Qua cô Bích
Hằng, tôi hy vọng có được
thông tin
về phần mộ em tôi, nhưng điều còn
quan trọng
hơn là: Kiểm nghiệm xem có thật
linh hồn
còn tồn tại sau khi người ta chết
không. Tôi
lục tìm trong trí nhớ những vụ việc
mà chỉ tôi
và em tôi biết, để kiểm tra xem có
thật là
linh hồn em tôi đang nói với tôi không.
Dự buổi
gọi hồn có chị tôi và em gái tôi,
nhưng tôi
dặn không ai được nói, đề phòng hớ
hênh, để
lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”.
Bích Hằng
là một cô gái nhỏ nhắn, xinh
đẹp và
thùy mị, năm nay 27 tuổi tốt nghiệp đại
học kinh
tế quốc dân, hiện đang làm kế toán
cho một
công ty xây dựng của quân đội, đồng
thời vẫn
theo học lớp đào tạo thạc sĩ quản lý
kinh doanh
do trường đại học Oxtord (Anh) tổ
chức tại
Hà Nội.
Tôi hỏi
cháu có khả năng đặ c biệt từ bao
giờ. Cô
nói: từ khi còn đang học phổ thông, sau
khi bị chó
dại cắn, lên cơn nhưng không chết .
Cô bạn
cháu cùng bị chó dại cắn thì chết. Một
hôm, giỗ
bà nội, cháu nhìn lên bàn thờ thấy bà
ngồi cùng
hai đứa bé. Cháu hỏi ông nội: hai
cậu bé
ngồi cùng bà nội kia là ai? Sau một hồi
kinh ngạc,
ông nội giải thích: người con thứ
nhất của
bà được hơn một tuổi thì chết, người con thứ ba sau bố cháu được hơn
hai tuổi cũng
chết. Từ
đó trở đi, khi qua nghĩa địa, cháu
nhìn thấy
vô số là vong hồn người nằm, người
đứng, khi
tỏ khi mờ giống như nhìn vào cái
màn hình
bị nhiễu. Mới đầu thì rất sợï, sau
cũng quen
dần đi.
Tôi lại
hỏi: “Có tin nói là khả năng đặc
biệt của
cháu suy giảm rồi, có đúng không?”.
Cô trả
lời: “Khi cháu có bầu và sinh con, cháu
phải lấy
cớ đó để từ chối. Bây giờ con cháu đã
14 tháng,
cháu mới nhận giúp bác”.
Khác với
anh Nhã, cháu Hằng yêu cầu đặt
lên một
cốc nước, một cốc gạo để cắm hương,
một ngọn
nến và một bức ảnh của cô Khang
theo cháu
nói là để nhận diện vong hồn được
triệu về
có đúng là cô không. Cháu mang theo
một xấp
giấy tiền đặt lên bàn.
Thắp hương
và đốt nến xong, cháu khấn
mời cô
Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ, tưởng
chừng như
cô đang ngồi trước mặt.
Rồi quay
sang nói với tôi: Ở căn phòng
này, bác
không thờ bao giờ, có thể là khó về.
Nghe Hằng
nói, tôi đâm lo. Chẳng những
không thờ
bao giờ mà 10 năm nay tôi không ở
nhà này,
giao cho con. Nhìn quanh cửa kính đóng kín mít (dễ mở máy điều hòa
nhiệt độ) thì
mùi hương
bay đi đâu mà cô nhận biết được?
Cháu Hằng
có lời mời nhưng cô ở đâu mà nghe
thấy được?
Nếu nghe thấy thì tìm sao nổi đến
địa chỉ
này giữa cái thành phố ồn ào bát ngát?
Nếu tìm
thấy địa chỉ thì lách qua kẽ hở nào mà
vào được?
Một phút
chờ đợi căng thẳng trôi qua.
Cháu Hằng
vẫn dán mắt vào tấm ảnh. Rồi hai
phút, rồi
ba phút. Bỗng cháu Hằng hớn hở:
Cháu chào
cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng.
Bác Trần
Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi cô
hài cốt
của cô hiện nay ở đâu?
Rồi Hằng
vội quay sang tôi, hạ giọng nói:
Có một
người đàn ông, thanh niên đi cùng với
cô. Tôi
ngồi im, cố đoán xem người đó là ai.
Cháu Hằng
vẫn chăm chú lắng nghe,
thỉnh
thoảng lại vâng à, à, thế ạ! à, cái gì
ngân, cô
Ngân hay là cái gì?
Qua phiên
dịch của cháu Hằng, cô Khang
nói: người
thanh niên đi cùng em chính là anh
Sơn đấy.
Anh vẫn thường xuyên đến gặp em
(Anh Sơn
thật ư? Người anh, người bạn và
người đồng
chí thân thiết nhất của tôi! Tôi
muốn reo
lên, gọi thật to tên anh. Nhưng tôi cố
nén mình
lại, chờ xem sao). Anh không có duyên rồi, anh đi tìm em, đối mặt với
em rồi
mà không
đến được với em. Từ hôm anh đến
mấy chị
với em trong đội Hoàng Ngân của em
cứ bảo sao
lâu quá không thấy anh Phương trở
lại. Chỗ
em nằm chỉ cách chỗ anh đào 3 bước
chân xoải
dài ra phía bờ ao (tôi hỏi: Vậy em
nằm trên
vườn hay dưới ao? Đến bờ ao cũng
còn ba
bước chân nữa. Phía trên em chừng 2
mét là
chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội nữ du
kích Hoàng
Ngân, quê ở ngay làng La Tiến.
Cách chỗ
em nằm cũng chừng hai mét về phía
Đông là
một nam, bị bắt từ Hải Dương về, em
không biết
tên. Ba cái mộ gần như nằm trên
một đường
thẳng. Hai người kia cùng bị giết
một ngày
với em. Chúng cột tay ba người lại
với nhau
rồi vất xuống sông vào nửa đêm. Dân
phòng ta
có đi tìm nhưng không thấy. Mãi mấy
ngày sau,
xác mới nổi lên. Dân vớt được thực
ra, dân
cũng là dân phòng giả dạng thôi. Đưa
về đây
chôn, vì thế mà ba cái mộ sát gần nhau.
Xa hơn, còn
mấy người nữa. Chỗ này còn có cả
thẩy bảy
người cơ. Mấy người nổi lên trước thì
dân còn cho
được manh chiếu. Còn nổi lên sau
thì đến
manh chiếu cũng không có, nói gì đến
quan tài!
(vì cháu Hằng hỏi: Chôn cô có quan
tài không?)
Rồi cô chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm, với các
đặc điểm
cây cỏ chung quanh, bắt đầu từ cây
nhãn ở
góc vườn mà tôi nhận ra ngay. Đó là
cây nhãn
giáp với nhà bà Nhờ, tôi đã ngồi ở đó
để theo
dõi việc đào mộ.
Tôi hỏi: Em
có biết chỗ em nằm thuộc về
đất của ai
không? Của bà nào không?
Cô đáp: Em
cũng không biết nữa.
Cháu Hằng
xem ảnh bác Sơn, bảo đúng,
nhưng trông
bác già hơn và gầy hơn trong ảnh.
Thực vậy,
bức ảnh chụp năm 1948, trong tư thế
rất bảnh
trai, khi anh tôi đang công tác ở Sơn
Tây.
Anh nói:
Chú đi tìm em Khang mà chẳng
nói với
anh một câu. (Tôi xin lỗi anh. Nhưng
trong bụng
vẫn nghĩ: Oan em quá, em đâu có
biết anh
còn tồn tại?). Lần sau, chú báo trước
cho anh, anh
sẽ dẫn đường cho chú đến tận
nơi. Người
trên này có tâm đấy, nhưng mò kim
đáy biển,
biết chỗ nào mà đào? Ai khoanh cho
chú chỗ
ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà
khúc sông
ấy hơi cong lại, xác em mình dạt
vào, nếu
không thì đã trôi tuột đi rồi.
Mẹ thì
khóc thương em nhiều lắm, cứ
muốn em về
bên mẹ để mẹ ôm ấp. Còn anh thì anh khuyên em về nghĩa trang liệt sĩ.
Vì đấy là
vinh dự
của em mình, của gia đình mình cơ
mà. Tổ
quốc ghi công mình, đời đời người ta
thắp hương
cho mình, chứ đâu chỉ con cháu
trong gia
đình mình. Vả lại đời anh chị em
mình đã
vậy, chứ đến đời thằng An thì nó còn
biết gì!
(Tôi giật mình, vì thằng An chính là
con tôi, 10
năm sau khi hy sinh, nó mới ra đời).
Hôm nào khi
đưa em Khang về nghĩa
trang liệt
sĩ, chú cũng cần nói lại với bố mẹ
như thế.
Hôm chú đi
tìm mộ em Khang, anh cũng
có theo
dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp đất
nguyên
thủy. Em mình đâu có nằm sâu đến
thế. Chỉ
hơn một mét là đến lớp cát đen rồi.
Em mình
cũng chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này
chú để ý
sẽ thấy mộ t thanh củi mục. Thực ra,
đấy là
cái cán thuổng mà người đào đất đánh
gãy vất
lại đó, vô tình như đánh dấu cho mình.
Bỗng cháu
Hằng nói như ra lệnh: Pha
chén nước
chè!
Tôi hỏi
nhỏ cháu sao lại làm như vậy?
Hằng nói
Bác Sơn bảo: Nói chuyện khan
thế này
thôi à? Cháu Hùng đứng dậy đi ra ngoài, rồi lại
vào ngồi
cạnh tôi. Một lát cháu đứng dậy đi ra
cửa, đỡ
lấy hai chén trà nóng đặt lên bàn.
Cháu Hằng
quay sang tôi nói: Bác Sơn
bảo: Ơ kìa
cái thằng An! Nó vào mà không
chào bác.
Cháu Hằng
và tôi đều ngồi quay lưng ra
cửa, không
để ý ai đã hé cửa đưa chén trà cho
Hùng. Sau
mới biết là cháu An, nó vừa đi làm
về.
Bác Sơn
nói tiếp: Các cháu học sinh nó
không biết
đấy thôi. Người âm không giúp được
gì nhiều,
nhưng cũng có lúc đỡ được. Có lần,
chỉ cần
anh đến chậm một tý thì cháu Trang
đã gặp
nguy hiểm rồi (Tôi kinh ngạc khi anh
nhắc đến
tên cháu Trang con của An).
Tôi hỏi:
Anh bảo sẽ dẫn đường cho em,
làm cách
nào mà em nhận biết được?
Anh nói:
Anh không thể nắm tay chú,
nhưng anh
sẽ tìm con vật nào đấy: con ong, con
bướm chẳng
hạn, sai khiến nó để nó dẫn đường
cho chú.
Làm việc này đối với người âm là khó
đấy, nhưng
anh sẽ cố. Khi thấy con vật chú gọi
nó lại,
rồi đi theo nó đến chỗ nó đậu. Một lúc lâu cháu Hằng không dịch, mà
trao đổi
gì đó. Tôi chỉ nghe cháu nói (cháu còn
con nhỏ.
Vâng, cháu sẽ cố. Sau này hỏi lại,
Hằng nói:
cô Khang cứ thuyết phục cháu đi đến
mộ để cô
nói với cháu, chỉ cho cháu đúng chỗ
cô nằm,
kẻo lại đào chệch như lần trước. Bác
Sơn cũng
dỗ cháu. Bác bảo: Chú Phương chú
ấy quen
tác phong chỉ huy, ra lệnh. Còn bác thì
bác nhờ
cháu. Bác Sơn bác ấy vui tính lắm. Hễ
bác nói
là thấy không khí vui vẻ, phấn khởi
ngay. Còn
cô Khang thì có vẻ hơi buồn.
Cháu Hằng
lại hỏi: Bác Phương muốn biết
chính xác
ngày giỗ của cô. Bác ấy chỉ biết vào
khoảng 20
tháng sáu dương lịch.
Rồi Hằng
nói tiếp: Cô cười bảo: Đối với
anh Phương
thì ngày nào mà giỗ chẳng được.
Em bị
chúng nó bắt, có được bóc lịch đâu mà
biết ngày.
Chỉ nhớ một hôm, khoảng 18 hay 19
gì đó,
thằng quan tư bảo: “Bọn mày cứng đầu!
Đến ngày
24 mà không khai thì bắn bỏ”, anh
cứ lấy
ngày ấy là được. Còn ngày âm lịch em
không biết
là ngày nào.
Anh Sơn bổ
sung: Cứ qua ngày giết sâu bọ
là em Khang
lại bảo anh: Sắp đến ngày giỗ em
rồi đấy.
(Sau này tôi tra lịch thì biết: ngày
24.6.1950
là ngày mùng mười tháng năm âm
lịch).
Rồi anh
nói tiếp: Hôm nào đi tìm mộ em
Khang, các
cô kiếm lấy ít hoa quả, thắp hương
mời chị
em. Người ta chết cùng nhau, mình chỉ
hì hục
đào tìm em mình thì người ta cũng tủi,
phía trên
mộ cô Khang là mộ một chị liên lạc,
cấp dưỡng
cho đội du kích, người địa phương
(cô Khang
nhắc: chị Nguyễn Thị Bê) nên báo
cho gia
đình chị ấy biết mà đến tìm. Chú
Phương kiếm
cho anh mấy bao (cháu Hằng nói:
bao gì
ạ... à vâng), bao thuốc Cáp tăng để anh
mời anh em.
Bây giờ anh cũng chỉ huy cả trung
đoàn đấy.
Bỗng cháu
Hằng nói như ra lệnh: Đốt tiền
đi! Sắp đi
rồi đấy.
Tôi hỏi
nhỏ cháu: Sao lại làm vậy?
Cháu nói:
Bác Sơn bảo.
Chúng tôi
vội hỏi đôi điều về “đời sống”
của anh tôi
và em tôi. Cô Khang nói: Có lần em
về thăm
chị Nghĩa, chỉ đứng ngoài mà không
vào được
(chị Nghĩa là chị lớn nhất nhà của
chúng tôi).
Anh Sơn nói: Em bị chết trôi sông, đã có
ai bắc cầu
đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ
nào cũng
đòi vào. Bận sau đi với anh. Bây giờ
công việc
ở đây đã xong, đi với anh đến nhà
Quỳnh chơi
(Quỳnh là em út của chúng tôi. Tuy
là út,
nhưng cũng đã thành một “ông lão ngoại
60 rồi”).
Chỉ riêng cách xưng hô đó cũng chỉ
nói lên vị
thế và tình cảm của người anh cả đối
với thằng
em út.
Nói rồi,
biến mất. Cuộn băng ghi âm 90
phút cũng
vừa hết.
Sau đó tôi
nghe lại băng ghi âm nhiều
lần. Quả
thật lại quá nhiều điều bí ẩn do chính
anh tôi nói
ra mà tôi không kịp hỏi lại. Nhưng,
qua những
tên người trong gia đình được nhắc
đến một
cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự
hiểu biết
về tính cách từng người còn sống,
cách xử
sự và tâm tư tình cảm của người nói,
tôi nhận ra
đúng là anh tôi và em tôi. Người
khác, dù
biết rõ gia đình tôi đến mấy, cũng
không thể
sáng tác ra một kịch bản như thế,
huống hồ
là cháu Hằng, một người mà tôi vừa
mới gặp
lần đầu. Cháu chỉ đơn thuần đóng vai
người phiên
dịch, chăm chú lắng nghe, hỏi lại
cho đúng
rồi nói lại. Cháu hỏi han, vâng dạ,
trao đổi
với người chết cứ như nói chuyện với người sống đang ngồi trước
mặt, hoàn toàn
không phải
là một cô đồng nửa tỉnh nửa mê.
Nếu thừa
nhận người đang nói đúng là
anh tôi và
em tôi thì không thể không thừa
nhận: Sau
khi người ta chết đi, vẫn còn lại một
cái gì đó
mà ta quen gọi là linh hồn. Nhưng
linh hồn
là gì? Tôi tự hỏi. Nó phải tồn tại dưới
một dạng
vật chất nào đó thì cháu Hằng mới
nhìn thấy
và nhận diện được qua tấm ảnh. Nó
phải phát
ra tiếng nói qua một tần số nào đó
thì cháu
Hằng mới nghe thấy mà nói lại cho
tôi. Đối
với tôi nó là vô hình, nhưng đối với
cháu Hằng
thì nó lại là hữu hình. Đối với tôi
nó là câm
lặng, nhưng đối với cháu Hằng thì
nó lại
phát ra những âm thanh có thể nghe
thấy,
những âm thanh này chuyển tải đủ cả
những sắc
thái sống động của tình cảm, của tư
duy, hệt
như tiếng nói của người sống vậy .
Nếu linh
hồn đã là một dạng vật chất có
hình thù
và khả năng phát ra âm thanh thì
“theo cách
nói của triết học” nó thuộc phạm trù
“Tồn tại”
mang tính khách quan, chứ không
thuộc phạm
trù ý thức mang tính chủ quan.
Nhận biết
nó hay không nhận biết đượ c nó, là
tùy ở khả
năng của từng người. Cháu Hằng có
khả năng
nhận biết được nó. Còn tôi thì không. Nhưng đâu phải vì tôi không có
khả năng nhận
biết được
nó mà tôi có quyền phủ nhận sự tồn
tại của
nó? Đối với tất cả những gì ta chưa có
khả năng
nhận biết được chớ vội vất vào cái sọt
rác mê tín
dị đoan thì khoa học còn việc gì để
làm, còn
gì để khám phá? Lâu nay, tôi đinh
ninh mình
là duy vật, hóa ra chính mình lại là
duy tâm chủ
quan: “Cái gì ta cho là tồn tại thì
nó tồn
tại, cái gì ta cho là nó không tồn tại thì
nó không
tồn tại, nó chỉ là mê tín dị đoan!”.
Lần đầu
tiên trong đời tiếp xúc với linh
hồn, tôi
nhận ra như thế, hoặc suy ra như thế.
Tuy nhiên,
cũng còn phải chờ cuộc đào bới tiếp
mới kiểm
nghiệm được những thông tin do linh
hồn cung
cấp là đúng hay sai.
Vùng đào
bới tiếp lại trùng hợp với vùng
đào bới do
anh Nhã chỉ dẫn. Vì vậy, cũng là
một việc
để kiểm nghiệm lại cái trận đồ bát
quái của
anh.
Hy vọng và
hoài nghi lẫn lộn, tôi nóng
lòng chờ
ngày hẹn của cháu Hằng để cùng về
La Tiến.
Cuối cùng ngày hẹn được ấn định:
17.8.1999.
Ngày
17.8.1999 cuộc đào bới lần thứ hai. Ngay sau khi nhận được hẹn của
cháu
Hằng, tức
là 4 ngày trước khi tiến hành cuộc
đào bới
lần thứ hai, tôi cử chú Quỳnh cùng anh
Tân Cương
về La Tiến làm các công việc chuẩn
bị. Khi
còn cách La Tiến 40 cây số, anh Tân
Cương gọi
điện cho anh Nhã. Anh rất mừng
khi biết
tin Bích Hằng vào cuộc. Lần này anh
cho Tân
Cương một tín hiệu: 10 giờ hôm đó, sẽ
có hai con
bướm màu bay lượn quanh mộ rồi
đậu lại,
hãy đánh dấu lấy chỗ đó.
Đến nhà
ông Điển, đúng giờ hẹn, anh Tân
Cương ra
gốc nhãn ngồi. Cái hố mà chúng tôi
đào hôm
trước nay đã được lấp bằng. Một lát,
có hai con
bướm đen đốm hoa bay đến, rồi một
con bay đi,
một con đậu lại trên cành nhãn.
Anh Tân
Cương chiếu thẳng từ cành nhãn
xuống đất
cắm một cây que đánh dấu lại. Cây
que cách
chỗ tôi đặt quả trứng hôm trước 2 mét
ra phía bờ
ao. Ông Điển đứng bên tường hoa
theo dõi,
chỉ tủm tỉm cười. Vào trong nhà ông
mới kể:
Sau lần đào bới hôm trước, ông mời
“thầy” về
cúng, thầy bảo mộ cô nằm cũng ở chỗ
cây que đó.
Nghe anh Tân
Cương thuật lại câu
chuyện, tôi
chỉ biết ghi nhận. Tất cả còn phải
chờ kết
quả cuộc đào bới tiếp. Nhưng nếu đúng thì thật kỳ lạ. Anh Nhã ở
tận Sài Gòn, làm sao
điều động
được hai con bướm đến một điểm chỉ
cách thành
hồ cũ 1 mét? Điểm ấy đúng như ý
anh chỉ
đạo lần trước là phát triển về hướng
Nam, nhưng
không phải về hướng Nam như tôi
đã thực
hiện, mà xa hơn. Còn bà “thầy vườn”?
Chẳng lẽ
đất nước này cũng lắm người có tài
năng kỳ
bí, chứ không phải chỉ rặt một hạng
người buôn
Thần bán Thánh nhảm nhí?
Trong những
việc tôi nhờ anh Tân Cương,
có việc
điều tra xem trong danh sách liệt sĩ của
xã, có ai
là Nguyễn Thị Bê. Anh thất vọng kể
lại: Chẳng
những lục tìm sổ sách mà còn đi hỏi
rất nhiều
cụ 70 tuổi trong làng, không đâu biết
có một
cái tên như thế. Đối với tôi thì sự thất
vọng càng
lớn. Vậy là em gái tôi nói sai? Và cả
anh tôi
nữa. Thậm chí anh tôi còn nói cụ thể
chị ấy là
liên lạc cấp dưỡng của đội du kích.
Em gái tôi
và anh tôi thì tôi biết là người
không thể
nghi ngờ được. Vậy dấu hỏi phải đặt
vào người
nói: Có thật là người nói em gái tôi
và anh tôi
không?
Tối hôm
16.8, tôi không quên thắp hương
và báo
cáo với anh tôi rằng sớm ngày mai
chúng tôi
sẽ về La Tiến tìm mộ em Khang. Đến nơi, chị tôi theo đúng lời dặn
của anh
Sơn, bày
hoa quả vào mâm đặt lên tường hoa,
cháu Hằng
khấn mời. Khấn xong, cháu cầm bó
hương, đi
thẳng ra gốc cây vải (cách gốc cây
nhãn 6 mét
về hướng Đông, cả hai cây đều sát
bờ ao).
Ngắm nghía rồi cắm hương xuống đất.
Lấy bó
hương làm tâm, cháu vạch một cái hố
hình chữ
nhật để đào. (Sau này Hằng bảo tôi:
Khi cháu
đang khấn thì đã thấy bác Sơn và cô
Khang đứng
ở gốc cây vải cô vẫy cháu lại rồi
chỉ cho
cháu chỗ cắm hương, đầu và chân ngôi
mộ).
Nhìn bó
hương của Hằng, tôi thấy nó cách
quả trứng
của tôi 3 mét ra phía bờ ao, nhưng
lại lui về
hướng Đông dọc theo bờ ao 2 mét
nữa. Cái
hố mà cháu vạch không nhằm thẳng
hướng Tây -
Đông như cái hố hôm trước mà
đầu về
hướng Tây Bắc, cuối về hướng Đông
Nam, sát
gốc cây vải nghĩa là gần như vuông
góc với
cái hố hôm trước. Cái hố mới nằm
ngoài hình
tam giác hôm trước, cạnh của nó là
cạnh đáy
của hình tam giác nối dài ra phía bờ
ao.
Trong khi
thợ đào đất chuẩn bị làm việc,
Hằng đặt
ảnh cô Khang ở dưới gốc cây vải; rồi
nói: - Thưa
cô, chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo
chỗ cô
chỉ. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu
nhìn thấy,
còn rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra.
Vậy xin cô
cho phép bốc lẫn cả đất mang về.
Nếu không
được đầy đủ thì cô cũng thông cảm
cho. (sau
này tôi hỏi Hằng: Cháu nhìn thấy
hiện trạng
của hài cốt thật ư ? Hằng nói: cháu
nhìn thấy.
- Hồi năm
1994, tìm hài cốt 13 liệt sĩ ở
núi Non
Nước - Ninh Bình, cháu nhìn thấy hài
cốt bị
vùi dưới lớp đất sâu 4,5 mét. Khi đào
đến độ sâu
3 mét, không thấy gì, mọi người đã
nản, nhưng
cháu yêu cầu đào thêm, vì cháu đã
nhìn thấy
hài cốt ở độ sâu ấy).
- Cô Khang
nói: Lần này nhìn thấy cậu
Quỳnh là
chị phấn khởi rồi, cậu Quỳnh mà đi
thì chắc
là được (Lần trước Quỳnh không đi,
Quỳnh lại
là người tin vào thần Phật). Còn anh
Dung (Tôi
tên thật là Vũ Văn Dung) thì thần
thánh anh
ấy cũng chẳng sợ, có khi chỉ nhiễu
quan trần,
còn quan âm thì chẳng ai giúp
mình. Anh
Sơn tức anh Nhung nhà mình (tên
thật của
anh tôi là Vũ Văn Nhung) cũng ở đây
suốt từ
sáng. Anh cứ bảo sao mình chưa đến.
Anh trách
cháu An, nếu mà có kiên trì, bình tỉnh thì đã đưa được cô về từ
lần trước để thu
dọn chiến
trường.
- Cháu
Hằng hỏi: Ai là Hậu? Cô gọi chị
Hậu. Chị
tôi vội chạy từ trong nhà ra. Cô
Khang nói
tiếp:
- Chị đã
xuống đây mà không ra với em,
lại cứ
ngồi trong ấy. Hài cốt của em thì không
còn nguyên
vẹn. Nhưng chị bốc cho em một
nắm đất
về quê mình thì em cũng mừng rồi. Ở
đây tuy có
nhiều chị em đồng đội, nhưng không
phải là
ruột thịt, cả năm cũng chả ai đến thắp
cho một
nén hương. Chả lẽ cứ ở đây quấy quả
nhà ông An
mãi!
- Bác Sơn
nói: Cứ bốc cho bằng hết, dù ít
dù nhiều
thì cũng là máu thịt của em mình.
Không bỏ
vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho
em. Cái con
Uyên là người hợp với em nhất,
được cô cho
nhiều lộc nhất, đáng lẽ hôm nay nó
đi thì mới
phải (Uyên là con gái út của tôi, nó
đã đi hôm
đầu tiên).
- Anh Tân
Cương hỏi cô có biết cháu là ai
không?
- Cô Khang
nói: Nếu tôi không biết anh
Cương thì
hóa ra tôi vô tình quá , Anh lăn lộn
với tôi
nhiều. - Bác Sơn bổ sung: Thằng Tuấn Anh chưa
chắc đã
lăn lộn với cô bằng anh Cương (Tuấn
Anh là con
thứ hai của tôi, nó sinh ra mấy
ngày sau
khi anh tôi hy sinh).
- Tân Cương
lại hỏi: Ai mai táng cô, cô có
biết không?
Nhiều người không tin là thi thể cô
có thể
trôi dạt vào đây. Cô vừa nói đến ông An,
là ông An
nào, ở đâu?
- Cô Khang
nói: Nếu có cách gì là cho cụ
Đặng Đình
Giám sống lại thì gia đình mình
khỏi mất
công tìm kiếm. Rất tiếc là đã gặp cụ ở
âm phủ mất
rồi. Em bị chúng nó ném xuống
sông, khi
xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt
vào một
khúc quanh, được cụ Giám vớt lên, kéo
qua một
cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo:
Mấy vị
chết ở đây, nếu đói khát, khi nào nhà
ông An lên
hương thì vào mà xin lộc.
- Được chị
động viên, Quỳnh kể về quá
trình đi
tìm hài cốt của chị, trong đó có đoạn:
Chị Tiến
và chị Nhương báo cho gia đình mình
đến nhận
bộ hài cốt chôn ở gốc đa phía trên
bến đò.
Người ta bảo cô Chử Thị Dung ở Thái
Bình đã
tìm thấy hài cốt của bố cô ấy chôn
cùng với
người phụ nữ đó. Để xác minh, em đã
theo dấu
chân cô ấy từ Thái Bình đến tận Vũng Tàu. Nhưng cô ấy nói rằng
chính cô ấy
cũng tìm
thấy hài cốt của bố cô ấy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!