Lâm chung cứu
độ‛
(trang 9)
Đúng là một loại
kinh tà giáo,
chỉ cần cuốn kinh, chứ không phải
cần tấm lòng giải thoát. Trong khi ấy đức Phật dạy:
“phải ly dục ly
ác pháp thì tâm
thanh tịnh, tâm thanh tịnh,
tức là Tịnh
Độ hay là Cực
Lạc‛.
‚Chư ác mạc
tác
Chúng thiện
phụng hành
Tự tịnh kỳ ý‛
(Kinh Pháp
Cú)
Tự tịnh kỳ
ý, tức là tâm ly dục ly ác pháp, tức là Tịnh Độ, hay Cực Lạc hiện tiền. Làm ác
thì phải chịu tội, thọ khổ, thọ tai ương chứù không có
ai cứu mình
được. Phải dứt trừ làm các
điều ác, thường
làm các điều
thiện thì vạn tội tiêu
trừ, chứ đâu phải tụng
kinh mà được vạn tội tiêu trừ.
Kinh này còn nói láo:
‚Tụng kinh Kỳ
Cầu
Vạn tội tiêu
trừ‛ø
(trang 4)
Kinh
này còn
dạy: “Cần mang theo trong
người đi đường
đều có thần
nhân ủng hộ,
lúc
sống cũng
như khi chết
(bỏ kinh vào ngực áo
người chết)”.
‚Kinh bỏ túi
áo Để mà hộ thân Đi xa về gần
Tiên thần ủng
hộ‛
(trang 15)
‚Đến ngày
lâm chung
Con cháu có
lòng Bỏ vào trong ngực Thiên trừ tống thực Phật độ về Tây‛
(trang 15)
Đấy là những lời
nói lừa đảo,
dối gạt người, khiến
cho những người không
hiểu mới tin tưởng.
Tóm lại, từ
điệp phái biến thành bùa hộ mạng trị bệnh trẻ con, đến kinh Kỳ Cầu thành “giấy
thông hành” đi đường, là một sự lừa đảo của giáo pháp phát triển, mà các chùa
đang hướng dẫn Phật tử đi vào con đường mê tín lạc hậu. Đây là đường lối giáo dục
tín đồ mê tín lạc hậu, để dễ bề móc tiền một cách công khai, mà
pháp luật
nhà nước không bắt tội cướp
giựt tài sản công dân.
Làm điều ác,
tâm còn đầy đủ
tham, sân, si nếu được về Tây
Phương thì Tây Phương không còn là Cực lạc mà là địa ngục, vì những người
này sẽ về đó trộm cắp lung tung.
Kinh này viết
ra chỉ gạt người vô minh, người còn lạc hậu mê
tín chứ làm
sao gạt những người tu sĩ chân
chánh đệ tử của Phật được. Tại sao vậy?
Vì toàn bộ đệ
tử của Phật được dạy về đạo đức nhân quả, nên không có một giáo pháp mê tín
nào lường gạt được. Chỉ
có những người chưa học đạo đức nhân
quả thì dễ bị kẻ khác lừa đảo. Là một tín đồ Phật giáo, chúng
tôi rất đau lòng khi gặp những
cuốn kinh này, mạo danh
Phật giáo dạy dân
gian làm những
điều dối trá phi đạo đức.
Cuối cùng,
các con hãy cảnh giác, tờ điệp phái
là một giấy
chứng thật các
con đã quy y theo Phật, chứ không
phải là bùa hộ mệnh và cũng không phải
là giấy thông
hành. Đó là cách thức lừa đảo của kinh sách phát triển.
Các con nên
nhớ, tự quy y Phật,
tự quy y Pháp, tự
quy y Tăng,
tức là không
cần phải giấy tờ chứng điệp gì hết.
Nếu lòng của các con hướng về Phật, Pháp, Tăng để tìm đường thoát
khổ cho
cuộc đời
của mình, thì khi thực
hành, với tất cả tâm thành, các con sẽ thấy sự giải thoát thật sự. Đó
là các con đã
quy y Phật, Pháp,
Tăng rồi. Đời
sau, người ta muốn
kiểm tra xem số tín đồ Phật
giáo đã quy y được
bao nhiêu người nên mới bày ra
điệp phái để biết
số lượng tín đồ.
TUẦN THẤT
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong nhà có người chết,
trong chùa quý Thầy dạy
làm tuần thất, cho đến 7 thất, tức
là 49 ngày,
thường tụng kinh Địa Tạng Vương.
Vậy thưa
Thầy, có lợi ích gì cho người chết và những người còn sống trong gia
đình không thưa Thầy?
Đáp: Xưa, đức
Phật đã không chấp nhận thế giới siêu hình
thì làm gì có linh hồn người chết mà cầu siêu, làm tuần thất, tụng kinh
Địa Tạng.
Kinh Địa Tạng
Vương là một loại kinh mê tín của
giáo pháp Bà
La Môn, do các
Tổ biên
soạn
ra, dựa theo sự
mê tín của những
người dân còn lạc hậu, tin rằng
người chết có
linh hồn, nên kinh này đặt ra Bồ Tát Địa Tạng xuống địa ngục giải cứu những
linh hồn tội lỗi.
Họ bảo rằng, nếu
ai tụng kinh
này và cúng bái, tế lễ, sẽ được
ngài Bồ Tát Địa Tạng cứu khổ, thoát khỏi vòng lao lý ở địa ngục. Khi người mới
chết, linh hồn được quỷ sứ bắt về hành tội, do lúc ông bà ở trên dương thế làm
điều ác
đức, nên chết
xuống địa ngục bị hành xử đủ mọi cực hình. Nếu khi trong nhà có người chết, phải đến nhờ
quý thầy trong các chùa đến tụng kinh cầu siêu (thường là đem kinh Địa Tạng
Vương ra tụng) để cầu ngài Địa Tạng cứu hộ thoát cảnh địa ngục. Mỗi thất, đều
có cúng dâng lên hương hoa trà quả, cùng những thực phẩm bánh
trái cơm canh, cúng
chư Phật, và cầu ngài Địa
Tạng xuống địa ngục giải cứu.
Suốt trong 49 ngày, được cúng bái như vậy thì vong linh người
chết sẽ khỏi tội, được
đi tái sanh.
Cúng bái,
tung niệm như vậy, tức là kinh sách phát
triển dạy làm một điều
phi đạo đức. Có chắc làm tuần và
tụng kinh Địa Tạng trong
49 ngày
mà tiêu tội được ư? Điều này lấy gì
làm bằng chứng?
Đây là một kiểu cách hối lộ và ăn lo. Có đúng như vậy không quý vị?
Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện dạy: ‚Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nếu có
một người vì người bệnh sắp chết
đó mà niệm lớn
tiếng danh hiệu
của một đức Phật,
thời người chết đó trừ được năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch‛
(Kinh Địa Tạng, trang 133).
Lời trong kinh này là một lời dạy phi đạo đức, lừa đảo
những người không hiểu, mê tín, lạc hậu.
Luật nhân quả
là một đạo luật công bằng và công lý, làm sao lại có Bồ Tát hoặc đức Phật
nào dám
giải cứu cho kẻ
làm ác? Kẻ
làm điều cực ác
nên mới đọa
vào địa ngục
vô gián, thế mà chỉ cần có một người niệm giúp thì
cũng thoát ra khỏi địa ngục
vô gián, thì đó
có phải là lời lừa đảo người khác
không? Thảo nào, có nhiều người đem công
đức tụng kinh này
hoặc làm đàn tràng thỉnh
mời các sư về
tụng niệm, để cầu cho người thân thương của mình thoát cảnh địa ngục và tất cả
các nghiệp báo
khác đều tiêu sạch.
Kinh sách
phát triển dối gạt người bằng nhiều
hình thức mê
tín, khiến cho con người
hao tài tốn của rất
nhiều về vấn đề cúng
bái, tụng niệm, cầu an, cầu siêu mà chẳng có ích lợi gì thiết thực cho người còn sống và người chết, (tiền mất tật
mang).
Đây là một
đoạn kinh lừa đảo dối gạt làm hao tốn tiền của con người rất nhiều:
‚Có thể
vẽ cho đến
dùng vàng bạc, đồng sắt đúc nắn hình tượng Địa Tạng Bồ
Tát đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen,
thì chỗ người đó ở có 10 điều lợi ích.
Những gì là
mười?
Một là đất
cát tốt mầu.
Hai là nhà cửa
an ổn mãi mãi.
Ba là người chết
được sanh lên
cõi
trời.
Bốn
là những người
còn sống hưởng
sự lợi ích.
Năm là cầu
chi cũng được toại ý cả. Sáu là không
có tai họa về nước và
lửa.
Bảy là trừ sạch việc hư hao. Tám là dứt hẳn
các ác mộng.
Chín là khi
ra lúc vào có thần hộ vệ.
Mười là thường gặp bậc thánh nhân‛
(Kinh Địa Tạng,
trang 155).
Trên đây là
những lời nói xảo trá, dối người. Làm gì có chuyện vẽ hình, đúc tượng Bồ Tát Địa Tạng,
thờ cúng mà đất ở
đó lại tốt mầu.
Đất xấu là đất xấu,
chỉ có bón
phân, đổ rác mục thì đất mới có mầu
mỡ trở lại. Còn đất tốt là đất tốt, đất phù sa nên mới tốt chứ đâu phải thờ
hình tượng Bồ Tát Địa Tạng mà tốt được. Thật là kinh sách gạt người, chỉ có người không hiểu mới tin
kinh Địa Tạng mà thôi.
Từ cuốn
kinh Địa Tạng, chúng
ta suy ra tất cả những cuốn
kinh khác của kinh sách phát triển,
cũng đều là loại kinh xảo trá lừa
đảo gây mê tín cho mọi người.
Đây là một
đoạn kinh nói láo nhất, chúng tôi
xin trích ra để
quý vị nghiên
cứu: ‚Chiêm lễ hình tượng của Địa
Tạng Bồ Tát và đọc tụng kinh bổn nguyện
này tự nhiên
được rốt ráo xa lìa
biển khổ, chứng
đạo Niết Bàn an vui, vì thế nên
được ủng hộ một cách lớn lao như thế‛. (trang 154, kinh Địa Tạng).
Muốn lìa biển
khổ của cuộc đời để chứng đạo Niết Bàn,
đâu phải là một việc dễ làm. Biết bao nhiêu người tu hành bỏ cả công
sức vô
cùng,
vô tận mà
chưa chắc đã đạt được. Xưa, đức Phật Thích Ca sáu năm khổ hạnh gần như muốn chết, sau đó
nhờ 49 ngày tu tập Tứ Niệm Xứ miên mật, tâm không phóng dật mới chứng được Niết
Bàn. Vậy mà
trong kinh này dạy:
‚Chỉ cần
chiêm lễ và tụng niệm
kinh bổn nguyện thì tự nhiên
giải thoát biển
khổ thế gian chứng đạo Niết
Bàn‛. Thật là kinh đại vọng ngữ.
Nếu được như trong kinh này dạy thì Bồ Tát Địa Tạng Vương là hiện thân cho sự
phi công bằng và công lý, là hiện thân của
Ma vương, ác quỷ, của ác pháp.
Tóm lại,
Phật giáo chủ
trương không có linh hồn,
nên làm tuần
thất là mê
tín. Kinh Địa Tạng là kinh
Bà La Môn,
ngoại đạo dạy những
điều phi đạo đức và lừa đảo.
Nhìn vào cuốn kinh có hình Địa Tạng Vương cưỡi con sư tử lông
xanh, hình ảnh một vị Phật mà cưỡi
một con thú, hình ảnh ấy phản lại đạo đức từ
bi, bình đẳng của đạo Phật. Một vị tu sĩ mà bắt con vật chở mình đi thì còn nghĩa lý gì là tu sĩ đạo Phật.
Hình ảnh đó
là bắt loài
thú làm nô lệ, đó là hình ảnh giai cấp vua chúa.
Không có
linh hồn thì cầu siêu cho ai, cầu như vậy có ích lợi gì?
Xin quý Phật
tử cứ đọc kinh sách của Phật giáo Nguyên Thủy rồi suy ngẫm, đừng để mắc lừa kinh
sách phát triển, những tà sư ngoại đạo hiện giờ nhiều lắm.
XÓC THẺ
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa Thầy! Đầu năm, nhất là
trong những
ngày Tết Nguyên Đán, chùa nào cũng
có làm một
bàn thờ phục vụ
cho những người đến xóc thẻ. Trong một mâm đầy những
tờ giấy
đã được in
và giải thích
trong thẻ quẻ đó sẵn,
theo số thứ tự
ai xóc được
thẻ số mấy thì đến nhận tờ giải số đó.
Ai xóc được thẻ nói tốt thì vui mừng phấn khởi, còn ai được thẻ nói xấu
thì buồn phiền lo âu. Kính thưa Thầy, như vậy trong tờ xem số mệnh có lợi
ích gì mà đầu năm người nào cũng xóc thẻ nhất là
phụ nữ chúng con. Mong Thầy vì lợi
ích giải thích cho chúng con được hiểu.
Đáp: Thường
thường theo các chùa cổ ở miền Nam thì
có hai
nơi xóc thẻ. Một
bên xóc
thẻ gọi là
xóc thẻ xăm
Ông và một
bên khác gọi là xóc thẻ xăm Bà.
Ông ở đây
thường chỉ cho một danh tướng người
Trung Hoa, đó là
Quan Thánh Đế Quân tức
Quan Công hay
còn gọi là
Quan Vân Trường, (một
danh tướng thời
Tam quốc bên Trung
Quốc), người Việt
Nam như Lê
Văn Duyệt, Thủ Khoa Huân, Trần Hưng Đạo v.v.. (những danh tướng Việt
Nam).
Các Bà thường
là những người Việt, Hoa, Chiêm Thành
như: Bà Đen (Việt Nam)
hay Lê Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì
Kim Mẫu, Quan Âm (Trung Hoa),
Bà Chúa Xứ,
Chúa Tiên, Chúa Ngọc, (Chiêm Thành), Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ,
Bà Chúa Kho (Việt Nam) v.v..
Thường những
nơi bàn thờ của các vị đó đều có ống xóc thẻ. Hằng năm đồng bào mê tín đến cúng
bái nhang đèn, hoa quả, gà, vịt, heo quay, v.v.. với một số tiền rất lớn.
Chùa Phật
Quang ở Bến Tre
thu lợi rất lớn là nhờ thờ Quan Thánh Đế Quân. Chúng
Tăng ở
đó không có
lo gì cả, ăn ở không
chỉ cần giữ mấy ống xóc thẻ là dư sống.
Xóc thẻ là một
hình thức bói toán qua tư tưởng mê
tín, lạc hậu. Người
ta cho rằng con
người
có số mệnh.
Ai có số
giàu là giàu,
số nghèo là nghèo;
số nghèo thì không
làm sao làm giàu nổi. Do tin tưởng
vào số mệnh nên có một số người tiêu cực, sanh ra lười biếng bê tha rượu chè
bài bạc, cho số mình là vậy.
Cũng từ thuyết
định mệnh, đã khiến cho một số người tiêu cực không làm việc, mà đã không làm việc thì nghèo
lại càng nghèo
hơn. Vì không làm việc nên
thì giờ rảnh rỗi
nhiều sanh ra bài bạc, đĩ thõa, điếm đàng, trộm cướp khiến cho gia
đình tan nát, xã hội rối ren, mất trật tự an
ninh. Bởi thuyết
định mệnh ra đời, cũng là một tai
hại rất lớn cho loài người.
Từ thuyết
định mệnh mới
sanh ra bói toán,
chiêm tinh dịch số
âm dương, xin xăm, xóc thẻ, xem ngày tốt xấu, v.v.. tạo biết
bao nhiêu sự mê
tín, dị đoan khiến cho mọi
người tốn hao tiền bạc rất nhiều.
Nếu xóc thẻ tốt,
chúng ta đi
ăn trộm ăn cắp
của người khác
thì thử hỏi
có bị ở tù
không? Một việc
làm ác là tự mình
làm khổ cho mình, chứ thẻ nào nói là tốt?
Luật nhân
quả vốn công bằng và
công lý, ai làm ác
thì phải
thọ khổ, ai
làm thiện thì được hưởng phước, không thể ở chỗ tốt xấu
của thẻ mà được.
Nếu thẻ bảo xấu mà
chúng ta
sống
không làm khổ
mình, khổ người
thì làm sao có xấu được.
Người ta chửi
mình mà mình không giận hờn, không chửi mắng lại họ
thì có xấu đâu.
Trong các
chùa quý thầy đều biết
xóc thẻ đó là mê tín, nhưng quý
Thầy cứ duy trì, vì duy trì có lợi rất lớn. Nếu một ngôi chùa, duy trì sự
xóc thẻ
xin xăm thì hằng năm kiếm cũng được
5,10 triệu đồng
dễ dàng, nhất là những ngôi chùa ở nơi thắng
cảnh hằng năm Phật tử trẩy
hội 3
tháng mùa Xuân,
nhà chùa kiếm hằng
bao nhiêu tỷ bạc như Chùa Hương, Yên Tử.
Sự mê tín rất
tai hại cho đồng bào và làm hao tốn tiền bạc của dân, của nước rất nhiều mà không có ích lợi gì.
TƯỢNG PHẬT
QUÁ NHIỀU
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Chùa nào cũng có rất nhiều tượng
Phật, phía trước
là thờ Tam Thế
chư Phật, Di
Đà, Quan Âm, Thế Chí, kế
Ngọc Hoàng, Nam
Tào, Bắc Đẩu,
cho đến đức
Phật Thích
Ca đản sanh, hai bên là ông
thiện và ông ác.
Đối diện trước
chánh điện là tượng hộ pháp, phía trước chánh điện là bàn thờ Tiêu Diện Đại Sĩ,
cô hồn, các đảng và bộ xương đầu ông cọp.
Bên tả chùa
thờ Quan Thánh Đế Quân, năm vị vua Diêm Vương, Quan Âm Thị Kính, bên hữu thờ Bà
Lê Sơn Thánh Mẫu, hay Bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, kế
đó là năm vị Vua Diêm Vương, tức là Thập Điện Diêm Vương,
Phật Mẫu Chuẩn Đề 18 tay.
Thường bàn
thờ Quan Thánh Đế Quân nhân dân thường mang gà luộc, hoặc thịt heo quay vào
cúng.
Thờ cúng
như vậy có
đúng không thưa
Thầy?
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Một
ngôi chùa đúng đắn của Phật giáo thì chỉ có thờ một đức Phật
duy nhất. Đó là đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni,
vì Ngài là người đứng đầu tôn giáo Phật giáo, còn tất
cả những vị Phật khác đang được thờ cúng trong chùa là do các Tổ tưởng tượng ra
truyền bá đạo Phật. Nói cho đúng
hơn Trên đường truyền
bá các Tổ đã bị ảnh hưởng của
ngoại đạo và đã
lượm những đức Phật, thần thánh này của dân
gian, lôi lên bàn thờ để làm vui lòng những người dân địa phương, nhờ thế mà họ
mới cúng dường.
Các Tổ
truyền đạo vì danh, vì lợi nên
các Ngài tiếp nhận tất cả mọi sự
mê tín dân gian và các tôn giáo
khác. Thế là Phật giáo chân chánh trở thành Phật giáo hỗn tạp đa thần, đa pháp
môn, bỏ mất nguồn gốc Phật giáo chân chánh.
Còn Phật giáo
chân chánh thì xả
bỏ danh và lợi và bỏ tất cả, chỉ còn ba y một bát, đời sống xin ăn, bữa
đói bữa no thật là vất vả. Các Tổ theo Phật giáo chân chánh không chịu nổi, cho
nên các Ngài bẻ vụn
giới để
mà sống, phạm giới để hòa hợp với dân gian, với mọi sự mê tín, cúng
bái, tế lễ, cầu siêu,
cầu an v.v.. (giết chúng sanh tế lễ) và các tôn giáo
khác để dễ bề lừa đảo mọi người và lường gạt tín đồ.
Cho nên, sau
khi đức Phật tịch, những người đệ tử
tu chứng thì vào núi rừng
ẩn bóng rồi tịch mất, còn lại những đệ tử tu hành chưa chứng thì tâm
danh lợi tham đắm còn
nhiều, nên phân làm
nhiều bộ phái
như chúng tôi đã nói ở trên. Chiếm lãnh một giáo đoàn rồi tự
do phát triển mọi thủ thuật điêu ngoa, xảo trá, lừa đảo bằng lối lý luận theo
kiểu 62 luận chấp của
ngoại đạo để
tạo danh, tạo lợi. Từ đó, kinh sách phát triển viết ra rất nhiều cuốn sách, cuốn
sách nào
cũng lý luận
trên mây xanh
mà tu hành chẳng ra gì; chỉ có
xây dựng chùa to Phật lớn, những ngôi tháp vĩ đại. Tu sĩ ăn uống, ngủ nghỉ, sống
như một ông
quan to, đi ra thì có tiền hô, hậu ủng xe cộ rầm rộ.
Tu sĩ hiện giờ
thì giàu có hàng tỷ bạc, trong lúc dân chúng tín đồ quá nghèo,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; dành dụm đồng nào thì đem cúng
chùa để được
phước, để được siêu
thoát, chỉ nuôi hy vọng
như vậy mà bị kẻ
khác lừa đảo một cách rất đáng thương.
‚Cúng dường
xây chùa, đúc
chuông, tạc tượng Phật,
xây tháp và
cúng dường chư Tăng
sẽ được phước
báo vô lượng‛. Nhờ lời phỉnh gạt này mà chùa nào
chùa nấy đều xây dựng hàng tỷ bạc, biến cảnh tu hành thành nơi thắng cảnh du
ngoạn của mọi người.
Trong chùa
thờ Phật càng
nhiều thì thu lợi càng to, mỗi
tượng Phật cúng một đồng, 10 tượng cúng 10 đồng, 100 tượng cúng 100 đồng. Vì tư lợi như vậy, nên chùa nào cũng thờ Phật rất nhiều, đó là hình thức làm tiền. Người dân mê tín cứ
nghĩ rằng, mình
cúng và lạy
nhiều tượng Phật là nhờ nhiều
ông Phật phò hộ thì
tai qua nạn
khỏi dễ dàng hơn, cho nên thấy tượng nào cũng thắp hương, lễ bái. Còn cúng và lạy
có một
ông thì được sự phù hộ ít
và có
thể tai nạn đến. Lợi dụng sự mê tín mà các chùa để thật nhiều hình tượng, nhất là chùa có ống thẻ xin xăm xóc quẻ,
cúng sao, giải hạn thì Phật tử lại cúng càng nhiều.
Nói một cách
khác, chùa thờ nhiều tượng Phật là có mục đích tạo
sự mê tín để
lừa đảo, lường gạt
tín đồ cúng bái
nhiều. Nhưng chính sự thờ phượng này, quý Thầy trong các
chùa cũng không hiểu đó là sự mê tín, sự lừa đảo mà chỉ biết xưa thầy Tổ bày,
nay quý thầy chỉ biết làm theo ‚Tổ Tổ tương truyền‛, chứ quý Thầy không ý thức
rằng việc làm của mình là mê tín,
là lừa đảo tín đồ. Các
Thầy cũng tin tưởng mê tín như các Phật tử khác; tin rằng có chư Phật, Bồ Tát
gia hộ; tin rằng
có linh hồn, có Phật
tánh, có thế giới siêu hình, có thần
Thánh Tiên Phật, chư Bồ Tát,
ma, quỷ; tin rằng có
cõi địa ngục, Thiên đàng, Cực lạc,
Niết Bàn và các cõi Phật, có 10 phương chư Phật, có chư Bồ Tát vô lượng vô
biên, v.v.. Tất cả mọi
người không riêng gì tín đồ Phật
giáo đang sống trong tưởng thức,
còn quý Thầy
là những người
tu sĩ phải giữ
gìn giới luật,
nhưng lại không
giữ gìn giới
luật,
vì thế nên sống trong
tưởng thức như những người khác. Cho nên, hiện giờ họ chẳng
biết giới luật là gì. Cứ dựa theo lời dạy của các Tổ rồi
quý thầy truyền
dạy lại sự
mê tín cho nhau, cho tín đồ. Vì
thế, quý Thầy không bị tội lừa đảo, lường
gạt người khác,
vì thầy Tổ dạy
sao, thì cứ dạy lại
cho người khác
như vậy không dám thêm bớt một lời
nào.
Thật đáng
thương một người mù, dẫn đám người mù cùng đi, rồi mỗi người mù, trong đám người mù
đó, lại dẫn
đám người mù
khác cùng đi, cứ
như thế mà
nhân lên mãi từ đời
này sang đời khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác đều đi sai đường lạc nẻo.
Cuối cùng, không có một người nào sáng mắt, toàn là mù, vì mù nên phải xóc thẻ
làm thầy mù.
NẾU CON NGƯỜI KHÔNG ĂN
THỊT CHÚNG
SANH THÌ CHÚNG SANH SẼ TRÀN NGẬP TRÁI ĐẤT
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy, nếu con người không ăn thịt chúng sanh thì trên trái đất này gà, vịt, bò,
chó, ngựa, cá
tôm, và tất cả loài động
vật khác, sẽ
sinh sôi nẩy nở chật đất,
nhất là
gà, vịt, heo, dê, bò, ngựa thì
nhà cửa đất đai ở đâu chứa cho hết?
Đáp: Theo định
luật nhân quả, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không.
Khi người ta
càng ăn thịt
chúng sanh, thì chúng
sanh lại càng
sanh ra nhiều hơn nữa.
Nếu người ta không ăn thịt chúng sanh thì chúng sanh lại không sanh ra. Tại sao
vậy?
Vì chúng
sanh có sanh
ra tức là có diệt
mất. Cho
nên, có sự
tàn nhẫn sát hại và ăn
thịt chúng sanh thì chúng sanh phải
chịu mọi sự khổ đau sinh ra. Đó
là nhân ác, là những hành động ác của
mọi
người. Chính những hành
động ác đó tạo ra nghiệp
quả khổ, và
nghiệp quả khổ này chiêu cảm, tương ưng liền
sanh ra tất cả loài
chúng sanh để trả quả giết hại
do mọi nguời
tạo tác bằng
cách để cho chúng sanh khác giết chúng ta ăn thịt trở
lại.
Nếu chúng ta
không giết hại và không ăn thịt chúng
sanh, thì chúng sanh
không sanh ra, đó là
nhân quả thiện.
Do nhân quả thiện nên
không có chúng
sanh sinh ra để
ăn thịt lẫn nhau trở
lại. Nếu con người
không ăn thịt chúng sanh thì trên quả đất sẽ không có
chúng sanh hung dữ, độc hại, chỉ có
chúng sanh hiền lành và số lượng sanh ra rất ít. Tại sao vậy?
Khi con người không
giết hại và
ăn thịt chúng thì tâm
của họ ít dục
hơn; tâm dục ít
hơn thì sự sanh sản ít hơn.
Do đó, nếu
con người không ăn thịt chúng
sanh thì trái đất này, không bao giờ có tràn ngập chúng
sanh. Bằng chứng, con
người hiện giờ
vì ăn thịt chúng
sanh nên tâm
ác nhiều và
tâm dục thì dẫy đầy, nên con người cũng sanh nhiều để
thọ lấy quả khổ cùng nhau.
Con người ít dục
thì sự sanh sản cũng
ít, sanh sản ít thì việc
làm ác cũng
ít, và chúng sanh sinh
ra cũng ít. Với đôi mắt phàm
phu của con người, chúng
ta không nhìn thấu hết qua lốt nghiệp của mỗi chúng sanh. Ví dụ,
một
người đang cắt cổ một con gà, tiếng con gà kêu
là do người ấy nhẫn tâm vặn tréo hai cánh con gà, đạp dưới chân rồi tiếp tục cắt cổ, con gà giãy giụa với toàn sức lực của nó,
nhưng không làm sao thoát khỏi bàn tay hung ác của con người.
Người giết
con gà ấy đâu
có biết rằng,
có thể mình đang cắt
cổ mẹ mình.
Khi còn sống bà thường giết gà
cách này để làm thực phẩm ngon cho các con ăn, bây giờ trả quả
thì chính các con của bà đã cắt
cổ bà
để làm thịt bà cho con chúng nó ăn, tức là cháu bà.
Luật nhân quả
vay một mạng con gà chết, phải trả 10 mạng con gà ở kiếp hiện tại và còn tiếp tục
mang kiếp con gà
ở kiếp sau nữa
và còn nhiều kiếp
sau hơn nữa, tức
là phải chịu cắt cổ nhổ lông và nhúng nước sôi 10 lần,
100 lần, 1000 lần. Ở trên
đời này, chúng
ta làm một điều
ác thì phải trả quả 10 lần,
100 lần,
1000 lần,
cho nên chúng sanh càng ăn thịt thì
loài vật
cũng sanh ra nhiều để trả quả. Phần nhiều
những người ăn thịt chúng
sanh là họ đang ăn thịt ông bà, cha mẹ, những người
thân quyến thuộc của họ đang tái sanh làm kiếp súc sanh trả quả ăn thịt chúng
sanh ngày xưa.
Đức Phật dạy: “được làm thân người là đã vay một
món nợ rất nặng. Một món nợ phải trả mười,
trả trăm‛. Ví dụ, ta
ăn một con cá mà phải tái
sanh làm một trăm con cá, một trăm lần chết trên chảo dầu
sôi nước bỏng, và bị cắt cổ nhổ lông vô số vô lượng lần, chừng nào trả hết quả của kiếp
làm người đã giết và ăn
thịt chúng sanh
thì mới được
sinh làm người. Như vậy, thử hỏi
trong một đời người, chúng ta đã giết và
ăn thịt bao nhiêu
chúng sanh? Số lượng
cũng khó mà lường được,
phải nói là quá
nhiều, nhiều không
thể đếm được. Như
vậy, muốn làm
người rất là
khó, phải trả hết nợ máu xương này, rồi mới được đi tái
sanh làm người trở lại.
SÁT NHÂN
THÌ NHÂN ỐN, SÁT VẬT THÌ HĨA KIẾP LÀM CHÚNG SANH CÛA CHÚNG
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Người ta bảo, sát nhân
thì nhân oán, sát vật thì hóa kiếp nó làm
chúng sanh. Vậy có
đúng không, xin Thầy dạy cho chúng con biết.
Đáp:
Sát nhân thì nhân oán, câu này chỉ đúng có một phần ba.
Giết người
có 3 quả:
1- Thân nhân
của người chết sẽ thù oán.
2- Giết người
bị tù tội có khi bị tử hình.
3- Đời sau sẽ
bị người khác
giết hại, hoặc ngay trong kiếp này cũng phải bị trả quả
bị người khác giết.
‚Sát vật
là để hóa kiếp loài vật‛. Câu nói
này không đúng,
đó chỉ là
cách lý luận để
che đậy tội ác của mình.
Là con người
cũng như các loài động vật khác, khi sanh ra đều do nghiệp lực nhân quả, đều
có một sự sống
như nhau, đều có cảm giác đau khổ, vui sướng như nhau, và không có
loài vật nào mà không sợ chết. Thế sao lại bảo giết chúng chết để hóa kiếp cho chúng?
Chúng hóa kiếp làm loài vật gì?
Theo như sự
tưởng hiểu của quý vị, giết chúng sanh chết
để chúng được hóa kiếp đi tái sanh
luân hồi, để được sanh
ra làm người, có phải vậy không? Vậy có người giết chúng
ta, để chúng ta được
hóa kiếp đi
tái sanh làm
chư
Thiên, có
phải sung sướng hơn không? Vậy tại sao ‚giết nhân lại nhân
oán‛ như vậy
câu này có đúng không?
Khi chết
chúng ta cũng mong hóa kiếp để được làm
chư Thiên. Muốn hóa kiếp sanh
vào cõi thiện thì phải làm điều lành, cớ sao lại giết hại sanh mạng
chúng sinh? Sát sanh hại mạng là kết thêm thù oán mà thôi.
Trên đây là
những lý luận giết hại chúng sanh để ăn thịt, bằng cách dùng những danh từ lừa
đảo chính họ và người khác, để thấy mình không có làm ác giết hại chúng sanh.
Tại sao cướp
mạng sống của
chúng sanh gọi là hóa
kiếp, mà cướp mạng sống con người thì thành thù
oán? Đó là sự vô
minh của loài người có
trí khôn biện luận làm những điều ác đức.
Con người sanh ra hơn
các loài cầm
thú khác là nhờ ở trí tuệ.
Trí tuệ đó nếu sử dụng
trong ác pháp, thì nó trở thành một vũ khí
giết tất cả chúng sanh và có thể hủy diệt cả loài người. Trí tuệ
này dùng lý luận để che đậy
tội ác, nếu không
được học tập
và rèn luyện
đạo đức thì nó là một vũ khí độc
hại và quả đất này sẽ bị nó hủy diệt.
Trong thế kỷ 21 này, nếu không xây dựng cho con người một nền đạo đức nhân bản kịp
thời, để chặn đứng trí tuệ
hung ác của
loài người, thì hành tinh này
sẽ bị hủy diệt, như các nhà tiên tri đã báo động ‚tận thế ‛.
Những trận thủy tai, động đất,
không phải con người làm ra sao?
Tóm lại,
câu ‚sát nhân
thì nhân oán, sát vật thì để hóa
kiếp chúng sanh của nó‛ là lối lý luận để che
đậy tội
ác của con người, để tự do tàn sát chúng sanh mà chẳng
sợ tội lỗi gì cả.
LÀM KIẾP CON
MÈO
LÀ SẮP ĐẾN
KIẾP CON NGƯỜI
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Người chết đi sau khi được hành tội dưới địa ngục rồi mới đi đầu
thai, lần lượt
sanh thành 12
loài động vật: Chuột, trâu, cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa,
dê, khỉ, gà, chó, heo. Khi
sanh làm kiếp
mèo là kiếp cuối cùng của loài động vật thì mới sanh
làm người. Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Đời
người sanh ra với trí hữu
hạn, thường sống trong
tưởng thức nên
sanh ra nhiều chuyện mê tín dị
đoan:
1- Chưa bao
giờ có
ai biết địa ngục ở đâu,
thế mà mọi người vẫn cho là có địa ngục.
2- Chưa bao giờ
có ai biết
linh hồn như thế nào,
mà cho rằng chết
linh hồn đi xuống địa ngục và đi đầu thai.
3- Chưa bao
giờ có
ai biết chính
xác: Con người chết
sanh làm thú vật và
thú vật sanh làm người.
4- Có bao giờ
ai biết chính
xác: Con mèo chết sanh
làm người chưa?
Chỉ ước đoán
loài vật nào được
ăn trong chén, dĩa nên cho nó sẽ
chết làm người.
Ví dụ:
Có người nào
sanh ra mà tự ăn trong bát đĩa chưa? Hay là ăn bốc hốt bằng tay bằng chân, bằng miệng?
Muốn ăn trong bát đĩa cũng phải có sự tập
luyện từng chút rồi mới cầm đĩa, muỗng được.
Bảo rằng,
làm kiếp con mèo là kiếp cuối cùng của loài cầm
thú thì không đúng. Đây chỉ là sự tưởng tượng của những người sống trong
tưởng, dựa theo
cách thức ăn uống của
con người rồi tưởng
ra, chứ mèo rừng
có chén đĩa
đâu mà
ăn? Không phải
chúng ăn dưới đất,
dưới cát sao?
Chính con
người tự đặt ra năm, tháng, ngày, giờ rồi
dùng tên của những con thú
vật mà gọi tên
năm, tháng, ngày,
giờ như: “năm Tý, tháng Tý, giờ Tý; năm Sửu, tháng Sửu,
giờ Sửu rồi Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi”.
Ai sanh năm nào
đúng tên con vật đó liền gọi là
tuổi đó.
Ví dụ:
Năm nay là
năm Tân Tỵ,
cháu bé sanh vào năm này thì gọi
cháu bé đó có tuổi Tỵ (tuổi Tỵ có nghĩa là tuổi con rắn).
Con người
là con người, chứ
không phải con người sanh ra để
có tuổi con trâu, con chó, con ngựa,
con heo, con
mèo, con chuột
v.v.. Trâu, chó, ngựa,
heo, mèo, chuột là những loài động vật chứ đâu phải con người, thế mà
con người sanh ra lại có tuổi con thú vật như vậy.
Con người là
một loài động vật hơn muôn thú vật khác, cớ sao làm người mà còn lấy tuổi của con thú
vật? Đó là một điều
ngu si, mê muội
của những người
còn lạc hậu,
trình độ khoa học chưa có,
nên sống trong
vô minh u tối,
giàu tưởng tượng
sống thụt lùi.
Sáu mươi hai lập luận của ngoại đạo
ngày xưa đã bị đức Phật bài bác thẳng tay
khiến cho toàn bộ thế
giới rung chuyển. Những học thuyết trừu tượng,
mơ hồ,
mê tín, lạc hậu
này, đã làm
cho con người điêu đứng
khổ sở. Từ cất nhà cửa, đến cưới
hỏi, ma chay, thậm chí đào giếng, đào
ao, sửa bếp cũng xem tuổi tác, ngày giờ tốt xấu.
Ảnh hưởng
những truyền thống
mơ hồ, trừu tượng, lạc
hậu, mê tín từ
ngàn xưa truyền lại cho tới ngày nay, đã khiến cho bao nhiêu người khổ
đau và bất hạnh. Người
ta không biết rằng:
mọi tai nạn
và mọi sự khổ đau trên đời này đều do hành động nhân quả
thiện hoặc ác mà ra, chứ
đâu phải do tuổi
tác tốt xấu mà
thành tai nạn khổ ách. Cho nên, nếu một người cứ làm ác mà mỗi lần cất nhà xây
cửa, hay làm tất cả mọi thứ, rồi đi coi tuổi tác, ngày giờ tốt xấu, liệu người ấy
có qua khỏi tai nạn không?
Nếu một người
đi ăn trộm, xem năm nay hợp với tuổi,
được tuổi tốt
và ngày xuất
hành (đi ăn trộm) cũng tốt.
Nếu tuổi ngày, tháng và năm đều tốt mà
đi ăn trộm (làm
điều ác) được trót
lọt thì xã hội
loài người chịu
sao cho nổi bọn đầu trộm,
đuôi cướp này.
Phải không quý
vị?
Nếu ngày giờ
và tuổi tác, tốt xấu như kinh sách con (bói
quẻ) nói thì con người sẽ
làm ác, và thế
gian này mấy
ai sống lương
thiện? Bởi
vậy, kinh sách xem ngày giờ, tuổi tác tốt xấu
là những loại kinh sách phi đạo đức cần
phải diệt sạch đốt sạch. Chính những kinh sách phi đạo
đức này
đã đưa con người vào đường tội
ác và lạc hậu, mê tín, sống trong
ảo tưởng.
Lấy 12 con thú
vật làm 12 con
giáp rồi tính ra năm, tháng, ngày, giờ để
chia thời gian làm ra lịch. Lúc đầu lịch sách rất có ích lợi này cho loài
người. Những người
làm ra âm lịch chia
thời gian để biết mưa nắng,
gió, bão giúp cho nhà
nông biết thời vụ làm
mùa. Đó là sự
ích lợi phục vụ rất lớn cho loài người, lấy nông nghiệp làm nghề chánh cho sự sống.
Từ lịch sách
có lợi ích, những kẻ xấu bụng dựa
vào sách lịch
này triển khai
biến thành khoa bói
toán, xem ngày tốt xấu để lừa đảo
người khác, làm tiền một cách vô lương tâm, biến thành sự siêu hình vô đạo đức.
Đến giờ này,
người ta còn tưởng tượng ra kiếp con
mèo là
kiếp cuối cùng của loài động
vật, hết
kiếp con mèo sẽ
tái sanh làm
người. Đó là một
lý luận mơ hồ
trừu tượng không
có sự chứng minh cụ thể, vậy mà mọi người
vẫn tin theo và có người thì bán tin bán nghi, chưa biết chắc
đúng sai. Nếu
chúng ta muốn
trở thành những người
có đạo đức,
thì phải ăn ở
như thế nào
mà mọi người
chấp nhận là người có đạo đức. Nếu
chúng ta ăn ở đối xử với mọi người đầy tánh
hung ác, đụng cái gì
cũng chửi mắng người, rồi
say sưa, rượu
chè, đĩ thõa, điếm
đàng, trộm cướp
thì làm sao chúng ta chấp nhận là người có đạo đức?
Cũng như
chúng ta muốn làm một bậc Thánh nhân thì đâu phải chỉ có ăn hiền ở lành, mà còn
phải có những Thánh hạnh cao thượng, chứ ăn ở như thú vật thì làm sao gọi là Thánh nhân được.
Không có con
mèo nào
ăn hiền ở lành cả. Bộ dáng
thì dễ thương, nhưng
bản chất hung ác, gặp chuột thì chụp ngay xé xác liền,
gặp cá thịt thì ăn quên thôi, tâm còn hung ác thì sanh ra làm người
sao được? Thế mà người ta tưởng tượng ra kiếp làm con mèo là sắp làm
kiếp người!
Đức Phật dạy:
“được thân người khó, khó như con
rùa mù tìm bọng
cây giữa biển‛. Như vậy, được
thân người không phải dễ đâu. Thân người
chỉ sống có thời gian
quá ngắn, 100 tuổi là cùng, thế mà người ta tiêu phí thời gian một cách
vô ích. Đức Phật dạy:
‚Tấc bóng thời
gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm
được không gì khó, Tấc bóng thời gian khó hỏi han‛.
Theo luật
nhân quả, bất cứ con thú
vật
nào muốn sanh làm
người đều phải sống
trong thiện pháp, hoặc người nuôi chúng tạo môi trường cho chúng sống trong thiện
pháp thì chúng sẽ sanh làm
người sớm. Ví dụ: chúng
ta nuôi một con
mèo mà cứ
cho ăn thịt
cá thì đương nhiên
hiện tại chúng
ta được xem là
thương chúng, nhưng chúng mãi mãi trôi lăn trong kiếp làm con mèo và những loài
vật khác không bao giờ sanh
làm người được.
Đó là ta hại chúng, chứ không phải ta thương chúng.
Ta cho chúng ăn cơm, nước tương, đậu, dưa, chúng không thích ăn nhưng hết kiếp
làm con mèo, chúng sanh làm người. Đó là thương chúng, khiến cho
chúng sanh làm
người hạnh phúc hơn làm loài chúng sanh. Luật nhân quả rất
công bằng, đối xử với tất cả mọi người, mọi vật trên hành tinh này.
CHẾT GIỜ TỐT, GIỜ XẤU
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong gia đình nào có người
chết, rất quan
trọng là giờ
phút lúc tắt thở. Họ đến nhờ ông Thầy cúng xem người chết lúc đó giờ tốt
hay xấu, giờ trùng hay không trùng. Nếu ông Thầy
nói chết được
giờ tốt, không có
trùng thì gia
đình yên tâm, nếu
ông Thầy bảo giờ xấu có trùng thì ông Thầy
ấy cho bùa yểm để trong gia đình không có người chết nữa. Như vậy có đúng
không thưa Thầy?
Đáp: Không
đúng đâu con ạ! Đó là những kinh sách
mê tín, lạc hậu của người
xưa, khi đời sống con người
còn lạc hậu,
dân trí chưa cao, kiến thức khoa học
chưa có, tầm hiểu biết không
nhìn rộng, thấy xa được. Con người thời ấy bản chất còn
mang tính thú vật,
chưa biết đạo đức là
gì, chỉ còn
đi lượm trái
cây rừng hoặc đào rễ cây mà ăn.
Cho nên, những
hiện tượng thiên nhiên, thời tiết họ không thể nào hiểu được, nên đành dùng tưởng
tri để hiểu. Do tưởng tri để hiểu thì những cái không hiểu được, nên đã biến thành
một ảo tưởng,
một thế giới siêu hình. Từ tưởng tri thế giới
siêu hình, họ mới tìm cách
đo đạc thời gian phân chia ngày, tháng, năm để hoàn thành lịch và dịch số chiêm tinh. Do
chỗ không thấu rõ hiện tượng thiên nhiên vũ trụ, nên các nhà tôn
giáo và triết
gia sản xuất
ra biết bao nhiêu loại kinh sách
tưởng, để thuyết minh các hiện tượng siêu
hình bằng hình
thức thiên khải. Thiên khải tức
là hiện tượng tưởng thức họat động. Cho
nên, những hiện
tượng siêu hình ngày
nay đã biến
thành một tai họa rất lớn
cho con người trên thế giới; muốn
phá bỏ nó, thật là điều nan giải.
Nó đã in sâu vào tâm khảm và truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Những cái
không đúng sự thật chỉ là tưởng mà thôi, những cái tai hại cho con người vô
cùng to lớn từ đời
trước đến đời
sau; từ đời trước
đến đời sau, những
cái phi đạo đức đã
đưa con người đến chỗ hung ác,
gian xảo hơn loài cầm thú, dùng mọi
cách lừa đảo,
lường gạt. Báo Công
An đã tường
thuật không biết
bao nhiêu là mánh khóe, cưỡng đoạt
tài sản của kẻ khác, chỉ cần 100
ngàn hay 1 triệu đồng
là xem mạng sống con người không
ra gì.
Những kẻ đầu trộm,
đuôi cướp này chỉ
mua một cuốn sách tử vi xem ngày
tốt xấu đi
trộm cướp giết
người lấy của,
mà không bị ai
bắt được
thì cần gì phải đi
lao động khó nhọc
mà chưa chắc đã
có tiền như
đi ăn trộm,
ăn cướp. ‚Con ơi học lấy nghề cha, một đêm ăn trộm bằng ba năm làm‛, đó
là tục ngữ ca dao dân gian đã dạy như vậy.
Trên cuộc đời này,
thứ nhất là
danh; thứ hai là lợi. Các nhà triết
học đua nhau dựng lên những triết thuyết
này triết thuyết
khác đủ mọi thứ mọi loại, phần nhiều đều nằm ở trong tưởng thức mà luận ra, không thực tế,
mơ hồ, trừu tượng. Khi
áp dụng vào
đời sống con người,
vốn đã khổ
đau lại càng khổ
đau hơn. Như thuyết hiện sinh, thuyết vô ngã của kinh sách phát triển,
thuyết hữu ngã ảo tưởng của Thiền Đông Độ, thuyết hữu thần của các tôn giáo
khác, thuyết âm dương của Trung Quốc, thuyết
luân hồi tái
sanh mê tín của kinh sách phát triển
và các tôn
giáo khác, v.v..
đều đưa con người quay cuồng trong các học
thuyết đảo điên và điên đảo.
Thuyết âm
dương của Trung Quốc mới có xem
ngày giờ tốt xấu, coi
cung mạng xung khắc,
trong bát quái
có các cung
như: càn, khảm, cấn, chấn, tốn,
ly, khôn, đoài. Họ lý luận rằng con người khi chết,
cũng như lúc sanh ra
phải ở trong một
cung nhất định. Các nhà học
giả thời nay đua nhau nghiên cứu triết thuyết trừu tượng
này và đã tốn biết
bao nhiêu tâm lực và giấy mực.
Nhưng nó có đem lại lợi ích cụ thể thiết thực
cho đời sống của loài người đâu, chỉ toàn là luận thuyết để mà cầu
danh và lợi. Và chính
nó càng làm thêm rắc rối
cho tư tưởng con
người, mất hết một cuộc sống an nhiên tự nhiên.
Những loại
triết thuyết này đưa ra biến thành một cuộc nội chiến trong tâm của mọi người.
Đó là những cuộc chiến tranh tư tưởng của
con người giữa đời
và đạo; giữa
triết học này và triết học
khác. Có những
người cuồng tín tin một cách
mù quáng, biến
mình thành những công cụ cho những
tôn giáo và những
triết thuyết này, triết thuyết khác. Đó là những tín đồ hăng say, điên khùng xông vào cái chết
và giết
người như cỏ
rác mà chẳng
chút xót thương ai cả.
Năm tháng,
ngày giờ tốt xấu đó
là một triết thuyết
về luật âm
dương, đưa con người đến chỗ mê tín
nhảm nhí
tận cùng, mỗi
khi làm việc gì cũng
xem ngày giờ tốt xấu và tuổi
tác có
hợp hay không
hợp. Hiện giờ,
ai cũng biết đó là việc mê tín, lạc
hậu, phi đạo đức, vậy
mà người ta
không thể bỏ được tập quán, thói quen này,
ngay cả những người có học thức, có kiến
thức về khoa học mà vẫn còn bỏ không được.
Đạo đức nhân
bản - nhân quả đã xác định: kẻ làm ác dù có xem ngày giờ tuổi tác, tốt xấu, cất nhà, dựng vợ gả, chồng
cho con cái: hoặc xem giờ an táng
hoặc xem tuổi tác người chết tránh
cung trùng tang,
liên táng; bằng mọi
cách như
mua bùa về yếm, cho
tai qua nạn khỏi,
bệnh tật được
tiêu trừ và hưởng được phước báo đầy nhà, thì chẳng bao giờ được.
Nếu được thì đó là một điều vô đạo đức không công bằng và công lý.
Người ta
sanh ra ở đời,
phải chấp nhận luật
nhân quả. Nếu ta làm
điều thiện thì ngay đó tâm ta được
an vui thanh thản. Đó là phước báo của mình
làm ra, còn nếu mình làm ác mà cầu
phước báo thì chẳng bao giờ có được, dù cho những bậc
xem ngày giờ
tốt xấu giỏi
như Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng
Minh, Quỷ Cốc, cũng không tránh khỏi luật nhân quả. Cho nên, Trương Lương phải ẩn
bóng, Tiêu Hà bị chết, Khổng Minh thất bại trong việc chấn hưng nhà Hán.
Xét cho
cùng, từ
xưa cho đến nay có mấy ai xem ngày giờ tốt xấu mà làm nên sự
nghiệp đâu. Làm nên sự nghiệp đều do nhân quả thiện của mình. Người
xưa nói: ‚Tích ác phùng
ác, tích thiện phùng thiện‛, làm ác gặp khổ, làm lành gặp phước an vui
thanh thản.
GIỜ HÄ HUYỆT
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa
Thầy, khi linh cửu
đưa ra khỏi nhà, vào
lúc hạ huyệt có
phải xem giờ không thưa
Thầy? Người mới chết có cần
phải cúng cơm 49 ngày mới thôi không thưa Thầy?
Đáp: Theo sự
mê tín lạc hậu của những người xưa thường sống trong tưởng thức, nên dễ bị ảnh hưởng của
sách vở mê tín
phi đạo
đức của nền văn minh Trung Quốc. Cho nên, xem ngày giờ tốt xấu rồi mới được chôn cất để không ảnh hưởng xấu đến con cháu sau này.
Phật giáo
truyền sang qua
Trung Quốc, thấy dân
chúng ở xứ
này đang tin tưởng
vào ngày giờ, năm,
tháng, tuổi tác
tốt xấu của
những người giàu tưởng tượng, nên cũng chế ra
những loại sách vở mê tín
để bói
toán xem số mạng, vận nước tốt xấu.
Những nhà thiên văn, địa lý dựa vào luật âm dương, tạo ra sách vở chiêm tinh bói
toán dịch số
như Châu Văn Vương
sống trong tù bảy năm ở Vạn
Lý Gia, soạn bộ dịch số, Quỷ Cốc
Tử, Tôn Tử, Trương Lương, Khổng Minh, đều là những tay bói toán thần tình, biết
trước những sự việc xảy ra. Thế mà
Châu Văn Vương không
tránh khỏi 7 năm tù mà còn ăn thịt con, Trương Lương vào núi ở ẩn, Khổng Minh tan mộng phục
hưng nhà Hán.
Tất cả những
sự thành bại trong đời người đều do nhân quả. Không có nhà chiêm tinh bói toán
nào giải quyết được luật nhân quả. Không thể
nào xem giờ tốt xấu, cất nhà, hạ huyệt, an táng mà tránh khỏi luật nhân quả.
Nếu là
chiêm tinh gia, tiên
tri mọi việc, sao quý vị không
xem giờ tốt xấu để cải lại luật nhân quả số phận của mình, để mình
giàu sang và quyền cao quan
tước trọng. Cớ sao
lại đi ngồi ngoài hè đường phố hoặc mở
phòng xem bói, chiêm tinh, tử vi. Hoặc ẩn náu trong chùa, mang hình thức tu sĩ
Phật giáo làm những chuyện phi Phật,
phi pháp, phi đạo đức, lừa
đảo tín đồ Phật
giáo bằng cách
xem ngày giờ
tốt xấu như
các nhà Nho lỗi thời.
Đúng là không biết nghề nào làm
ăn, mượn ba thứ sách mê tín, dị đoan để lừa gạt người nhẹ dạ.
Phần nhiều,
những hạng người có học Nho như các thầy đồ nho, học hành, thi cử thất bại,
và các
ông thầy chùa,
tu chẳng ra tu,
mượn chiếc áo tỳ kheo làm những điều mê tín, lường gạt người
bằng những trò bịp bợm
xem ngày giờ tốt xấu, cung mạng, sao hạn để khiến người khác sợ hãi, bỏ
tiền ra cúng bái tế lễ và còn nhận tiền tổ, tiền sư, đủ mọi thứ, để rồi những
người mê tín ‚tiền mất tật mang‛. Luật nhân quả rất
công bằng và rất cụ thể. Nếu
ai làm điều ác, dù xem ngày giờ tốt
xấu cũng không tránh khỏi tai họa; nếu
ai làm một việc lành, dù chẳng xem ngày giờ tốt xấu, chẳng
cúng sao hạn mà phước báo vẫn cứ đến.
Xưa, đức Phật dạy: ‚Nếu một
người làm ác, như cục đá ném xuống hồ, dù cho tụng kinh niệm chú, cầu khẩn
cho cục đá nổi
lên thì
nó chẳng bao giờ nổi. Nếu một người
làm thiện, giống
như những giọt dầu nổi trên mặt nước, dù không cần tụng
kinh, niệm chú và cầu khẩn,
giọt dầu vẫn nổi, không ai làm nó
chìm được‛.
Theo đạo Phật,
chết là nên đem xác thiêu đốt, và chôn cất không
cần phải xem ngày
giờ tốt xấu, vì
thây người chết bất tịnh,
uế trược, hôi thối để lâu sình
ra, truyền nhiễm những bệnh tật khổ đau cho người còn sống.
Không có giờ
ngày nào là tốt hay xấu. Tốt xấu là do hành động thiện ác của con người tạo ra
để rồi
thọ lấy tai nạn, bệnh tật, khổ
đau, chứ không phải người chết nhằm giờ ngày xấu, hoặc hạ huyệt vào giờ
ngày xấu mà con cháu những người thân trong gia đình xảy ra tai nạn bệnh tật. Đạo
Phật không hề chủ trương sự mê tín như vậy. Đạo Phật xây dựng tôn giáo mình
trên một nền đạo đức nhân bản – nhân quả rất khoa học và
bình đẳng, phá vỡ những
điều mê tín, mù mờ, dị đoan, tưởng tượng
của những loại kinh sách phi khoa
học, phi đạo đức v.v..
Đạo Phật
chủ trương, ai
làm ác thì phải gặt
lấy quả khổ,
chịu quả đau đớn,
chứ không có kẻ này làm mà người
khác chịu. Đạo Phật không có dạy rằng: cha giết người mà con bị tù tội, cha ăn trộm
mà con bị chặt
tay. Quý phật tử
hãy tin nhân quả,
và sống cho đúng
nhân quả, đừng làm khổ mình,
khổ người, thì cuộc đời sẽ được an vui và hạnh phúc,
không bao giờ có tai nạn, bệnh tật nan y xảy đến. Chết muốn
chôn giờ
nào, ngày nào
cũng đều tốt,
vì ngày giờ là thời gian tự nhiên
của vũ trụ, không bao giờ có tốt,
có xấu. Nếu
lúc nào chúng
ta cũng làm điều
thiện, làm điều
lành, thì hà tất phải
sợ những
tai nạn bệnh tật khổ
đau. Bệnh tật khổ đau là hành động
thân, miệng, ý làm ác.
Xem ngày
giờ tốt xấu
để chôn cất
là những người lạc hậu, mê tín bị kẻ khác lừa đảo, tiền mất chẳng ích lợi
gì. Hãy mạnh dạn, đừng sợ hãi, bất chấp mọi thử thách,
mọi dư luận, lúc nào
cũng làm lành,
không làm khổ
mình, khổ người, rồi mọi sự tốt đẹp sẽ đến với mình.
KHƠNG THẮP
HƯƠNG KHI CÚNG GIỖ
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Khi nhà
có đám giỗ kỵ, hoặc ngày tư, ngày
Tết, cúng bái không thắp hương có được không thưa Thầy?
Đáp: Được,
xưa đức Phật dạy nên thắp
năm thứ tâm hương cúng Phật, năm thứ hương đó là:
1- Giới
hương tức là đức hạnh làm
người, không làm khổ mình, khổ
người.
2- Định
hương tức là đức hạnh làm Thánh nhân.
3- Tuệ hương tức
là sự hiểu
biết siêu việt phi thường của Tam Minh, khiến cho
nguyên nhân tái sanh của con người không còn.
4- Giải
thoát hương là về trí tuệ đức hạnh làm người, làm Thánh.
5- Giải
thoát tri kiến hương là trí tuệ giải thoát mọi kiến chấp, mọi tà pháp, mọi ác
pháp.
Người tu
theo đạo Phật, không nên thắp những thứ
hương vỏ cây. Trong ngày giỗ, ngày Tết nên thắp năm loại hương
này cúng dâng lên chư Phật, ông bà, cha mẹ nhiều đời.
Không những người thắp lên nén tâm hương này được nhiều phước báo, mà những người
quá cố như ông bà, tổ
tiên, cha mẹ đều được
phước báo vô lượng ở kiếp sau.
Bởi thắp
hương vỏ cây,
chỉ tượng trưng lòng
thành kính, có
tánh cách mê tín
lạc hậu. Ngầm trong hành động thắp hương
này đã bị người khác lừa đảo, tiền mất mà
ô nhiễm khói hương khó thở,
chẳng đem lại sự ích
lợi thiết thực cho mình,
cho người khác mà
còn dại dột
đem tiền cho
kẻ kinh doanh hương vỏ cây làm
giàu.
Càng suy ngẫm,
chúng ta càng thấy con người dễ bị kẻ khác lừa đảo bằng mọi
hình thức mê tín. Họ kinh doanh, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ
khác, như nhóm xe ôm, xe lôi, xe buýt
đô thị, đồn đại
Đức Mẹ hiện hình trên
đỉnh núi xã
Phú Lâm, huyện
Tân Phú, tỉnh Đồng Nai là hàng
ngàn người đổ về xem Đức Mẹ hiện hình. Rồi
Phật sống ở An Giang, Thầy nước lạnh, uống
vào bệnh gì cũng hết. Thấy rờ lá cây trị bệnh như thần, người không thấy đường
năm mười năm, uống vào mắt sáng liền, v.v.. Biết bao nhiêu điều lừa đảo như vậy, để lường gạt
hàng trăm, hàng vạn người bỏ công,
bỏ của để
làm giàu cho bọn xe thồ, xe ôm, xe lôi v.v..
Tại núi tỉnh Tây
Ninh, có Bà Đen được
vua Gia Long sắc phong
là Linh Sơn Thánh Mẫu. Hằng năm người ta trẩy hội Bà Đen
rất đông, số tiền cúng nơi đây có thể hằng tỷ bạc. Trong chiến
tranh người ta bảo rằng Bà Đen
nay bà
về chỗ này,
mai bà về chỗ kia, để
lôi cuốn những người mê tín về cúng bái. Đó cũng là hình thức kinh doanh thần thánh.
Ngày xưa, người ta không biết thắp hương,
nhưng những người trong các tôn giáo có sáng kiến mới,
chế ra cây hương làm
bằng vỏ cây, dạy
cho mọi người thắp
hương cúng bái. Mỗi
lần có thắp hương là linh hồn ông bà, thánh thần nghe
mùi hương mà trở về chứng giám lòng
thành của con cháu.
Đó là cách
thức dạy mê tín của
các nhà tưởng
tri, của các
nhà sư kinh phát triển.
Sau này, các
nhà kinh doanh lợi dụng lòng mê tín
này biến
thành một nghề
nghiệp sống. Do đó, hàng
năm người ta phải bỏ ra
một số tiền hằng tỷ tỷ bạc, tiêu phí mua
hương vỏ cây trong việc cúng bái tế lễ. Họ bảo,
nếu chúng ta cúng bái mà không thắp hương, thì sự cúng bái lạnh lẽo
không trang nghiêm bằng thắp những cây
hương, khói hương quyện
vào nhau, trông rất ấm cúng và đẹp đẽ, tưởng chừng như
những linh hồn người chết nương theo khói hương, mà trở về vui vầy sum họp với
con cháu.
Đó là sự tưởng
của người giàu tưởng tượng. Ngày nay, cây hương bằng vỏ cây đã trở thành một truyền thống, một thói quen rất
khó bỏ. Nếu ngày giỗ,
ngày Tết mà
không thắp hương thì phải thật
là người có
óc khoa học,
có trí hiểu biết thấu suốt thế giới
siêu hình không có,
thì mới có can
đảm vượt
qua sự mê tín cố
hữu ấy.
Đức Phật dạy: ‚Đứng
lại thì chìm xuống‛, nghĩa là
mình cứ theo phong tục thắp hương trong những ngày giỗ,
ngày tư, ngày Tết và những lễ
cúng bái là
mình đang đứng
mà đang đứng lại là đang chìm xuống, đang chìm xuống, tức là ngu si, mê
muội, dại dột, tiền mất mà chẳng có
ý nghĩa gì
và lợi ích
gì về cuộc
sống.
Còn ‚Tiến
tới thì trôi dạt‛
có nghĩa là chống
hẳn lại sự
mê tín, không chấp
nhận nó thì chúng ta sẽ bị chống
đối nguyền rủa của người khác. Họ nói rằng, chúng ta ngang tàng, vô thần, v.v..
không có ân nghĩa, không biết có tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ, v.v.. là những người
ở dưới đất nẻ chui lên.
Chỉ có vượt
qua. Vượt qua cái gì? Nghĩa là không chấp nhận
mê tín, không làm
theo mê tín, nhưng không chống mê
tín, mà chuyển mê tín thành chánh tín.
Cho
nên, ai
mê tín mặc họ,
chúng ta chỉ biết giải quyết cho chúng ta mà thôi, giải
quyết tâm mình đừng sống trong
mê tín, giải quyết tâm mình đừng chướng ngại với người mê tín.
Cho nên,
thắp hương hay
không thắp hương trong ngày
giỗ là do ở
tâm con. Ví dụ: nhà
có giỗ kỵ, mọi
người thắp hương cúng bái, con không nên cấm họ, nhưng đến
khi con cúng bái, con không thắp hương,
chỉ đứng trước bàn thờ, con thầm
tưởng nhớ đến
công ơn của tổ tiên, ông bà và đem sự sống của con không
làm khổ mình, khổ
người dâng lên.
Nhớ lại ngày nào
ông bà, cha mẹ lìa khỏi cuộc đời, để lại
trong tâm con một ký ức, một niềm thương nhớ.
Hôm nay con còn
chỉ biết dâng
lên nén tâm hương với
lòng đầy đạo đức làm người
của con, không làm
ô nhục tổ
tông, không làm mang tiếng tai cho dòng họ. Những hành động
sống hằng ngày đó, đến ngày
giỗ ông bà, tổ
tiên và
cha mẹ con thắp trước
bàn thờ. Đó là
con thắp
cây hương đạo đức làm
người cúng dâng tổ tiên, ông bà,
cha mẹ chứ không thắp những cây hương
bột vỏ cây,
mà thắp hương lòng của con đối với tổ tông, không có
gì xấu hổ cả con ạ! Nếu
con làm đúng như vậy (không thắp
hương vỏ cây) vào
ngày giỗ vẫn ấm cúng và trang nghiêm vô cùng. Con thắp cây
hương lòng không phải mất tiền, tiền ấy để dành dụm để làm việc từ thiện, giúp
người bất hạnh trong xã hội còn tốt hơn.
SÁU NẺO LUÂN
HỒI
Câu hỏi của
Từ Tuệ
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Xin Thầy
giảng cho con hiểu
đúng nghĩa của
“Sáu nẻo luân hồi:
Trời, Người, Atula,
ngạ quỷ, súc
sanh và địa ngục”.
Đáp: Sáu nẻo
luân hồi theo kiến giải của các nhà học giả thì có
sáu cõi, để
linh hồn người chết tiếp tục tái sanh, tùy theo việc làm thiện ác của
người đó.
Ví dụ: Ở cõi Trời, nếu chư Thiên sanh lòng dục, tạo ác
pháp, chờ hết duyên chư Thiên sanh xuống làm người. Nếu ở cõi làm người mà làm
thiện, ít ham muốn dục, thì sanh
trở lại cõi
Trời.
Nếu ở cõi
làm người, sanh tâm làm ác, thường giận dữ, thích đánh đá, thì khi lìa bỏ
thân người, linh hồn
tái sanh vào
cõi Atula. Loài Atula ở đó
hung dữ vô cùng,
chuyên môn đi đánh lộn, hoặc
đi đánh cướp
nước người khác.
Nếu sanh vào
cõi Atula làm
thiện ít giận hờn, không đánh
đá ai hết, đến khi chết thì sẽ
sanh
làm người trở lại. Nếu
Atula này làm thiện,
ít dục, không giận dữ, không
đánh đập, không làm khổ mình,
khổ người, thì đến
khi chết sẽ sanh vào cõi trời. Nếu
đã sanh ở cõi
Atula mà
giận dữ, ích kỷ,
bỏn xẻn không
dám bố thí thì khi bỏ thân
Atula sẽ sanh
vào ngạ
quỷ.
Con người
sanh vào cảnh giới ngạ quỷ thường
đói khổ, muốn
ăn mà không
có ăn, muốn uống
mà không có uống, quần
áo rách rưới, lang
thang, nghèo khổ. Nếu cõi ngạ quỷ mà biết bố thí, san sẻ thì được sanh trở
lại cõi Atula. Nếu ở cõi ngạ quỷ mà biết bố thí, san sẻ, không giận dữ, làm
thiện, ít làm khổ
mình, khổ người khác thì sanh làm con người.
Nếu ở cõi ngạ
quỷ, làm toàn thiện không làm khổ mình,
khổ người thì được
sanh ngay lên cõi Trời. Nếu ở cõi ngạ quỷ
mà tâm ác không
trừ, lòng ích kỷ,
bỏn xẻn, không
bố thí thì đọa xuống
địa ngục, chịu đủ thứ cực hành khổ sở.
Cõi địa ngục
là nơi con người sanh vào đó chịu đủ thứ mọi cực
hình. Nói chung
cõi địa ngục là
cõi tiếng kêu
khóc không hề dứt. Sau khi sanh
ở cõi địa ngục, con người
ở đó mới tiếp
tục sanh làm
loài vật. Như
chúng ta đã
thấy các
loài vật đang sống quanh ta, đó là cõi súc sanh.
Trên đây là
cái hiểu của các nhà học giả của kinh sách phát triển, có sáu cảnh giới rõ
ràng trời, người,
Atula, ngạ quỷ, địa ngục
và súc sanh, con người phải tiếp tục trôi lăn mãi mãi ở đó.
Thật ra, sáu
nẻo luân hồi
là cảnh ở trần
gian của chúng ta trên hành tinh này, không có ở nơi nào khác nữa. Tùy theo đặc
tính, cách sống, cuộc sống của mọi con người và loài vật trên hành tinh này
mà phân chia làm sáu nẻo
luân hồi.
Thứ nhất là
cõi Trời, là chỉ cho những người
đang sống đúng
trong mười điều
lành, tâm hồn của họ thường
thanh thản, an lạc
và vô sự, không làm khổ mình, khổ người, không làm điều ác, toàn làm điều
thiện, muốn chi có nấy. Đó là những bậc chân tu, thạc đức đang sống trầm lặng,
sống với trí tuệ nhân quả, sống với tâm hồn tha thứ và thương yêu mọi loài
chúng sanh.
Thứ hai
là cõi Người,
Người là những người đang sống đúng năm điều lành
không hề phạm phải, còn những người
sống không đúng
năm điều lành này là cõi khác
chứ không phải cõi người.
Thứ ba là
cõi Atula, Atula là những người hay sân hận, giận dữ, chuyên môn
đi đánh lộn, không biết nhường
nhịn và nhẫn
nhục ai cả, chỉ biết la hét đánh đập với nhau.
Thứ tư là
cõi Ngạ quỷ, Ngạ quỷ là những người
nghèo đói, khổ sở không
có cơm ăn, áo
mặc.
Thứ năm là
cõi Súc sanh, Súc sanh gồm có con người và các loài thú vật. Vì những người này
hình người mà bản
chất sống như loài thú vật, họ chẳng hề sống có một chút đạo đức
làm người nào cả.
Cho nên, dưới
đôi mắt của đức
Phật những người
này họ là
súc sanh (động
vật).
Thứ sáu
là cõi Địa
ngục, Địa ngục
là những người đang bệnh
đau, đang khổ sở rên la trên giường bệnh, chúng ta hãy đến nơi
các bệnh viện nơi đó là Địa ngục.
Tóm lại, sáu
cõi luân hồi không phải ở đâu xa mà chính
cuộc sống của chúng ta trên hành tinh này, hiện ra đầy đủ sáu cõi.
Sáu cõi này,
được xác định thực tế và cụ thể, rất khoa học,
không có mơ hồ
trừu tượng,
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!