng tự nhiên là sống dưới mọi
ánh sáng như: tối không ánh sáng, sáng mờ mờ, sáng tỏ, sáng trắng, sáng nhạt,
v.v.. đều tự nhiên sống dưới ánh
sáng đó, không
bất toại nguyện,
không than thở, không buồn phiền, không trách cứ, không lo ngại, tâm luôn thanh thản, an lạc và vô sự trước mọi thứ ánh sáng.
Sống tùy thuận
và tu tập theo ánh sáng tự nhiên tức là sống không làm khổ mình, khổ người, sống
không dối trá, lừa đảo, lường gạt người khác, trước mặt cũng như sau lưng không
bao giờ nói xấu, nói lén ai cả.
Sống, tùy
thuận và tu tập theo
ánh sáng tự nhiên tức
là sống không
giết hại sanh linh, sống không
làm khổ chúng
sanh, sống không ăn
thịt chúng sanh, sống với
tâm từ bi
thương yêu muôn loài vạn vật, thậm
chí đến ngàn cây
nội cỏ
tâm hồn vẫn
luôn biết thương
yêu như con của mình.
SỰ TU TẬP KHỔ
ĐẾ,
DIỆT ĐẾ TRONG
TỨ NIỆM XỨ
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Thế nào
là Khổ, Tập, Diệt,
Đạo Thánh Đế,
tu tập trong
Tứ Niệm Xứ, xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ từ sanh khởi, xả ly,
diệt trừ và an trú.
Đáp: Muốn tu
tập Khổ, Tập, Diệt, Đạo Thánh Đế trên Tứ Niệm Xứ thì bắt
đầu sanh khởi, xả
ly, diệt trừ
và an trú tại bốn chỗ:
“Thân, thọ, tâm, pháp”:
1/ Thứ nhất chúng ta bắt đầu
quan sát và xem xét nơi “Thân” Tứ
Niệm Xứ coi có các chướng ngại pháp trên đó hay không? Nếu có (sanh khởi)
tức là “Khổ,
Tập Thánh Đế”
đang tạo tác trên thân khiến cho thân bất an, thì chúng ta
nên dùng Định Vô
Lậu quét sạch
(xả ly) “khổ, tập”
trên đó xong rồi thì chúng
ta
dùng câu pháp hướng
tâm để tạo
cho tâm có một nội lực sung mãn để
Tập Đế không còn tập họp (diệt trừ)
trên thân Tứ Niệm Xứ được và cuối
cùng thân Tứ Niệm Xứ của chúng
ta được an lạc và vô sự “Diệt Đế”
(an trú). Đây là sự tu tập Khổ, Tập,
Diệt Thánh Đế từ
sanh khởi, xả ly, diệt trừ và an trú trên thân Tứ Niệm Xứ.
2/ Thứ hai kế
tiếp chúng ta cũng quan sát và xem xét (sanh khởi) “Thọ” Tứ Niệm Xứ của chúng
ta và cũng tu tập
như thân Tứ Niệm Xứ vậy. Đây là sự tu tập Khổ, Tập, Diệt Thánh
Đế từ sanh khởi, xả ly, diệt trừ và an trú.
3/ Thứ
ba, sau khi tu tập Thọ Niệm Xứ xong chúng ta tiếp tục quan sát xem
xét “Tâm” Tứ Niệm Xứ và cũng tu tập như
Thân Niệm Xứ ở trên vậy.
Đây là sự
tu tập Khổ Tập, Diệt Thánh Đế từ sanh khởi xả ly diệt trừ và
an trú.
4/ Thứ tư,
sau khi tu tập “Tâm”
Niệm Xứ xong chúng ta tiếp tục tu
tập “Pháp” Niệm Xứ.
Pháp Niệm Xứ chia ra làm hai loại:
1- Pháp Niệm Xứ ngoại.
2- Pháp Niệm Xứ nội.
Pháp Niệm Xứ
ngoại gồm có hai phần:
a- Pháp Niệm
Xứ ngoại thế gian.
b- Pháp Niệm
Xứ ngoại xuất thế gian.
Pháp Niệm Xứ
nội gồm có hai phần:
a- Pháp Niệm
Xứ nội Thế gian.
b- Pháp Niệm
Xứ nội xuất thế gian.
Dù chia chẻ
các pháp ra như vậy, nhưng chúng ta phải
hiểu các pháp
thế gian dù nội
hay ngoại đều
là ác pháp cả, còn
ngược lại pháp xuất
thế gian dù nội hay
ngoại đều là thiện
pháp cả. Vì thế đức Phật dạy:
“Ngăn ác diệt ác pháp” đó là pháp
thế gian, “sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp” đó là
pháp xuất thế
gian.
Sau khi
chia ra và phân
biệt rõ pháp nội
và ngoại, thế
gian và xuất
thế gian, từ
trên pháp chúng ta
tu tập như
thân Tứ Niệm Xứ
vậy. Đây là sự tu tập Khổ, Tập, Diệt Thánh Đế từ sanh khởi, xả ly, diệt trừ và
an trú.
TỪ TRƯỜNG
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
bạch Thầy! Do
nhân gì, duyên gì mà các
loài động vật nhất là
loài
động vật sống
hoang dã rất thích sống gần các nhà tu
hành theo đạo Phật?
Xin Thầy chỉ dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Các
loài động vật hoang dã rất thích sống gần những người tu hành như:
1- Thứ
nhất họ không
giết hại các
loài vật, dù là con vật hung dữ và nguy hiểm.
2- Thứ hai hằng ngày họ thường ăn và để
dành những thực
phẩm đều mang
cho chúng
ăn.
3- Thứ
ba người tu
hành thường không giết hại và ăn thịt chúng sanh, nên
xung quanh họ tỏa ra một
từ trường hiền
lành khiến cho các
loài vật không
sợ hãi, nhất
là những loài vật có khứu giác tinh vi bén nhậy, khi bắt
gặp từ trường đó, chúng
an tâm và khi tiến
gần vị tu sĩ thì
cảm giác
chúng lại còn
an tâm hơn nữa, do đó nên các loài thú hoang dã đến
gần những người tu
sĩ chân chánh,
không còn sợ hãi,
hầu như chúng
cảm thấy gần
gũi bên những người
tu sĩ này
như có một sự che chở bảo vệ cho chúng.
Nói đến từ trường
tức là nói đến nghiệp lực
nhân quả thiện ác do con người
hành động theo ba chỗ thân,
miệng, ý của họ tạo ra
một
khoảng không
gian rộng hẹp nhất định theo sự huân tập nhiều ít của họ.
Từ tâm lực
thiện của người ấy phóng từ trường ra trong khoảng không gian đó, khi loài thú
vật hoang dã đến gần hoặc đi vào khoảng không
gian đó, khứu
giác và trực
giác của chúng giao cảm được từ
trường thiện đó, nên chúng không cảm thấy sợ
hãi, rất an tâm,
vì thế chúng thường
quấn quýt bên những người tu sĩ, có khi chúng bò lên hoặc đậu lên
tay chân của những người tu hành ấy.
Chúng
tôi xin nói thêm
các loại từ trường để
quý vị suy
ngẫm. Lúc Hòa
Thượng Huệ Hưng còn sống, ông
nói với chúng
tôi rằng: “Khi đến
thăm Thượng Tọa
Pháp Tri, nơi chỗ Thượng
Tọa ở sao mà
sát khí đằng đằng, cảm giác ớn lạnh người”.
Tại sao nơi
chỗ Thượng Tọa ở lại
sát khí đằng đằng?
Đó là một từ
trường bất thiện mà Hòa Thượng Huệ Hưng cảm nhận
được khi bước chân vào
đó. Lúc bấy giờ chúng tôi
không biết Thượng Tọa Pháp
Tri là ai,
nên hỏi Hòa Thượng,
Hòa Thượng bảo:
“Đó là một
nhà sư Phật giáo thuộc hệ phái
Nam Tông”.
Nơi đâu có
giết hại và ăn thịt chúng sanh là nơi đó có từ trường ác.
Nơi đâu
không giết hại và không ăn thịt chúng, nhưng nơi đó không có lòng từ bi thương
xót chúng sanh thì nơi đó cũng không có từ trường thiện
vì tâm người
còn ác, không
có lòng hiếu sinh, nên phóng xuất từ trường ác, chính vì tâm con người ở đó còn tham, sân, si, mạn, nghi ngút ngàn.
Nơi đâu có
lòng từ bi thương xót muôn loài chúng sanh thì nơi đó có từ trường thiện.
Nơi đâu có đạo
đức không làm khổ mình, khổ người thì nơi đó có từ trường thiện.
Nơi đâu ly
dục ly ác pháp
là nơi đó
có từ trường thiện.
Ngược lại
nơi đâu còn
có tâm tham,
sân, si, mạn, nghi
là nơi đó
có từ trường
ác như chúng tôi đã nói ở trên.
Nơi đâu
tu sĩ Phật
giáo đời sống
phạm hạnh không có, thường phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thì nơi đó
có từ trường ác.
Trên đây
là những từ
trường thiện ác trong cuộc sống hằng ngày của con người
phóng ra theo hành động đạo đức
nhân bản - nhân quả và không đạo đức.
Từ đó, chúng ta suy ra mới thấy được môi trường
sống trong không gian trên hành tinh này tốt hay xấu, ô nhiễm hay trong sạch đều
do hành động thiện hay ác của loài người và loài động vật cùng ngàn cây nội cỏ.
Từ những hành động thiện ác của loài người phóng ra thường mang đến
cho loài người hạnh
phúc hay khổ
đau.
Nếu con người
trên hành tinh này sống có đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người và
khổ tất cả
chúng sanh, thì từ trường trong
không gian này
toàn thiện và như
vậy môi trường
sống của con
người sẽ không bị ô nhiễm. Môi
trường sống không ô nhiễm thì con người không
có bệnh đau, thiên tai, hỏa hoạn, động đất, hồng thủy,
v.v.. không bén mãng. Thiên tai, hỏa hoạn, động đất, hồng thủy và bệnh tật đều do con người
sống trong ác pháp, với tâm tham,
sân, si ngút ngàn.
Còn có những từ trường khác
hơn những từ trường trên đây, đó
là từ trường của các loại định, mỗi loại định đều
có những từ trường
khác nhau như:
1/ Định Nhị
Thiền khi khẩu hành tịnh
chỉ thì ý thức
ngưng hoạt động, ý thức ngưng hoạt
động có nghĩa
là sáu thức
ngưng hoạt
động, sáu thức như:
nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân
thức và ý thức. Người nhập
định này mắt không
còn thấy sắc tướng,
tai không còn nghe âm thanh dù âm thanh to lớn như tiếng trời sét cũng không
nghe, v.v..
Khi khẩu
hành tịnh chỉ, sáu thức ngưng hoạt động tức
là khẩu hành định, sáu thức
định, thì từ trong các định
này phóng ra một loạt từ trường để bảo vệ khẩu hành và
sáu thức của nó, đây
là từ trường
của định Nhị
Thiền, mắt thường không thể thấy được, chỉ có khứu giác tinh vi hoặc trực
giác mới nhận ra được.
Định Tam
Thiền do ly
18 loại hỷ dục
tưởng, lìa 18 loại
hỷ dục tưởng
này thì có một từ trường phóng ra để bảo vệ giấc ngủ an
lành không có mộng mị.
Định Tứ Thiền
tịnh chỉ hơi thở các hành trong thân ngưng hoạt động, để bảo vệ sự sống của thân tứ đại, từ trong
thân hành tịnh
chỉ này phóng ra một
từ trường, từ trường ấy làm cho các cơ quan nội
ngoại của cơ thể
không bị hư hoại trong một khoảng
thời gian dài, nhờ có từ trường đó mà cơ thể có thể phục hồi sự sống lại một
cách dễ dàng.
Các từ trường trên
đây chỉ là một luồng khí
vô hình, nhưng
nội lực mạnh yếu đều do
hành động
thiện ác nhiều ít của con người hoặc sức tịnh chỉ các hành trong thân tùy theo
khẩu hành, thân hành và ý hành tạo ra định lực sâu cạn nhiều ít mà phân ra các
loại định. Mỗi loại định đều có từ trường phóng ra để bảo vệ người đang nhập định.
Định Diệt Thọ
Tưởng là một loại định diệt thọ ấm và tưởng ấm, muốn diệt
thọ ấm và tưởng ấm thì phải tịnh chỉ ý hành, ý hành
tịnh chỉ thì ý căn phải ngưng
hoạt động, ý
căn10 ngưng hoạt động
thì cơ thể hoàn toàn
giống như người chết.
Vì muốn bảo vệ cơ thể
không bị hoại diệt nên Định Diệt Thọ Tưởng phải phóng ra một từ trường rất kinh khủng, lớp từ
trường như một kính
pha lê che phủ cơ thể người
nhập định, ở
xa thì trông thấy,
nhưng đến gần thì không
được, dù cho thời
tiết mưa nắng cũng không xâm thực
được, lửa không cháy, nước không làm
ướt được, tất cả loài vật
và người
không bao giờ xâm
chiếm đến gần
được. Từ trường
ấy tuy vô hình, trong suốt như
3- Ý căn là
bộ óc của con người, ý căn ngưng
hoạt động là bộ óc con người ngưng làm việc. Tứ Thiền hơi thở tịnh chỉ tức
là hơi thở dừng, nhưng bộ óc còn hoạt động,
còn nhập Diệt Thọ Tưởng Định
thì bộ óc hoàn
toàn ngưng nghỉ.
pha lê, nhưng
vững chắc hơn thành đồng vách sắt, không có một vật gì trên thế
gian này làm hại được thân người nhập định này.
CÚNG DƯỜNG
VÀ NHẬN ĐỒ CÚNG
DƯỜNG NHƯ THẾ
NÀO ĐÚNG PHÁP?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Quý vị cư sĩ phật tử cúng dường
cho chư Tăng như thế nào là
đúng pháp và
như thế nào
là không đúng pháp?
Chư Tăng
khi nhận đồ
cúng dường như thế
nào đúng pháp
và như thế
nào là không đúng pháp? Phải
làm gì khi thọ nhận
sự cúng dường? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng
con được
rõ.
Đáp: Người
cư sĩ Phật tử cúng dường đúng chánh pháp là phải chọn một vị tăng giới đức
nghiêm chỉnh, phải đầy đủ oai nghi tế hạnh, phải có một đời sống phạm hạnh, phải
thiểu dục tri túc giống
như Phật và
chúng Thánh
Tăng ngày
xưa thì sự cúng dường ấy mới đúng là chánh pháp.
Chọn được một vị
tu sĩ như vậy thì phải thành tâm dâng lên cúng dường với một
tấm lòng cung kính ngưỡng mộ, mặc dù của
ít lòng nhiều, không phải đòi hỏi ở những món ăn cao lương mỹ vị mới
có lòng thành,
mà chỉ là những
món ăn đơn giản như
cơm muối, củ khoai và tương chao rau đậu luộc, v.v..
Người cư
sĩ phật tử
cúng dường không đúng chánh pháp là cúng dường cho những
vị tăng phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, sống không đúng oai nghi tế hạnh.
Cúng dường cho những vị
tăng này là nối giáo cho ngoại đạo
diệt Phật giáo. Bởi đức Phật dạy: “Giới
luật Ta còn là Đạo Ta còn,
giới luật Ta mất là Đạo Ta mất”, câu
nói này có nghĩa là tu
sĩ còn giữ
gìn giới hạnh
nghiêm chỉnh thì đạo Phật còn, tu sĩ không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh
thì đạo Phật mất.
Lời dạy năm
xưa của đức Phật đến giờ này nó còn nguyên giá trị rất lớn, giúp cho chúng ta
quan sát đạo Phật còn hay mất.
Theo lời dạy này, đạo Phật
không còn nữa. Từ khi đức Phật và
chúng Thánh Tăng đã
viên tịch hết
thì không còn ai giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nữa, nên đạo Phật đã mai một từ
đó.
Hiện giờ,
quý vị cư sĩ phật tử muốn cúng dường đúng chánh pháp thì phải chọn
những vị tăng xứng đáng, giới luật nghiêm trì không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì
mới cúng dường, còn ngược lại thì quý vị không nên cúng dường cho những
vị tăng phạm
giới, phá giới, vì cúng dường như vậy là gián tiếp
quý vị diệt Phật giáo, “Phật giáo
còn là giới luật còn, Phật giáo mất là giới luật mất”. Các vị tăng phạm giới,
phá giới là những vị Tăng đang diệt Phật
giáo, đang giết chết
Phật giáo. Quý vị cư sĩ
hãy cảnh giác
những vị tăng
này, họ là những Ma Vương đội lốt tu sĩ Phật giáo để
diệt Phật giáo.
Còn quý vị
tăng tu hành chân chánh khi nhận sự cúng
dường đúng chánh
pháp thì không được
nhận tiền, bạc,
vàng, châu báu, y
áo vải hàng tốt đẹp mà phải bằng vải hàng thô xấu, cách thức ăn mặc của một vị
tăng chân chánh thì không được ăn mặc
sang đẹp, vì ăn mặc
sang đẹp là
chưa nhàm chán
thế gian, chưa nhàm chán thế gian
là lòng tham muốn còn đầy đủ
tham muốn. Tâm
tham muốn còn
đầy đủ
là người thế
gian chứ không
phải là người tu,
tâm chưa phải là người tu thì
không nên nhận sự
cúng dường, nhận sự cúng
dường như vậy thì không đúng chánh pháp.
Cho
nên, những tu
sĩ ăn mặc
sang đẹp, ở trong chùa to Phật lớn,
xe cộ đủ loại,
tiền bạc cất giữ
mà nhận của
cúng dường thì không đúng chánh pháp.
Một vị
tăng phải giữ gìn giới
luật nghiêm túc, đời sống phải
ba y một bát, thiểu
dục tri túc, luôn
luôn sợ hãi
trong các lỗi nhỏ nhặt, mới
xứng đang nhận của cúng
dường. Nhận sự cúng dường như vậy mới đúng chánh pháp.
Một vị tăng
chân chánh khi xứng đáng nhận đồ cúng dường là phải tu tập những pháp môn rất
nghiêm chỉnh như sau:
1/ Thứ
nhất phải sống
một đời sống phạm hạnh thì mới xứng đáng thọ nhận của
cúng dường bằng ngược lại thì mang nợ đàn na thí chủ.
2/ Thứ hai là phải sống một đời sống giới luật nghiêm
chỉnh, thấy các lỗi nhỏ nhặt sợ hãi, mới xứng đáng thọ nhận của cúng dường
bằng ngược lại thì mang nợ đàn na thí chủ.
3/ Thứ
ba là phải
nhập cho được
Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định tương đương với Sơ Thiền. Người nhập
được Bất Động Tâm là người
ly dục ly ác pháp,
người ấy mới xứng đáng nhận của cúng dường, nếu tâm
chưa ly dục ly ác pháp thì chưa xứng đáng nhận của cúng dường.
4/ Thứ
tư là phải
siêng năng chuyên cần tu tập Tứ
Chánh Cần tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, nếu một
vị tăng mà không tu pháp môn này thì không xứng đáng nhận của cúng dường.
5/ Thứ năm là phải siêng năng tu tập Tứ Niệm Xứ
để đẩy lui các chướng ngại pháp tức là khắc phục tâm tham ưu của mình thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.
6/ Thứ
sáu là phải
siêng năng tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng và niệm Giới thì mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường.
7/ Thứ bảy là phải siêng
năng phòng hộ giữ
gìn các căn
không cho dính mắc
các trần tức là
tu tập ngũ
căn thì mới xứng
đáng thọ nhận sự cúng dường.
NỖI ĐAU VỀ
THỂ XÁC
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Con có bà ngoại
năm nay ngoài 70 tuổi
đang bị bệnh
ung thư, sự sống không còn bao
lâu nữa, tuy ở xa nhưng con có cảm tưởng hiện giờ ngoại đang chịu nỗi đau về thể xác (sự hoành
hành của bệnh)
và nỗi đau về
tinh thần (lo sợ cái chết). Con là trong
những đứa cháu
được ngoại yêu
quí. Trong tình cảm này con rất
muốn làm một việc gì đó thiết thực giúp cho ngoại. Thầy có thể chỉ dạy cho con
được không?
Đáp: Trước
tiên con nên về gặp bà ngoại
con và an ủi người, để cho người đừng dao động tâm khi cơn bệnh hoành hành và
khuyên ngoại con: “Đây là nhân
quả của bà ngoại do tiền
kiếp ngoại có biết không?”.
“Nhân là hạt,
quả là trái. Khi vô tình hay hữu ý
mình đã gieo hạt
giống xấu (hành động ác) thì
ngay trong hiện tại mình
phải gặt lấy tai
họa hay bệnh tật khổ đau. Ngoại
bệnh đau cũng vậy, đời
trước hay trong
kiếp này vì thương chồng, thương con vô tình ngoại đã gieo
một hạt giống
xấu bây giờ ngoại phải chịu bệnh một mình
như vậy. Ngoại đừng buồn khổ nghe
ngoại? Ngoại không buồn khổ là ngoại sẽ hết bệnh mau”.
Ví dụ
1: Ngay trong
đời sống hiện tại
mình lái
xe không cẩn thận, lạng
lách, vượt qua mặt, chạy ẩu sang lề
khác, phạm vào luật
lệ giao thông, đó là nhân. Nên tai nạn xảy ra làm cụt
tay gãy chân,
có khi mất mạng,
đó là
quả.
Ví dụ
2: Ngay trong
đời sống hiện tại
mình không giữ vệ sinh chung, quăng rác bẩn thừa thải
khắp nơi; hoặc
ăn uống không
vệ sinh, đụng đâu ăn đó, không biết dơ sạch, đó là nhân. Khi bị bệnh đau phải
tốn tiền đi bác sĩ, đến bệnh viện
có khi bị chết, đó là quả.
Ví dụ 3:
Ăn thịt
chúng sanh, đụng con gì ăn
con vật nấy, không
biết trong thịt
chúng sanh có nhiều chất độc tố, đó là nhân. Đến khi bị bệnh
đau, gặp những bệnh
nan y khó trị,
phải chịu khổ sở đau nhức, lăn lộn trên giường bệnh, đó là quả.
Ví dụ 4: Ỷ
quyền thế, la lối chửi mắng người, xem mọi người dưới quyền như tôi tớ người
làm công không ra gì, đó là nhân. Khi bị
bệnh đau hoặc
tai nạn xảy ra
cho mình hay những người thân trong gia
đình, đó là quả.
Cho nên,
nhân quả thường
đi song song với nhau, hễ có
nhân là có quả. Vừa mở miệng nói xấu
người khác, đó là
nhân, thì ngay đó bị người khác
xem thường mình,
cho mình là người xấu ác, đó là quả.
Nhưng muốn chuyển nhân quả ấy thì phải làm sao?
Nhân quả muốn chuyển
được thì phải vui vẻ chấp nhận để trả nợ nhân quả. Khi đứng
trước hoàn cảnh
tai nạn bệnh tật thì không nên
buồn rầu, lo sợ, không
nên than thân, trách
phận, không nên đổ thừa
cho ai cả mà hãy
vui vẻ nhận
chịu một cách tự nhiên
đầy can đảm và dũng cảm.
Khi nhân quả
đến muốn chuyển hóa nhân quả thì phải sống
đúng tám giới
luật của Phật tức là Thọ Bát
Quan Trai. Tám giới luật của
Phật là
chín đức hạnh
làm người. Chín đức
hạnh làm người là chín pháp thiện. Nhờ sống đúng chánh pháp thiện mà chuyển tất
cả quả khổ. Vậy, con hãy lắng nghe Đức Phật
dạy mà hướng dẫn cho
ngoại con: “Này
các tỳ kheo muốn
ước nguyện một điều gì, điều đó được
viên mãn thì giới luật phải nghiêm chỉnh”.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Tám giới luật
Phật tức là chín đức hạnh. Chín đức hạnh gồm có:
1/ Đức
hiếu sinh (Lòng
thương yêu sự sống của muôn loài).
2/ Đức buông xả (Không gian tham trộm cắp cướp
giựt, móc túi, lấy của không cho).
3/ Đức
chung thủy (Không tà dâm lấy
vợ người, chồng người khác).
4/ Đức thành thật (Không nói dối).
5/ Đức sáng suốt (Không uống rượu).
6/ Đức tự nhiên (Không trang điểm, đeo vòng vàng
chuỗi ngọc và thoa dầu thơm).
7/ Đức trầm lặng độc cư (Không ca hát, không
nghe ca hát, không gõ mõ tụng kinh, niệm Phật, niệm chú).
8/ Đức thanh bần (Không nằm giường cao rộng lớn).
9/ Đức ly dục (Không ăn uống phi thời, không ăn
uống lặt vặt, chỉ ăn ngày một bữa).
Sau khi sống
đúng 9 giới luật (Bát Quan Trai) tức là những
đức hạnh làm người
thì con hướng dẫn Ngoại con dùng hai cánh tay đưa ra, đưa vào và tác ý.
Trước khi đưa tay
ra thì bảo: “An tịnh thân
hành tôi biết
tôi đưa tay
ra”. Khi đưa tay ra xong
thì tác ý tiếp:
“An tịnh thân hành tôi biết tôi
đưa tay vô”. Khi đưa tay ra thì dùng
tưởng nghĩ như bệnh theo
tay mà đi ra. Cứ nhiếp tâm an trú vào cánh tay đẩy
lui bệnh tật như vậy thì bệnh
sẽ hết, nhưng
khi đưa tay vô thì dùng tưởng
thân không bệnh đi
vô.
Đây không phải
là phương pháp trị bệnh mà đây là phương pháp chuyển nghiệp. Do chuyển nghiệp
nên phải sống đúng giới luật.
Phương pháp
chuyển bệnh này mà trong kinh Tứ Niệm Xứ gọi là
“Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu”.
Nếu Ngoại
con tin tưởng nơi Phật pháp là pháp mầu nhiệm cứu Ngoại con thoát bệnh khổ thì
Ngoại con nên yên tâm ôm pháp chuyển bệnh thì không bao lâu Ngoại
con sẽ hết bệnh
khổ.
Không biết
con có nhận được một bức thư của
Thầy gởi cho ngoại
con không? Nếu được bức thư ấy mà ngoại con nương vào đó giữ tâm thanh thản,
an lạc và
vô sự cho đến
khi bỏ thân tứ đại thì chấm dứt tái sanh luân hồi.
NHÂN QUÂ
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Khuya 2 giờ
con
thức dậy ra
sau hè tu tập thì con chó (ban quản
lý nuôi
canh giữ ký
túc xá) thường
chạy theo con. Trong suốt thời
gian con tu tập nó nằm im một xó vừa bị run, vừa lạnh, vừa bị muỗi đốt trông rất
tội nghiệp. Con đuổi nó đi, nhưng nó vẫn
nằm ì, ngày thường
con đâu có cho nó
ăn gì, chẳng hiểu sao nó
lại mến con. Có
khi nào con và nó có nhân duyên
tiền kiếp với nhau? Nghe người ta nói loài chó mèo rất có linh tính. Điều đó có
đúng không thưa Thầy?
Đáp: Tất cả
những loài vật và mọi người đang sống
chung quanh ta, đều có
duyên nhân quả thuận hay nghịch với nhau.
Những loài vật
nhỏ như kiến, trùng, muỗi, mồng, rắn, rết đang sống chung quanh con đều có
duyên nhân quả với con cả, chứ không riêng con
chó này. Nếu
con giết chúng
là con tạo nhân ác. Một con muỗi đến thăm con là đòi
nợ máu của con, vô
tình con chẳng biết đập chết
nó là con đã
không trả nợ máu cho nó xong mà lại còn mang thêm nghiệp sát sanh giết muỗi.
Khi một con kiến cắn, một con muỗi, một con mồng, một con rết hoặc con
rắn cắn đều có nợ nhân quả với nhau cả.
Ta hãy vui vẻ đừng
giết chúng, vì có giết chúng thì quả đau khổ của chúng ta cũng không hết liền
được mà lại tạo thêm nhân ác
là giết chúng.
Vì thế, khi bị chúng cắn đau đớn thì con nên nghĩ
ngay rằng con đang trả nợ nhân
quả. Do hiểu biết
đang trả nợ nhân
quả thì con liền dừng
tay không làm thêm một tội ác (giết
chúng sanh).
Bố thí một
ít máu cho con muỗi, con có chết gì đâu mà lại giết chúng để mãi mãi nợ
nhân quả
ác từ kiếp
này đến kiếp
khác không bao giờ dứt.
Một con chó
theo quấn quít bên con đều có nhân quả. Đời trước nó là một người thân của con,
hiện giờ
ở lớp nghiệp
chó, con không biết nó
là ai, nhưng
khi con có đôi mắt
Tam Minh vượt qua nghiệp thì con biết
nó là ai ở kiếp trước
của con. Nó có thể là
cha, là mẹ, là anh
chị em,
là cô bác,
là những người
thân chứ không có ai xa lạ đâu
con ạ!
Vì hiểu biết
nhân quả cho nên mọi người, mọi
vật chung quanh
ta đều là những người
thân của
chúng ta, do đó ta đừng đánh đập chúng mà hãy thương yêu và tha thứ khi chúng
đã lỡ lầm xúc phạm đến ta hoặc làm cho ta khổ đau hoặc chúng đói khát ăn lén thực
phẩm của ta thì ta nên tha thứ đừng giết hại chúng, đừng làm chúng
đau khổ mà hãy
thương xót chúng như thương thân ta vậy con ạ!
Vì nghiệp
nhân quả mà con muỗi đốt ta để hút máu nuôi sống thân, chúng có biết gì đâu, chỉ theo
qui luật nhân
quả đói là phải ăn, mà
ăn thì phải làm
ác cũng giống
như chúng ta vậy. Phải không con?
Ở đời mọi người
sống cũng vậy,
vì không rõ nhân
quả nên mọi
người vì cuộc sống của mình
mà chà đạp lên sự sống của loài vật khác, người khác.
Vì cuộc sống của
ta nên ta trở thành
kẻ ác, gian tham, giết hại lẫn nhau.
Vì cuộc sống
mà con người mất bản tính thiện chỉ còn
tính ác hay hung dữ của
loài ác
thú.
Vì cuộc sống của mỗi dân tộc, của mỗi
nước mà
thế giới chẳng
hòa bình, nước
lớn mạnh ăn hiếp nước nhỏ yếu.
Vì cuộc sống của ta mà ta hãy thương yêu mọi cuộc sống
của người khác và loài vật khác. Có như vậy mới chính vì cuộc sống của ta.
Con chó vì
nhân quả ái kiết sử đời trước chưa tan, nên nó vẫn theo sát và nằm gần
bên con, dù cho trời lạnh,
muỗi đốt mà
không hề rời con. Lòng yêu thương
nó, con đuổi nó vào nhưng nó vẫn không nỡ rời lìa bỏ con vào nhà. Xem thế đủ biết
luật nhân quả ái kiết sử quả là ghê gớm thật. Có đúng như vậy không con?
Thương thì
ai cũng thương,
nhưng bản chất hung dữ và giận hờn,
oán ghét thì ai cũng còn, chứ không
bao giờ bỏ được,
phải không
con?
Chúng ta được sanh
làm người đều
do nhân quả nên lúc nào cũng bị chi phối bởi luật nhân quả. Buồn rầu,
đau khổ, bệnh tật tai nạn, thương yêu, giận hờn, v.v.. đều do nhân quả cả.
Chúng ta sống trong
vòng tay nhân
quả mà không biết chuyển đổi
nhân quả thì không thể nào thoát
khỏi vòng tay nhân quả.
Không gian
và thời gian là những mảnh lưới
thiên la, địa
võng của nhân
quả, nên không có một vật nào
thoát ra khỏi sự chi phối của nó.
Muốn thoát
ra khỏi qui luật của nhân quả thì chỉ có sống thiện. Sống thiện có 10 điều,
chúng ta cần phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày.
1- Không giết hại và ăn thịt chúng sanh.
2- Không
gian tham trộm cắp, lấy của không cho.
3- Không nên tà dâm với người khác làm hại gia
đình người, gia đình mình.
Chưa lập gia
đình phải giữ gìn cho trong sạch đừng nên trao thân gởi phận cho người khác,
khi chưa thành hôn. Chúng ta là con người,
chứ không phải
là con thú vật. Hành dâm dục là phải có đạo lý, chứ đâu phải
đụng đâu hành dâm đó. Nếu không lấy đạo lý mà giữ gìn đức hạnh thì khổ đau và hối
hận không thể tránh khỏi trong cuộc đời đầy dẫy những ác pháp.
4- Không
nên nói lời
hung dữ, nạt nộ,
chửi mắng người.
5- Không nên nói xấu người.
6- Không nên nói vu khống người.
7- Không nên nói dối, nói không đúng sự
thật.
8- Không tham lam, ham muốn.
9- Không sân giận.
10- Không si
mê.
Trên đây là
10 điều thiện để chuyển hóa nhân quả, khiến cho nhân quả xấu trở thành nhân quả
tốt. Con hãy đọc sách Hành Thập Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm mà Thầy đã cho ấn tống
thì rõ.
PHÓNG SANH
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Ở
Châu Đốc người ta thường
lợi dụng dịp vía bà
Chúa Xứ, vía Quán Âm rằm lớn bắt chim
nhốt vào lồng bán cho khách hành hương phóng sanh đó
có ý nghĩa gì không? Thế nào là phóng sanh đúng chánh pháp?
Đáp: Phóng
sanh đúng chánh pháp là phóng sanh theo luật
nhân quả, là phóng sanh đúng thời, đúng đối tượng. Đúng thời, đúng đối
tượng như thế nào?
Đúng thời
và đúng đối tượng là thời gian vô
tình chúng ta gặp một con vật
đang bị lưới, bị câu thì ngay đó chúng ta xin mua con vật đó để
phóng sanh. Đó
là đúng giờ giấc và đối
tượng nhân quả
ta và con vật.
Nếu xem xét trong
nhân quả thì
ta và con vật có
nhân duyên với nhau
đã khéo gieo
nhân quả trong tiền
kiếp, nên kiếp này gặp nhau
trong hoạn
nạn.
Ta phóng
sanh như vậy
là phóng sanh đúng thời, đúng đối tượng, còn ra chợ
mua chim cá phóng sanh là
khiến cho người bắt
chim cá giam nhốt lại trong chậu
trong lồng để chờ chúng ta đến
mua phóng sanh
cho có giá. Phóng sanh như vậy là chúng ta mang tội
đồng lõa với kẻ bắt chim
cá. Có nghĩa
chúng ta phóng sanh là trở lại
thành tội sát sanh. (Vì đi bắt chim cá nhốt là đã vô tình giẫm đạp một số con vật chết;
và khi nhốt thì có
thể chúng bị thương,
bị đói, bị
xa đàn, lẻ bầy…, lòng dạ
chúng cũng thương
nhớ, âu sầu,
sợ hãi… và chết; hoặc có khi người khác thích ăn loại
chim cá ấy đến mua thì chúng bị giết hết).
Kinh sách
phát triển dạy
phóng sanh nhưng không giải
thích rõ ràng, vì thế người phóng
sanh không được
phước báo, ngược
lại
trong nhà có
nhiều tai nạn, bệnh tật cho người này hoặc người
khác. Làm phước
mà không thấy phước, mà chỉ thấy
tai họa, thật là tội nghiệp.
Nếu từ đây
có ai phóng
sanh thì con khuyên
họ phóng sanh
cho đúng chánh pháp, cho đúng luật nhân quả, chứ không khéo
phóng sanh mà cuối cùng lại mang họa vào thân.
Loài chim cá
bị lưới rập chài câu đều là do nhân quả
đời trước, mà đời
nay phải làm thân chim cá để bị
người đời chài câu lưới rập lại.
Cho nên, người
làm nghề chài lưới cá tôm sau này thành thân cá tôm cho người khác chài lưới lại,
đó là nhân quả.
Người săn bắn lưới
rập chim thú, sau này trở thành chim thú cho người
khác săn bắn và lưới rập trở lại.
Qui luật
nhân quả xoay vần
không ai có thể thoát lưới rập của nó được.
Loài người
và loài vật được sanh ra đều do qui luật của
nó. Cho nên, không
ai trốn khỏi luật
nhân quả. Nhân
nào thì quả nấy,
có vay thì phải
có trả. Đối với luật
nhân quả mà không đủ trí tuệ thì làm một điều thiện
nhưng trở lại là
làm một điều
ác như đi ra
chợ mua
chim cá
phóng sanh. Mới nghe thì rất thiện, nhưng
lại là ác pháp
vì không trí tuệ, thiếu sự hiểu biết vô tình khiến người làm ác lại làm
thêm, nên làm
thiện mà lại
làm tội ác đồng
lõa.
Cũng như bố
thí cho người ăn mày nghèo, không ngờ chúng ta lại bị người không nghèo lừa đảo. Họ không
nghèo giả vờ
nghèo, họ không tàn tật giả vờ
tàn tật ngửa tay xin tiền. Ta vô tình bị lừa đảo tiền mất mà không phước lại
còn bị kẻ lừa đảo cười chê cho mình là
ngu. Cho nên, có một hôm Vua Ba Tư Nặc hỏi Đức Phật:
- Chúng con
là người cư sĩ bố thí, cúng dường, phóng sanh đúng chánh pháp như thế nào xin
Thế Tôn chỉ dạy.
Đức Phật bảo:
- Này Đại Vương
muốn cúng dường,
bố thí, phóng sanh
cho đúng chánh
pháp. Khi cúng dường
phải chọn những
người tu sĩ giới
luật nghiêm chỉnh mà cúng dường thì mới được phước báo. Còn cúng dường cho những
tu sĩ phạm giới, phá giới thì không được phước mà còn thêm tội nối
giáo cho các tu
sĩ phạm giới diệt Phật giáo.
Tội ấy muôn
đời sẽ không còn gặp chánh pháp của Đức Phật và đời sau sanh làm người,
làm vật đều gặp
nhiều tai nạn, bệnh tật nan y khổ đau vô cùng, vô tận.
- Này Đại Vương
muốn bố thí
thì phải chọn một người nghèo mà ăn ở hiền lành, hiếu hạnh đối với cha mẹ,
không tham lam, trộm cướp, không giựt
của người, không
lấy của không cho. Bố thí cho những người ấy thì được phước báo vô lượng,
bản thân ít bệnh tật, ít tai nạn,
gia đình luôn
luôn mọi người
đều được bình an, yên vui và hạnh
phúc tràn trề. Còn bố thí cho những
người ác tham
lam, lấy của không
cho, trộm cắp, cướp
giựt thì không được phước báo mà
còn tai họa sẽ đến, hay gặp bệnh tật khó trị.
Sư cô
Trí Hải chuyển dịch Anh ngữ sang Việt ngữ
những kinh sách có giá trị được mọi người biết đến, nhưng khi đi làm từ thiện,
đem tài vật đi bố thí cho những người nghèo, bất hạnh, nhưng bị tai nạn giao
thông làm Sư cô chết một cách đột ngột thê thảm và đau xót. Bố thí mà không
được phước mà
mang họa vào thân.
Nhân quả do
những người tham lam giết người, cướp của, hại mạng
chúng sanh hay ăn
thịt chúng
sanh hoặc bắt
chim cá bán
cho người phóng sanh.
Vì thế mới
lâm vào cảnh màn trời chiếu đất nghèo khổ, bất hạnh.
Họ là những người không
thiện, thế mà mình không trí tuệ
mang của cải
tài sản đến
cho họ, nên mình phải
lãnh nhân quả của họ.
Vì thế, tai nạn mới về mình.
Cho
nên, đức
Phật dạy bố thí
phải chọn lấy những
người hiền lành
mà bố thí thì mới được phước báo.
Muốn phóng
sanh thì phải
chọn đúng nhân quả
mà phóng sanh,
chứ không phải
đi tìm nhân quả của loài chúng sanh đang trả vay nợ nhân
quả mà phóng
sanh thì sai, không đúng chánh pháp. Phóng sanh như vậy là
lãnh nhân quả của
chúng. Cho nên,
người phóng sanh không được phước
mà lại gặp
tai nạn, đó là lãnh nhân quả của
chúng.
Kinh sách
phát triển dạy phóng sanh hay bố thí thì
người phóng sanh, bố thí không biết
mình phóng sanh, bố thí và
người nhận bố thí và
vật được phóng sanh cũng không biết. Theo kinh sách
phát triển phóng sanh và bố thí như vậy mới là bố thí và phóng sanh đúng chánh
pháp. Lời dạy này là lời dạy phóng sanh bố thí không trí tuệ, dạy như vậy đi
phóng sanh và bố
thí để trở
thành cây đá. Bố thí mà không biết mình bố
thí, phóng sanh mà không
biết mình phóng sanh thật là vô
lý, người được bố thí mà không biết mình
được bố thí. Thật
là ngu ngơ. Bố thí, phóng
sanh như vậy,
là kẻ ngu dại
si
mê.
Đối với Đạo
Phật phóng sanh hay bố thí đều bằng trí tuệ nhân quả. Soi sáng tận gốc của
nhân quả
mới bố thí, cúng
dường và phóng sanh.
NHÂN QUÂ
PHÂI TRÂ
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Ở kế
nhà con có bà lão tuổi cao, sức
yếu thế mà
ngày nào cũng phải đi bán vé số
lo cho hai cháu đi học. Thằng con trai cầu tự của bà
cũng chính là cha
của hai đứa bé, suốt ngày ăn chơi, rượu chè, cờ bạc về nhà kiếm chuyện
đập phá đồ đạc. Đòi tiền
bà như
là món nợ tiền kiếp.
Lúc ở nhà
con thường qua lại nói chuyện với bà. Bà mến con lắm. Nhìn tình cảnh
của bà mà con động
lòng
thương. Con
muốn nói lời nào đó an ủi bà, giúp bà vui vẻ trả nghiệp, vượt qua đau khổ mà
suy nghĩ mãi không
ra. Thầy có
thể giúp con không?
Đáp: Bà
lão này nợ đứa con trai
và hai đứa cháu trong đời trước,
đời này chúng sinh ra để đòi nợ,
cho nên bà không
bỏ được mà phải
vất vả bán vé số nuôi hai cháu, nhưng còn phải đưa tiền cho cậu con trai đi nhậu,
nếu không có tiền đưa nó thì đập nhà phá cửa. Thật là tội nghiệp cho bà, nhưng
luật nhân quả ai gieo thì phải gánh chịu,
dù chúng ta có thương giúp
đỡ nhưng nghiệp nhân quả bà đâu trốn khỏi.
Con thương
bà nên khuyên bà đừng buồn rầu, đừng than
thân trách phận
mà hãy vui lòng trả món nợ tiền kiếp.
Vui vẻ chấp
nhận khi con trai về xin tiền bà
hãy vui lòng
mà vét sạch
tiền cho nó với tâm không buồn rầu, không trách mắng.
Đối với luật nhân
quả muốn chuyển
hóa thì phải vui vẻ
và giữ gìn
tâm bất động,
xem như không có việc gì xảy ra. Khi nhân quả đến, đến với sự khắc nghiệt
cay đắng đến mức độ nào, dù cho có
chết ta cũng
giữ gìn tâm bất
động, chẳng sợ hãi, chẳng khiếp đảm
thì ngay lúc ấy ta
đã chuyển hóa
nhân quả. Nếu chỉ có
một chút xíu
sự buồn phiền, than trách trong lòng, là ta bị nhân quả chuyển hóa tức khắc; là
ta đang tạo thêm nhân quả.
Con muốn giúp
bà thì nên khuyên
bà vui vẻ sẵn
sàng tha thứ cậu con
trai, thì mới chuyển đổi cậu con trai sẽ trở
thành người tốt, lo làm ăn nuôi
dưỡng hai cháu và phụng dưỡng
bà.
Nhân quả chỉ
có sống thiện, làm thiện thì mới chuyển đổi được, còn sống ác làm ác thì
không bao giờ chuyển
đổi được nhân
quả mà còn gia tăng thêm.
CẦU CƠ
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Hằng năm sắp
đến kỳ thi
thì có
những học sinh,
sinh viên không lo học
bài mà chỉ rủ nhau
đi cầu cơ để hỏi vong hồn
xem đề ra câu gì rồi
học tủ câu đó.
Chẳng may, ma, quỷ, Thần,
Thánh yếu năng lực chỉ sai câu,
làm hại nhiều HS, SV thi
rớt chán nản, có người còn
rơi vào tình
trạng tuyệt vọng đến bất cần sống.
Thưa Thầy,
cầu cơ là như thế nào?
Có thực vong hồn về không?
Tại sao nó nói nhiều chuyện đúng thực tế làm
cho nhiều người phải khâm phục mà
tin theo?
Đáp:
Trong thân con người gồm có 5 uẩn:
sắc, thọ, tưởng,
hành, thức.
Sắc uẩn là
phần hữu hình của bốn uẩn kia thường hoạt
động trên thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Trong thân tứ đại gồm có sáu căn,
sáu thức và thường tiếp xúc với sáu trần bên ngoài.
- Sáu căn gồm
có:
1- Nhãn căn
2- Nhĩ căn
3- Tỷ căn
4- Thiệt căn
5- Thân căn
6- Ý căn
- Sáu thức gồm
có:
1- Nhãn thức
2- Nhĩ thức
3- Tỷ thức
4- Thiệt thức
5- Thân thức
6- Ý Thức
- Sáu trần gồm
có:
1- Sắc trần
2- Thinh trần
3- Hương trần
4- Vị trần
5- Xúc trần
6- Pháp trần
Sáu căn tiếp
xúc sáu trần sinh ra sáu thức, tạo thành một sự sống của muôn loài muôn vật; một
thế giới
quan của Phật giáo hiện bày; một
thế giới
khổ đau đến với cuộc sống của
con người và cả loài vật; một thế giới duyên hợp tưởng tri khiến
cho con người sống điên đảo
lầm chấp
là có thật, nên tạo
ra biết bao nhiêu điều ác làm khổ
mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sanh. Thế mà, còn chưa đủ lại tưởng
tri thế giới siêu
hình có linh hồn
người chết, ma, quỉ,
Thần, Thánh, v.v.. chính
những hình ảnh ấy mà tưởng uẩn mới dựa vào đó mà hoạt động
thành ra mới có người lên đồng, kẻ nhập cốt;
mới có kẻ cầu
cơ; mới có người
cúng bái cầu siêu, cầu an, coi sao, bói quẻ, v.v..
Tưởng uẩn là
phần vô hình của thân ngũ uẩn, nhưng nó hoạt động theo sự tiếp nhận của
các từ
trường sắc uẩn
còn lưu lại
trong không
gian.
Tưởng uẩn
cũng có những
năng lực như sắc
uẩn và còn
hơn nữa. Cho
nên, có những điều sắc uẩn không làm được mà tưởng uẩn
làm được. Vì những
năng lực hoạt động kỳ lạ phi thời gian và không gian ngắn hạn của tưởng
uẩn, nên tri kiến,
kiến thức của
con người không thể nào hiểu được. Do đó,
họ cho những năng lực ấy là thế giới siêu hình, là có sự sống sau khi con người chết. Do
không hiểu nên người ta mới tin tưởng cầu siêu, cầu an, cầu cơ, v.v.. Do cầu
siêu, cầu an, cầu
cơ, v.v.. mà gần đây
người ta thành
lập ra một tôn
giáo siêu hình tưởng.
Nói chung tất cả các
tôn giáo không chứng minh giáo
lý được như
khoa học là tôn giáo tưởng, tôn
giáo mê tín.
Cầu cơ
là một hình
thức cầu linh hồn
người chết giáng
cơ bút cho biết những
điều mình ước muốn trong tương
lai.
Cầu cơ là
một loại mê tín
tri thức, chứ không phải loại mê tín
bình dân. Cầu cơ là một
phương pháp
tập hợp tín lực vào một đối tượng ảo tưởng để nội lực
tín lực của những
người có mặt trong lễ cầu cơ thực
hiện những ước muốn. Nhất là những người trực tiếp cầu nguyện. Nếu những người
đặt trọn lòng tin vào cơ bút thì tưởng uẩn
sẽ hoạt
động mạnh và rõ
ràng. Còn không đủ tín
lực thì tưởng uẩn
không hoạt động, cơ bút không về
hay nói cách khác là cầu cơ không được.
Cầu cơ chẳng
qua là một việc làm đánh thức năng lực của tưởng
uẩn hoạt động.
Năng lực tưởng uẩn hoạt động đúng
thì người cầu cơ phải thân tâm thanh tịnh, nếu thân tâm
không thanh tịnh thì cầu
cơ không linh tức là
không đúng, vì thế những học
sinh cầu cơ thi rớt
là vậy. Cho nên, trước
khi cầu cơ thì thân phải tắm
rửa sạch sẽ,
còn tâm thì phải
giữ gìn trai giới nghiêm
chỉnh, nhờ có sự thanh
tịnh như vậy nên tưởng uẩn giao cảm
nhận ra từ trường đúng như thật. Còn thân tâm không thanh tịnh thì tưởng uẩn
không nhận ra đúng, nên tín lực tạo
thành ảo tưởng, vì thế mọi việc
cơ báo đều
sai.
Cầu cơ cũng
giống như lên đồng, nhập cốt qua một hình
thức khác nhưng cũng chỉ có một tưởng uẩn hoạt động mường tưởng như linh
hồn
người chết về
nhập vào, thay vì nhập vào người thì gọi là lên đồng, lên cốt, nhập vào cơ thì
gọi là cơ bút.
Cho
nên, cơ bút chỉ
là tưởng uẩn của con người
hoạt động, chứ
không có linh hồn
người chết hay Tiên,
Phật, Thần Thánh,
quỉ, ma nhập vào.
Những điều kỳ
lạ xảy ra chung quanh thế giới của con
người cũng chỉ nơi thân tâm con người lưu xuất, ngoài thế giới con người đang sống
thì không bao giờ có thế giới vô hình
nào khác.
Bởi mỗi
con người đều
có năm uẩn mà
phần sắc uẩn chỉ có một, còn phần không hình sắc tới bốn uẩn như:
1- Tưởng uẩn (vô hình)
2- Thức uẩn (vô hình)
3- Thọ uẩn (vô hình)
4- Hành uẩn (vô hình)
Cho
nên, kẻ
nào tin có Thiên
Đàng, Cực Lạc, có
linh hồn người chết,
có Phật tánh,
có thần thức, có
ma, quỷ là
mê tín, là thiếu
óc khoa học, là thiếu đạo đức nhân bản - nhân
quả, là những người còn lạc hậu.
Cầu cơ là
một loại mê tín
tri thức như trên đã
nói, do những
nhà tri thức mê
tín, trong đó có học sinh, sinh viên và một số người có trình độ
học thức cao, nhưng
vẫn không thoát ra khỏi
sự mê tín này,
ngay cả những nhà
khoa học vẫn sống trong mê tín,
vì những trạng thái mê tín
khoa học
chưa giải thích được. Gần đây, có một số nhà khoa học dựa
vào đạo học Đông phương giải thích theo
khoa học vật lý.
Cuốn
sách “Đạo Của
Khoa Học” được dịch
từ sách “The Tao of Physies” của tác giả Frityof Capra do nhà khoa học, giáo sư Nguyễn Tường Bách biên dịch. Tập
sách dựa trên
ngôn ngữ khoa Đạo Học Đông
Phương, nhất là tư tưởng của Lão, Trang
và Thiền Tông
Trung Hoa để minh chứng một số vật lý siêu hình.
Dù cho các
nhà khoa học có cố gắng làm sáng tỏ mọi vấn đề trừu tượng, nhưng vì vấn đề tri
kiến của
các nhà khoa học
vẫn còn bị hạn
cuộc trong không gian và thời gian. Vì thế, không thể vượt qua hàng
rào không gian
và thời gian mà minh chứng được rõ ràng.
Cầu cơ là
một sự đánh
thức tưởng uẩn hoạt
động để nó giao cảm với những
từ trường
mọi sự việc đã, sẽ xảy ra
bằng tín lực của
con người.
Còn đúng sai
là do thân tâm của những người cầu cơ có
thanh tịnh hay
không thanh tịnh như trên đã nói.
Linh hồn con
người không bao giờ có. Người chết chỉ còn lưu lại những âm thinh, sắc tướng
khi còn sống trong không gian bằng những từ trường.
MA ĐÈ
Câu hỏi của
Thiện Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Cách đây khá lâu
con bị
tình trạng ma đè hay bóng đè (theo cách
gọi dân gian). Toàn thân con bị tê cứng, con không điều phục được gì, ngoại trừ
hơi thở, lúc đó vô tình
con nhớ đến pháp
môn Định Niệm Hơi Thở của Thầy
bèn tác ý
“hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”.
Chỉ trong
hai hơi thở
con đã phục hồi trạng thái thân thể bình thường không cần xoa
bóp chỗ
tê như những
người khác đã từng bị ma đè.
Điều này được lý giải như thế nào?
Xin
Thầy chỉ dạy.
Đáp: Ma đè
là một trạng thái tưởng, khi ngủ nửa tỉnh nửa mê, tình trạng này sắc uẩn chưa
ngưng nghĩ thần kinh trọn vẹn, còn tưởng uẩn mới bắt đầu hoạt động nên cũng
chưa hoạt động trọn vẹn, khiến thân con bị cứng không động đậy được, miệng chỉ
úù ớ, chứ không kêu la được như người
ngủ mớ. Người
bị ma đè cố
gắng vùng vẫy
cho đến khi tỉnh hẳn
thì trạng thái ma đè biến mất.
Một người
ngủ say thì không
bị ma đè; một
người ngủ trong
chiêm bao cũng không
bị ma đè, chỉ có người ngủ nửa tỉnh nửa mê, trạng thái ấy trong thiền định
của Phật Giáo gọi là hôn tịch. Nhóm
hôn tịch gồm
có: hôn trầm, thùy
miên, vô ký,
hôn tịch, ngoan
không, chiêm bao, v.v.. đó là một nhóm trạng thái si mê, do tưởng uẩn hoạt
động. Tưởng uẩn hoạt động điều khiển thần
kinh chưa trọn vẹn, nên lúc bấy giờ có một số thần kinh không hoạt
động. Một số thần kinh không
hoạt động, nên người
ngủ nửa tỉnh nửa mê mới có cảm giác thân bị đè nặng và không động đậy được.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!