mà ai
cũng có thể hiểu một
cách dễ dàng.
Chỉ có những người tu theo kinh sách phát triển sống trong tưởng tri,
trong mơ mộng, mới xây dựng sáu nẻo
luân hồi ảo tưởng, ngoài
cuộc sống của con người.
ĐỨC PHẬT DI
LẶC
Câu hỏi của
Từ Tuệ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ, đức Phật
Di Lặc có thật hay không?
Đáp: Đức Phật
Di Lặc không có, đó chỉ là một đức Phật
tưởng tượng của
các kinh sách phát
triển Bà La Môn. Vì thế, chúng
tôi mạnh dạn lật tẩy bộ mặt thâm độc của Bà La Môn Giáo để cho Phật tử hiểu rõ.
Nếu bảo rằng quá khứ đã có bảy vị Phật thì khi đức
Phật Thích Ca đi tu phải có đạo
Phật, tại sao lại chỉ có lục sư ngoại đạo
mà không có cái tên là Phật giáo? Thật
ra, mãi đến khi đức
Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành chứng quả. Nhờ mọi người hiểu
biết cung kính và tôn trọng đức Phật nên dựng ra
tôn giáo Phật
giáo, bấy giờ chúng ta mới có tôn giáo mang tên là Phật giáo. Thế mà kinh sách
phát triển dám bảo quá khứ có bảy vị Phật, rồi gán cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói, thì rất oan cho đức Phật Thích
Ca Mâu Ni. Trong kinh Tương Ưng đức Phật nói:
‚Nếu Ta nói một điều
gì mà chúng sanh
hiểu bằng tưởng thì Ta có nói láo trong Ta‛.
Rồi về vị
lai các kinh sách phát triển sản xuất ra một
người có tên là
Từ Thị, hiệu là Di Lặc
muốn tranh chức giáo
chủ với đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, giống như các nhà vua phong kiến ở thế gian
tranh ngai vàng. Thật là danh lợi ghê quá.
Theo
như kinh sách phát
triển, đạo Phật có chín vị giáo chủ:
Bảy vị Phật
làm giáo chủ ở quá khứ như:
1- Tỳ Bà Thi (Vipassĩ.)
2- Thi Khí
(Sikhĩ).
3- Tỳ Xá Bà (Vessabhũ)
4- Câu Lâu Tôn (Kakusandha)
5- Câu Na Hàm (Konãgamana)
6- Ca Diếp (Kassapa)
7- Cổ Phật Nhiên Đăng.
Một vị Phật,
giáo chủ ở hiện tại tức là đức
Phật Thích
Ca Mâu Ni.
Một vị Phật, giáo
chủ ở vị
lai tức là đức
Phật Di Lặc).
Đức Phật
Di Lặc đã được kinh sách
phát triển nói đến rất nhiều.
Đó là một
thâm ý nham hiểm của các kinh
sách phát triển, thành lập đức Phật
Di Lặc để
làm một cuộc
cách mạng Phật giáo, lật đổ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, thay thế bằng vị
giáo chủ mới là Phật Di Lặc.
Hội Long Hoa
tức là cuộc cách mạng Phật giáo do các
nhà thuộc kinh sách
phát triển lãnh đạo. Khi đức
Phật Di Lặc
lên nắm quyền giáo chủ Phật giáo, thì toàn bộ kinh
sách Nguyên Thủy sẽ bị triệt tiêu, tức là đường lối giáo lý của Phật
Thích Ca Mâu Ni sẽ
bị đốt sạch.
Kinh sách
Nguyên Thủy không bao giờ có nói đến đức Phật
Di Lặc và
các bậc Thánh Tăng đệ tử của đức
Phật không có ai tên là
Di Lặc. Đối với kinh sách Nguyên Thủy, tên Di lặc là một
tên xa lạ, vậy
mà bây giờ sắp lên nắm quyền
giáo chủ Phật
giáo! Xin quý vị Phật tử
suy ngẫm để khỏi lầm lạc.
Hội Long
Hoa được xem
như một cuộc trưng
cầu dân ý bầu cử đức giáo
chủ mới cho Phật giáo. Các tôn giáo khác không hiểu,
dựa vào gốc kinh sách
phát triển và tưởng ấm của
con người thể hiện qua ‚cơ bút‛ cho biết ngày tận thế và Hội Long Hoa sắp mở
bày.
Phật giáo
Nguyên Thủy không chấp nhận điều
này. Đức Phật dạy: ‚Quá
khứ không truy tìm, vị lai không
ước vọng, chỉ có hiện tại‛. Quá khứ và vị lai không cần biết đến, chỉ làm một việc lành
ngay trong hiện tại
thì quá khứ và tương lai là hạnh phúc.
Hội Long Hoa
là một sự bịa đặt của những kinh sách
phát triển, chờ cơ
hội thuận tiện nhất
để mở một cuộc họp Phật giáo
toàn thế giới, lật đổ Phật
giáo Nguyên Thủy. Nhưng vì thế
lực Phật giáo
Nguyên Thủy còn mạnh,
cho nên họ không
thể làm gì được. Hiện
nay, cả Phật giáo
thế giới đều chấp nhận
kinh sách phát triển là
giáo pháp của Phật giáo.
Đó là một bước thắng lợi thứ nhất
của kinh sách này. Đến khi các sư Nam
Tông, tức là
các sư Phật giáo Nguyên
Thủy, dần dần chịu ảnh hưởng
giáo pháp của kinh sách phát triển và lần lượt các sư Nam
Tông sẽ tu tập
theo giáo pháp của
kinh sách
phát triển2 thì giáo pháp Nguyên Thủy sẽ bị đốn tận gốc. Lúc bấy giờ,
người ta bảo rằng Hội Long
Hoa ra đời thành lập Phật giáo mới và đức giáo chủ là đức Phật Di
Lặc.
Đó là một thâm
ý sâu sắc của kinh sách phát triển
dựng lên đức Phật Di Lặc là
có ý diệt trừ Phật giáo tận gốc,
mà hầu hết các tu sĩ Phật giáo hiện
giờ, Nam Tông lẫn Bắc
Tông đều vô tình không
thấy ý đồ
thâm độc của Bà
La Môn Giáo ngày xưa.
Kinh sách
nói về Phật Di Lặc và Hội Long Hoa là do
các giáo
sĩ Bà La Môn
viết soạn ra, rồi
đưa vào kinh sách
Phật giáo, mạo nhận
Phật thuyết. Lợi dụng lúc Phật giáo kết tập kinh sách nhiều lần chưa thành văn bản,
người ta đã tùy tiện, thêm bớt thật dễ dàng. Cho nên, người nghiên cứu kinh
sách Phật giáo hiện nay gặp phải khó khăn là có nhiều bài kinh mâu thuẫn nhau,
khiến chẳng biết
đâu là lời Phật
dạy chân chánh, đâu là lời giả không phải Phật
thuyết.
2 Ngày nay
các sư miến Điện bắt đầu dạïy thiền (Nguyên Thủy) giống
như thiền Đông độ. Sau một
thời gian dạy (Tứ
Niệm Xứ) quán
thân, thọ, bây giờ các sư
dạy quán tâm giống như thiền sư
Trung Hoa.
TU HÀNH TRÁNH
PHÁP ỨC CHẾ TÂM
Câu hỏi của
Từ Tuệ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong đời sống của người cư sĩ
con nhận thấy mình
phải tập bớt ăn bớt ngủ. Về ăn,
con nên giảm bữa ăn
sáng trước hay bỏ bữa ăn tối trước, như thế nào tốt hơn? Khi đã quen hai bữa mà
không yếu sức khỏe, thì có thể giảm
xuống một bữa
ngay tại đời sống cư sĩ
không? Con đang chuẩn
bị để tăng dần “hành trang” thuận
lợi cho giai đoạn sống ở tu viện. Kính
xin Thầy chỉ dạy.
Đáp: Muốn sống
một đời sống phạm hạnh thì hãy sống đúng lời dạy của đức Phật, nhưng muốn sống
đúng lời dạy của
đức Phật thì phải hết
sức tránh sự ức chế
thân tâm. Giáo
pháp của đức Phật là giáo pháp xả tâm, nếu không khéo tu
sai lệch sẽ bị ức chế tâm.
Phần đông, tu sĩ hiện giờ
tu sai lệch
rơi vào pháp ức chế tâm mà không biết. Sự giảm thiểu bớt ăn,
bớt ngủ, tức là phải thay thế bằng một việc
làm khác!
Ví dụ: hàng
ngày lúc 9 giờ
ta đi ngủ,
bây giờ ta chỉ cần thức thêm 5 phút, 10 phút. Trong
khi thức thêm
thì ta nên tập tỉnh thức
và xả tâm, trong
khi đi kinh hành, vừa
đi vừa nhắc xả tâm ‚Quán ly tham tôi biết tôi đi
kinh hành‛. Mới đầu chỉ tập thức thêm 5 phút, rồi tăng dần lên 15 phút, cho tới
30 phút. Đó là cách thức tập bớt ngủ.
Ăn cũng vậy,
mỗi sáng, mọi người đều có điểm tâm. Ta có thể bớt bữa sáng, ăn buổi trưa và
chiều. Bữa ăn trưa hoặc chiều cả gia đình
có thể ăn cùng một lúc.
Muốn cho gia đình đầm
ấm yên
vui và hạnh
phúc, thì buổi ăn
là buổi tập họp gia đình, cố gắng sắp xếp để mọi người đều hiện
diện trong bữa
cơm, ta không nên vì
sự tu tập mà làm mất sự sum họp gia đình. Vậy trong 3 bữa ăn, con nên khéo léo
để tạo hoàn cảnh sum họp gia đình yên vui và hạnh phúc. Chỉ một hành động nhỏ
như vậy mà không cân nhắc kỹ, khiến bữa ăn trong gia đình buồn tẻ.
Đạo Phật là
đạo trí tuệ, không làm khổ mình, khổ người,
tạo cảnh tu tập cho mình mà luôn luôn
làm cho mọi người vui, tức là tu thiền định xả tâm.
LỜI NÓI PHẢI
ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM
Câu hỏi của
Mỹ Linh (Tú)
Hỏi: Kính bạch
Thầy,
Kính thưa cô Út Diệu Quang!
Lâu nay, con
thấy rõ tâm mình hay dính mắc, giận hờn, hay tranh luận, hay nghĩ
đúng sai, phải trái,
hay tham dự,
tham kiến, còn ham
ăn, ham ngủ
và bản chất
ngang bướng. Nên tâm con rất bất
an, thường làm khổ mình. Khi chưa giải quyết được tâm mình, thì con hay phản ứng ra làm khổ người, vì vậy
con ráng luyện cho tâm “bằng lòng”
hơn để vượt qua mọi
sự.
Thời gian
qua, con có cố gắng
nghe lời Thầy tu tập Định niệm
hơi thở kết hợp Định vô lậu. Lúc kinh
hành và trong sinh
hoạt hàng ngày, con tập
tỉnh giác kết hợp Định vô
lậu. Con thấy thích đi kinh
hành, không lười biếng như trước (con
chỉ đi thời
khuya và tối). Thường suy tư các pháp không thật.
Như lời Thầy dạy,
câu ám thị của con cũng có ba nội dung: hơi thở + tỉnh giác
+ xả tâm. Lúc rảnh
con suy tư để tìm
cách khắc
phục
mình và theo lời cô Út dạy là “tìm câu
ám thị phù hợp với trạng
thái tâm mới
có kết quả và tu tập phải gắn liền ý thức + trí tuệ
+ buông
xả”.
Nhờ có cô
Út bên cạnh, theo dõi kèm cặp, con thấy
rõ tâm mình
hơn. Nhờ có oai lực của cô
Út con nghiêm chỉnh,
ít nói hơn. Mỗi
thái độ, ánh mắt, nét mặt của cô Út lúc nào cũng mang tính cách
giáo dục; nhắc
con tỉnh giác hơn trong lời nói, hành động; lúc nào
nên nói, nên làm hay không. Con cũng xin thành tâm sám hối với
Thầy, với cô Út là
con còn lén nói chuyện, con phải cố gắng nỗ lực tự giác tu đúng hạnh độc
cư hơn nữa.
Mục tiêu của con
là: “Giữ tâm bất động trước
các pháp”, “Giữ
tâm bình thản an
vui, bằng lòng mọi
nhân quả”, “Đồ
bất tịnh đổ nhiều
chừng nào, đất
càng tươi tốt,
và trái thiện pháp sẽ nhiều chừng
nấy”.
Giờ tu, con
thường tập trung diệt sạch tâm tham,
sân, si như Thầy đã dặn. Trong
tâm tham con thấy từng bệnh tham
ăn, tham ngủ, tham
nói, tham ái (dù nó chưa khởi);
trong tâm sân có khi
nó khởi sự phiền chướng,
bực tức, bất toại nguyện. Con ám
thị câu đầu “Quán ly tham” sau đó
con trị tiếp
“Ly tham ăn
tôi
biết...” tương
tự con trị
các tâm kia như
vậy được không thưa
Thầy? Đặc biệt
tâm si, con cũng
nhắc bình thường,
nhưng ngày nào bị
buồn ngủ
thì con tập
trung trị nó suốt giờ “Thân
phải thẳng và tỉnh thức!”,
rồi vừa kết hợp hơi thở cộng với diệt tâm si:
“Với tâm tỉnh thức
tôi hít vô... tôi thở ra” “Từ bỏ ham ngủ tôi hít vô. Từ bỏ ham ngủ...”.
Buồn ngủ
nhiều con nói liên tục
từng hơi thở suốt
30'. Lúc cần
nói mạnh con nói
mạnh, con không bị thua
cuộc, không tê
chân, xả ra tâm phấn chấn hết buồn ngủ luôn.
Buồn ngủ
nhiều nữa con đi suốt
giờ với hơi thở và niệm
diệt tâm si (lý do buồn ngủ là vì
mấy ngày bị lạnh run, thức
giấc thiếu giờ ngủ, nên đến giờ tu con không tỉnh).
Thời gian
qua tu tập, con tập “bằng lòng”, tập
“nhìn bằng nhân
quả”. Con chỉ
quay lại tâm con tháo
gỡ những sợ sệt, phiền
toái bất toại nguyện. Con vẫn biết
là con chưa nhạy bén tạo nhân tốt làm vui lòng người. Do đó con vẫn an vui bằng
lòng mọi nhân quả, mà con không bị thối chuyển như những lúc trước; tâm con
không giận hờn,
không có ý bỏ cuộc;
không miên man trong những suy tư của ác pháp như lúc trước
nữa. Con thấy
“cái ta” trước
lằn roi,
trước sự rầy la, nhục
mạ được vơi đi
rất nhiều (nhờ thấm dần lời Thầy dạy con:
thân này không phải của ta, thân
này do duyên hợp ngũ uẩn), con chỉ nhắm
vào những lỗi
còn tồn tại, để cố gắng và cố gắng hơn. Đến giờ tu
con thấy tâm con không bị rạo rực như trước nữa, không bị buồn chán nữa.
Ba, bốn năm
trôi qua con chưa làm gì cho Thầy và cô Út vui lòng cả. Con càng thấm thía với
tâm từ bi vô lượng của Thầy và cô Út, con càng thấm thía với sự khó nhọc nuôi
cơm cho chúng con mà không
biết mỏi mệt
(dù Út nói Út
bỏ, nhưng thật
ra Út quan tâm, để ý hơn
bao giờ hết, vì nếu con vô
tình tái phạm
là Út đã lên tiếng liền).
Con xin thành tâm
sám hối với Thầy và cô Út, những
mong Thầy và cô Út tha thứ cho con. Khi
tâm con tạm ổn định, bên cạnh mục tiêu “giữ tâm bình thản trước các pháp”, con cố
gắng nhắc tâm
con “nhất cử nhất động
đều vì mục
đích vui lòng
Thầy và vui lòng
cô Út”, con sẽ cố gắng suốt
ngày trong pháp hành không còn kẽ
hở. Vì đúng như lời Thầy đã dạy:
lúc nào có
chánh niệm là như
được miễn dịch vậy, các pháp không xâm nhập vào
tâm (cả lúc làm cỏ,
chẻ củi con
nói: “Hít vô tôi
biết tôi chẻ củi –
tôi nhắc cái
tâm luôn an
vui mạnh
khỏe không đau
lưng” nó cũng
nghe và kết quả như vậy). Tương tự trường hợp khác cũng thế;
nhờ có chánh
niệm, tâm con
như quay vào trung tâm điểm của vòng
tròn là hơi thở, các pháp xoay vòng vòng trên vòng
tròn ấy mà không dính vào tâm. Có khi sự việc diễn biến, con thấy
rõ tâm bình
thản, tự nhiên
và thấy các pháp vô thường sanh diệt. Nếu lúc nào cũng được như vậy
thì chắc con mừng lắm. Hồi đó, chuyện lớn
chuyện nhỏ dù của con hay của ai con
cũng động tâm cả. Khi thấy được
cái hạnh phúc an lạc trong tâm, thấy được tâm nhẹ nhàng không
dày vò đau khổ,
thấy rõ được lợi
ích của sự xả tâm, con càng thấy rõ công ơn Thầy, công
ơn cô Út càng
cao. Nhưng đây chỉ là
bước đầu con mới
cảm nhận được, con sẽ cố gắng và
cố gắng hơn nữa, để từ
cái triền miên đau khổ - đến cái
đau khổ ngắn ngày dần dần - đến cái 5', 10' mới hết đau khổ - đến cái không
dính sự đau khổ. Con ráng phấn đấu để được thấm nhuần mà không còn phải dụng
công.
Qua đặc tướng
của con, con cúi xin Thầy
và cô Út chỉ dạy thêm cho con, để con nỗ lực “mãi mãi không làm khổ mình, khổ
người”.
Kính bạch Thầy, qua cách thực hành pháp hướng –
như lý tác ý mà cô Út dạy, con cũng có
tập và áp dụng
phá những cái thọ nhỏ nhỏ của thân như đau chân, đau bụng, tưởng phải uống thuốc,
mà không phải uống. Con có kể con ra lệnh đuổi
nó ít đau. Con hy vọng mọi cảm thọ
của tâm con cũng dần dần quét sạch.
Kính bạch Thầy cho con thưa hỏi...
Nhưng lúc
này Thầy đang bệnh, con kính xin Thầy bớt làm việc, tạm
ngưng giảng dạy chúng con, để Thầy điều trị liên tục cho hết hẳn. Cô Út cũng yếu nhiều hơn trước,
con kính xin Út cho con được tiếp
Út một vài công việc, con cố gắng
thực hành theo ý
Út chỉ dạy.
Qua đó con được thực hành diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
Vài dòng
con kính trình Thầy và
cô Út. Con xin dừng bút.
Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đáp: Hơn sáu
trang giấy, con trình bày sự tu tập của con, không sai sót lời dạy nào của Thầy,
chỉ còn có bền chí tu tập và cố gắng khắc phục
tâm con thì sự giải
thoát đến với con rất cụ
thể và rõ
ràng từng giờ, từng phút,
từng giây. Nếu lời
nói của con đi
đôi với sự
tu tập hàng ngày,
siêng năng không
biếng trễ, lập hạnh ăn, ngủ, độc cư và lập đức nhẫn nhục,
tùy
thuận, bằng
lòng “tâm như đất” thì chẳng
bao lâu nữa con sẽ hạnh phúc nhất vì đã làm chủ thân tâm của mình, tâm hồn lúc nào cũng sống thanh thản,
an lạc trước
mọi hoàn cảnh.
Vì vậy, lời nói
thì phải đi đôi với việc
làm, đó cũng chính là
hành động sống, không làm khổ
mình, khổ người, khổ cả hai.
TÂM THANH
TÐNH
Câu hỏi của
Mỹ Linh
Hỏi: Kính
thưa Thầy, hôm trước Thầy dạy: trạng thái tâm “định tỉnh, thuần tịnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, không phiền não,
không cấu uế, vững
chắc và bình
thản là trạng
thái của Tứ Thiền?”. Trạng thái này con thấy một phần chỉ về Định
niệm hơi
thở và Định chánh niệm tỉnh giác (tâm định tỉnh),
còn phần lớn là nặng về phần đức hạnh, tức là Định vô lậu, có phải vậy
không thưa Thầy?
Nếu như vậy là
ngay từ bây giờ
chúng con phải luyện
rèn đức hạnh vô lậu cho nhuần
nhuyễn theo hơi thở
chứ không phải
tu hơi thở tới Tứ Thiền mới có trạng thái này? Phải không thưa Thầy?
Đáp: Đến bây
giờ con mới hiểu được ý này là phải chịu mất bốn năm trời, nếu không hiểu được ý
này, chắc chắn
con còn phải mất thời
gian nhiều hơn nữa, mà còn lạc vào thiền của ngoại đạo. Đã
không giải thoát
mà còn có thể
đưa đến ‚khẩu đầu
thiền‛ tức là thiền tưởng như Diệu Thiện.
Người tu thiền
tâm đạt được định tỉnh, thuần tịnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, không phiền não,
không cấu uế, vững chắc và bình thản,
thì người ấy luôn sống trầm lặng, ít nói và
không nói cho ai
biết mình tu tập như thế
nào.
Tâm người ấy
thường quay vào trong nên không tham dự chuyện thiên hạ bên ngoài, nên thường sống một mình,
nhưng lại hòa hợp với mọi người, ai làm sao cũng được, biết tùy
thuận và bằng lòng. Đó là tâm không phóng dật.
Bốn Thánh Định
đều do Định vô lậu mà nhập được, ngoài
Định vô lậu không
có định nào nhập được. Định niệm
hơi thở và Định chánh niệm tỉnh giác chỉ là tu tập tỉnh thức để tâm thường
ở trong chánh
niệm để ngăn
chặn
và diệt tà
niệm và ác pháp, tức là ly dục, ly ác pháp.
Câu hỏi một đến
nay con mới hiểu
đúng, từ lâu hiểu sai tu tập sai thành mất thì giờ rất nhiều.
ĐÃ HỌC GIỚI
LUẬT MÀ CÒN PHẠM
Câu hỏi của
Mỹ Linh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con
nghe nói người học giới luật mà
còn phạm là có tội? Còn người đã được về đây tu học với Thầy, gặp được
minh sư và chánh pháp mà còn ra đi; có người tiếp
tục tu pháp Giới, Định,
Tuệ có
người kèm theo vô vi, có người kèm
thêm Yoga. Vậy họ có tội gì không?
Và nhân ấy dẫn họ đến quả
báo gì trong hiện tại và tương lai? Con kính mong Thầy từ bi giảng giải cho chúng con được
rõ.
Đáp: Người học
giới luật mà phạm giới luật, hiện tại họ là
trùng trong lông
sư tử sẽ diệt Phật giáo chết. Tuy
họ cố gắng che đậy, nhưng cuối cùng họ cũng để lộ tẩy làm
cho người khác rõ
và không còn
tin tưởng. Phạm
giới luật
tùy theo tội chủng của giới luật, người này
phải đọa vào cảnh khổ,
nhiều kiếp phải làm thân chúng sanh.
Tu theo Giới,
Định, Tuệ của Phật
mà còn kèm theo các pháp môn của
ngoại đạo:
1- Sự tu hành của họ sẽ chẳng tới đâu, họ
đã làm
mất chủng tử giải thoát,
dù tu ngàn kiếp cũng thành ma thiền.
2- Tu Giới, Định, Tuệ
của Phật mà còn
kèm theo pháp môn của ngoại đạo là tu hành không chân chính, khiến Phật giáo mang tiếng xấu. Người tu như
vậy là phỉ báng Phật pháp, làm cho người khác mất niềm tin, tội ấy sẽ đọa địa
ngục (luôn sanh trong cảnh đói khổ). Muôn kiếp khó làm người thiện (mất chánh
pháp).
3- Tu
như vậy, trong
hiện kiếp đều gặt
lấy quả bất trí, người khác khinh chê.
4- Tu
như vậy, tu
mãi không kết quả
khiến cho người khác
thấy rõ khinh
chê trong hiện tại, và kiếp
sau sanh làm người u tối, mê muội.
5- Tu như vậy, con người ương ương gàn gàn, sống bất an
và hoàn cảnh bất an
trong hiện tại và muôn kiếp.
ĂN CÛA ĐÀN
NA THÍ CHÛ MÀ KHÔNG TU
Câu hỏi của
Mỹ Linh (Tú)
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con
nghe nói trong đời tu
mà cứ thọ nhận ngày
càng nhiều của thầy Tổ,
của đàn na thí chủ, mà
không tu được, kiếp sau làm thân
trâu, ngựa trả nợ. Vì vậy, trong quá trình tu tập, hễ tâm bất an là nó hay luận
theo như vậy rồi bỏ cuộc, về tự làm tự tu,
rồi kết quả sự tu sẽ đi đến
đâu? Làm sao thắng được tư tưởng này? Con kính xin Thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp: Câu
nói “ăn của
đàn na thí chủ
mà tu không giải thoát thì phải mắc
nợ người. Sau này phải làm
thân trâu, ngựa
hoặc tôi tớ, lính gác, v.v.. để trả nợ” nhằm mục đích
khiến cho chúng ta sợ
mà ráng tu
hành, chứ không
phải có thật như vậy.
Nếu chúng ta
không gieo nhân cúng dường cho những bậc tu hành, thì ngày nay làm gì chúng ta
có người cúng dường ăn để sống tu hành.
Nhân thì phải có quả. Thấy
quả biết được nhân. Quả của chúng
ta đang được ăn ngồi không tu hành,
thì biết nhân đời
trước chúng
ta đã
có cúng dường
cho người tu. Chúng ta
tu có kết quả hay không kết quả là do chúng ta có duyên với chánh pháp
hay không, chứ không phải ở chỗ thọ của đàn na thí chủ hay thầy Tổ. Hai nhân quả này khác nhau.
Đứng trên
góc độ nhân
quả mà nói,
ngày nay ta ngồi không, thọ dụng của đàn na thí chủ và thầy Tổ để tu
hành, thì trước kia ta đã từng cúng dường thầy Tổ và các bậc tu hành. Cũng trên
góc độ nhân quả ta tu chứng hay không tu chứng, là do duyên tiền kiếp có gieo với chánh pháp hay
tà pháp mà
thôi. Trong lịch sử tu hành của Phật và các vị tỳ kheo thánh tăng
không có
ai tự làm, tự tu
mà có kết quả giải thoát
được, chỉ là một thứ đạo yểm ly
cuộc sống. Tự làm, tự tu kết quả sẽ chẳng đi đến
đâu. Muốn thắng tư tưởng này cần phải hiểu rõ nhân quả.
Đạo Phật là
đạo xả tâm, vì xả tâm nên đời sống chỉ còn
có ba y một bát, sống đời
thiểu dục tri túc, đi
xin cơm ăn từng ngày để tạo duyên
dạy người tu học
sau này. Cho nên đức Phật
dạy: ‚Hóa độ hữu duyên‛.
Có nghĩa là tạo duyên mới để dạy người tu tập như các
con đang tu tập vậy. Như bây giờ các con
đang xin cơm đàn thí chủ ăn để tu tập, đó
là đang gieo
duyên với
đàn na thí chủ, chứ
không phải nợ đàn na thí chủ.
Bây giờ
con đã hiểu như thế
nào là: ‚thọ nhận
ngày càng nhiều
của thầy tổ, của
đàn na
thí chủ, mà không
tu được, kiếp sau
làm thân trâu,
ngựa trả nợ‛,
không phải vậy con ạ!
Nỗ lực tu tập hằng
ngày để ly dục ly ác
pháp là một việc làm đầy đủ những
công đức
vô lượng vô
biên thì làm sao nợ
đàn na thí chủ được. Công đức hằng ngày các con tu tập để xả tâm tham,
sân, si là công đức không thể lấy vật
gì so sánh được.
Và như vậy làm sao mang
nợ đàn na thí
chủ. Phải không
các con?
THÂN KIẾN LÀ
GÌ?
Câu hỏi của
Mỹ Linh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Thân kiến
là gì? Có phải là những kiến chấp
về thân, coi trọng cái thân không? Có phải nó làm cho mình giảm nghị
lực để chiến
thắng mọi khó
khăn, mọi hoàn cảnh về thời
tiết bệnh hoạn? Rồi nó luận
tu pháp này dễ hơn, khỏe hơn (Vô vi,
Yoga) để mình xa dần pháp môn chân chánh của đạo Phật? Nếu
con muốn phá được
thân kiến phải tu tập những gì để có sức tự chủ? Con
cúi xin Thầy giúp con
thoát khỏi hoặc
ngăn ngừa những sai lầm!
Đáp: Con hiểu về
thân kiến rất
đúng. Trên đời, người ta khổ vì chấp thân là của ta, gặp hoàn cảnh khó
khăn, gặp việc khó khăn, gặp khí hậu thời tiết, bệnh tật khó
khăn là ta đi tìm cách tránh né
cho khỏe thân hơn, tức là chấp ngã.
Tu hành là phải xả
tâm; diệt ngã,
ly dục, ly ác pháp quá
khó khăn, khiến
cho thân tâm phải mệt nhọc từng
phút, từng giây, để chiến đấu làm chủ đời sống của mình. Vì tu hành quá vất vả,
nhiều người nản
chí và thối
tâm chạy theo tu các pháp
môn Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền
Tông, Vô vi,
Yoga v.v.. Đó là do
bệnh chấp ngã, xem ngã trọng, sợ
ngã mệt nhọc, để tu các pháp khác an ổn, hỷ lạc hơn,
ngồi thiền nhiều khỏe hơn.
Tất cả những
lý luận này là lý luận chấp ngã, nuôi ngã, dưỡng ngã. Người chấp ngã, nuôi
ngã là
đi ngược lại đường lối
tu tập của đạo
Phật, thì dù có
tu muôn kiếp
cũng khó giải
thoát được.
Tu như vậy thì tu để làm gì, tốt hơn sống ngoài đời có đạo đức nhân bản - nhân
quả còn khỏe hơn là chạy đi tìm dục lạc trong thiền định. Nếu nói để trị bệnh, thì làm
sao thiền định trị bệnh
được. Bệnh gốc
do nhân quả, muốn trị thì phải trị bằng nhân quả, sao
lại trị bệnh bằng thiền
tưởng? Thiền tưởng
chỉ làm cho chúng ta cảm thấy nhẹ
nhàng, thoải mái và
phục hồi những
rối loạn chức
năng của cơ thể, chứ không thể chữa hết nghiệp nhân quả
bệnh khổ.
Muốn phá được
thân kiến thì chỉ có các pháp thiền định của đạo Phật:
1- Định Niệm
Hơi Thở.
2- Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác.
3- Định Vô Lậu.
4- Định Sáng
Suốt.
Hàng ngày phải
chuyên cần tu tập pháp hướng tâm, ‚tâm như cục
đất lìa tham, sân, si hết‛ thì thân kiến mới dứt.
XEM NGÀY TỐT
XẤU
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Các cư sĩ
tại gia khi làm nhà, đào móng,
xây tường hoặc làm chuồng heo, chuồng bò, làm cổng, ngõ, đào giếng, v.v.. đều phải
xem ngày tốt xấu. Khi cất nhà
xong thì gia chủ phải lập đàn Đại
Bi năm ngày đêm trì chú cầu nguyện cho gia chủ được may mắn
phát tài phát lộc, thưa
Thầy xem ngày giờ tốt xấu như vậy
có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.
Trong kinh
Bát Dương dạy:
Ngày nào cũng tốt, tháng nào,
năm nào, giờ nào cũng tốt, nếu ai nói
ngày, tháng, năm,
giờ tốt xấu là
phản lại thiên thần địa lý. Tuy trong kinh dạy như vậy nhưng nếu khi làm nhà, cưới hỏi, chết, bốc mộ,
làm chuồng nuôi
gia súc, v.v..
tùy trường hợp xem ngày tốt xấu lại mang kinh Bát Dương ra tụng. Thưa Thầy
như thế là
như thế
nào?
Đáp: Xem ngày
tốt xấu là sự mê tín
của Trung Quốc nên có những bộ sách mà
trong các chùa dùng để xem ngày tháng tốt xấu như Ngọc
Hạp, Thông
Thư, Trần Tử, Văn Công, Thọ Mai v.v.. Những loại sách lịch này không phải của
Phật giáo mà của nền văn minh
Trung Quốc sản xuất
ra dưới các triều
đại phong kiến.
Từ âm dương bát quái, dịch số, đến tứ thời, ngũ hành, thập
nhị bát tú
v.v.. Do đó các
nhà tri thức lập thành theo vận
khí âm dương, để xem ngày giờ tốt xấu
đoán vận mạng cho con người.
Đối với đạo
Phật thì kinh sách này không đúng với
tinh thần của Phật giáo. Đôi mắt của Phật
giáo nhìn các
pháp thế gian đều là do
duyên hợp tạo thành, diễn biến theo luật nhân quả nên
không thể nào
đoán vận mạng
được. Vì đạo Phật cho rằng: vận mạng của con người di động theo diễn biến
hành động thiện ác của con người. Nên làm sao biết chắc được đúng mà tiên đoán.
Ví dụ: có
người muốn cất nhà đến xem tuổi năm nay có cất nhà được không? Ông thầy xem tuổi bảo:
năm nay tuổi tốt, cất
nhà khỏi kim lâu, địa sát, thọ tử, được tứ tấn tài, đại
kiết; kế đó xem tháng tốt,
ngày tốt. Đến
ngày giờ làm lễ
khởi công. Cất
xong nhà, thỉnh quý sư
thầy đến tụng kinh cầu an. Nhưng người gia chủ này làm nghề buôn bán đồ lậu thuế,
nhà nước phát
giác ra bắt
bỏ tù và niêm phong tất cả nhà cửa của cải,
tài sản v.v..
Như vậy cất nhà
coi tuổi tốt,
ngày, tháng tốt được tấn tài tấn
lộc, đại kiết, mà sao lại không tấn tài tấn lộc, đại kiết mà phải đi ở tù của cải
bị Nhà nước tịch thu? Xét như vậy xem ngày tốt xấu có đúng không? Hay do hành động
làm điều ác? Nếu người này không buôn bán đồ lậu thuế
thì làm sao có sự việc ở tù,
của cải bị tịch thu.
Gieo nhân nào thì phải
gặt quả nấy, chứ
không phải do cất
nhà, tuổi tác,
ngày giờ tốt xấu mà tốt được. Tốt
xấu là do hành động thiện ác của
mình. Vì vậy
trong kinh Bát Dương dạy: ‚Ngày tháng năm nào cũng tốt,
tốt xấu là
do hành động
thiện ác của mình‛. Kinh Bát Dương là
một loại kinh phát triển thuộc Bà
La Môn Giáo, đập phá sự mê tín xem ngày tốt xấu của văn minh Trung Quốc,
nhưng lại bày vẽ cúng
bái tụng niệm
theo sự mê tín của
tôn giáo này. Cất nhà,
cưới hỏi, chết, bốc mộ, làm chuồng
nuôi gia súc đều đem kinh Bát Dương ra tụng
để cầu tài, cầu lợi, thì sự mê tín
lại còn
dị đoan lạc hậu hơn
cũng không thua gì xem ngày giờ tốt xấu.
Xem ngày tốt xấu
người ta dựa
theo luật âm dương, tính toán ra
ngày tốt xấu thì còn có
chút ít khoa
học thực tế
hơn, còn kinh
Bát Dương thì không có khoa học
chút nào cả, chỉ
dựa vào
chư Phật cứu độ,
gia hộ tai
qua nạn khỏi thì thật
là lạc hậu dị đoan.
Nếu giết người, cướp của, đi buôn
đồ lậu thuế bị bắt ở tù, đem kinh
Bát Dương ra tụng, thì dù
cho tụng ngàn biến cũng chẳng tiêu tai giải nạn nổi. Đó là sự lừa đảo của
các loại kinh sách phát triển, với những người chưa có trình độ kiến thức sâu rộng mới tin và nghe theo.
Từ sự mê tín
xem ngày tốt xấu, đến sự mê tín cúng
bái của kinh sách
phát triển, tất cả
đều là
lừa đảo người,
để làm tiền một cách trắng trợn mà không ai bắt tội được. Quý Phật tử cần nên sáng suốt, đừng để bị lừa
gạt bởi những kẻ vô
lương tâm làm
nghề bất chính. Phải mạnh dạn thực hiện đạo đức nhân bản
- nhân quả, sống
không làm khổ
mình, khổ người, tức là sống thiện, làm thiện, ăn ở
thiện thì mọi phước báo
và sự an vui
sẽ đến với
quý vị.
ĐỘ SIÊU THÓAT
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Có một số tu sĩ
ăn mặn, cứ mỗi tuần ăn khoảng 2, 3 con gà do Phật tử mang đến cúng dường. Thấy
chuyện lạ như vậy, con hỏi
người Phật tử,
người ấy nói: “Vị tu
sĩ ăn thịt gà như vậy sẽ trì chú và độ cho con vật ấy được siêu thoát.
Như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Theo
như trong các
chùa Tịnh Độ dạy, mỗi khi muốn giết
con vật gì thì gọi là quy y cho con vật ấy, trong nhà có đám tiệc giết gà vịt thì người cầm
dao cắt cổ gà vịt đều
đọc bài chú Vãng
Sanh ba lần rồi mới cắt cổ con gà. Với
ý nghĩa khi con gà
bị chết sẽ được siêu thoát về cõi Cực Lạc sung sướng hơn là
làm con gà, con vịt. Trong
câu hỏi của
con cũng có ý như
vậy. Ăn thịt
gà chỉ cần
trì chú là con gà được siêu thoát. Đó là một lối lừa đảo
lường gạt người bằng những
hành động cực
ác. Ăn thịt loài vật mà trì chú để nó được siêu
thoát! Đó là một việc làm mơ hồ không bao giờ có thật.
Chú vãng
sanh trong kinh phát triển dạy: “Nam
Mô a rị
đa bà dạ,
đa tha đà đa dạ, đa điệt dạ
tha, a di rị đô
bà tỳ...”. Người chết
đọc chú này linh hồn
sẽ được vãng
sanh về Cực Lạc.
Khi giết gà, vịt,
heo, dê, bò, ngựa v.v.. cũng đều đọc thần
chú này, thì mọi vật bị
giết đều được sanh về Cực Lạc hết.
Trong bài
kinh Ước Nguyện,
Phật dạy:
‚Nếu muốn ước nguyện
một điều gì có
lợi ích cho người
và chúng sanh
thì mình phải giữ gìn giới luật
nghiêm túc, không gián đoạn thiền
định, phải có đạo hạnh đầy
đủ, thích sống trầm lặng tại
các trụ xứ không tịch thì sự ước nguyện mới được viên mãn‛.
Ngay cả giới luật đầu tiên
trong bộ giới luật thuộc loại giới đứt đầu (Ba la di).
Có nghĩa người phạm giới
này, không còn
duyên tu tập để được giải thoát. Đó là giới sát sanh.
Trong giới sát sanh Phật dạy: ‚Không được giết hại chúng sanh, xui bảo người giết
hại, thấy người giết hại vui theo‛. Vị sư này ăn thịt chúng sanh, tức là gián
tiếp sát sanh, có nghĩa là xui bảo
người khác giết hại cho
mình ăn thịt. Người Phật tử đem
thực phẩm động vật cúng dường cho tu
sĩ, là có
năm điều phi
công
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
đức, không
có phước báo
mà còn mang tội
đọa địa ngục (khổ). Còn vị Sư ăn thịt chúng sanh phạm vào tội sát sanh
thì trở thành ác quỷ, ma vương không phải là đệ tử của Phật. Vị này dù có tu một ngàn
kiếp vẫn thành
ác quỷ. Người đệ tử của Phật, trong mỗi miếng ăn phải
trải tâm từ bi khắp cùng,
ăn không thấy,
không nghe, không nghi.
Thấy thịt
chúng sanh mà ăn được
đó là loài quỷ dữ, chứ không phải
là người tu sĩ đạo Phật. Loài ác quỷ thường đội lốt tu sĩ đạo Phật lừa đảo tín
đồ, ăn thịt chúng sanh như loài cọp dữ. Thế mà gọi là độ siêu thoát chúng sanh,
thì thật là lừa đảo
những Phật tử chưa thông suốt đường lối của đạo Phật.
Trong suốt
cuộc đời tu
hành của Thầy, Thầy
chỉ thấy có một mình
Hòa Thượng Minh Châu dám
nói thẳng: ‚kinh sách
phát triển là giáo pháp của Bà
La Môn đang tìm mọi cách
diệt Phật giáo‛,
còn khắp trong
nước chưa thấy có một vị Thầy nào dám nói thẳng, hầu như toàn bộ đều tiếp
tay với Bà La Môn để diệt Phật giáo cho sạch. Bởi vậy, thấy đời sống của tu
sĩ hiện giờ
là biết Phật
giáo còn hay mất. Phật giáo mất thì không còn người tu
chứng, chỉ còn chứng miệng và lưỡi mà thôi.
Quý Phật tử muốn
biết một vị tỳ kheo đệ tử của Phật thì hãy xem giới luật của Phật, kẻ nào vi phạm giới luật, bẻ vụn giới
luật kẻ đó là ma vương đội lốt tỳ kheo đệ tử của Phật để lừa gạt quý Phật tử.
Hãy đề cao cảnh
giác, tránh xa những kẻ phạm giới,
phá giới. Cúng dường những ma vương này chẳng được phước mà còn làm suy đồi Phật
giáo. Đừng nghĩ rằng cúng dường cho 100 người ác bằng cúng dường cho một người
thiện, điều này
quý vị đã bị kinh sách phát triển lừa đảo. Làm sao 100 người
ác bằng một người
thiện được, ác
và thiện là hai
con đường song song làm sao gặp
nhau được, mà đã không gặp nhau
thì không thể nào so sánh được.
Ăn thịt
chúng sanh mà còn gọi là chú nguyện cho
chúng sanh siêu độ, cũng
như lời của các tổ Thiền
Tông nói: ‚Phóng
sanh sa địa ngục, sát sanh
được lên Thiên
Đàng”. Đây là lời
nói của ác quỷ chứ
không phải lời nói
của người tu
sĩ đạo từ
bi. Trong kinh sách phát triển
lại dạy: ‚Nói
như vậy chứ đừng hiểu
nghĩa như vậy‛. Đó là lý luận trườn uốn như con lươn. Có đúng như vậy
không quý vị?
û õ Â Ï
ĂN MẶN NĨI
NGAY, ĂN CHAY NĨI DỐI
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy, có tu
sĩ đã thụ giới
đến hàng Thanh
Văn mà còn đứng trước Tam Bảo
tuyên bố với Phật tử:
“Ăn mặn nói ngay,
ăn chay nói dối”. Thưa Thầy, như
thế các Phật tử biết
được người ăn
chay đều đả phá, nhất là
những người ăn một bữa, thì họ nói
là xưa kia, đức Phật Thích
Ca Mâu Ni tu
khổ hạnh đã thành Phật đâu, nhờ
có tiên nữ dâng sữa
tươi Ngài mới tỉnh ra. Rồi
sau đó phải ăn đầy đủ ngày một bữa, rồi mới tu hành đạt
được chân lí. Ngài uống sữa vẫn là
ăn mặn. Xin Thầy giảng và nói rõ cho con hiểu?
Đáp: Người
xưa đã chẳng nói: ‚Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng không vành nó
méo tứ tung‛. Câu nói: ‚Ăn mặn nói ngay, ăn
chay nói dối‛ đó là
lối lý luận của những người đội lốt tu
sĩ Phật giáo phạm vào giới luật, dùng miệng lưỡi chống chế lỗi lầm để đánh lạc
hướng Phật tử và tự tại ăn thịt
chúng sanh mà chẳng chút
lòng thương yêu. Đó là những
Ma vương đội lốt
tu sĩ Phật
giáo để
phá hoại đạo Phật, những
hạng người này là trùng trong
lông sư tử.
Không biết
người ta hiểu
như thế nào là
ăn mặn và như thế nào là ăn chay. Ăn mặn có nghĩa là ăn thịt chúng sanh, không
có lòng thương xót chúng
sanh, coi mạng sống chúng sanh rất rẻ. Chà đạp, đánh đập, giết hại
mà chẳng thấy sự đau khổ của chúng sanh.
Dù kẻ
đó ăn rau cải, tương
dưa nói chung là thực phẩm thực vật, nhưng
không có tâm từ bi
thương xót chúng
sanh, thì kẻ đó đối với Phật giáo là kẻ ăn mặn, kẻ đó đang sống
trong ác pháp (tạo
nhân ác, quả khổ cho chính
họ), kẻ ăn chay đó là con bò ăn cỏ.
Còn kẻ nào
ăn uống thực phẩm gì cũng được, miễn là
trong thực phẩm đó
không có sự giết hại,
không có sự đau
khổ của
chúng sanh thì đó là ăn chay. Mục
đích của đạo Phật là từ bi, cho nên trong
sự sống phải
luôn luôn thị hiện lòng từ bi, thương xót tất cả muôn
loài chúng sanh. Nếu có sự chết và khổ đau của chúng sanh
thì không bao giờ ăn. Do
đó mới gọi đạo Phật, đạo Phật chính là đạo
‚Từ Bi‛.
Sữa là một thực
phẩm trong thân động
vật, do từ cây cỏ, rau cải, đậu đi vào thân động vật và chế biến
thành, trong đó
không có sự
chết của
chúng sanh. Vì thế người
tu sĩ Phật giáo
được dùng, như đức
Phật ngày xưa đã
thọ dụng sữa dê.
Như vậy, đâu
có lỗi gì với đạo Phật. Vì đức Phật đâu có dạy chúng ta ăn
chay như Bà La
Môn. Bà La
Môn dạy chúng ta ăn
chay như con bò ăn cỏ. Đức Phật dạy
chúng ta ăn không thấy,
không nghe, không
nghi có nghĩa là ăn không thấy, không nghe và không nghi trong thực phẩm có sự chết chóc và
sự đau khổ của chúng sanh. Trong ‚Bát
Chánh Đạo‛, Chánh Mạng là một điều
quan trọng thứ nhất, vì nuôi Chánh Mạng bằng sự đau khổ và chết chóc của
chúng sanh thì Chánh Mạng thành tà mạng.
Và người nuôi
tà mạng thì
tu hành không thành Phật mà thành
quỷ dữ. Vì thế, đừng lấy việc uống sữa
dê của đức Phật ngày xưa mà cho đó là thực phẩm mặn, để rồi lấy
cớ ăn thịt chúng sanh cho thỏa thích, thỏa mãn.
Còn ngược lại
ăn chay, ăn toàn rau cải mà tâm không có từ bi thương xót muôn loài chúng sanh
thì giống như con bò
ăn cỏ. Còn
cho sữa là thực phẩm mặn
là người
đó không hiểu đạo
Phật và
cũng không hiểu mục đích của đạo Phật thì tu hành dễ sai lạc vào tà pháp.
Như ở
trên chúng tôi
đã nói, trong
Bát
Chánh Đạo
có ‚Chánh Mạng‛,
Chánh Mạng
tức là
nuôi mạng sống
chân chánh. Muốn nuôi mạng sống
chân chánh thì không
nên nuôi nó bằng sự đau khổ của chúng sanh (như ăn thịt
chúng sanh gọi là ăn mặn).
Đối với
Chánh Mạng, nếu giết hại chúng sanh
làm thực phẩm để nuôi sống thân mạng
thì đó là nuôi tà mạng, nếu tham lam trộm cắp, lấy của không cho về nuôi thân mạng,
dù là ăn chay (thực phẩm
thực vật rau cải) thì vẫn
là nuôi tà mạng;
nếu làm nghề
cúng bái, tụng niệm, xem xăm, bói quẻ, coi ngày giờ tốt
xấu, làm thầy địa
lý, thầy pháp,
thầy bùa, thầy thuốc
châm cứu, v.v.. để
trao đổi cuộc sống, đó là nuôi tà mạng; nếu đi khất thực tiền bạc,
của báu để nuôi mạng sống đó là nuôi tà mạng; nếu buôn bán, làm ruộng rẫy, trồng
cây trái vườn tược để nuôi sống đều là nuôi tà mạng.
Tất cả mọi
nghề nghiệp trên đây để nuôi mạng sống, đều
không đúng đường
lối tu tập của
đạo Phật. Cho
nên, nuôi mạng sống như vậy, thì dù tu ngàn kiếp cũng không thành
tựu đạo giải thoát.
Xưa, đức Phật
vào rừng tọa thiền, loài khỉ vượn hái trái cây dâng cúng dường. Phật không thọ dụng khi thấy trong chùm trái
cây chín có nhiều kiến, vì thọ dụng
loài kiến sẽ bị động
làm chúng
đau khổ, nên đức Phật dù
đang đói nhưng không ăn.
Loài vượn
thấy đức Phật
không ăn nên đến
quan sát lại
chùm trái cây
thấy kiến. Chúng đã hiểu ý Phật,
nên đi hái trái cây khác không có kiến
bu, lúc bấy giờ dâng
lên đức Phật nhận và thọ dụng.
Qua chùm trái cây như vậy ta thấy rõ, khi thọ dụng thực phẩm (tức là nuôi mạng
sống) đức Phật hết sức cẩn thận. Chùm trái cây là thực phẩm chay hay mặn? Tại
sao Đức Phật lại
không ăn? Và tại sao lại
ăn? Chắc quý vị ai cũng đều rõ, đức Phật không ăn dù đó
là món ăn
chay, nhưng trong
đó có sự đau khổ
của chúng sanh.
Đức Phật thọ dụng
thực phẩm, trong đó không có sự đau khổ của chúng sanh. Sữa lấy ra từ loài động
vật nhưng trong đó không có sự đau khổ của
chúng sanh nên Phật thọ dụng. Trái cây lấy ra từ loài thực vật, nhưng có sự đau
khổ của chúng sanh nên Ngài không ăn.
Câu nói ‚ăn
mặn nói ngay, ăn chay nói dối‛ đó là những tà sư ngoại đạo mang lốt tu sĩ Phật giáo,
quyết tâm diệt Phật
giáo trên hành tinh này, nên họ mới dùng lời nói
này, họ là trùng trong lông sư tử, quý Phật tử là đệ
tử của Phật phải cảnh
giác những tà
sư ngoại đạo
này, đừng để
họ diệt Phật giáo. Nếu
Phật giáo bị diệt
thì loài người sẽ bị thiệt
thòi, mất đi nền đạo đức nhân bản - nhân quả. Một nền đạo
đức tự sống không làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sinh.
ĐI DÉP DA, MẶC
ÁO LÔNG THÚ
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Tu sĩ đi
dép da hoặc mặc
áo lông thú
và áo da
thú nữa. Có Phật
tử hỏi: “Sao
Thầy lại mặc
áo da thú? Thầy
không thương chúng sanh à!”.
Vị tu sĩ ấy
trả lời:
“Cái áo da
này là cái
áo da đã thuộc
rồi, còn
đâu linh hồn con
thú nữa mà phải
thương xót, áo này
là áo “xịn”
của tôi khoảng sáu
“vé” đấy”. Thưa
Thầy, đây là
áo ngoại nhập.
Đáp: Giới luật
Phật đã cấm không cho các vị tỳ kheo
mang giày dép hoặc mặc
áo quần bằng da thú vật. Vị sư
này không học giới luật, nên phạm giới mà không biết, lại có ý còn khoe
mình ăn mặc đồ đẹp tốt.
Một chùm
trái cây có kiến mà đức Phật còn
không ăn, sợ
làm động chúng
sanh đau khổ, huống
là mang dép
da, mặc áo lông
thú thì còn ý nghĩa gì là đạo từ bi nữa. Bởi vậy thời đại chúng ta, những
ma vương, quỷ quái mang hình lốt Phật, ăn nói càn bướng, xem thường người Phật
tử (tín đồ) không biết giáo pháp và giới
luật là gì, nên lý luận che đậy những hành động ác pháp. Mang dép da dưới chân
là không thương xót loài chúng sanh đã bị kẻ
ác đức lột da làm giày
dép. Nếu giả sử vị tu sĩ ấy bị kẻ
khác lột da đem thuộc, làm giầy làm dép thì vị tu sĩ
có đau khổ không?
Nhìn thấy da chúng sanh
làm giày dép,
áo mặc, người
tu sĩ Phật giáo
phải đau lòng xót dạ như
chính mảnh da của mình
đang bị làm giày dép, áo vậy.
Thực hiện
lòng thương yêu
chúng ta đối với
chúng sanh để
làm gì? Thực
hiện lòng thương yêu của chúng
sanh là để đối trị lòng tham, sân, si
và các ác
pháp để cứu
mình ra biển khổ của cuộc đời. Mục
đích là như vậy,
nên đời sống người tu sĩ phải thực hiện lòng từ bi để
không làm khổ
mình, khổ chúng
sanh, biến cảnh thế
gian thành Niết
Bàn. Có đâu như
loài quỷ dữ,
đi dép da, mặc
áo da thú, ăn thịt
chúng sanh như cọp, beo, ác
thú. Thì thử
hỏi còn gì
là Phật pháp? Xưa, đức Phật thấy đống
xương người còn nhớ công
ơn cha mẹ mình
nhiều đời, nhiều kiếp. Còn bây giờ chúng ta thấy
da chúng sanh
làm dép, làm
áo mà không nghĩ đến sự đau khổ của
chúng sanh, trước khi chết đã bị người
lột da xẻ thịt.
Thì thử hỏi cái
đau khổ nào hơn
là cái đau này? Vậy mà trả lời “Còn
đâu linh hồn con
thú nữa mà phải
thương xót” thì đúng là
tà sư ngoại đạo, chẳng có lòng
thương xót. Chính những tu sĩ này đã giết
Phật giáo. Nếu tín đồ Phật giáo, muốn
duy trì và bảo vệ Phật
giáo thì phải tránh xa những
tà sư ngoại đạo này. Họ
là ma vương, quỷ dữ trong nhà Phật,
sẽ lừa đảo quý Phật tử bằng cách buôn Phật bán pháp đấy.
SINH NHẬT THỈY
TRỤ TRÌ
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có Thầy trụ trì của một ngôi chùa nào đó, vị ấy cao tuổi nhất, năm nào cũng làm
sinh nhật thật to, 100 mâm cỗ hoặc
200 mâm cỗ.
Làm như vậy
có đúng
không
thưa Thầy? Có những chùa khác lại bày ra
giỗ Tổ,
lạy Tổ và
còn bày ra cách
lễ bái khác, nói
là: Phật tử cứ tụng kinh
niệm Phật mãi họ cũng chán nên phải
thay đổi các nghi thức lễ để Phật tử đỡ chán, thưa Thầy có đúng không?
Đáp: Đạo Phật
chủ trương đi xin ăn (khất thực) để xả bỏ tất cả mọi thứ danh, lợi, sắc đẹp,
ăn và
ngủ và còn xả tất cả mọi thứ phong tục tập quán. Đọc suốt một tạng kinh
Nikaya chưa từng có bài
kinh nào nói về
làm lễ sinh
nhật Phật và kỵ giỗ
mẹ Phật, ta
cũng chưa từng nghe Phật dạy cúng
bái, tế lễ bao
giờ. Người khất sĩ
đi xin ăn,
ngày nào ăn trọn ngày nấy, không có để dành tích trữ một vật
gì cả, thì lấy gì làm sinh nhật 100 mâm cỗ? Thời mạt pháp, những tu sĩ mạo danh
đệ tử Phật để lừa đảo tín đồ, giống như hàng vua chúa phong kiến sinh nhật làm
100, 200 mâm cỗ thật là phí của đàn na thí chủ.
Tu hành theo
Phật giáo mà làm như cuộc sống thế gian,
ăn mãi thành
chán phải thay đổi thức ăn; niệm Phật, tụng kinh mãi
chán, phải thay đổi
cách thức nghi lễ để đỡ chán. Thật là những lý luận phàm phu tục tử,
Phật pháp mà như vậy thì còn thể thống gì. Đối với
những tu sĩ
trùng trong lông sư tử này, Phật tử hãy
đề cao cảnh giác,
đừng tiếp tay với ma vương
mà phá Phật
pháp. Đừng nối
giáo cho giặc vào cướp nước ta.
Phật pháp
thịnh hay suy
là do tín đồ, càng
nuôi dưỡng (cúng
dường) tà sư ngoại
đạo thì Phật pháp sẽ bị chúng
diệt mất. Không cúng
dường cho chúng
để chúng không
sống được thì Phật pháp mới hưng
thịnh, bậc chân tu
mới xuất hiện.
Tín đồ Phật
giáo hãy cảnh giác và cảnh giác hơn nữa thì mới mong cứu
lấy đạo Phật.
CÚNG DƯỜNG BỐ
THÍ ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Nhân dân
trong nước ở các vùng bị thiên tai,
dịch họa, Đảng và Nhà nước kêu gọi nhân dân ủng hộ, cứu trợ thì rất là
khó khăn ít người
hưởng ứng, còn
nói đến cúng dường
trai Tăng thì họ giành
nhau để cúng. Thưa Thầy như vậy có đúng không?
Đáp: Hầu hết tín đồ
Phật tử bị
tà sư ngoại đạo lừa đảo, lường gạt
bằng cách kêu gọi tín đồ nên cúng dường trai Tăng sẽ được nhiều phước báo, để
cha mẹ được siêu
sanh Tịnh Độ. Trên đời mọi người ai cũng mong được phước báo, hạnh phúc
an vui, nên khi nghe quý Thầy dạy: ‚Cúng
dường trai Tăng sẽ được phước báo lớn, cha mẹ chết được vãng sanh Cực
Lạc, thì ai mà không
cúng dường, không trai tăng‛. Nhưng
Phật tử đã lầm lạc, vì đụng
ông Thầy
nào cũng đầu tròn áo
vuông, đắp áo cà sa, tay lần chuỗi là cúng dường trai
Tăng tứ sự. Thật sự Phật tử
đã cúng dường
cho những ma vương, vì những người
này không phải
là kẻ tu hành, mà là những người kinh doanh tôn giáo buôn thần, bán
Thánh.
Khi vua Ba
Tư Nặc hỏi: ‚Kính bạch
Thế Tôn, chúng con là
hàng cư sĩ cúng
dường bố thí như thế
nào đúng chánh
pháp để được phước báo lớn?‛.
Đức Phật
đáp: “Cúng dường
bố thí cho cá nhân
hay tập thể phải thanh tịnh thì mới có lợi ích phước báo
lớn‛. Cá nhân thanh tịnh, tức là cá nhân phải có đạo đức,
là một tu sĩ Phật giáo thì giới luật phải được nghiêm chỉnh,
không vi phạm, không
bẻ vụn
giới luật. Tập
thể thanh tịnh, tức là phải sống hòa hợp, phải giới luật nghiêm chỉnh. Cúng dường
trai Tăng như thế mới có phước báo lớn, còn
cá nhân (tu
sĩ) và tập thể (Tăng
đoàn) không thanh tịnh, không đoàn kết, không đạo đức, sống phá giới và
phạm giới thì cúng dường trai Tăng không được phước báo mà còn tạo thêm tội
là vì tiếp tay
cho ma vương phá hoại Phật giáo.
Cho nên quý Phật tử cảnh giác, đừng
nghe nói cúng
dường trai Tăng
là có phước báo, là
được vãng sanh, mà
không lưu ý đến đạo đức của các vị Thầy đó.
Cúng dường
trai Tăng không đúng đối tượng, đã không được phước mà còn mang thêm tội lỗi.
Chi bằng làm việc nghĩa,
từ thiện giúp người bất hạnh khi
gặp thủy tai, hỏa hoạn, còn được phước báo
hơn nhiều và
còn thực hiện được
tình người, tình yêu nhân
loại, tình yêu Tổ quốc
quê hương. Làm những việc
nghĩa, công tác từ thiện còn được phước báo gấp trăm ngàn lần đem cúng
dường trai Tăng cho các Thầy tà giáo
ngoại đạo, tu
hành bằng hình thức, buôn Phật bán pháp, tạo danh, tạo
lợi để sống một đời “Đế vương”. Trong khi
quý Phật tử làm
ra đồng bạc rất khó để nuôi
những người ngồi trong mát ăn bát vàng.
Quý Phật tử nên đề cao cảnh
giác! Cúng dường là
nên cúng dường
cho những bậc chân tu giới đức, còn không thì quý vị dành
ra một ít tiền và thực phẩm giúp những người bất hạnh trong xã hội
thì còn được phước báo lớn.
Đó là hành động thiện của nhân quả, nó sẽ
chuyển quả khổ bất hạnh của quý vị và từ đó cuộc sống của quý vị sẽ được an vui
hạnh phúc, làm ăn càng ngày càng hưng thịnh, cơm ăn, áo mặc không thiếu, không
có gặp thủy tai hỏa hoạn hoặc tai nạn hiểm nghèo.
Ở đời, người ta rất khôn khéo, mượn chiếc
áo tu
sĩ để được học hành tới
nơi tới chốn, tạo danh tạo lợi dễ
dàng hơn ở người đời
nhiều. Khi đỗ bằng tiến
sĩ, được tấn
phong Thượng Tọa, Hòa Thượng
trong hàng giáo phẩm thì quý Phật tử tưởng họ là bậc chân tu ư! Họ chỉ cần viết,
soạn 5, 10 cuốn kinh sách bằng tưởng giải, là nổi danh lớn và có thể lường gạt
Phật tử dễ dàng bằng mọi cách. Cho nên, cúng dường trai Tăng cho các vị ấy thì
quý Phật tử tranh nhau mà cúng, còn đi làm việc từ thiện do Nhà nước kêu gọi hết sức
thì quý vị làm
ngơ không đếm xỉa đến cảnh màn trời chiếu đất của bao nhiêu người bất hạnh.
Những việc
làm này quý vị có thấy sai không, quý vị đừng lầm tưởng Hòa Thượng, Thượng Tọa là
Phật. Phật dạy cúng
dường cho người thanh
tịnh chứ không
phải cúng dường cho người có chức tước.
Một chú Sa Di
mới 8 tuổi mà
đã là bậc
Trưởng Lão, vì
đã tu tập thanh tịnh. Còn một vị tỳ kheo 80 tuổi mà
giới luật không thanh tịnh, dù thông suốt Tam tạng kinh điển vẫn không được gọi
là Trưởng Lão. Còn thời chúng ta, tu sĩ giới luật tu hành chẳng ra gì, chỉ có cấp bằng
tiến sĩ Phật học, là Thượng
Tọa, Hòa Thượng,
chùa to tháp lớn,
Phật tử cúng dường tiền bạc cả khối, giàu hơn triệu phú, tỷ phú.
Phật tử thì ganh
nhau cúng dường. Thật là thời đại
khoa học nhưng
đạo đức đang xuống dốc.
LÊN ĐỒNG NHẬP
CỐT
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Có một vị Tỳ Kheo đã thọ giới cụ túc, vị này là đại diện
Phật giáo, là bậc Thầy của tín đồ. Thế
mà ra làm lễ
trình đồng
(tức là
lên đồng nhập cốt) và bà vợ của
ông ta là quan
thầy sai đồng.
Thưa Thầy như vậy có đúng không?
Đáp: Một vị
tỳ kheo đã thọ cụ túc giới mà còn làm rất nhiều điều sai trái, thọ giới tỳ kheo
và đại
diện cho Giáo Hội Phật Giáo,
mà có bà vợ tại
gia là một điều sai rất lớn. Đạo Phật dạy:
‚Cắt ái ly gia‛ thế
mà đi tu, thọ cụ túc
giới mà còn có vợ con là điều không thể chấp nhận được.
Ở miền Nam,
tại tỉnh Thầy ở có nhiều vị làm đến chức vụ Chánh trị sự Tỉnh Hội Phật
giáo, Trưởng Ban
Đại Diện Phật
giáo của huyện và trong hàng
giáo phẩm tấn phong Thượng Tọa, Hòa Thượng có vợ con hẳn hòi, sống trong chùa
như một gia đình thế tục.
Tín đồ ở đó
gọi: bà Thượng Tọa, bà Hòa Thượng
v.v.. Thật là đau
lòng cho Phật giáo hiện
tại. Những ma
vương đội lốt
tu sĩ Phật giáo làm điều sai
trái, diệt sạch Phật giáo làm cho
Phật giáo không còn uy tín, không còn lòng tin với ai hết. Còn tu sĩ hiện giờ
lên đồng nhập cốt là thường, họ làm tất cả
mọi nghề, nhất là nghề
trị bệnh (gọi
là Tuệ Tĩnh Đường).
Họ trị bệnh bằng Nhân điện, Khí
công, Hương công, Dưỡng sinh, gạo lứt muối
mè, tiết thực,
tuyệt
thực, uống
nước tiểu, châm cứu,
bùa chú, thuốc thang, bói
quẻ, xem ngày
giờ tốt xấu,
xem thiên văn, địa
lý. Tất cả những nghề
nghiệp này đều không
đúng tính cách của
người tu sĩ Phật giáo.
Trong kinh
Phật dạy không được hành các nghề ngoại trừ nghề đi khất thực mà thôi. Vậy
mà tu
sĩ bây giờ làm mọi nghề, nhất
là những nghề mê tín lại càng
không chấp nhận được. Đây, các con
hãy đọc một đoạn kinh Phạm Võng để rõ thấu một vị tỳ kheo đệ tử
Phật phải sống và làm
như thế nào cho đúng,
còn những vị tỳ kheo làm không
đúng, tức là những ma vương, quỷ quái đội lốt đệ tử Phật để diệt Phật giáo và lường gạt
tín đồ. Các con hãy
đọc bài kinh này, để thấu rõ mà cảnh
giác bọn tà sư ngoại đạo đang đầy rẫy trong Phật giáo:
1- ‚Sa Môn Gotama (tức là đức Phật) dùng mỗi
ngày một bữa,
không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ không
ăn phi thời (ăn uống lặt vặt)‛.
2- ‚Sa Môn
Gotama, từ bỏ không đi xem múa hát nhạc, diễn kịch‛.
3- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ không trang sức bằng
vòng hoa hương
liệu, dầu thoa và các thời
trang‛.
4- ‚Sa Môn Gotama từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn
(tủ bàn ghế
sang đẹp)‛.
5- ‚Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận vàng bạc của báu
(tiền bạc, vàng,
ngọc ngà, những vật quý báu và vô giá)‛.
6- ‚Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận hạt giống
(không trồng trọt
vườn tược ruộng rẫy)‛.
7- ‚Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận thịt sống hoặc
thịt chín (thực phẩm động vật)‛.
8- ‚Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận đàn bà, con
gái (không nhận giới phụ nữ trong khu vực tu hành)‛.
9- ‚Sa Môn Gotama từ bỏ không nhận nô tỳ
gái và trai (không
nhận người công quả nam hoặc nữ)‛.
10- ‚Sa Môn
Gotama từ bỏ không nhận cừu và dê
(chăn nuôi dê cừu lấy sữa và da)‛.
11- ‚Sa Môn
Gotama từ bỏ không nhận gia cầm và heo (không nuôi gia súc)‛.
12- ‚Sa Môn
Gotama từ bỏ không nhận voi bò, ngựa và ngựa cái (phương tiện giao thông đi lại
ngày xưa)‛.
13- ‚Sa Môn
Gotama từ bỏ không nhận
ruộng vườn,
đất đai (bất động sản)‛.
14- ‚Sa Môn
Gotama từ bỏ không nhận phái người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới (giao
dịch móc nối)‛.
15- ‚Sa Môn
Gotama từ bỏ không nhận
buôn bán
(nghề thương mại)‛.
16- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ các sự gian
lận bằng
cân, tiền bạc, đo lường‛.
17- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ hối lộ, gian
lận, gian
trá, lừa đảo‛.
18- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ
không làm thương tổn,
sát hại, câu
thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá‛.
19-
‘‘Sa Môn
Gotama từ bỏ không
cất chứa các vật
món ăn, đồ uống, vải,
xe cộ, đồ nằm, hương liệu, mỹ vị‛.
20- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ các
loại du hý thế gian như múa hát, nhạc kịch, ngâm
vịnh, nhịp
tay, tụng chú, đánh trống, diễn các tuồng thần tiên, múa võ,
đấu voi, đua ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đá gà, đá chim cút, đấu
gậy, đấu quyền, đô vật,
đánh giặc giã,
dàn trận, thao dượt, diễu binh‛.
21-
‘‘Sa Môn
Gotama từ bỏ đánh
bài, các loại giải trí như cờ tám
hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào
những ô có quyền bước, trò chơi găng thẻ rồi chụp nhưng không sụp đống thẻ,
chơi súc sắc,
chơi khăn, lấy tay làm viết, chơi banh,
chơi thổi kèn bằng lá cây, chơi xem con, chơi đoán chữ viết
trên không, trên
lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước điệu bộ làm hề‛.
22- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ
không nói
những câu
chuyện vô ích tầm thường‛.
23- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ những cuộc
biện luận
tranh chấp‛.
24- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ
không lừa đảo và xiểm nịnh‛.
25- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ
tránh xem những tà hạnh như xem
tướng tay chân, chiêm tướng, hiện
tướng, mộng tướng,
thân tướng,
dấu chuột cắn, tế lửa, dùng miệng phun hột
cải vào lửa, tế vỏ lúa, tấm gạo, thục tô, dầm, tế máu, khoa xem tướng chi
tiết, khoa xem địa lý,
khoa xem mộng, khoa cầu tài ban
phước, khoa cầu ma quỷ, khoa dùng bùa chú,
khoa bắt rắn,
bò cạp, thuốc độc, khoa đoán số
mạng, khoa ngừa tên bắn,
khoa biết tiếng
thú cầm nói chuyện‛.
26- ‚Sa
Môn Gotama từ bỏ tránh
xa các tà nghiệp nuôi sống tà mạng, bằng những nghề xem ngày tốt xấu để
rước dâu quy rể, lựa ngày giờ tốt xấu để hòa giải, để chia rẽ, đòi nợ, mượn
tiền, tiêu tiền,
dùng bùa chú để giúp người may mắn, dùng bùa chú khiến người bị rủi ro,
dùng bùa chú phá thai, làm cúng liễm, khiến quai hàm không cử động, dùng bùa
chú khiến người bỏ tay xuống,
lỗ tai điếc, hỏi
gương, hỏi đồng cốt, hỏi thiên thần,
địa thần...‛.
27- ‚Sa Môn Gotama
từ bỏ tránh
xa những nghề nghiệp trị bệnh
tai, mắt, mũi, miệng, trị cho xổ, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bệnh
con nít, cho uống
thuốc bằng các loại rễ cây‛.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!