KHÁM PHÁ SỰ
BÍ ẨN VỀ CHÁU BÍCH HẰNG
Trường hợp
cháu Bích Hằng thì không
giống
trường hợp anh Nhã, hiện tượng của cháu
Hằng xảy
ra giống như có một linh hồn người
chết nhập
vào như thật.
Khi trực
tiếp chứng kiến năng lực của
tưởng uẩn
con người. Nhất là trường hợp của
cháu Bích
Hằng, khiến cho giáo sư Trần
Phương không
còn đứng vững trên lập trường
khoa học
nữa, ông đặt ra nhiều câu hỏi: “Như
vậy linh
hồn phải tồn tại dưới một dạng vật
chất nào
đó, có hình thù, có khả năng phát ra
tiếng nói.
Đã là một dạng vật chất thì vật lý
học, hóa
học, y học, sinh học v.v.. Với những
phương tiện
quang học và điện tử tinh vi, hẳncó ngày tìm ra. Các nhà khoa học
Việt Nam có
thể đóng
góp gì theo hướng đó?”.
Còn lâu
lắm các nhà khoa học Việt Nam
mới có
thể chứng minh và giải thích những
hiện tượng
đó bằng hóa học, sinh học, y học, lý
học, v.v..
Còn bây giờ thì sao? Hay để cho nhân
dân Việt
Nam sống trong mê tín, phải chịu tốn
hao với
một số tiền bạc vô nghĩa (đốt tiền vàng
mã, cúng
sao giải hạn, cầu an, cầu siêu, v.v..).
Khi đọc
bài của giáo sư Trần Phương,
chúng tôi
thấy, nếu bài này được phổ biến sâu
rộng trong
khắp nước, mà các nhà khoa học
Việt Nam
không có tiếng nói, thì chắc chắn
nạn mê
tín, dị đoan sẽ lan rộng khắp nơi. Và
sẽ có một
số người lợi dụng trường hợp này mà
gây tạo ra
nhiều loại mê tín khác nữa để lừa
đảo người.
Chúng tôi
đọc bài tâm nguyện của một cư
sĩ M.N.C.S
ở Long Hải nói rằng: “Những nhà
ngoại cảm
này thường khoe khoang, nhà nước
đang tìm
kiếm những người tài như họ để
trưng dụng
về việc quốc phòng”. Lời nói này
chúng tôi e
rằng những hạng người này “thừa
nước đục
thả câu”, lợi dụng trạng thái tưởng
thức không
có không gian và thời gian, giao
cảm mọi
sự việc xảy ra tạo dựng thế giới siêuhình để lừa đảo mọi người,
chứ từ xưa đến giờ
chưa có
lịch sử nước nào ghi công lao của những
người làm
đồng, cốt và những nhà ngoại cảm,
nhờ lên
đồng, nhập cốt và ngoại cảm mà ngăn
giặc, đuổi
giặc, giữ nước, dựng nước, bắt những
kẻ trộm
cướp giết người, hiếp dâm, giữ gìn trật
tự, an ninh
cho quê hương, xứ sở.
Vì biết
rằng các nhà khoa học không thể
chứng minh
được những hiện tượng hoạt động
của tưởng
thức, nên trong các tôn giáo người ta
cố ý tu
tập để triển khai tưởng thức hoạt động
ngõ hầu
lấy đó tạo dựng thế giới siêu hình và
thần thông
để lừa đảo mọi người. Vì không
nhận ra
những hiện tượng đó nên mọi người
tin tưởng
gia nhập vào tôn giáo, nuôi hy vọng
khi chết đi
sẽ được sanh về nơi đó (Cực Lạc,
Thiên Đàng,
Niết Bàn), hay có những thần
thông pháp
thuật.
Do phong
thổ, thời tiết, thức ăn nước uống
tại địa
phương, hoặc do tai nạn xảy ra gây ảnh
hưởng não
bộ, hoặc sự phát triển hoạt động của
não bộ
không đồng đều, khiến cho tưởng thức
hoạt động
nhiều hơn ý thức (trường hợp cháu
Bích
Hằng), hoặc ý thức và tưởng thức cùng
hoạt động
(trường hợp như anh Nhã) . Vì thế,
biến họ
từ một con người bình thường trởthành đồng, cốt và các nhà ngoại
cảm. Một con
người có
khả năng đặc biệt.
Chúng ta
không hiểu được năng lực của
tưởng thức
khi nó hoạt động không giống như ý
thức chút
nào cả:
1- Nó hoạt
động rất đặc biệt tại một điểm,
nên không
có không gian và thời gian, khoa
học không
thể chứng minh được.
2- Nó giao
cảm được mọi âm thanh sắc
tướng, vì
các từ trường của nó. Các nhà khoa
học có
thể chứng minh được.
3- Nó biến
hiện ra muôn hình sắc tướn g
của những
người đã chết không sai một nét nào
cả. Đó là
năng lực duyên hợp của tưởng thức.
Các nhà
khoa học không thể chứng minh được,
vì nó
không phải là vật lý học, hóa học, y học,
sinh học,
v.v..
4- Nó tạo
ra một người thứ hai đang tiếp
chuyện với
ý thức của nó. Đó là năng lực hợp
duyên của
tưởng thức, khoa học không thể
chứng minh
được.
5- Vì không
có không gian, nên nó nhìn
suốt trong
lòng đất thấy mọi vật và bất cứ địa
phương nào
ở nơi đâu, cách xa bao nhiêu, nócũng biết được. Khoa học có thể chứng
minh
được vì
đó là từ trường của tưởng thức.
6- Vì không
có thời gian nên bất cứ
chuyện gì
đã xảy ra hoặc sắp xảy ra bao lâu nó
cũng biết
được. Và biết một cách rất cụ thể. Đó
là từ
trường của tưởng thức giao cảm và bắt gặp
những hành
động, hình ảnh và âm thanh của
mọi sự
việc đã xảy ra còn lưu lại trong môi
trường
sống, khoa học có thể chứng minh được.
Cũng như
những sự việc sắp xảy ra trong môi
trường
sống nhân quả của mỗi con người, nó
đều bắt
gặp và giao cảm được cả, khoa học
không có
thể chứng minh được.
Hiện giờ
giáo sư Trần Phương hy vọng vào
các nhà
khoa học Việt Nam, quang học và điện
tử tinh vi
để giải đáp: “Linh hồn có hay
không?”,
nhưng giáo sư phải còn chờ đợi lâu
lắm, có
lẽ giáo sư sẽ chết mất mà những câu
hỏi này
chưa được giải đáp.
Là một
nhà tu tập thiền định theo Phật
giáo, tự
bản thân chúng tôi đã trực tiếp truy
tìm thế
giới siêu hình để thấy, nghe, hiểu biết,
thì chúng
tôi biết nó từ đâu xuất hiện những
hiện tượng
đó. Vì thế, chúng tôi xác định quả
quyết:
“Thế giới siêu hình không có, chỉ là
năng lực
tưởng thức của mỗi con ngườicòn đang sống tạo ra, chứ người chết
rồi
thì không
còn lưu lại một vật gì cả” . Xưa,
thái tử
Sĩ Đạt Ta khi tu thành Phật, Ngài cũng
xác định:
“Thế giới siêu hình là thế giới
của tưởng
tri”.
Câu hỏi
thứ hai của giáo sư nêu lên tình
cảm vui,
buồn, quan tâm, ước muốn, giận dữ,
tranh cãi
của linh hồn để rồi nêu lên câu hỏi:
Có một
thế giới linh hồn ngoài thế giới con
người đang
sống không? Thế giới linh hồn hoạt
động như
thế nào? Có khả năng tác động gì vào
thế giới
của con người đang sống? Để đáp ứng
mong muốn
của linh hồn người thân, người
sống dâng
đồ cúng lễ, tiền bạc đồ dùng hằng
ngày (dưới
dạng vàng mã) là đúng hay nhảm
nhí? Linh
hồn có tiêu vong đi không, hay là
tồn tại
mãi mãi?
Để trả
lời những câu hỏi này:
1- Ngoài
hai trạng thái hình và bóng của
cuộc sống
con người hiện hữu trên hành tinh
này, thì
không còn có thế giới linh hồn nào
khác nữa.
Thế giới linh hồn mà người ta cảm
nhận được
là do năng lực của tưởng thức trong
mỗi người
giao cảm mà tạo ra. Năng lực ấy
được phát
triển là do tu tập các loại thiền định
tưởng hoặc
bị tai nạn hay bị một cú “sốc” gìtrong cuộc đời, khiến cho phần
nhóm tế bào
não tưởng
thức hoạt động, đó là trường hợp của
các nhà
ngoại cảm.
2- Vì không
có thế giới linh hồn nên nó
không có
sự sinh hoạt riêng, không có sự sống
riêng. Do
tưởng thức của con người còn đang
sống, nên
sự sinh hoạt của nó cũng mang đầy
tính chất
của con người: tình cảm vui, buồn,
quan tâm,
ước muốn, giận dữ, tranh cãi v.v..
Nếu quả
chăng có thế giới linh hồn của con
người thì
phải có sự sinh hoạt khác hơn con
người, từ
thực phẩm ăn uống, đến tình cảm,
truyền
thông, diễn đạt v.v..
3- Nếu có
khả năng tác động vào con
người thì
có hai góc độ:
a- Gia hộ
con người, giúp cho con người
tiêu tai,
thoát nạn, bệnh tật tiêu trừ.
b- Hủy
diệt loài người để cho thế giới linh
hồn tăng
trưởng.
Trong hai
điều kiện trên đây đều phi đạo
đức và phi
nhân quả cả. Vì thế, nên thế giới
linh hồn
không được loài người chấp nhận. Nếu
con người
chấp nhận nó, là tự con người làm
khổ mình,
khổ người. Thế giới linh hồn của con người do năng
lực tưởng
thức của người còn sống tạo ra thì có
hai trường
hợp:
1- Không tin
nó là thế giới linh hồn của
người
chết, màø biết sử dụng năng lực tưởng
thức đó
áp dụng vào cuộc sống hiện hữu của con
người thì
rất có lợi ích như: tìm hài cốt liệt sĩ,
báo động
trước những tai nạn sẽ xảy ra v.v..
2- Nếu tin
nó là thế giới linh hồn của con
người, thì
đó là một tai họa rất lớn, gây cho
chúng ta
bệnh tật và tai nạn “tiền mất tật
mang”. Nếu
tin nó thì đời sống của chúng ta
hoàn toàn
bị lệ thuộc, mất tự chủ, sống thiếu
đạo đức.
Vì thế
giới linh hồn không có, người thân
chúng ta
chết, nghiệp lực đã tiếp tục tái sanh
luân hồi
còn đâu mà cúng lễ, tiền bạc, đồ dùng
hằng ngày
(dưới dạng vàng mã) hay tụng kinh
cầu siêu
v.v.. thì đó là nhảm nhí.
Vì thế
giới linh hồn không có thì làm gì
có linh
hồn tiêu vong hay tồn tại mãi mãi.
Ở đây,
chúng tôi không suy luận để tranh
cãi mà là
sự chứng nghiệm của bản thân chúng
tôi. Nhập
vào trạng thái tưởng thức thì chúng
tôi bắt
gặp thế giới linh hồn của con người quanăng lực tưởng thức của chúng
tạo ra, chứ
không phải
thế giới linh hồn của con người có
sẵn. Vì
thế, chúng tôi biết rất rõ ràng.
Hầu hết
mọi người đều có khả năng nhìn
thấy linh
hồn, nghe thấy tiếng nói của linh
hồn, nhìn
thấy hài cốt lắp vùi dưới lớp đất dày
mấy mét
v.v.. không riêng gì cháu Bích Hằng,
chỉ vì
mọi người chưa được triển khai tưởng
thức đúng
mức, nên không thấy không nghe
được như
cháu Bích Hằng mà thôi.
Khả năng
đặc biệt, ấy do một nhóm tế bào
não của
tưởng thức. Nếu các nhà y học và khoa
học chịu
khó nghiên cứu bộ não của con người
thì sẽ
khám phá ra rất dễ dàng.
4- Do sự
không hiểu biết, giáo sư Trần
Phương cho
rằng: Những thông tin bí ẩn của
anh Nhã,
anh Liên, cháu Bích Hằng là những
khả năng
đặc biệt càng khó khám phá.
Sự thật
không phải vậy. Bởi vì thế giới
siêu hình
không có, tức là không có linh hồn
người
chết, không có linh hồn thì làm sao có
chất liệu
quang học, y học, vật lý học mà khám
phá. Nếu
rời khỏi bộ óc con người mà khám
phá thì
chẳng bao giờ khám phá ra được thế
giới linh
hồn. Cho nên, các nhà y học và khoa học hãy
khám phá
nơi bộ óc của một nhà ngoại cảm
đang hoạt
động, thì có thể sẽ khám phá ra từ
những từ
trường của những tế bào não tưởng
thức phóng
ra giao cảm với những từ trường
còn lưu
giữ trong không gian, những hình ảnh,
âm thanh,
sắc tướng, những hành động và tình
cảm của
mỗi con người trước khi chết. Đó là y
học và
khoa học có thể khám phá ra được.
Nhưng có
những điều mà khoa học và y học
không thể
khám phá ra đượ c, đó là năng lực
của tưởng
thức, năng lực đó có thể biến tạo ra
hàng vạn
vạn triệu triệu linh hồn con người
chết và
mỗi linh hồn người chết, từ hành động
cử chỉ,
lời ăn, tiếng nói đến đặc tướng, cung
cách không
sai khác như người đó lúc còn sống.
Nhất là
những linh hồn do tưởng thức của nhà
ngoại cảm
biến hiện ra, lại nói chuyện với nhà
ngoại cảm,
nhà ngoại cảm hiện giờ như người
trung gian
nói lại cho chúng ta nghe những sự
việc xảy
ra mà chỉ có những người thân trong
gia đình
mới biết. Chúng tôi xin nêu lên một ví
dụ để quý
vị dễ hiểu hơn.
Trong giấc
mộng chúng ta gặp lại ông, bà,
cha, mẹ đã
chết cách 10 năm hoặc 20 năm,
cùng lúc
trong đó chúng ta cũng gặp lại nhữngngười còn sống như anh, chị, em,
cô, bác cùng
bà con
hàng xóm. Chúng ta đừng hiểu nông cạn
là những
linh hồn người còn sống cùng với
những linh
hồn người chết về gặp chúng ta
trong giấc
mộng. Nếu quả chăng những người
còn sống
xuất hồn gặp chúng ta thì những
người ấy
phải nằm mộng như chúng ta. Nhưng
sự thật
những người ấy không có nằm mộng.
Như vậy
những người gặp chúng ta trong giấc
mộng là
gì? Đó là do năng lực tưởng thức của
chúng ta
biến hiện ra, nó có thể biến hiện một
số lượng
người và xe cộ đông đúc như chợ Bến
Thành, nó
có thể biến hiện ra một thủ đô lớn
như thủ đô
Hà Nội, v.v..
Xét qua
giấc mộng thì năng lực tưởn g thức
của giấc
mộng chỉ bằng 1 phần trăm của tưởng
thức cháu
Hằng khi tìm hài cốt liệt sĩ, và khả
năng tưởng
thức còn gấp trăm triệu lần khả
năng tưởng
thức của cháu Hằng hiện giờ, khi
nó làm
những việc còn siêu việt hơn. Cho nên,
những nhà
Khí công, nhà Nhân điện đều dùng
khả năng
của tưởng thức.
Giáo sư
Trần Phương với hy vọng: “Trung
tâm nghiên
cứu tiềm năng con người, xác nhận
được sự
tồn tại của linh hồn thì không những
có ý
nghĩa nhân văn mà còn có ý nghĩa vềnhiều mặt khác, kể cả về hình
sự (nếu người bị
giết mà
nói ra thì kẻ giết người tránh sao khỏi
tội?),
không những có ý nghĩa quốc gia, mà còn
có ý
nghĩa quốc tế”.
Sự hy vọng
của giáo sư Trần Phương
không thể
thành đạt được, là vì linh hồn không
có, chỉ
có năng lực tưởng thức tạo ra.
Vì thế,
Thiền xuất hồn là một phương tiện
tu tập khai
triển năng lực của tưởng thức. Khí
công là
một môn võ học tậ p luyện để triển khai
năng lực
tưởng thức; Mật Tông cũng là một
pháp môn
triển khai sự mầu nhiệm của năng
lực tưởng
thức; Nhân điện cũng là một phương
pháp triển
khai năng lực tưởng thức để trị
bệnh; Tịnh
Độ Tông triển khai năng lực tưởng
thức tạo
ra thế giới siêu hình Cực Lạc Tây
Phương;
Thiền Tông là một pháp môn tu tập
triển khai
năng lực tưởng giải ảo giác, Chân
không, Phật
tánh v.v..
Cho nên, từ
trong các tôn giáo cho đến
những
người có kiến thức khoa học còn nông
cạn và
chưa thấu suốt nền đạo đức nhân bản
nhân quả,
nên tin rằng có thế giới linh hồn
người
chết, đó là một điều mê tín, lạc hậu mà
trong thời
đại này không thể tha thứ được. Vì sự thật hiển nhiên, là không có
thế giới
linh hồn
người chết, mà chỉ có sự biến hiện do
năng lực
tưởng thức của con người còn sống tạo
ra. Vì
thế, Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng
con người
có ra đời cũng chỉ loanh quanh
nghiên cứu
trong đống sách cũ của những người
xưa, toàn
là sách tưởng do những nhà tưởng
học để
lại. Nếu có nghiên cứu xa hơn thì cũng
dựa vào
những nhà Nhân điện tưởng, Khí công
tưởng,
Xuất hồn tưởng, Võ công tưởng, Thiền
tưởng,
Định tưởng, Thần chú tưởng, Ngoại cảm
tưởng v.v..
thì cũng không thể nào giải quyết
được những
gì mà giáo sư mong đợi. Còn nếu
đem những
nhà ngoại cảm này áp dụng vào
hình sự
thì chúng tôi e rằng không chính xác,
vì các
nhà ngoại cảm không phải tự mình điều
khiển cái
năng lực đó, mà chính cái năng lực tự
động của
tưởng thức đó điều khiển họ, nên có
khi chính
xác và có khi không chính xác, có
nghĩa là
tưởng thức của họ, lúc làm việc, lúc
không làm
việc. Cũng giống như trường hợp
anh Nhã,
lúc nó làm việc thì chính xác, lúc nó
không làm
việc thì anh mò mẫm như người mù
dò đường.
Cho nên, đem
những hình bóng biến hiện
linh hồn
người chết của tưởng thức vào việc lấyhài cốt liệt sĩ thì tốt
nhất, còn về việc hình sự
và quốc
phòng thì cũng chẳng khác nào đem sự
mê tín vào
những vấn đề quan trọng của đất
nước, thì
chúng tôi e rằng không có lợi mà có
hại nhiều
hơn.
Bởi vì
các nhà ngoại cảm không điều
khiển được
tưởng thức của mình mà bị tưởng
thức của
mình điều khiển lại mình.
Tóm lại
bài này viết, vì lợi ích cho mọi
người trên
hành tinh này, chúng tôi nói lên sự
thật, sự
thật 100%. Chúng tôi nói lên không
cần quý
vị tin, mà chỉ cần đem lại sự lợi ích
cho quý
vị, để quý vị trở thành những người
không mù
mờ, không dại dột bị kẻ khác lợi
dụng tưởng
thức của mình lừa đảo. Tưởng thức
như con dao
hai lưỡi, nếu quý vị biết dùng nó,
thì nó
lợi ích cho quý vị, còn quý vị không biết
dùng nó,
thì nó trở lại làm khổ và làm hại quý
vị.
Sự thật
là sự thật, không thể nói khác
được,
chúng tôi nêu lên một sự thật, thời gian
và sự
tiến bộ của loài người sẽ xác chứng những
điều này,
những điều chúng tôi đã nói ngày
hôm nay
“Thế giới linh hồn là do tưởng
tri”.
PHỤ CHÚ I
TỬ BIỆT SANH
LY LÀ MỘT
SỰ ĐAU KHỔ CỦA
KIẾP NGƯỜI
Trả lời
thư Liễu Tâm
Câu chuyện
tử biệt sanh ly của gia đình
nhà con,
là những câu chuyện nức nở thương
tâm đau khổ
thường xảy ra trong kiếp sống của
con người,
mà mỗi gia đình nào cũng đều
không tránh
khỏi.
Luật nhân
quả quá khắc nghiệt, vì sự công
bằng và
công lý của nó. Nó chẳng động lòng
thương xót
và chẳng tư vị một ai.
Trong cuộc
sống của gia đình là một cộng
nghiệp của
nhân quả, vui buồn, khổ đau, hay
hạnh phúc,
phiền não, bất toại nguyện... đều là
do sự vay
trả, trả vay của nhân quả.
Một cộng
đồng nhân quả trong một gia
đình,
người nào tuổi trẻ mà chết trước là người
đó đã trả
xong nhân quả trong cộng đồng đó.
Khi trả
xong dù muốn sống thêm một ngày
cũng không
thể sống thêm được nữa. Do vậy ,
mới bảo
rằng luật nhân quả quá khắc nghiệt. Cháu Thanh Phước cũng vậy, cháu
đã trả
xong nợ
nhân quả, vì thế cháu phải ra đi, ra đi
vĩnh viễn
vì cháu đã hết nợ trong cộng đồng
đó. Riêng
các con không thấy được nợ vay của
luật nhân
quả mà cho đến giờ này còn khóc
thương thảm
thiết.
Thầy xin
nêu lên một ví dụ để con hiểu
cho rõ
ràng: Ví như, con là một người thiếu một
món nợ
rất lớn của một ông chủ, con phải đến
nhà của
ông chủ nợ cố gắng làm lụng hết sức
mình để
trả xong món nợ, khi con đã trả xong
món nợ,
con rời khỏi gia đình ông ta, thì ông
ta kêu khóc
thảm thiết không cho con đi, lúc
nào cũng
muốn con ở lại làm cho ông ta nữa.
Như vậy,
con thấy ông ta có công bằng không?
Và con là
người đã trả nợ xong thì con vui
mừng rời
khỏi gia đình ông ta thì hạnh phúc
biết bao!
Vì không còn nợ nần nữa.
Như vậy,
con nên tư duy theo luật nhân
quả, thì
sự thương khóc của con có công bằng
không? Khi
cháu Thanh Phước đã trả xong nợ
nhân quả
của cộng đồng gia đình con, cháu ra
đi như trong
thư con đã thuật lại: “Cháu rất
hiền lành
và tốt bụng, thương yêu vợ con hết
mực, hiếu
thảo với cha mẹ bốn bên, đối với bạn
bè cơ quan
ai cũng khóc thương...”. Nhờ nhữngsự tốt bụng này, tức là thiện
pháp mà cháu
Thanh Phước
đã trả xong món nợ nhân quả
quá nhanh,
vì thế cháu ra đi lúc đầu còn xanh
tóc, vừa
mới 45 tuổi.
Nếu cháu
Thanh Phước còn nghe tiếng
khóc thương
của con và mọi người thì cháu rất
buồn, vì
cháu đã trả xong nợ, mà cứ kêu gọi đòi
nợ cháu
hoài, thì cháu rất đau khổ và không
hài lòng
phải không hỡi các con?
Sao các con
lại vô minh đến thế? Người
còn sống
là còn nợ nhân quả, sao các con
không lo
trả cho hết? Người trả xong nợ ra đi
thì các
con phải vui mừng cớ sao lại buồn khóc,
thật là
đảo điên.
Cuộc đời
là một bi hài kịch trên sân khấu
nhân quả,
có gì là thật đâu mà phải thương
khóc, hết
đóng vai này đến đóng vai khác và
luôn luôn
tiếp diễn những trò ảo ảnh đó vô
cùng, vô
tận. Thế mà, các con tự mình chuốc
lấy sự
khổ đau cho mình mà không biết, đó là
vô minh,
thiếu sự hiểu biết.
Có một câu
chuyện nhân quả mà Thầy
được ông
thân Thầy kể lại: “Có một gia đình
kia, chỉ
sanh ra một cậu con trai duy nhất, cậu
rất hiền
lành dễ thương, hiếu hạnh chăm học,
không bao
giờ cãi lời và làm cha mẹ buồn khổ, lớn lên cậu rất cần cù làm ăn
khiến cho gia
đình giàu
có nhất trong vùng. Vì thế , cha mẹ
thương yêu
cậu hơn là vàng bạc châu báu.
Nhưng không
may cậu lâm bệnh ít hôm rồi
chết, để
lại sự thương tiếc của cha mẹ vợ con và
xóm làng.
Trong làng
có một vị phù thủy rất cao tay
ấn thường
đánh thiếp cho người xuống âm phủ
gặp những
người thân mình đã chết.
Vì thương
con nên ông cụ đến nhờ Thầy
đánh thiếp
xuống âm phủ để gặp con. Khi
xuống đến
âm phủ, ông cụ bước vào một cái
quán bên
lề đường hỏi thăm. Người chủ quán
cho biết
cách đây khoảng hơn hai tháng có
một cậu
thanh niên ở trên trần gian mới xuống,
và bảo ông
cụ: “Cụ hãy ngồi ở đây chờ một
chút, thế
nào cậu trai ấy cũng sẽ cưỡi ngựa đi
ngang qua
đây, chừng đó cụ sẽ ra nhìn mặt, coi
có phải
là con trai của cụ không?”.
Ông cụ nghe
lời, ngồi chờ chẳng bao lâu
nghe tiếng
vó ngựa, cụ ra đón đường, quả đúng
là cậu con
trai, con của cụ. Mừng quá cụ vừa
khóc, vừa
níu tay con và vừa nói: “Sao con bỏ
bố mẹ,
trong khi bố mẹ thương con hết mực...”.
Ông cụ vừa
nói đến đó thì cậu con trai thét lên:
“Ai là con
cái nhà ông, chúng tôi đã mắc nợông, làm trả nợ cho ông xong thì
chúng tôi có
quyền đi,
cớ sao ông cứ theo đòi nợ hoài”. Nói
xong cậu
con trai quất ngựa chạy đi, chẳng hề
đoái hoài
đến ông cụ. Ông cụ sững sờ nhìn theo
bóng cậu
con trai mà bao lòng thương của cụ
đều buông
xuống sạch”. Câu chuyện trên đây
con nên suy
ngẫm, để thấu suốt lý nhân quả,
nhờ đó con
mới chuyển được và tâm hồn mới
thanh thản
an lạc và vô sự.
Cháu Thanh
Phước ra đi là nhắc nhở cho
con thấy:
“Đời là vô thường, là khổ đau và cuối
cùng là
không có gì cả”. Chính con là người vay
nợ nhân
quả rất nhiều, do đó con là người chịu
khổ đau
nhiều nhất trong cộng đồng gia đình
này. Nếu
con không gặp chánh pháp của Phật
thì giờ
này con sẽ trở thành người điên mất.
Khi đọc
xong bức thư này con hãy tư duy
suy nghĩ
để tự cứu mình ra khỏi sự vô minh
ngu dại
của mình đã tự dày vò, đã tự làm khổ
đau cho
mình mà cứ mãi làm khổ đau không
dứt, đó
là một điều thiếu đạo đức nhân bản làm
người đối
với mình, con ạ!
Hãy đứng
lên, tự thắp đuốc đạo đức mà đi,
đừng để
sống trong đêm đen tối mờ mịt mà
món nợ
nhân quả chưa biết kiếp nào trả xong. Thầy có lời thăm và chúc các
con quán xét
xả tâm tốt
để có một bầu trời thanh thản, an
lạc và vô
sự.
Kính thư
Thầy của
các con
PHỤ CHÚ
II
TU TẬP TỨ NIỆM
XỨ
Kim Quang
hỏi đạo
Hỏi:Kính
thưa Thầy, xin cho con hỏi:
Khi tu Tứ
Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ, nếu vọng
niệm, cảm
thọ đến thì con phải dùng câu tác ý
đuổi đi
phải không Thầy? Hay là giữ tâm bất
động trước
các cảm thọ đó, không cần phải
nhắc câu hướng
tâm đuổi đi?
Theo con
hiểu thì khi các niệm ác, cảm
thọ nóng,
lạnh, đau nhức đến thì phải dùng
câu tác ý
đuổi đi. Còn giữ tâm bất động trước
các pháp
và các cảm thọ là tâm không tham,
sân giận,
kiêu mạn, nghi ngờ, sợ hãi, ảo tưởng…
trước các
ác pháp và các cảm thọ.
Đáp: - Khi
tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập để
tâm thanh
thản an lạc và vô sự tự nhiên chứ
không được
bắt buộc ức chế tâm giữ gìn thanh
thản, an
lạc và vô sự. Mục đích của Tứ Niệm
Xứ là
khắc phục đẩy lui những điều làm cho
thân, thọ,
tâm, pháp bất an, cho nên có vọng
niệm hay
cảm thọ đến là con dùng câu tác ý
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!