tránh né
và sự tránh né tức là nuôi ngã và các
ác pháp.
Do đó, tội lỗi càng lớn mạnh hơn.
Tóm lại,
muốn vượt qua nhân quả tội lỗi
này thì
điều thứ nhất là phải tự giác sám hối
và hứa
khả với tâm mình là phải từ bỏ những
lỗi lầm
mình đã gây ra không còn tái phạm lại
nữa.
Điều thứ
hai là đến trước một vị Thầy giới
đức thanh
tịnh, nghĩa là vị Thầy đó không hề
vi phạm
một lỗi lầm nhỏ nhặt nào cả, phát lồ
tất cả
những lỗi lầm của mình và nhờ vị ấy
chứng minh
cho mình sám hối những lỗi lầm
và hứa
khả từ đây mình không còn tái phạm
những lỗi
lầm đó nữa.
Có sám
hối những lỗi lầm đúng cách như
vậy thì
những tội lỗi mới được hóa giải, tâm
hồn mới
thanh thản, an lạc và vô sự.
Pháp Phật
vi diệu và đặc biệt dù bất cứ ở
nơi đâu mà
đã làm tội lỗi thì chỉ có tự mình
sám hối ăn
năn chừa cải, hoặc bằng cách phải
phát lồ
với một vị Thầy thanh tịnh giới đức thì
tội lỗi
mới được hóa giải.
TU ĐỊNH
VƠ LẬU TRONG
TẤT CÂ HÀNH
ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
Câu hỏi
của Mỹ Linh
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Từ nay con tu tập
Định Vô
Lậu nhiều hơn, có khi ngay cả trong
giờ làm
việc và cả giờ tối tu Định Niệm Hơi
Thở có
được không thưa Thầy?
Đáp: Được,
càng tu tập Định Vô Lậu càng
xả tâm
nhanh chóng, càng thấy kết quả nhanh
hơn:
1- Thân
được an vui, thanh thản.
2- Tâm bất
động như cục đất trước các đối
tượng.
3- Tâm được
chánh định, không rơi vào tà
định
(tưởng định).
4- Pháp
hướng có hiệu quả và hiệu quả
mầu nhiệm
siêu việt lạ lùng.
Nhưng có
một điều con cần lưu ý tất cả
pháp hành
trong Phật Giáo đều nhắm vào một
mục đích
duy nhất là vô lậu. Vậy lúc nào tu
Định Vô
Lậu để quán vô lậu; lúc nào tu Định
Niệm Hơi
Thở để quán vô lậu; lúc nào đi kinh hành để quán vô lậu; lúc nào
làm việc để quán
vô lậu;
lúc nào tu Định Niệm Hơi Thở để tác ý
vô lậu;
lúc nào đi kinh hành để tác ý vô lậu, lúc
nào làm
việc để tác ý vô lậu, đó là những điều
cần thiết
vừa đủ để tu tập tâm vô lậu nhưng
phải rất
thiện xảo và phải luôn nhớ đừng quên,
đây là cốt
lõi trên đường tu tập giải thoát của
đạo Phật.
Đọc trong
thư con, thì sự hiểu biết của con
về Phật
pháp chỉ mới trang bị cho sự bắt đầu
những điều
chân chánh để tu tập, nhưng còn áp
dụng vào
cuộc sống thì lại là một điều khác.
Muốn có
kết quả giải thoát thân tâm thì
phải:
1- Thường
xuyên thưa hỏi mọi tâm niệm
xảy ra của
mình để được thông suốt và hóa giải
do người
thiện hữu trí thức thân cận.
2- Phải
siêng năng tu tập chánh niệm
tỉnh giác
trong tất cả mọi hành động và trong
tất cả
việc làm, không chỉ riêng tu Định Niệm
Hơi Thở,
mà còn phải tu luôn cả Định Vô Lậu.
Nhưng phải
lưu ý tỉnh giác không phải chỉ biết
có tỉnh
giác trong thân hành niệm nội và ngoại
mà còn
phải tỉnh giác trong chánh niệm, tức là
biết hành
động của thân, khẩu, ý của mình
đang làm
việc gì thiện hay ác. Lại còn phải biết các pháp bên ngoài thiện
hay ác để ngăn
chặn và
diệt, còn thiện pháp thì tăng trưởng.
Có như vậy
mới được gọi là tỉnh giác trong
chánh niệm
của cuộc sống.
3- Siêng
năng tu tập Định Vô Lậu, quán
xét tư duy
về đời sống là khổ, lòng ham muốn
là khổ,
nhân quả là khổ, ái dục là khổ, sân hận
là khổ,
nhớ thương là khổ. Thân, thọ, tâm,
pháp vô
thường bất tịnh là khổ, thực phẩm bất
tịnh
thường ăn vào sinh ra bệnh tật, ái dục bất
tịnh sinh
ra dục lạc khiến tâm mê mờ tạo
nhiều ác
nghiệp là khổ v.v.. Quán tưởng nhàm
chán cuộc
sống thế gian là khổ, vì vui đó rồi lại
khổ đó,
khổ đó rồi lại vui. Cuộc sống của con
người
giống như một vở tuồng trên sân khấu,
không có
gì bảo đảm.
4- Phải
dứt khoát xả tâm cho thật sạch
(tâm như
cục đất) thì mới mong có sự thanh
thản, an
lạc và vô sự.
Đó chỉ là
mới có sự bắt đầu cho một cuộc
sống biết
tu hành, chứ chưa phải là thấm
nhuần sự
giải thoát. Cho nên “hiểu biết chỉ là
một sự
mới bắt đầu tỉnh thức cho một điều
kiện nhân
quả thiện để chuyển đổi nhân
quả ác”.
CĨ SỰ ĐIỀU KHIỂN TRONG
HƠI THỞ LÀ
CHƯA NHẬP ĐỊNH
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Khi hơi thở thật
nhẹ, rất
thông và dài, nhưng cũng có sự điều
khiển phải
không thưa Thầy?
Đáp: Khi
hơi thở thông nhẹ và dài mà
còn có sự
điều khiển bằng pháp hướng hoặc
bằng sự
vận dụng thì đó là đang tập tu nhiếp
tâm, chứ
không phải nhập định. Nhất là đang
tu định
diệt tầm giữ tứ thì mọi sự điều khiển
và sự
hướng tâm là rất cần thiết cho định này.
Hơi thở
nhẹ, dài và thông suốt, phải coi
chừng hơi
thở này là hơi thở tưởng, tức là
tưởng tức,
khi có tưởng tức xuất hiện ngay liền
thì có
trạng thái khinh an. Đó là do công phu
ức chế tâm
mà rơi vào trạng thái của định
tưởng.
Khi gặp hơi
thở này thì chúng ta cố nhớ
tác ý:
“Quán ly tham tôi biết tôi hít vô,
quán ly
tham tôi biết tôi thở ra” hay “Quán
tâm như đất
tôi biết tôi hít vô, quán tâm như đất tôi biết tôi thở ra” hay “Tâm hãy
ly dục ly
ác pháp bất động tâm”
Nhờ có
tác ý như vậy mà phá được tưởng
thức, và
đồng thời có lợi lạc rất lớn là xả được
tâm ác,
lìa tham, sân, si là tâm có năng lực
không tham,
sân, si, năng lực không tham, sân,
si là năng
lực của tâm thanh tịnh, năng lực
tâm thanh
tịnh tức là phương tiện điều khiển
thân tâm
nhập các loại định sau này.
TRÄNG THÁI
AN ỔN KHƠNG CĨ LIÊN TỤC
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Khi hơi thở bắt
đầu quá
nhẹ, đi vào trạng thái an ổn thì
khoảng 5'
bung ra, khi bung ra khoảng 5', 10'
mới an ổn
trở lại. Kính thưa Thầy! Như vậy
làm cách
nào để nó được an ổn luôn luôn?
Đáp: Khi
đã bắt đầu đi vào trạng thái an
ổn, chỉ
trong thời gian ngắn, không thể kéo dài
ra được có
ba trường hợp:
1- Xả tứ
quá sớm. 2- Sức tỉnh thức chưa đủ để xả tâm có
nghĩa là
sự tỉnh thức chưa đủ để sống trong
chánh
niệm.
3- Lậu
hoặc chưa sạch.
Đó là
thiếu thiện xảo an trú trong an ổn,
có người
được 5' hoặc 10'. Có người được 30' lại
có người
được 1 giờ cho đến 3, 4 giờ lại bung ra.
Muốn được
an trú kéo dài thời gian an ổn
đó (yên
lặng) thì phải tu tập các định:
1- Định
diệt tầm giữ tứ.
2- Định
chánh niệm tỉnh giác.
3- Định vô
lậu quét sạch lậu hoặc.
Nếu không
tu ba loại định này cho thuần
thục thì
trạng thái an ổn kia chỉ là một xúc
tưởng hỷ
lạc sẽ đưa hành giả vào một loại định
tưởng (tà
định) hoặc lúc có lúc không và trạng
thái đó
không được duy trì lâu bền.
Chính
người tu thiền định ngày nay đều
rơi vào
trạng thái an ổn của các loại tà định
này, nên
sinh ra kiến giải, tưởng giải, từ đó
ngã chấp
to lớn xem như mình đã chứng đạo
(kiến tánh
thành Phật, Phật mà chưa hết tâm
tham, sân,
si còn tham ăn, tham ngủ, tham
tiền, tham
bạc, tham sắc, tham danh, tham lợi,
v.v..). Tóm
lại, khi tu thiền mà tâm chưa ly dục
ly ác pháp
hoàn toàn mà có trạng thái hỷ lạc,
khinh an
thì nên đề cao cảnh giác coi chừng tu
sai pháp
rồi đó.
Điều cần
thiết khi có cảm giác khinh an
hay hỷ lạc
thì phải mau mau đến thưa hỏi với
một Thiện
hữu tri thức có kinh nghiệm trong
sự tu tập
này, để giải nghi cho, chứ đừng có tự
ý tu tập
thì không tốt có thể xảy ra bệnh tật
hoặc điên
khùng như người mất trí.
CĨ TRẠNG
THÁI AN ỔN
RỒI MỚI NHẬP
ĐỊNH
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Khi ngồi thiền
lần lần
hơi thở đi đến nhẹ nhàng, vào trạng
thái an
rồi mới nhập được định. Có phải vậy
không thưa
Thầy?
Đáp: Đúng
vậy, nhưng đừng để tâm ở
trạng thái
“an lạc” mà phải ở trạng thái “yên
lặng”. An
có nghĩa là khinh an, nhưng khinh an
hiện giờ
có là do ức chế tâm mà sinh ra, do ức
chế tâm
sinh ra thì an đó là khinh an của
tưởng, chứ
không phải khinh an do ly dục ly ác
pháp sinh
ra, tu đến đây coi chừng nhập vào
định
tưởng, cần cảnh giác.
Khi nào
nhập định là lúc bây giờ tâm phải
ly dục ly
ác pháp hoàn toàn thì mới nhập đúng
chánh
định, còn tâm chưa ly dục ly ác pháp mà
nhập định
thì phải đề cao cảnh giác tránh rơi
vào các
định tưởng như trên đã nói.
Hiện giờ,
con nên tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ
Niệm Xứ
để đẩy lui các chướng ngại pháp trong
tâm; để
khắc phục tâm tham, sân, si của con
hơn là
thiền định, vì thiền định chân chánh
của Phật
sẽ không chấp nhận tâm chưa ly dục
ly ác
pháp.
Tâm còn
giận hờn phiền não mà muốn
nhập định
thì đó là định của ngoại đạo, chúng
ta hãy nghe
Đức Phật dạy: “Ta thành Chánh
Giác là
nhờ tâm không phóng dật, muôn
pháp lành
đều nhờ đó sinh ra”. Lời nhắc
nhở này
làm sao chúng ta quên được, làm sao
chúng ta tu
lạc vào thiền của ngoại đạo được
phải không
hỡi các con? Vậy, tâm con hiện giờ còn như đống rác
bất tịnh,
tham, sân, si, mạn, nghi còn dẫy đầy
ác pháp,
thì làm gì con nhập định được, nếu
theo sự an
ổn của tưởng kia mà nhập định thì
định ấy
là tà định con ạ!
Nhập tà
định có ích lợi gì cho bản thân
con, có
lợi ích gì cho mọi người khác đâu, tà
định sẽ
đưa con vào con đường tội lỗi, rồi đây
tham, sân,
si của con còn nhiều hơn.
1- Thứ
nhất, con làm tội cho con vì tâm
ngã mạn,
cống cao, khiến con có nhiều khổ đau
và bất
toại nguyện.
2- Thứ hai,
con đường tu của con sai lạc
rơi vào
thiền tưởng, đó là bước đường cùng của
sự tu tập.
Khi tu hành
đúng pháp, tâm ly dục ly ác
pháp thì
con cảm thấy mình an lạc bất động
trước các
ác pháp, do đó tâm con giải thoát, dù
bất cứ ai
làm gì con, con cũng an nhiên không
có mống
tâm phiền não, sân hận một chút nào
cả, còn
ngược lại thì con khổ đau vô vàn.
Cho nên, sự
tu tập có những trạng thái
khinh an
thì đừng lưu ý đến nó mà hãy lưu ý
đến pháp
hành con đang tu tập và ôm pháp cho
thật chặt
như người vượt biển ôm phao, khi gặp sóng gió ba đào. Nếu buông phao
là chết chìm
dưới biển,
mạng sống như chỉ mành treo
chuông.
Người tu hành có khinh an hỷ lạc cũng
giống như
người ôm phao vậy.
NGỒI THIỀN
LƯNG ĐAU,
NHỨC VÀ CHÂN
TÊ CỨNG
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Con tu một thời
từ 25' đến
30', lúc gần hết giờ, còn khoảng 5'
đến 10' con
bị trạo cử ngồi không an, đau buốt
cái lưng,
nhức và tê cứng đôi bàn chân, chịu
không muốn
nổi, buộc con phải xả sớm hơn. Có
khi con ám
thị thì nó hết, có khi lại không hết.
Cúi mong
Thầy chỉ dẫn cho con.
Đáp: Khi
ngồi thiền, gần hết giờ bị đau,
nhức, tê
chịu không nổi, thì con nên dùng pháp
hướng mà
nhắn nhủ như thế này: “Ta quyết
định chết
bỏ dù cho xương tan thịt nát,
máu trong
thân này có khô cạn, ta cũng chẳng bao giờ xả ra, ta quyết tu xem mày
làm gì?”.
Khi ám thị
xong câu này, con tiếp tục
hướng tâm
ra lệnh: “Sáu thức phải gom chặt
vào tụ
điểm, tâm phải định tỉnh trong
thân cho
chặt không được phóng theo
thọ”. Khi
hướng tâm xong, bắt đầu con vận
dụng hơi
thở chậm chậm và nhẹ từng hơi thở
một, để
cho tâm gom thật kỹ. Khi tâm gom
chặt thì
con tác ý: “An tịnh thân hành tôi
biết hít
vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi
thở ra”.
Tác ý như vậy được một lúc sau con
không thấy
đau và tê nữa.
Nhớ đừng
động thân, phải giữ thân cho
thật chặt
dù có đau nhức đến đâu cũng giữ thân
bất động
và tâm phải bám chặt hơi thở thì sẽ
hết đau,
đây là phương cách thứ nhất để chiến
đấu với
cảm thọ, còn phương cách thứ hai con
phải thực
hiện Tứ Niệm Xứ, trên bốn chỗ
Thân, Thọ,
Tâm, Pháp để khắc phục tham ưu,
đẩy lui
các chướng ngại pháp trên đó. Khi con
gặp chướng
ngại của Thọ thì con không nên
ngồi ráng
thêm một phút giây nào cả mà phải
đứng dậy
đi kinh hành ngay liền, tâm con luôn
giữ gìn
tỉnh thức khi đứng dậy, khi hướng tâm,
khi bước đi
giống như con đang ngồi tỉnh thức trong hơi thở vậy. Và như vậy con đã
xả Thọ,
con sẽ có
cảm giác giải thoát ngay liền khi con
đứng dậy
không còn thấy tê và đau chân nữa,
đó là tu
theo pháp xả của Tứ Niệm Xứ, cho nên
Đức Phật
gọi là: “Trên thọ quán thọ để khắc
phục tham
ưu là vậy”.
Dưới đây
là hai phương pháp tu hành:
1- Ức chế
thân tâm để nhập định, phương
pháp này
rất nguy hiểm, dễ rơi vào tà định, dễ
rối loạn
thần kinh, dễ sinh ra những bệ nh
hiểm nghèo
như tê, bại, xịu, v.v..
2- Xả các
chướng ngại pháp để nhập định,
phương pháp
này bảo đảm hơn vì có xả là có
giải
thoát, nên thân tâm nhập vào chánh định
dễ dàng,
không có khó khăn, không mệt nhọc.
Tâm hồn từ
bắt đầu tu cho đến khi xả không có
một cảm
giác khó chịu hay bất toại nguyện,
luôn luôn
thanh thản, an lạc và vô sự.
Tóm lại,
người mới bắt đầu tu tập đều
phải tùy
theo đặc tướng của cơ thể, chứ không
bắt buộc
ngồi kiết già để chịu tê, đau nhức, còn
bắt buộc
ngồi kiết già chịu đau, tê nhức, nóng
đó là mục
đích rèn luyện nghị lực, can đảm,
gan dạ,
chịu đựng, bền chí v.v.. Và đó cũng là
sự rèn
luyện để chuẩn bị trên cuộc hành trình
đường xa.
LƯNG THỤNG
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Khi con ngồi lúc
đầu thì
thẳng lưng, nhưng từ từ lại bị thụng
xuống. Con
sửa lại và ám thị “cái thọ hãy ngồi
thẳng lưng,
không được thụng xuống” có lúc nó
nghe, có
lúc nó không nghe, con lại tự nghĩ
chắc con
bị đau lưng phải không Thầy?
Đáp: Không
phải lưng con đau mà là một
thói quen
hay thụng. Khi ngồi thiền con nên
tìm chỗ
tựa lưng cho thẳng, nhờ điểm tựa lưng
đó, sau
này con ngồi không có điểm tựa, lưng
vẫn thẳng
hết thụng, phải tập ngồi tựa lưng,
một thời
gian khá lâu rồi mới bỏ được.
Lưng thụng
là vì sức con ngồi ít mà ráng
ngồi
nhiều, ngồi lâu nên dễ bị thụng bị
nghiêng, bị
ngửa, v.v..
Lưng thụng
mà con ám thị thọ là không
đúng mà
phải ám thị cột sống: “Cột sống phải
thẳng đứng
không được thụng” hoặc “Lưng
phải thẳng
đứng không được thụng”. Nhưng con nên nhớ, khi hướng tâm như
vậy thì
con phải cố gắng giữ gìn lưng phải thật
thẳng,
đừng để thụng nữa, vì để lưng thụng sẽ
thành thói
quen khó sửa.
Thầy chỉ
có lời khuyên chân thật con nên
ngồi ít
lại, đi kinh hành nhiều là tốt, nhất là
thiền định
ở tâm lìa tham, sân, si chứ không
phải ở
chỗ ngồi, ngồi chỉ là một hình tướng
gom tâm dễ
dàng, nhưng gom tâm không phải
thiền
định, gom tâm chỉ là một phương tiện để
giữ tâm
tỉnh thức mà thôi. Tỉnh thức không
phải chỉ
để tỉnh thức ở chỗ đi, đứng, nằm, ngồi,
nói, nín,
hơi thở, v.v.. mà ở chỗ chánh niệm để
luôn luôn
lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc
và vô sự.
NGỒI THIỀN BỊ
KIẾN BỊ
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Khi ngồi thiền,
con thường
bị kiến bò ray rứt khiến tâm con
bất an, con
phải làm sao thưa Thầy? Đáp: Khi tâm chưa đủ định lực, con nên
dùng tay
phủi nhẹ, khi phủi xong thì tâm con
được an ổn
liền.
Từ khinh
an, lưng thụng, đến kiến bò v.v..
mà con đã
trình bày ở trên đều do sự hiểu lầm
thiền định
của Phật. Tuy rằng Phật có dạy
khinh an,
ngồi thẳng lưng, trạo cử, trạo hối,
hôn trầm,
thùy miên, vô ký v.v.. nhưng những
điều này
đâu có quan trọng mà quan trọng ở
chỗ tâm ly
dục ly ác pháp, ở chỗ tâm bất động,
ở chỗ tâm
không phóng dật.
Thầy xin
nhắc lại để con đừng quên khi
tu tập
thiền định của Phật, không phải chỗ
ngồi, nằm,
đi, đứng, không phải chỗ hết vọng
tưởng mà
chỗ ngăn ác diệt ác pháp sanh thiện
tăng trưởng
thiện pháp hay trên Tứ Niệm Xứ
đẩy lui
các chướng ngại pháp, thì dù đi, dù
đứng,
ngồi, nằm đều tu hành được cả, đó là
những pháp
hành để ly dục ly ác pháp; đó là
những pháp
hành để thực hiện đạo đức giải
thoát; đó
là những pháp hành để triển khai trí
tuệ giới
đức làm người làm Thánh; đó là những
pháp hành
thực hiện tâm bất động giải thoát.
Vì thế
khinh an, lưng thụng, kiến bò không
phải là
vấn đề làm tâm mất định.
SỰ TỴNH
THỨC TỰ NHIÊN LÀ ĐỊNH
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Khi ngồi thiền sự
tỉnh thức
quá cao, cứ chăm chú theo dõi từng
hơi thở
một, không đi vào trạng thái lặng hoặc
mơ mơ, màng
màng gì hết. Thưa Thầy, sức tỉnh
thức đó
có thể đi vào định được không?
Đáp: Sức
tỉnh thức đó là định tỉnh chánh
niệm, nên
không cần phải đi vào định tỉnh nào
khác nữa,
nhưng con phải hiểu, sức tỉnh thức
đó không
phải do ức chế tâm mà có được, sức
tỉnh thức
đó có được là nhờ tâm ly dục, ly ác
pháp, nhưng
không phải nhìn đăm đăm hơi
thở, sức
tỉnh thức đó là sức tỉnh thức rất tự
nhiên không
có sự bắt buộc và gò bó của những
loại thiền
ức chế tâm, mà do tâm không phóng
dật, sức
tỉnh thức đó là sự nhận biết nhanh
chóng ra
các ác pháp trong sát na (nháy mắt).
Muốn tâm
không phóng dật thì phải tu
tập ngũ
căn, tu tập ngũ căn thì phải phòng hộ
năm căn,
phòng hộ năm căn thì phải sống
đúng ba đức
ba hạnh của một bậc Thánh.
Ba hạnh
gồm có: 1- Ăn
2- Ngủ
3- Độc cư
Ba đức gồm
có:
1- Nhẫn
nhục
2- Tùy
thuận.
3- Bằng
lòng
Nhờ tu tập
ba đức, ba hạnh này mà tâm
không phóng
dật, tâm không phóng dật là tâm
tỉnh thức,
tâm tỉnh thức này là một loại tâm
tỉnh thức
tự nhiên chứ không có ức chế như các
loại thiền
định khác.
HẠNH ĐỘC CƯ
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Giữ hạnh độc cư,
chủ yếu
là không nói chuyện, để khỏi bị động
tâm hay là
không thốt ra lời? Hoặc không cho
ra hơi
nhiều, vì sợ mất đi sức thiền định? Đáp: Độc cư không có nghĩa là
câm,
không nói
chuyện, không thốt ra lời hay sợ mất
hơi mà
không nhập được định.
Độc cư có
nghĩa là không tụ họp, không
nói chuyện
tào lao, chuyện phiếm, tập ít nói,
lựa lời
đáng nói mới nói, lời không đáng nói
nhất định
không nói.
Độc cư còn
có nghĩa là Thọ Bát Quan Trai,
Thọ Bát
Quan Trai tức là tu tập học sống làm
Phật trong
một ngày.
Độc cư còn
có nghĩa là nhập thất để sống
cho mình
hay nói cách khác là để tẩy trừ
những
chướng ngại pháp trên thân, thọ , tâm và
các pháp.
Độc cư
chính là phòng hộ sáu căn giữ gìn
không cho
dính mắc sáu trần, đó là pháp đệ
nhất tu
tập ngũ căn.
Độc cư là
Thánh hạnh, phàm phu không
thể sống
được, nếu phàm phu không tập sống
Thánh hạnh
thì chẳng bao giờ nhập được
Thánh
Định, bằng chứng hiện giờ chư Tăng
phạm giới,
phá giới, vì thế Thánh Định chỉ là
những bài
thuyết giảng suông.
Độc cư là
bí quyết thành tựu Tứ Thánh
Định, thế
nhưng ai là người sống đúng hạnh độc cư, hơn 200 người về đây tu tập
với Thầy,
không có ai
là người sống đúng, vì thế chẳng
bao giờ ly
dục ly ác pháp được, tức là họ sống
không phòng
hộ sáu căn hay nói cách khác là
sống không
hàng phục tâm, thường để tâm
phóng dật,
đó là hành động phá hạnh độc cư
tâm mình.
Người tu
hành theo Phật giáo mà phá
hạnh độc
cư thì tu hành phí công vô ích tức là
tự phá
hoại đời sống tu hành của mình thì đi tu
làm chi cho
mất công vô ích.
HƠI THỞ THIỀN
ĐỊNH
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Theo con nhận
xét riêng,
bản thân của con, con thấy hơi thở
thiền định
nó khác với hơi thở bình thường.
Hơi thở
thiền định thì có sự điều khiển chậm,
nhẹ, dài
và có lực. Thưa Thầy có đúng không?
Đáp: Hơi
thở chậm, nhẹ, dài, có lực và có
sự điều
khiển là tu Định Niệm Hơi Thở có kết
quả tỉnh
thức, chứ không phải hơi thở là thiền định, mà cũng không phải có
thiền định mà
hơi thở
sanh ra chậm, nhẹ, có lực và có sự điều
khiển.
Tất cả
những sự tưởng ra trạng thái thiền
định như
thế này, như thế khác đều là sai cả,
đều là do
tưởng. Có những trạng thái thiền xảy
ra trong khi
tu tập ức chế tâm không vọng
tưởng là
tà thiền, tà định của ngoại đạo.
Thiền định
của Phật chỉ khi nào tâm ly
dục ly ác
pháp hay nói cách khác là tâm lìa
tham, sân,
si thì đó mới chính là thiền định
của đạo
Phật.
Như vậy khi
tu thiền có trạng thái này
trạng thái
nọ, thì phải mau mau xả tất cả
những
trạng thái đó, chứ đừng có cho nó là
định
tướng, thì bước đường tu hành sẽ là bước
đường
cùng, tu hành chẳng đi đến đâu cả, chỉ
uổng cho
một đời tu hành mà thôi.
LÀM SAY
MÊ QUÊN HƯỚNG
TÂM CĨ MỘT
TỴNH THỨC KHƠNG?
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Con thường có
thói quen,
làm công việc gì, làm mải miết cho
xong, quên
nhắc tâm tỉnh thức, như vậy có mất
tỉnh thức
không thưa Thầy?
Đáp: Làm
mải miết cho xong mà không
có suy tư
và cũng không quên mình đang làm
là tỉnh
thức, không cần hướng tâm.
Làm mải
miết mà có suy tư là thất niệm
(bị vọng
tưởng).
Làm mải
miết không có suy tư mà cũng
không nhớ
đang làm (làm theo thói quen) là
thất niệm
vô ký. Phải dùng pháp hướng nhắc
tâm tỉnh
thức.
Người ta
hiểu lầm tu tập tỉnh thức chỉ biết
có tỉnh
thức trong hành động của thân hành
động nội
hay ngoại thì điều đó sai không có ý
nghĩa gì
cả của sự tu hành.
Người ta
tập tỉnh thức để tỉnh thức nhận
biết được
ác pháp để đẩy lui chúng ra khỏi thân tâm của chúng ta, để đem lại
cho thân
tâm chúng
ta một sự thanh thản, an lạc và vô
sự, đó
mới chính là sự giải thoát của đạo Phật.
Bởi tỉnh
thức không có nghĩa biết tỉnh
thức mà
tỉnh thức phải biết đâu là chánh niệm
và đâu là
tà niệm.
Như vậy sự
tu tập tỉnh thức mới thực sự có
ích lợi
lớn cho mình cho người, còn tu tập tỉnh
thức mà
chỉ biết tỉnh thức thì đó là tu sai
không ích
lợi, mất thời giờ vô ích và mất công
sức mỏi
mệt.
MỘT NGƯỜI CHỨNG
TỨ THIỀN,
ĐÍC TAM
MINH CĨ KHI NÀO CHẾT BẤT
NGỜ KHƠNG?
Câu hỏi
của Từ Đức
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Một người chứng
đến Tứ
Thiền, đắc Tam Minh có khi nào vô
thường đến
dẫn đi không thưa Thầy? Có nghĩa
là cái
chết đến bất ngờ họ không kịp làm chủ. Đáp: Một người chứng Tứ
Thiền, đắc Tam
Minh là đã
làm chủ sanh tử luân hồi thì không
có sự
chết bất ngờ, vì họ đã biết trước mọi
nhân quả
xảy ra, không thể có một vật gì che
mắt tuệ
Tam Minh họ được.
Khi nhập
Tứ Thiền chứng Tam Minh thì
dưới đôi
mắt tuệ của họ không còn có một điều
gì mà họ
không hiểu.
Không gian
có trải dài, thời gian có chia
cắt nhưng
không thể vì thế mà che mắt tuệ họ
được, thì
làm sao có sự vô thường đến với họ
thình
lình.
Người tu
hành đến nơi đến chốn, họ đã
làm chủ
được sự sống chết, thì không còn có
một chướng
ngại nào mà họ không thông suốt,
chỉ có
người tu chưa đến nơi đến chốn thì chịu
mờ mịt
trước uy lực của nhân quả.
Tóm lại,
người tu đến nơi đến chốn thì
không có
sự thình lình ngẫu nhiên, mà có sự
chủ động
từ sự sống đến sự chết.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!