Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Như vậy,
Niết Bàn không
phải là một cảnh giới mà là một
trạng thái của tâm không còn tham, sân, si nữa phải không quý vị?
Cho nên, Niết
Bàn là một trạng thái của tâm mình, khi
người tu chứng có về đâu? Ngay chỗ trạng thái
tâm hết tham,
sân, si, mạn, nghi là chỗ về. Chỗ trạng thái tâm hết
tham, sân, si, mạn, nghi là Niết Bàn, chứ đâu có cảnh giới Niết
Bàn để về. Khi
tu xong
tâm không còn tham,
sân, si nữa,
thì chỗ tâm không
còn tham, sân, si, mạn, nghi
chính là Niết
Bàn, chứ không còn chỗ nào
khác gọi là Niết Bàn như
trên đã nói.
Còn có chỗ
nào khác gọi là
Niết Bàn
thì chỗ ấy là cõi tưởng, cõi
không có
thật.
Niết Bàn
cũng như một bàn tay có mặt và trái, trái là tham, sân, si, mạn nghi; mặt là
không tham, sân,
si, mạn, nghi.
Vậy trái và mặt
của một bàn
tay có phải
là một bàn
tay hay là hai
bàn tay? Chỉ
có một bàn
tay mà thôi, nhưng
mặt trái của
bàn tay thì không giống mặt phải của bàn tay. Mặt
trái là sự khổ đau, mặt phải là sự hết khổ
đau. Do đó, chúng ta suy ra Niết Bàn không phải là một cảnh giới mà là một
trạng thái của tâm mình không còn tham,
sân, si, mạn nghi nữa.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Niết Bàn là
một danh từ để chỉ cho một trạng
thái của tâm,
chứ không phải
Niết Bàn là một cảnh
giới theo kiểu của các
nhà học giả dựa theo kinh sách phát triển giàu tưởng
tượng bịa đặt ra để lừa đảo con người.
Vì thế, người
tu chứng đạo khi bỏ thân tứ đại
này thì không có về cõi Niết Bàn
mà họ đang ở trong Niết Bàn, vì
ngay khi còn sống họ tu chứng thì luôn
luôn sống trong
trạng thái Niết Bàn của tâm họ,
mà ở trên Thầy đã dạy: “Bất Động Tâm Định”.
Nếu chúng ta
không gọi nó là Niết bàn mà gọi nó là
“TÂM KHÔNG THAM, SÂN,
SI, MẠN, NGHI” hay gọi cách khác
nữa là “TÂM THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰï” hay gọi khác nữa là “DIỆT ĐẾ”
như trong kinh TỨ DIỆU ĐẾ hay
gọi là “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ SỐNG KHÔNG
LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ
NGƯỜI VÀ KHỔ CẢ HAI”
thì có gì là khác đâu.
NGƯỜI TU HÀNH CHƯA GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN CÓ BỊ VÔ MINH CHE MỜ VÀ CẦN TIẾP TỤC TÁI SANH KHƠNG?
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Người tu
chưa giải thoát hoàn toàn, lỡ giữa đường tu chết đi, người ấy
có bị tái
sanh không? Họ
có bị vô minh
che lấp không? Họ
có biết mình
là ai ở kiếp trước tu những gì không?
Đáp: Người
tu hành đúng chánh pháp của Phật là phải sống đúng
giới luật, sống
đúng giới luật tức
là sống trong
thiện pháp, sống trong
thiện pháp thì tâm
tham, sân, si của họ giảm bớt rất nhiều, do sống trong thiện
pháp nên họ thường
tạo nghiệp thiện,
nghiệp thiện thì không còn
tái sanh làm
người và như vậy
Thầy đã
trả lời câu
hỏi thứ nhất
của con, nhưng ở
đây con nên nhớ:
Pháp thiện có hữu
lậu và vô lậu. Thiện hữu lậu vẫn còn tiếp tục đi tái sinh luân hồi, chỉ có thiện
vô lậu mới chấm dứt tái sinh. Đó là điều chắc chắn mà không ai phủ nhận được.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Người sống
trong thiện pháp
còn bị vô minh che lấp hay không? Không, tại sao vậy?
Vì đối với đạo Phật
người có tri kiến
giải thoát ở đâu là đạo đức ở đó, đạo đức ở đâu là tri kiến giải thoát ở
đó. Vậy đạo đức là gì? Đạo đức là giới luật,
là thiện pháp,
là pháp không làm khổ
mình, khổ người.
Người không làm khổ
mình, khổ người
là không bị vô minh
che lấp và như vậy
khi chết bỏ thân
này họ đều biết
kiếp trước của
mình là ai? Ở làng
nào, tỉnh nào, nước
nào? Tên họ của kiếp
trước là gì? Cha
mẹ là ai?
Làm nghề nghiệp
gì? Tu pháp môn gì? Sống như thế
nào ? Và chết như thế nào? Như vậy, Thầy đã trả lời câu hỏi thứ hai của con.
Những người
tu hành không
đúng pháp của Phật nghĩa là họ
không tu “Giới, định, tuệ” tức
là không tu đức hạnh
thiện pháp đạo đức
mà tu luyện theo tà giáo ngoại đạo thì phải tái sanh luân hồi và bị vô minh che
lấp. Trước khi chết họ thường
phải thọ lấy bệnh tật khổ đau như
người thế tục
và mê man
không tỉnh táo nên
bị nghiệp lực
tương ưng với môi trường
ác bất tịnh tái sanh nên không còn biết gì cả (mê muội).
NGƯỜI ĐIẾC
KHÔNG SỢ SÚNG
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Người kiếp này khổ đau nghèo
khó xét theo luật
nhân quả là kiếp trước họ làm nhiều điều không tốt,
làm ác, nói chung là thường làm khổ mình, khổ người hoặc kiếp
này làm nhiều
điều ác không
tốt khiến mình khổ người
khác khổ và kiếp sau sẽ thọ quả khổ, xong cả hai kiếp
quá khứ và vị lai cũng không biết
mình là ai cả, cũng
như con hiện giờ đây, con đâu có
biết kiếp trước mình là ai? Ở đâu vậy? Vì thế họ đâu có sợ làm điều ác, vì
kiếp sau họ đâu biết họ là ai để mà đau, mà khổ, mà hối tiếc, mà ân hận v.v.. Vậy
định luật nhân quả có hạn chế
không? Mong Thầy
giải thích cho con hiểu.
Đáp: Định
luật nhân quả
như cháu đã hiểu đó là luật nhân quả của kinh sách
phát triển, chứ không phải là đạo đức nhân quả. Đạo đức nhân bản - nhân quả tức
là đạo đức gốc của con người. Ví dụ một lời nói
làm cho người khác
buồn khổ là
mình thiếu đạo đức nhân bản. Cho nên, đạo đức nhân bản - nhân quả
rất thực tế, không mơ hồ, trừu tượng như nhân quả
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
của kinh sách
phát triển, nhân
kiếp trước thọ quả
kiếp này, nhân kiếp này thọ quả kiếp
sau, đó là một hình thức mơ hồ, trừu tượng, không logic, kẻ gieo nhân và người
gặt quả không chủ thể, khiến cho
người ta không
đủ lòng tin. Kinh sách phát triển thường dạy nhân quả
trừu tượng để lừa đảo con
người và đã biến luật nhân quả
trở thành luật định mệnh hay gọi là số mệnh.
Luật nhân quả
của đạo Phật không phải là luật số mệnh, vì luật số mệnh có nghĩa là có sự cố định
không thay đổi được. Nếu có luật nhân quả cố định nào như vậy thì đạo Phật sẽ
không xuất hiện trên đời này vì không giải quyết mọi sự khổ đau của loài người
và tất cả chúng sanh.
Đối với đạo
Phật thì luật nhân quả là những hành động sống hằng ngày trong môi trường duyên
hợp, duyên tan của các pháp vô thường, thường thay đổi di dịch, biến động liên
tục theo các hành của nó. Nếu hành động ác thì sự đau khổ tăng
lên nhiều, nếu
hành động thiện thì sự khổ đau giảm
xuống và giảm xuống dần rồi đi đến hết khổ đau mà đạo Phật gọi là giải thoát
hay là Niết
Bàn, ngược lại
hành động càng ác thì
sự khổ
đau càng tăng dần đi
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
đến khổ
đau tận cùng mà đức Phật gọi là Địa
ngục.
Vì rõ thấu
môi trường sống của luật nhân quả vô thường như vậy, nên đạo Phật ra đời,
ra đời xây dựng cho loài người một nền đạo đức nhân bản – nhân quả để mọi người
cùng sống không làm khổ mình, khổ
người bằng cách ngăn
ác diệt ác
pháp trong tâm, sống thiện tăng trưởng thiện pháp.
Nhân quả của kiếp
trước tạo nên một môi trường sống cho hiện tại chứ nó
không còn nhân quả nối tiếp với
hiện tại nữa. Nhân quả quá khứ ví như đám ruộng. Đám ruộng bạc mầu chai xấu
không mầu mỡ
là nhân quả
quá khứ ác, còn đám ruộng mầu mỡ
đất phù sa là nhân quả quá khứ thiện.
Nhân quả hiện
tại ví như hạt giống tốt, ngọt, ngon, béo v.v.. mà được gieo trồng trên mảnh đất xấu, không
mầu mỡ (nhân
quả quá khứ ác) thì sự chăm sóc rất
vất vả và cực nhọc mới có quả
tốt để hưởng.
Thiện chuyển ác thành phước báo.
Nhân quả hiện
tại ví như hạt giống xấu, chua, cay, đắng v.v.. mà được gieo trồng trên mảnh đất
xấu “nhân quả quá khứ ác”, thì sự chăm
sóc phải gian
nan cực nhọc,
nhưng lại
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
hưởng quả
chua, cay, đắng
và còn cay đắng
hơn, đó là quả Địa Ngục. Ác cộng ác thành Địa Ngục.
Mảnh đất tốt
mầu mỡ (nhân quả quá khứ thiện) được gieo hạt giống tốt ngọt ngon (nhân quả hiện
tại thiện) thì thọ hưởng quả an vui, phước báo, hạnh phúc, an lạc v.v..
Mảnh đất tốt
mầu mỡ (nhân quả quá khứ thiện)
nhưng lại được
gieo trồng hạt
giống chua, cay, đắng (nhân quả hiện tại ác) thì cũng phải gặt lấy
sự khổ
đau, mặc dù nhân quả
quá khứ tốt thiện, nhưng
cũng không mang lại cho
chúng ta
hạnh phúc, an vui
được, bởi vì
nhân quả quá khứ không còn là nhân quả nữa, nó chỉ còn là một
môi trường sống của muôn
loài vạn vật đang sống chung nhau mà
thôi, chỉ có nhân quả hiện tại mới đáng cho chúng ta lưu ý, khổ, vui, hạnh phúc
hay không hạnh phúc đều do nhân quả hiện tại mà
có. Do quy luật chuyển đổi được nhân quả này, đạo Phật ra đời
dạy chúng ta ngăn ác pháp diệt ác pháp, sống thiện tăng trưởng thiện là để
chúng ta thoát khổ, chứ không có nghĩa
dạy chúng ta đi tìm
một cảnh giới Niết Bàn ở đâu xa mà cũng
không có nghĩa đi tìm nhân quả
quá khứ để biết mình
kiếp trước là ai?
Làm gì? Sống ở đâu? Tỉnh nào,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
huyện nào,
xã nào và nước nào?
Tìm như vậy có ích lợi gì?
Phỏng chừng
khi biết quả quá khứ như vậy
thì có lợi ích những
gì cho chúng ta trong hiện giờ
chăng? Đó là một lối hý luận của kinh sách
phát triển để biến đạo đức nhân
quả thành một triết thuyết nhân quả suông chuyên tranh luận hơn thua.
Suy ra sự khổ
đau của con người là ở nhân quả hiện kiếp chứ nhân quả quá khứ và vị lai không
có nghĩa lý gì cả đối với một người sống thiện, hành thiện trong hiện tại. Sống
thiện, hành thiện trong
hiện tại là
có một cuộc sống
an vui,
hạnh phúc, còn
ngược lại cho rằng
chẳng biết mình ở quá khứ và vị lai
là ai để chịu
đau khổ, ân hận, hối tiếc về
sau, thì hiện tại cứ làm
ác đâu sợ vì
kiếp sau có biết
ai đâu để mà
đau, mà khổ, mà tiếc, mà
ân hận v.v.. Nghĩ như vậy thì cứ làm rồi kết quả hiện
tại sẽ thấy. Ví dụ: cứ đi
ăn trộm, ăn cướp, hiếp
dâm lấy vợ người
thì sẽ thấy quả khổ của
nó ngay liền, bị người bắt
đánh đập và
tù tội có khi
mang án tử hình, v.v.. Đó là quả hiện tại chứ đừng bảo sẽ trả quả ở
tương lai ai trả mặc kệ
họ.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Sự tư duy
như vậy là không hiểu nhân quả của đạo Phật. Đức Phật dạy:
“Quá khứ
không truy tìm
Vị lai không
ước vọng
Chỉ có pháp
hiện tại”
Ba câu kệ trên
đây đức Phật
khéo nhắc nhở chúng ta, nhân quả
quá khứ và vị lai đừng truy tìm, vì có
truy tìm thì cũng chẳng có ích
lợi gì, chỉ có nhân quả hiện tại là
đáng kể cho đời sống của chúng
ta, vui buồn, khổ đau phiền não đều do nhân quả hiện tại.
Con người sống
chỉ có khổ hay vui trong kiếp hiện tại
mà thôi, trong
hiện tại mà làm
ác, sống
ác, tức là
làm khổ mình,
khổ người, khổ tất cả chúng
sanh, điều này
không thể chạy trốn
đâu khỏi sự đau
khổ, luật nhân
quả rất công bằng
và công lý,
không tha thứ
và vị tình ai cả
trong hiện tại,
ngược lại trong
hiện tại làm thiện, sống thiện tức là không làm khổ mình, khổ
người, khổ tất cả chúng
sanh, điều này dù muốn dù không
người này vẫn phải hưởng phước báo an
vui, hạnh phúc trong hiện
tại.
Luật nhân
quả xử phạt
công minh trong hiện
kiếp, là do hành
động ác thiện
của mình
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
mà mình
thọ hưởng quả khổ vui
trong hiện kiếp, còn
nhân quả quá khứ và vị lai
thì chỉ còn là một nền tảng cho nhân quả hiện kiếp do nhân quả mới đâm
chồi nảy lộc.
Nhân quả
thiện ác trong
hiện kiếp trả chưa xong còn tồn động dư thừa,
khi người ấy chết thì sự
thọ khổ vui
cũng tan biến thành
một môi trường
sống, nếu làm
ác thì môi trường sống ấy trở thành một hoàn cảnh thiếu trước hụt sau, khi nhân quả
sanh ra trong một đời sống cơ cực,
ba chìm bảy nổi, vất vả vô cùng,
còn ngược lại
làm thiện, sống
thiện thì môi trường
sống kế tiếp khi nhân quả
sanh ra không thiếu trước hụt sau, đời sống không cơ cực, không
ba chìm bảy nổi,
lúc nào cũng gặp
may mắn,
tiền của dư thừa,
có khi nhân quả vừa
sanh ra trong môi
trường (hoàn cảnh)
thì có kẻ hầu người hạ, được học hành đến nơi đến chốn và còn được học đạo
đức làm người sống toàn thiện.
Luật nhân quả
không tha thứ giảm tội cho những kẻ vô tình làm ác. Vô tình làm ác thì cũng phải trả
vay sự khổ đau như kẻ
hữu ý, vì thế đức Phật nói vì vô minh mà chúng sanh tự làm khổ,
vô minh tức
là vô tình,
vô ý chứ
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
không có
nghĩa là ngu si tối tăm như mọi người hiểu.
Vô minh
không phải là
không biết mà biết sai sự thật, biết không chánh kiến,
biết sai sự thật, không
chánh kiến tức
là vô tình làm ác. Do vô tình hiểu biết
không chân chánh tức là không có chánh kiến như trên đã nói. Vì thế con
người mới làm
ác. Làm ác
nên cuối cùng phải chịu lấy muôn ngàn sự khổ đau trong
kiếp hiện tại.
Người không
biết nhân quả
không sợ nhân quả mà cứ làm ác
thì cũng chịu đủ mọi sự khổ đau trong hiện kiếp.
Sau này có dịp được đọc sách Đạo Đức Làm
Người thì cháu sẽ hiểu
nhiều hơn về môn đạo đức này.
CÓ THÂN NGƯỜI
MỚI ĐỦ
ĐIỀU KIỆN TU HÀNH THÓAT KHỔ
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Trong sách của Thầy có nói: “Người đánh mất thân này đến muôn ngàn kiếp
sau cũng khó mà được làm người, ví như con rùa mù tìm bọng cây ngoài biển”, theo con hiểu
đó là sau lúc
chết đi, đến kiếp sau họ đâu còn biết họ là ai nữa, đó
là cái nghiệp khổ của họ, chứ không phải họ chết rồi bị đi đầu
thai làm các
con vật khác, phải vậy
không thưa Thầy?
Đáp: Sự hiểu
biết của cháu là sự hiểu biết chấp đoạn, cái
nghiệp ác kia tiếp
tục đi tái sanh luân hồi, cái nghiệp đó do ai làm
ra? Có phải chính trong cuộc sống của
chúng ta đã tạo ra nó không? Khi con người còn sống thường huân tập ác và thiện
do lòng ham muốn tạo ra. Khi người chết chẳng
còn một vật gì
cả nghĩa là không
có thần thức,
Phật tánh hoặc
linh hồn, tất cả đều hoại diệt theo thân xác của họ, nhưng cái còn lại
là gì?
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
Hành động
thiện ác của chúng ta còn lại, nó trở thành
một cái lực rất mạnh,
nên kinh gọi nó là nghiệp lực.
Nghiệp lực cũng giống như đứa con của chúng
ta sanh ra, tạo
ra, rồi đứa con nghiệp lực của
chúng ta lại sanh ra cháu nghiệp lực của chúng ta, cháu nghiệp lực của chúng ta
lại sanh ra chít nghiệp lực
của chúng ta và cứ thế mãi mãi sanh ra trong vô lượng kiếp. Và mỗi nghiệp
lực sanh ra như
vậy đều do chúng ta mà có, thế mà
chúng ta vô trách nhiệm với những
nghiệp lực này
sao? Khi mà những nghiệp lực này
mang đầy đau khổ lúc nó thọ lấy thân
người hoặc thân
chúng sanh và mãi
mãi muôn đời
muôn kiếp thì chúng
ta là người cha (thân ngũ uẩn)
sanh nó ra, cớ sao chúng ta không thấy trách nhiệm mình sao?
Trong thư
con hỏi: “Sau lúc chết đi, đến
kiếp sau, họ đâu còn biết họ là ai nữa, đó là cái nghiệp khổ của họ, chứ không
phải là họ chết
đi bị đầu thai làm các con vật, phải không thưa Thầy?”.
Ví dụ: Như
cháu có một đứa con, cháu có muốn cho đứa con ngoan tốt, hiền lành có hiếu thảo,
chăm học, không ham chơi hay muốn có một
đứa con không
ngoan tốt, hung dữ, bất hiếu, không chăm học, thích chơi đùa
không?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Nếu cháu có
một đứa con ngoan tốt hiền lành, có hiếu thì cháu có sung sướng không? Chắc hẳn
là sung sướng
phải không cháu? Bằng
ngược lại cháu
có một đứa
con không ngoan tốt, tánh
tình hung ác, bất hiếu
thường thích chơi, không thích học thì cháu có khổ không? Chắc hẳn là khổ
rồi phải không cháu? Và như vậy, dù biết hay không biết về nghiệp của cháu ở quá khứ hay vị lai,
cháu cũng đều phải có trách nhiệm trong hành động thiện,
ác của cháu đối với nghiệp. Vả lại, trong hiện kiếp của cháu, sự khổ vui của đời
cháu đều do chính hành động nghiệp
thiện ác của
cháu, nhưng trong thư
cháu bảo: “Cũng
không biết kiếp trước mình là ai
cả, cũng như con, giờ đây con đâu
biết kiếp trước mình là ai?
Ở đâu? Do vậy họ đâu
có sợ làm điều ác,
vì kiếp sau họ
đâu biết họ là
ai để mà
đau, mà tiếc,
mà ân hận v.v..”.
Như Thầy
đã dạy: Dù
con có biết
hay không biết kiếp đã qua và kiếp vị lai của con là ai? Nhưng
trong hiện tại
con làm điều ác thì
con không thể tránh khỏi mọi sự khổ đau. Vì thế, con phải có trách nhiệm bổn phận
về đời sống hiện tại của con, nhất là con phải thấy và hiểu biết
trách nhiệm và bổn phận của con
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
trong cuộc sống
hiện tại là con không nên làm khổ con, không nên làm khổ người khác bằng những
hành động ác thân miệng ý của con, vì những hành động ác ấy trong hiện tại đã
khiến cho đời sống hiện kiếp của con phải
gặp nhiều sự bất hạnh, khổ đau, bất toại nguyện và cay đắng, v.v..
Con có biết
không? Cho nên,
con còn phải hiểu biết về luật nhân quả đang chi phối những hành động
nghiệp thiện ác của con ở tương lai sau
này, vì những hành động thiện ác của con
trong hiện kiếp mà vị lai
bao nhiêu chúng sanh do nghiệp thiện ác ấy sanh ra phải chịu khổ đau,
vui buồn, bất an, bất toại nguyện, v.v.. Đó
là trách nhiệm
đạo đức làm
người con ạ! Con không thể thờ ơ
để cho hành động thiện ác của con đi
tái sanh mặc khổ
vui kệ nó. Bởi
vậy đức Phật dạy: “chúng sanh là những
người thừa kế của nghiệp, nghiệp là cha đẻ ra chúng sanh”, thừa kế của
nghiệp tức là
nghiệp sanh ra chúng ta ra.
Nếu chúng ta
có đôi mắt nhìn xuyên thủng qua lớp áo
thân nghiệp của chúng sanh thì chúng
ta sẽ thấy tất cả
chúng sanh đều do
nghiệp lực của
chúng ta sanh
ra, chừng đó chúng ta có nỡ lòng nào ăn thịt chúng sanh
không? Vì cầm dao cắt cổ gà, đập đầu cá là cầm
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
dao cắt cổ cha
mẹ mình,
là đập đầu
con cháu mình, thì thử hỏi
con người có tình cảm,
biết khổ đau biết thương khóc, biết nức nở khi
mất cha, mất mẹ thì
làm sao chúng ta
có những hành động ác ấy được.
Còn ăn thịt chúng sanh là như ăn thịt
cha mẹ, con cháu của
mình chứ đâu phải ai xa lạ, chỉ
có loài thú vật mới không có sự hiểu
biết, mới ăn thịt cha mẹ
con cháu như vậy, nhưng
con người thì chúng ta sao
nỡ có những hành động ác độc ấy được, là con
người thì không thể sống như con thú vật được, vì con người sống có đạo đức làm
người, sống có tình cảm, sống có trí
tuệ hiểu
biết thì không thể nào sống man rợ
hung ác như loài cầm thú được.
Ví dụ: Để
cháu thấy nghiệp lực một người bình
thường không có sân, đến khi gặp
việc trái ý, nghịch lòng, người ấy tức giận giống như một con thú dữ, đó
gọi là nghiệp lực của sân.
Chúng ta giết hại
chúng sanh để
ăn thịt lâu ngày thành thói quen
ăn thịt, thói quen ăn thịt tức là nghiệp lực nên khi ăn uống không có thịt
chúng sanh thì ăn uống không ngon, do đó nghiệp thích ăn thịt chúng sanh vẫn
còn nên tương ưng với thịt chúng sanh mà tái sanh làm chúng sanh,
một nghiệp lực
như vậy có thể
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
sanh ra làm
trăm muôn con vật để rồi tiếp tục sanh tử theo
nghiệp của nó,
vay trả trả
vay, còn những nghiệp
lực thiện cũng
tiếp tục tái sanh
làm người, một
nghiệp lực thiện
có thể sanh ra nhiều người
tùy theo môi
trường sống của hành tinh, tức là
môi trường nhân quả trên quả địa cầu này.
Mặc dù họ
không biết họ là ai trong kiếp kế, nhưng nghiệp lực thiện ác của họ luôn luôn
tiếp tục
tái sanh luân hồi
làm mọi thân chúng sanh khi cuộc
sống hiện tại họ đã giết hại chúng
sanh như thế
nào thì họ phải
vay trả như thế nấy. Làm
thân chúng sanh
chỉ biết khổ đau mà
không biết cách
thoát khổ, nghĩa là làm thân chúng sanh không biết thiện
ác, chúng làm theo bản năng tự nhiên
của chúng để bảo vệ sự sống, vì thế
chúng phải chịu
khổ vô vàn trong vô lượng ngàn muôn kiếp.
ĐƯỢC THÂN
NGƯỜI KHÓ
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Người đánh mất
thân này đến muôn ngàn kiếp sau cũng khó mà
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
được làm
người, ví như
con rùa mù tìm bọng
cây ngoài biển,
xin Thầy chỉ dạy cho con được
rõ.
Đáp: Đức Phật dạy:
“được thân người là
khó”, khó có nghĩa là khó được thân người, chứ không phải
là không được thân người, khi hành động thiện
ác của con đã
trải qua một thời gian trả nghiệp
của nó thì nghiệp ấy lại được sanh làm người.
Một người
làm ác luôn luôn làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sanh thì nghiệp ác
ấy chẳng bao giờ trở lại làm người,
cho nên đức Phật ví dụ bọng
cây và con rùa
mù giữa biển, có
nghĩa là nghiệp
ác không bao giờ
trở lại làm thân người nữa được, phải thời gian lâu lắm trả
cho hết nghiệp ác
đã làm, khi trả
hết nghiệp ác đã
làm thì nghiệp còn lại
tương ưng với loài người thì mới sanh ra làm người. Ở đây con nên
hiểu mang lốt
nghiệp chúng sanh
là mang lốt nghiệp
trả nợ máu
xương mà con người
đã từng gieo
rắc, đến chừng
trả hết nghiệp ác của mình
đã gây ra, thì mới
tương ưng với nghiệp làm người tức là mới đủ duyên sanh làm người.
Vấn đề tái
sanh luân hồi và nghiệp
thiện ác không phải
là vấn đề để cho người
còn trí
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
hữu hạn hiểu
biết, càng luận về nhân quả luân hồi càng bị tưởng tri lừa đảo thành ra hiểu
sai mất, vấn đề này phải là người có trí vô hạn không bị
ngăn cách bởi
không gian và thời
gian mới
thấu suốt, không
bị tưởng tri đánh
lừa.
Vấn đề
này là vấn đề không
ích lợi nên đức
Phật gọi là
hý luận. Trong
lúc con người còn bản
năng loài cầm
thú hung dữ,
chà đạp lên nhau vì miếng cơm
manh áo và vật chất, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu,
cuộc sống con
người không còn có đạo đức khiến
cho loài người quá khổ đau vì phải bon chen trong cuộc sống.
Vấn đề Phật giáo
là vấn đề lợi ích
cho cuộc sống của
con người, đó là đạo đức
nhân bản không làm
khổ mình, khổ
người, chứ không phải ngồi thiền,
niệm chú, tụng kinh, niệm Phật hay để tìm hiểu nhân quả ba đời mà khiến cho con
người hết khổ. Ngồi thiền, niệm chú, niệm
Phật, tụng kinh sám
hối hay tìm hiểu nhân quả ba đời đó là những điều dễ
bị tưởng lừa đảo dối gạt người.
Đạo Phật có
mặt trên đất nước Việt Nam hơn 2000 năm, chùa cất khắp nơi đâu đâu cũng
có, mà
dân tộc Việt
Nam có hết khổ chưa?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Chùa càng
nhiều càng tạo ra nhiều việc mê tín, lừa đảo, tiền mất tật mang. Hiện giờ chùa
tháp xây cất hàng tỷ, tỷ bạc, chùa nào cũng đẹp đẽ khang trang như cung vàng điện ngọc, tiền bạc của tín đồ
đổ vào như nước mà
có ích lợi
gì? Đời khổ vẫn còn khổ
như vậy và còn khổ hơn. Đạo đức
con người càng ngày càng xuống dốc, ngồi thiền, niệm Phật, niệm chú, tụng kinh,
sám hối,
v.v.. có giải
quyết được những
gì lợi ích cho xã hội đâu, hay là
một sự tránh né của những người tiêu cực hoặc của những
người mượn sự vô minh của người khác làm giàu trên mồ hôi nước mắt bằng
danh nghĩa tôn giáo.
Trong lúc
nhân dân Việt
Nam nói riêng và
con người trên
hành tinh này nói
chung đang cần có một nền đạo đức
để con người đối xử với con người đừng làm khổ cho nhau.
Bởi vậy cháu
hỏi những điều này là những điều lừa bịp của các
tôn giáo nói về con người bằng cách
này hay bằng
cách khác chứ
không bao giờ nói đúng về con người cả.
Được thân
người khó, là khó ở năm tiêu chuẩn làm người, chứ không phải khó ở thân người.
Thân người cũng giống như thân của loài động vật. Động vật sinh ra trùng trùng
thì con
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
người cũng
sinh ra trùng trùng.
Như vậy thân người như thân động vật thì không khó,
nhưng thân người khó là khó ở chỗ năm đức hạnh.
CON NGƯỜI NGÀY MỘT ĐÔNG HƠN
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Hiện nay trên thế giới, dân số
ngày một đông
hơn mà điều
ác càng ngày càng tinh vi và xảo
quyệt hơn tức là càng có nhiều điều ác hơn trước, vậy mà loài người càng lúc
càng đông hơn. Vậy có trái với luật nhân quả hay không?
Thưa Thầy,
vì nhiều người
làm ác thì không được làm người
càng nhiều sau khi chết mà sao dân số càng đông lên là sao vậy?
Thưa Thầy,
theo luật nhân quả thì người phải ít đi
mà súc
vật phải nhiều
mới đúng, mong Thầy giải
thích cho con hiểu?
Đáp: Theo
kinh sách của đức Phật đã dạy và xác
định luật nhân
quả rõ ràng:
“Chư Thiên giảm thì con người tăng”, có nghĩa là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thiện pháp
giảm, ác pháp tăng. Câu hỏi của cháu
trong thư ở
trên: “Theo luật
nhân quả như con hiểu
thì người phải
ít đi mà súc vật phải
nhiều mới đúng”,
con hiểu luật nhân
quả tái sinh như vậy không đúng, con hiểu như vậy là hiểu
theo linh hồn đi
tái sinh chứ
không phải theo nghiệp thiện ác đi tái sanh. Con nên hiểu con người
cũng chỉ là một loài động vật như
bao nhiêu loài động vật khác,
nhưng nó được xem là một loài động
vật cao cấp hơn các loài động vật
khác mà thôi,
người ta ví
loài người là một
loài động vật
ác độc nhất
trong các loài động vật trên hành tinh này, nó có thể diệt tất cả các
loài động vật
trên hành tinh này, nhưng môi trường sống nhân quả sẽ
không cho phép nó. Vì thế,
nó càng ác độc thì nó
lại càng sanh sôi này nở nhiều
hơn để làm gì, để nó tự giết nó và tự nó nó sẽ diệt toàn
bộ loài người trên hành
tinh này, nếu không
có một nền đạo đức nhân bản –
nhân quả để giúp nó thoát ra khỏi bản chất của loài động vật thì nó tự diệt chủng
lấy nó.
Tất cả các
loài vật khác sanh ra với bản chất hiền lành
tự nhiên của
chúng, chúng chẳng có sự
tư duy và biết
thiện, ác, phải trái, v.v.. như con người, chúng chỉ biết sống và bảo
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP IX
vệ sự sống,
nên có lúc chúng ta thấy chúng rất hung dữ, cái hung dữ của chúng là bản năng tự
vệ chứ không phải cái hung dữ như con người.
Trong môi
trường sống thì có
bốn loại
sinh:
1- Thấp sanh
2- Noãn sanh
3- Thai sanh
4- Hóa sanh
Thấp sanh
là những vật
sanh ra nơi ẩm
ướt như cỏ
cây và những loài vi sinh vật, những loài
vật này sanh
trước tiên (thuộc
về ác nghiệp).
Noãn sanh là
những loài sanh trứng như loài
chim, loài bò
sát, là những
loài vật này được
sanh ra sau các loại thấp
sanh (thuộc về ác nghiệp).
Thai sanh là
những loài vật sanh con, những loài vật này được
sanh ra sau loài sanh trứng (thuộc về ác nghiệp).
Hóa sanh là
những từ trường thiện được sanh ra do hành động làm thiện của con người, nó
luôn luôn có sự hiện diện trong môi trường sống của chúng ta. Nếu con người làm
ác nhiều
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thì từ trường
thiện sẽ giảm đi và con người làm thiện nhiều thì từ trường thiện tăng lên, từ
trường thiện tăng
lên thì con người và tất cả loài vật trên hành tinh này đều sống an
vui, hạnh phúc, không bệnh tật, không tai nạn và không khổ đau, môi trường sống
sẽ không bị ô nhiễm, sức khỏe của con người và loài vật
được bảo đảm an toàn, lúc bấây giờ bệnh viện chỉ còn là một cổ tàng
viện để con
người đến tham quan vui chơi chứ không có bệnh nhân.
Với đôi mắt của đức Phật
nhìn suốt qua lốt nghiệp của mọi chúng sanh nên chỉ thấy
nó toàn là ác nghiệp chứ không phải có người và loài vật, tức là từ con người
cho đến những loài vật khác nhỏ
nhít như loài côn
trùng sâu bọ đều là con người đang trả vay của một đạo
luật nhân quả rất công bằng và công lý, khi vô tình hay hữu ý họ đã làm những
điều ác, mà giờ này họ phải làm thân chúng sanh để trả quả, trả chừng nào hết
thì họ mới được tái sanh làm người, khi
làm người họ
không biết thiện
ác nên chạy theo tâm ham muốn sanh ra nhiều ác pháp làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sanh tạo thành nghiệp ác hay nói cho rõ
hơn là từ trường ác, từ trường ác ấy tiếp tục sanh làm các loài vật để thọ lấy những sự khổ đau mà
không có
phương pháp nào giải cứu được, ngoại trừ
chỉ có loài
người nhờ có trí
tuệ phân
biệt được thiện ác, nên đức Phật, Ngài để lại cho chúng ta một kinh nghiệm
sống của con người thoát khổ, chấm dứt sự trôi lăn
trong sáu nẻo luân hồi và
mãi mãi ở
trong từ trường
thiện vĩnh viễn.
Vì thế đức Phật dạy: “Chư
Thiên tăng thì con người giảm,
chư thiên giảm thì con người tăng” có
nghĩa là từ trường thiện
tăng thì từ trường ác giảm, từ
trường ác tăng thì từ trường thiện
giảm. Nói cách
khác cho dễ hiểu hơn nhân quả thiện tăng thì nhân quả ác
giảm, nhân quả ác
tăng thì nhân quả
thiện giảm. Bằng chứng con người
sanh nhiều và làm ác nhiều thì nhân quả ác tăng, nhân quả thiện giảm. Nhân
quả ác tăng,
nhân quả thiện giảm thì con người trên hành tinh này
khổ nhiều từ thiên tai dịch họa đến những sự
gian xảo lừa đảo
giết hại nhau
và những bệnh tật đủ mọi
thứ cho đến những
bệnh thời đại
không thuốc
trị.
Bức thư của
cháu so sánh ở trên con người và con vật thì không đúng luật nhân quả. So sánh
luật nhân quả là so sánh thiện và ác, cho
nên trong
sáu nẻo luân hồi của đạo Phật là sáu trạng thái của tâm:
1- Trời là trạng thái tâm sống trong 10 điều
lành gọi là thập thiện.
2- Người
là trạng thái
tâm sống trong năm điều lành gọi là ngũ giới.
3- A tu la là trạng thái nóng giận, la hét, chửi
mắng, đấm ngực, cào mặt.
4- Ngạ quỷ là trạng thái đang bị đói mà không có
thực phẩm ăn.
5- Súc
sanh là trạng
thái ti tiện nhỏ mọn, ích kỷ.
6- Địa ngục
là trạng thái
đau khổ như đang đau nhức do bệnh tật, do bị đánh đập.
Trong sáu nẻo này
theo nhân quả được
chia ra làm hai phần: thiện và ác.
1- Trời
là cõi thập
thiện có 33 cõi
Trời tức là có
33 từ trường
thiện, hay là
33 cấp thiện của Trời.
2- Người là cõi ngũ giới, Cõi ngũ giới có năm đức:
a- Đức hiếu sinh
b- Đức từ bỏ lấy của không cho c- Đức chung thủy
d- Đức thành thật e- Đức Minh mẫn
Người giữ
gìn và sống năm giới trọn vẹn mới thật sự
là ở cõi
người, còn không
giữ gìn trọn vẹn
như vậy thì không
được gọi là cõi
người mà
là mang hình
người nhưng ở
trong các cõi giới
khác như: A tu la, ngạ quỷ,
súc sanh và địa ngục. Người và các
loài động đang ở trạng
thái này đều được gọi
là ở cõi
ác, cõi khổ đau.
Người làm
ác phải thọ chịu những
quả khổ. Những người đó được gọi là A tu la, ngạ quỷ, súc
sanh, địa ngục;
A tu la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục là những cấp bực khổ của
con người, và sự khổ tận cùng là địa ngục.
Trên đây là
sự phân chia nhân quả để chúng ta khái
niệm hình dung một mô
hình nhân quả thiện ác của trời,
người, A tu la, ngạ quỷ và súc sanh, đó là một trạng thái thật sự, chứ không
phải chúng ta tưởng tượng
ra cảnh giới của sáu cõi luân hồi vừa siêu hình, vừa hữu hình.
Cho nên, kinh sách giàu tưởng tượng nói ra như vậy là kinh sách lại còn
sai biệt mù.
Như trong thư cháu nói: “Theo luật nhân quả người
phải ít đi mà súc vật nhiều
mới
đúng”. Có lẽ cháu
đã hiểu câu:
“ Được thân người
là khó” nên mới suy luận
nhân quả như
vậy.
Ý của đức Phật ở đây so
sánh trong các loài động vật thì loài người nhờ có bộ óc
thông minh hơn các loài vật khác, nhờ đó loài người mới vượt thoát
ra bốn sự đau khổ và chấm dứt luân hồi, còn các loài động
vật khác
thì không thể vượt thoát
được, khi một người
mất thân khó tìm lại được thân chứ
không phải đức Phật nói con người
ít đi, giảm đi hoặc con
người không sanh ra nữa.
Điều này
không phải cách đây 2500 năm trong thời đức Phật còn tại thế, loài động vật
trên hành tinh này gồm chung cả loài người thì số lượng loài vật và người so
sánh với hiện giờ thì chỉ bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần triệu.
Còn hiện giờ loài động vật mà người
ta ăn thịt vừa săn bắt những
loài động vật hoang dã
và vừa những loài động vật nuôi,
một ngày
loài người đã giết bao nhiêu
loài vật trên hành
tinh này, để
cung cấp làm thực
phẩm nhu
cầu hằng ngày
cho con người như vậy số lượng đâu
phải ít, chỉ có loài
vật hoang
dã thì giảm
và có loài động vật bị loài
người diệt chủng.
Loài người
càng sanh ra nhiều
mà sống trong ác pháp thì đó là một
nỗi lo âu của những người trí, vì
nó sẽ diệt
các loài động vật khác mà
còn tự diệt
nó bằng trí óc
thông minh của nó,
bằng chứng hiện
giờ “Kế hoạch
hóa gia đình” là một hiện tượng
con người giết con người.
Cháu phải hiểu
nhân quả tái sinh chứ không phải linh hồn tái sinh. Vì thế, một người còn sống
mà đã tạo ra
nhân quả
thì nhân quả tiếp đi tái
sinh những con người và những con vật khác, những người ấy vẫn còn sống
và tiếp tục những hành động nhân
quả thiện ác
khác rồi những hành động này tương ưng tiếp tục tái sinh cho đến khi những
hành động cận tử nghiệp của người ấy đi tái sinh, khi người ấy chết. Cho
nên, nhân quả
trùng trùng duyên sanh và
cũng trùng trùng duyên diệt. Đó là lời đức Phật đã dạy: “Nhân quả trùng
trùng sinh khởi”.
Cháu hãy
nhìn cây đu đủ
kia, trong một quả đu đủ có nhiều
hạt, mỗi hạt lên một cây đu
đủ; mỗi cây
đu đủ cho nhiều trái; mỗi trái có nhiều
hạt; mỗi hạt
lên một cây,
nhưng cây đu đủ mẹ vẫn còn sống. So sánh nhân quả của
cây đu đủ và nhân
quả của con người
thì có khác chi đâu. Vì mọi vật
trên thế gian này được sinh ra đều do nhân quả, sống trong nhân quả và chết
cũng đi về nhân quả trừ những người tu chứng, họ đã ra ngoài qui luật nhân quả không còn bị chi
phối.
Chúc cháu
vui mạnh và sống đúng đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người.
Kính thư.
Tái bút:
Sách của Thầy viết là triển khai lại lời dạy của đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, Người
đã dạy không
có thế giới
siêu hình, Thiên Đàng,
Địa Ngục, những cảnh
giới siêu hình toàn là cảnh giới tưởng tri. Sách của Thầy
Chơn Quang viết nói có thế giới siêu hình
là do ảnh hưởng của kinh sách phát triển Bà La Môn và các tôn giáo khác
nhất là không đúng theo ý Phật dạy trong kinh Nikaya (Nguyên Thủy).
Người tu giải
thoát không có đi về đâu vì không
có cõi Niết
Bàn để đi. Niết Bàn chẳng
qua là một danh từ để chỉ cho chân
lí thứ ba (Diệt đế).
Diệt đế là một trạng
thái tâm hết
tham sân,
si tức là một trạng
thái tâm ly dục ly ác pháp v.v..
Cho
nên, một
trạng thái tâm ly
dục ly ác pháp là cảnh giới của người giải
thoát ở đó. Đó là một từ trường, không còn có cảnh giới nào khác nữa.
Khi tâm ly dục
ly ác pháp thì không
còn nghiệp nên không có tái sanh luân hồi.
Khi người
còn sống, tâm ly dục ly ác pháp thì giới
luật nghiêm chỉnh,
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Người giới luật
nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là ly dục, ly ác pháp hoàn
toàn, là người có tri kiến giải thoát.
Tri kiến giải thoát
là “Minh” chứ không còn “Vô minh”
nữa. Trong Minh gồm có giới luật
và tri kiến giải
thoát, nên Phật dạy: “Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó,
Giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Tri kiến làm thanh tịnh giới
luật, giới luật
làm thanh tịnh
tri kiến”. Như vậy, chỗ Niết Bàn
đâu phải chỗ hết niệm, vì hết niệm làm sao có tri kiến, có giới luật?
Tóm lại, Niết
Bàn không phải là một cõi giới siêu hình,
nó chỉ là chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm tho.ï
Chơn Như
ngày 19-5-2000
KHỈ VƯỢN CÓPHÂI
LÀ
THỦY TỔ CỦA
LOÀI NGƯỜI KHÔNG?
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Từ trước
tới nay khoa học đều khẳng định rằng
con người là do khỉ vượn sinh ra tức
là thủy tổ của
loài người, đó là
thuyết tiến hóa. Vậy đạo Phật Nguyên Thủy
và theo trí vô
hạn của Thầy
thì nguồn gốc loài người và rộng
hơn là nguồn gốc vũ trụ là thế nào?
Đáp: Con khỉ
không phải là Thủy Tổ của loài người như
các nhà khoa học đã khẳng
định, con khỉ chỉ là con khỉ, một loài động
vật như các loài động vật khác.
Theo đạo Phật con khỉ chỉ
là một loài động vật cao cấp gần giống như con người.
Nếu lấy con người làm tiêu chuẩn thì con khỉ chỉ là con khỉ mà
thôi, chứ không
thể tiến hoá
làm con người được, chỉ
có nghiệp lực của con khỉ, khi con khỉ chết
nó sẽ tiếp tục luân hồi tái sanh làm người.
Từ con
người “Cổ Sơ” sống đơn giản, dựa vào
thiên nhiên. Mức sống của thiên nhiên thì có hạn, còn con người sanh sản
thì vô hạn nên con người buộc phải tiến
hoá dần để bảo vệ
sự
sống còn của
mình duy trì cho đến ngày nay, do
đó con người trở
thành văn minh
phát triển theo chiều hướng khoa
học hiện đại hóa, để sản xuất ra vật chất phục vụ cho đời sống con người như hiện
nay.
Loài khỉ sống
thanh tịnh trong sạch hơn các loài động vật khác, nhờ hành động sống tự nhiên
theo nghiệp nhân quả thiện tạo thành nghiệp
lực thiện. Khi con khỉ
chết, nghiệp lực thiện chiêu cảm môi trường thiện luân hồi
tái sanh thành con
người. Đừng hiểu rằng con người
chết là sẽ tiếp tục
sanh làm con người nữa, hiểu
như vậy là
không đúng luật
nhân quả. đức Phật dạy: “được
thân người là khó, khó như
con rùa mù tìm
bọng cây
giữa biển khơi”. Chỗ này có dịp
Thầy sẽ giảng dạy để hiểu biết rõ ràng hơn.
Trí hữu hạn của con người không cho phép các nhà
khoa học hiểu hơn, cho nên các Ngài dùng sự so sánh những hành động và sự cơ cấu
cơ thể của loài khỉ vượn giống như những hành động và cơ cấu của cơ thể của
loài người cổ xưa “tiền sử” mà cho rằng
thủy tổ của
loài người là khỉ
vượn. Đó là
cái hiểu chưa tới
của các nhà khoa học.
Muốn gây tạo
giống con người thì phải
có môi trường thích hợp với
con người. Chính các
duyên của
con người, chứ chưa có các duyên của con người
thì không thể nào gây tạo
giống con người được, cho nên thuyết
tiến hóa từ con vật thành con người thì mơ hồ, trừu tượng không
chính xác. Bởi phần sắc uẩn của con người
đầy đủ hơn loài động vật, nhất là sự cấu tạo bộ óc của con người
về tế bào
não, phần sử dụng về tinh thần tưởng uẩn và thức uẩn thì loài
khỉ vượn không thể có được.
Còn nữa,
cái chưa tới của
các nhà khoa học,
đó là: Trí tuệ của loài
khỉ vượn và trí
tuệ của những người
tiền sử đều sống dựa
trên thiên nhiên, loài
khỉ vượn trí tuệ
không sáng tạo và phát minh những
cái gọi là văn minh và sáng tạo của loài khỉ vượn được. Cho nên, khỉ vượn ngàn đời chỉ
là khỉ vượn,
còn người tiền sử đời sống cũng giống như loài khỉ vượn
nhưng lại biết phát minh và sáng tạo nên để lại cho chúng ta sau này một kho
tàng văn minh vĩ đại từ ngôn ngữ,
toán học, y học,
sử học, đạo đức
học, đến khoa học, v.v.. Chúng ta chỉ là
những người thừa kế
và dựa theo
cơ sở đó mà
phát triển khoa học hiện đại, nếu không
có văn minh của người tiền sử để
lại liệu chúng ta có thể có một nền văn minh khoa học hiện đại và kỹ nghệ hóa
như ngày hôm nay chăng?
Cho nên loài
khỉ vượn không có trí tuệ thông
minh như con
người, nó thường
sống
theo bản
năng tự nhiên, thường bắt chước loài người
hơn là sáng
tạo phát minh
như con người.
Thủy tổ của
loài người rất thông minh, khi con người
có mặt trên
hành tinh này, nếu
loài người không có sự thông minh thì nó đã bị diệt chủng ngay từ lúc
ban đầu. Tại sao vậy?
Vì cấu
trúc cơ cấu cơ thể
của loài người, tuy
có giống như
loài khỉ vượn,
nhưng hoàn toàn không giống hẳn,
có những chỗ còn sai khác, vì thế
con người không
thể dùng sức mạnh
để bảo vệ sự sống
như loài mãnh
thú, cũng không thể trốn chạy chuyền nhảy nhanh nhẹ như loài khỉ vượn,
hươu nai được.
Loài người bảo
vệ sự sống bằngï trí tuệ thông minh của
mình, nên thường
phát minh và sáng tạo đều do
bộ óc,
đó là điều cần thiết của loài người mà các loài động vật
khác không thể có được,
cho nên loài khỉ vượn là thủy tổ của
loài người là mơ
hồ trừu
tượng, chỉ có qua
sự so sánh những bộ xương của người tiền sử và những bộ
xương của loài khỉ vượn giống
nhau rồi các nhà khoa học đã suy ra và tuyên bố. Những chứng minh khoa học
đó chưa đủ để xác chứng thuỷ tổ của loài người là khỉ vượn.
Luật nhân quả
đã xác định mọi tiêu chuẩn của mọi
loài chúng sanh, nếu chúng sanh sống
và tạo những tiêu
chuẩn đó thì sẽ
sanh làm loài vật đó, chứ không
phải tiêu chuẩn đó mà làm loài vật
khác được, có
nghĩa là loài động
vật đó
sống thiện ở cấp độ thiện đó sẽ sanh làm loài chúng sanh đó, còn ngược lại sống
ác ở cấp độ ác
đó thì sẽ sanh
làm loại chúng
sanh đó, luật nhân quả rất công bằng và công lý nên tiêu chuẩn
thiện ác của
nó rõ ràng,
không thể sai khác
được mà với
trí tuệ vô hạn của đức Phật, Ngài đã thấu suốt luật nhân quả, do
đó Ngài dạy cho chúng ta cách thức sống năm tiêu chuẩn thiện
để còn tiếp tục làm
thân người thiện và chỉ có thân
người thiện mới đủ trí tuệ thông minh rèn luyện tu tập chấm dứt khổ đau và luân
hồi.
Các pháp vô
thường luôn luôn theo sát những hành động nhân quả của muôn loài, vì thế, các
pháp liên tục thay đổi tạo thành một nghiệp lực, nghiệp lực đó tiếp tục tiến
hóa tái sanh làm loài vật cao cấp như loài Trời, Người, mà nghiệp
lực đó thoái
hóa thì phải tái
sanh làm loài động vật hạ cấp, đó là một đạo luật công bằng
và công lý đối với tất cả
các loài động vật trên hành
tinh này, nó không
áp dụng riêng cho
con người mà
cho tất cả, vì
muôn loài vật
do môi trường
sống vô minh
duyên hợp
sinh ra, do đó từ con
vật lớn,
nhỏ cho đến loài
người đều vô
minh lầm chấp, nhưng
loài người nhờ
trí tuệ thông
minh thường tìm tòi sáng tạo và
phát minh nên đã
thấy sự
vô minh của
mình, khi đã thấy sự vô minh của mình thì đó là minh, mà đã có minh thì con người làm chủ được môi trường
sống của mình, làm chủ môi trường sống của
mình tức là làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Làm chủ sanh, già, bệnh, chết là làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả
là làm chủ mọi sự đau
khổ và
chấm dứt tái sanh luân hồi. Chấm dứt tái sanh luân hồi tức là giải thoát
ra khỏi thân nghiệp.
NGUỒN GỐC VŨ
TRỤ
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính bạch
Thầy! Nguồn gốc vũ trụ như thế nào?
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng
con được rõ.
Đáp: Nguồn gốc
vũ trụ chỉ là một môi trường sống hoặc
chết đối với
trí hữu hạn của chúng
ta, nếu muốn
tìm hiểu biết rõ
hơn nữa
thì trí hữu hạn không cho phép chúng ta hiểu, còn trí vô
hạn của chúng
ta chưa có mà
chúng ta muốn hiểu
thì chúng ta sẽ hiểu bằng
tưởng tri, mà hiểu bằng tưởng tri thì sai sự thật, cho nên bây giờ chúng
ta nên tìm hiểu cái gì có lợi ích thiết thực cho chúng ta và mọi người thì
không phí thì giờ quý
báu, thì giờ đó chúng ta làm
những việc ích lợi khác
còn có ý
nghĩa
hơn.
Cho nên,
ngày xưa có những ai hỏi Phật những điều không ích lợi, những hý luận ảo tưởng
mơ hồ thì đức Phật làm thinh, không trả lời.
Còn ở đây Thầy cố gắng
giải thích để mọi
người hiểu một cách đại khái về nguồn gốc của vũ trụ. Dù chúng ta có biết rõ về
nguồn gốc của vũ trụ thì cũng
chẳng có ích lợi gì cho
cuộc sống mà hằng ngày chúng ta thọ chịu
biết bao nhiêu là sự khổ
đau. Bấy giờ
cháu hãy lắng nghe cho kỹ nguồn gốc của vũ trụ:
Chỗ nào
có môi trường
sống là nơi
đó có cỏ cây và
loài động vật xuất
hiện, còn chỗ nào không có môi trường sống thì nơi đó là
môi trường chết. Chết ở đây nghĩa là chưa có muôn loài vật sống, chứ riêng hành
tinh ấy vẫn sống
vì nó đang
hoạt động, đang đi trên quỹ đạo của nó, cho nên nói nó chết là không đúng.
Những phi
thuyền thám hiểm cung trăng và được các
nhà khoa học nghiên
cứu cho biết mặt trăng
là hành tinh chết.
Điều này không đúng, vì mặt trăng đang đi quanh trái đất. Nó đang
hoạt động như vậy sao bảo
là nó chết. Mặt
trăng đang vận
hành như vậy
thì nó sẽ tạo duyên hợp cho các
duyên hiện có thành những duyên mới, những duyên mới hợp với những duyên cũ tạo
thành những duyên mới khác nữa. Khi duyên
hợp trùng trùng
như vậy thì một ngày
kia mưa gió sẽ thuận
hoà và cỏ cây
sẽ xuất hiện.
Cỏ cây sẽ xuất hiện,
thì lần lượt loài động vật xuất hiện. Loài động vật xuất hiện thì loài
người trên cung
trăng sẽ xuất hiện.
Như vậy, một
vài triệu năm nữa cung trăng cũng có môi trường sống như trái đất
của chúng ta.
Nói đến môi
trường thì không thể nào nói đến môi trường đơn điệu được. Tại sao vậy?
Vì khi có
cái này thì phải có cái kia, vì thế đức
Phật dạy: “Thế
giới là do
các duyên hợp”, có duyên hợp mới
có thế giới. Có thế giới
mới có
vũ trụ, nhưng ở đây
ai tạo ra duyên hợp?
Chính các
hành đấy. Không có hành thì không có duyên hợp, không có duyên hợp thì không có
thế giới, không có vũ trụ. Đến đây chúng
ta bảo rằng
các hành là nguồn gốc của
vũ trụ
thì chưa đúng. Vì các
hành phải có sự
điều khiển của ai đó. Vậy ai
đó điều khiển các hành?
Xin thưa,
không có ai
điều khiển các hành, vì các hành thường hoạt động theo
sự vô minh của mình, nên Phật dạy:
“Vô minh”. Như vậy vô minh là
nguồn gốc của vũ trụ ư? Không
đúng đâu!
Nguồn gốc của
vũ trụ là 12 nhân duyên, chứ không thể
một nhân duyên
mà thành nguồn gốc của vũ trụ được.
12 nhân duyên gồm
có:
1- Duyên Vô minh
2- Duyên Hành
3- Duyên Thức
4- Duyên Danh sắc
5- Duyên Lục nhập
6- Duyên Xúc
7- Duyên Thọ
8- Duyên Ái
9- Duyên Hữu
10- Duyên Thủ
11- Duyên
Sanh
12- Duyên Ưu bi, sầu khổ, bệnh tử
Đó là nguồn
gốc vũ trụ hiện bày một thế giới quan đầy khổ đau của loài người mà đức Phật đã
xác định rõ ràng.
Bài pháp
12 nhân duyên là đức Phật
đã chỉ rõ cho mọi người biết nguồn gốc vũ trụ. Nếu
12 nhân
duyên này không có thì vũ trụ này không có. Vũ trụ này không có thì con người
và vạn vật không có. Con người và vạn
vật có
thì vũ trụ này
có. Con người và vạn vật
có đều do
12 nhân duyên.
Vì thế, gốc
vũ trụ là 12
nhân
duyên như
trên đã xác định.
NGƯỜI HOÀN HẢO
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Đến nay
con gặp được Phật pháp chân chánh của Thầy, con rất mừng như người chết đuối giữa dòng nước vớ được cọc. Khi
gặp được Phật pháp
chân chánh là con
đã có
gia đình vợ dại, con thơ. Để sống
đúng lời dạy của Thầy “không làm khổ mình khổ
ngưòi” thì con phải nuôi dạy cháu
đến trưởng thành, sau đó mới có thể đi
tu được,
đó là cái
thiệt thòi của
con.
Con biết có
nhiều người đã quy y Tam Bảo từ lâu,
xong cả đời họ chẳng có một ngày sống mà giữ gìn
một giới
trong năm giới cấm
dành cho người cư sĩ. Con thì không muốn vậy, con muốn rằng một khi đã
quy y Tam Bảo thì phải thực hiện Tam Quy
Ngũ Giới nghiêm chỉnh, thì phải sống đúng một cuộc sống của
người cư sĩ đệ tử chân chánh của
đức Phật, còn nếu vì bất cứ một lý do
gì mà
thấy không làm được thì thôi
chứ không nên sống nửa đời nửa đạo
như Thầy đã nói,
vì điều đó
cũng làm khổ
mình, khổ người, vì sẽ
làm vợ con hoang mang buồn khổ, cuộc sống gia
đình nghi kỵ lẫn nhau, hiểu
lầm nhau,
đó là điều
con không muốn. Chính vì vậy mà đến nay con vẫn chưa quy y.
Đáp: Tu theo
đạo Phật đâu cần phải
quy y, xưa có một
Bà La Môn
khi nghe đức Phật sống một đời sống phạm hạnh giải thoát
như vậy, ông liền bắt chước sống theo, đến khi gặp Phật ông chẳng biết Phật là
ai. Lúc bấy giờ đức Phật lấy làm lạ sao lại có một Bà La Môn sống y như
mình, nên đức Phật hỏi:
- “Thầy của Hiền Giả là ai?
Vị Bà La Môn
trả lời:
- Thưa
Hiền Giả, Thầy của tôi
là đức
Phật Gotama.
Đức Phật hỏi
tiếp:
- Có
bao giờ Hiền Giả đến gặp đức Phật
Gotama
chăng?
Vị Bà La Môn
trả lời:
- Thưa
Hiền Giả, chưa
bao giờ tôi gặp Thầy
tôi cả, vì Thầy tôi ở tận nước Xá Vệ tại tịnh xá Kỳ Hoàn.
Đức Phật hỏi
tiếp:
- Phỏng
chừng hiện giờ gặp đức
Phật
Gotama Hiền
Giả có nhận ra chăng?
Vị Bà La Môn
đáp:
- Thưa
Hiền Giả, làm sao tôi có thể nhận ra được Ngài?
Thấy thế đức Phật rất thương
tâm Ngài bảo rằng:
- Chính ta là đức Phật Gotama đây”.
Trên đây
là một mẩu
chuyện để thấy người tu theo đạo Phật đâu cần phải quy
y Tam Bảo mà chỉ sống đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình,
khổ người tức
là sống đúng phạm hạnh Tam Bảo, là quy
y Tam Bảo rồi. Bởi vậy thời nay có
hằng vạn người
quy y Tam Bảo, nhưng sống làm khổ mình,
khổ người thì quy y Tam Bảo có
nghĩa lý gì mà
còn làm thêm tội cho Phật pháp.
Vì thế, đức Phật bảo rằng: “Chỉ có những người
đệ tử của Ta
mới giết đạo Ta chết”.
Tu theo đạo
Phật không có nghĩa là phải vào chùa hay phải vào rừng sâu núi thẳm để xa lánh
thế tục, ngồi thiền, tụng kinh, niệm chú, niệm
Phật hoặc lạy hồng danh
sám hối cho tiêu tai giải nghiệp, hoặc được chư Phật,
chư Bồ Tát gia hộ.
Tu theo đạo
Phật là phải tu tập đúng như lời đức Phật
đã dạy: “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành”,
có nghĩa là người muốn
tu tập theo
đạo Phật thì phải tập sống làm một con người hoàn hảo tức là không còn mang bản
chất của loài cầm thú nữa.
Một con người
hoàn hảo là một
con người có đạo đức
nhân bản –
nhân quả sống
không làm khổ mình, khổ người và
không làm khổ tất cả chúng sanh. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày đối với ông
bà, cha mẹ, anh
em, chị em, vợ chồng, con cái, bà
con quyến thuộc, bạn bè thân hữu, chòm xóm láng giềng, v.v.. luôn luôn phải đối
xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng và còn phải biết tha thứ
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, nhờ
đó mới không làm
khổ mình, khổ người.
Những hành động sống
này chính là tu
theo đạo Phật, đạo giải thoát thật sự ngay liền, một bằng chứng cụ thể đó là giải
thoát đời sống con người khiến cho con người
có một đạo đức
nhân bản – nhân quả cao thượïng tuyệt vời. Đây là giai
đoạn tu tập giải thoát
thứ nhất mà người cư sĩ và tu sĩ đạo Phật nào muốn cầu
giải thoát thì cũng đều phải tu tập cho viên mãn, nếu giai
đoạn này tu tập chưa xong mà
muốn tìm cầu sự giải
thoát cao hơn như ngồi thiền nhập định tịnh chỉ hơi thở thì đó chỉ
là một sự mơ mộng viển vông mà thôi.
Khi nào trong
cuộc sống đã giữ gìn được
đạo đức
nhân bản –
nhân quả tự sống không làm
khổ mình, khổ
người thì mới xin bước
vào tu hành ở giai đoạn hai. Nếu trong cuộc sống còn làm khổ mình,
khổ người thì đừng
nên tu tập thêm bước thứ hai, và
cũng đừng xin tu Tứ Niệm Xứ, vì Tứ
Niệm Xứ là ở giai
đoạn tu tập Chánh niệm
trong Bát Chánh
Đạo, nên nó là
giai đoạn thứ
hai. Nếu ham tu
tập ở giai đoạn hai thì thiếu căn bản, nên kết quả
chẳng có gì. Vì thế tu
hành chỉ hoài
công vô ích
mà thôi. Khả năng không đủ mà tu
tập vượt lớp như vậy đôi khi sẽ bị ức chế, khiến cho thân tâm thành bệnh, có khi
rối loạn
thần kinh hoặc tẩu hỏa nhập ma, điên khùng.
NÊO VỀ ĐẠO ĐỨC
Câu hỏi của
cháu Dũng
Hỏi: Kính thưa
Thầy! “Ngăn ác diệt ác pháp”
xong lại phải “không làm khổ
mình, khổ người”, trước đây
con thấy nó
là mâu thuẫn nhau,
từ lá thư của
Thầy chỉ bảo
cho con, con
sáng tỏ được
nhiều, con hiểu rằng muốn thực hiện được điều đó còn đòi hỏi sự khéo léo phải
không thưa Thầy?
Mình thấy cái ác, cái làm khổ mình, khổ người, cái
vô lý thì phải chống
lại nó, xong phải
làm sao cho người ác hiểu ra mà
không được dùng lời nói hành động làm họ đau đớn phải không thưa Thầy?
Trong mọi cuốn
sách của Thầy, cuốn nào con cũng thấy Thầy
nhắc đi nhắc lại
“không làm khổ mình,
khổ người” đến
nay con hiểu rằng đó là cứu cánh,
nếu thực hiện đúng thì cuộc sống của
chúng ta dễ chịu biết
bao và đó là Niết Bàn tại thế, có
phải không thưa Thầy?
Đáp: Đúng vậy, ngăn
ác diệt ác
pháp tức là không làm khổ
mình, khổ người. Không làm khổ
mình, khổ người là một đạo đức cao thượng
tuyệt vời. Vì thế, không
những phải khéo
léo mà còn phải thiện xảo trong mọi hành động từ lời ăn tiếng nói đến những cử chỉ
và sự tư duy
suy nghĩ, phải
khéo léo thiện
xảo tỉnh thức hoàn toàn.
Đúng vậy, thấy
cái ác, cái làm khổ mình, khổ người, cái
vô lý, cái
phi đạo đức
thì mình phải chống lại để đem lại sự an vui hạnh phúc cho nhiều người bằng
một sự công bằng và công
lý, chứ
không phải chỉ
có đem lại sự an vui
hạnh phúc cho một cá nhân của mình.
Vì chống
lại sự bất
công, sự vô
lý, sự phi đạo đức, thì phải có sự va chạm, sự va chạm
ấy chúng ta phải khéo léo
thiện xảo khiến cho sự va chạm ấy trở
thành mát lạnh,
vì thế mọi người mới được an vui.
Cũng như Thầy viết
kinh sách nói thẳng nói thật, vì biết những lời nói này sẽ
mang lại ích lợi lớn cho nhiều người và chỉ va chạm
với một số ít người
đang bị danh lợi
làm mờ mắt, nhưng
cũng là tiếng cảnh tỉnh cho họ và sẽ
có lợi ích cho họ sau này.
Ngăn ác diệt
ác là một việc làm rất tế nhị, thiện xảo, khéo léo, cho nên nó nêu rõ hành động
của
chúng ta khi gặp
đối tượng có cả hai vế một lượt: “không làm khổ mình, khổ người”.
Nếu một vế thì chúng ta rất dễ làm, còn hai vế là một điều rất khó, nếu chúng
ta không thiện xảo
khéo léo thì không
thể nào thực hiện được đạo đức
nhân bản này. Cho nên đức Phật dạy: “Thiện xảo nhập vào thiện pháp, thiện xảo
an trú sống trong thiện pháp”. Phần nhiều thiện xảo là cố tránh né va chạm, cho
nên lấy nhẫn nhục làm đầu cuộc đấu tranh tư tưởng, kế đó mới tùy thuận nhưng
tùy
thuận không
bị lôi cuốn là một thiện xảo tuyệt vời giúp
cho mình vui, người
khác vui, vì thế
mới được
gọi là bằng
lòng cả hai
mình và người.
Đúng vậy,
con đã hiểu
không làm khổ mình, khổ người là một cảnh giới Niết
bàn, là Thiên đàng tại thế
gian chứ đâu
còn tìm kiếm nơi đâu.
Sự tu hành
theo đạo Phật chỉ có bấy nhiêu đây
thôi: “Không làm khổ mình, khổ người”. Nhưng nó là một trường kỳ
chiến đấu với nội tâm chứ không
phải tu một
ngày một bữa là
xong. Sự chiến đấu
này phải có đầy đủ nghị lực kiên cường, bền chí gan dạ
phi thường và còn phải có trí
tuệ sáng
suốt, khéo léo và
thiện xảo trong mọi hành động đối xử với các pháp thì mới
không làm khổ mình,
khổ người, bởi chính
nó là nền đạo đức
nhân bản của đạo Phật.
Vài hàng
cháu rõ thăm
và chúc cháu thành
tựu đạo đức
nhân bản không
làm khổ mình, khổ
người trong mọi
hoàn cảnh để đem
lại cho mình cho người
một hạnh phúc
chân
thật.
Kính ghi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!