chịu suy
nghĩ. Thắp đèn sáng cúng dường chư Phật
là thông minh,
học một biết
mười, điều này không bao giờ có.
Nếu việc làm này có được thì thế
gian này không
còn người u tối,
đần độn, dốt nát và ngu si. Phải không quý vị?
Chỉ cần
mua dầu thắp
đèn sáng cúng dường chư Phật là thông minh sáng suốt
thì ai mà làm không được. Trong cuộc đời này có ai muốn mình
không thông minh;
có ai muốn minh u tối, dốt nát, ngu si, đần độn; có
ai muốn mình thua kém mọi người. Phải
không quý vị?
Nếu kết quả chỉ cần mua dầu thắp
đèn sáng cúng dường chư Phật
là thông minh sáng suốt thì
chùa sẽ thắp
đèn sáng ngày
đêm quanh năm suốt
tháng, nhưng hiện
giờ đến chùa nơi điện thờ Phật chỉ
có một ngọn đèn leo lét mờ mờ ảo ảo, như vậy chứng tỏ lời dạy này không có hiệu
quả, chỉ là một trò lừa đảo.
TRÙNG TRONG
LÔNG SƯ TỬ
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có người xuất gia tu
hành nhưng không
đủ duyên nên trở về hoàn
tục, nhưng cạo tóc mặc đồ
nhà tu nhận của
cúng dường đàn
na thí chủ,
thưa Thầy người này có phạm tội
gì chăng?
Có người đã
xuất gia thọ giới cụ túc nhưng không chịu tu hành, cứ nay đây mai đó để thỏa
mãn mộng giang hồ vẫn nhận sự cúng dường của
đàn na thí chủ, người
tu như vậy
có sai phạm không?
Nếu cả
đôi nam nữ
tu sĩ này trở về
hoàn tục, xây dựng cuộc sống tu tại
gia thì quá đẹp, tốt hơn là khoác
chiếc áo nhà chùa.
Đáp: Trong
một đại gia
đình Phật giáo hiện
giờ có bao nhiêu
chuyện tồi tệ
trong đạo mà thỉnh
thoảng báo chí Công
An Thành Phố Hồ
Chí Minh đã
đăng tải, giáo
chủ này, ông đạo kia v.v..
Còn lắm kẻ ở
ngoài đời làm
ăn vất vả, nên
mượn chiếc áo
nhà tu để thọ hưởng
của đàn na thí chủ ‚ngồi
trong mát ăn
bát
vàng‛ cho sướng thân. Nếu Nhà nước không cấm cất
chùa, lập miếu thì những hạng người này sẽ cất chùa miếu nổi lên như lều quán.
Con người
khôn ngoan xảo quyệt kinh khủng, lường gạt đủ mọi cách, dùng hình thức tượng cốt để làm tiền thiên
hạ. Lợi dụng sự
bệnh tật, tai nạn của con người bằng cách trị bệnh, châm cứu, thuốc nam, thuốc
bắc, bùa chú, nhân điện, nước thảy, tàn hương, nước tiểu, khí công, hương công,
gạo lứt muối mè, tiết thực, tuyệt thực, dưỡng
sinh, v.v.. đó
là một loại pháp môn tu hành biến dạng thành những
phương thức để giữ gìn sức khỏe.
Phần đông những
nơi trị
bệnh đều có thờ Phật, Bồ Tát cùng các quỷ thần. Làm thuốc
trị bệnh, châm cứu, bùa chú mà không lấy tiền, chỉ cần người
bệnh nhân cúng
bái Phật, Bồ
Tát, quỷ thần nhờ các Ngài gia hộ hết bệnh. Làm phước không nhận tiền
xem mạch hoặc thuốc thang, nhưng lại nhận tiền cúng Phật trong thùng phước
sương.
Những phần tử
này trong đạo Phật không biết bao nhiêu mà kể.
Từ khi Thầy về làm trụ
trì tu viện Chơn Như, khép
chặt tu sĩ
vào giới luật ăn, ngủ, đúng
giờ không được
ăn, ngủ phi
thời, sống độc cư
không được nói
chuyện ồn náo.
Những người
tu sĩ tu cơm, tu áo, tu tiền, tu bạc,
tu ăn, tu ngủ chỉ đến đây
vài ba hôm là bay sạch.
Đến giờ này,
chỉ còn một
hai người tạm gọi là được, chứ
chưa nghiêm túc trong giới luật Phật. Nếu Thầy lấy giới luật
Phật khép chặt sống nghiêm chỉnh
thì tu sĩ Phật giáo chẳng còn mấy
người. Những người
tu sĩ lừa đảo
này sẽ không
dám chui vào Phật giáo để
lừa đảo mọi người.
Giới luật là
cửa cổng chọn lựa tu sĩ Phật giáo đúng những người chân tu, những người quyết tâm
tìm đường thoát
khổ. Kinh sách phát triển dạy người tu sĩ phá giới luật
nên những người tu
sĩ này chỉ
tu ăn, tu ngủ, tu danh, tu lợi nên dựa vào tôn giáo để buôn
Phật (bán tượng cốt),
buôn pháp (bán
kinh sách) kinh doanh tôn giáo
làm giàu vô đạo đức.
Chiếc lá chắn của
kinh sách phát triển dạy phá
giới, bẻ vụn giới làm tấm bình
phong cho những người
phi giới luật mới chui
vào Phật giáo, mới
kinh doanh buôn
Phật bán pháp. Điều
này chắc ai
cũng rõ. Phải
không quý vị?
Nếu
không có kinh sách
phát triển làm tấm
bình phong che chắn thì những
người bất lương không thể chui
vào Phật giáo làm những điều tồi tệ.
Giới luật Phật
không dung túng cho những người này,
sáng họ vào cổng chùa, chiều họ đã bay mất vì giới luật quá nghiêm khắc.
Cho nên, những
người này sống trong giới luật chẳng nổi, nên chẳng dám vào làm tu sĩ Phật
giáo.
Ở chung quanh tu viện
Chơn Như có một
số người nghèo đói thất nghiệp hoặc làm ăn vất vả, cực nhọc nên muốn vào chùa
tu cho sướng thân. Nào ngờ bước vào cổng chùa lúc sáng thì tối đã trốn mất, vì ngày ăn có một bữa
cơm nên sống không nổi, vả lại sống không được nói chuyện ồn
náo. Sống độc
cư, sống một mình v.v..
Chỉ sống có bấy nhiêu
đó, cũng đủ thử
thách những người vào đạo Phật chứ chẳng cần thử thách gì cả.
Những người
tu ăn, tu ngủ, tu tiền, tu bạc, tu
danh, tu lợi
v.v.. Cho nên, những người này
vào chùa
cơm ăn áo mặc đầy đủ, không
tốn tiền, cơm ngày ba bữa, còn được đi học cha mẹ khỏi lo. Có những Thầy
khôn ngoan lanh lợi khéo nịnh bợ Phật tử
nên có tiền
tiêu riêng,
còn sắm cả xe gắn máy rất sang trọng. Nhất là
quý Thầy
giả dạng tu
hành có hình
thức giữ giới luật, lại còn dễ gạt
Phật tử, làm tiền, sống trên nhung lụa một cách đầy đủ sung túc.
Cho nên, đức Phật
đã xác định tất cả những
hạng người này
là trùng trong
lông sư tử, sẽ giết Phật
giáo chết. Đúng vậy, những
tu sĩ phá giới luật Phật, đang đầy dẫy trong các chùa Phật
giáo, đang làm hỏng hết giáo
pháp và đạo đức của đạo Phật. Số
tu sĩ trong
các chùa mà con đã nêu trong câu hỏi, là loại trùng trong lông
sư tử, đang được một số cư
sĩ vô minh nuôi dưỡng, để phá hoại đạo
Phật cho tận gốc rễ. Những
tu sĩ này
dùng những danh từ
rất kêu khi họ lừa đảo Phật tử: ‚làm Phật sự‛,
‚chấn hưng
Phật pháp‛ v.v..
Các con đã
hiểu giới luật Phật, vị tu sĩ nào giữ
gìn đúng giới
luật thì cúng dường
còn giữ gìn không
đúng giới luật
thì nên cảnh giác, đừng
tiếp tay với những tu
sĩ ngoại đạo của
kinh sách phát triển này mà giết Phật giáo.
Giết Phật
giáo, tội ấy về ai? Về các
con đấy, vì các
con đã nuôi
chúng. Vậy, các
con phải tránh xa những loại trùng độc này.
CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Câu hỏi của
Liễu Hương
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Những Phật tử
đã biết
các tu sĩ
tu hành không
có đạo hạnh, phá
giới luật, ăn uống phi thời, sống
phóng dật, chạy theo dục lạc thế gian, mà cứ cúng dường cho họ, thì cúng
dường như vậy có phước báo gì không?
Hay tạo
thêm nghiệp cho những
tu sĩ ấy. Xin
Thầy chỉ dạy cho con rõ.
Đáp: Một hôm
vua Ba Tư Nặc hỏi Đức Phật: ‚Bạch Đức Thế Tôn, chúng con là hàng cư sĩ
cúng dường bố thí
thế nào
cho đúng chánh pháp?‛.
Đức Phật
đáp: ‚Cúng dường
bố thí cho cá nhân
hay tập thể,
thì cá nhân hay tập
thể đó phải thanh tịnh‛.
Chữ “thanh tịnh”
ở đây đức Phật dùng để chỉ cho những người hiền lành, có đạo đức, không gian xảo, không
lừa đảo v.v..
Còn tập thể thì chỉ cho những tu
sĩ (các vị Tỳ Kheo) nghiêm trì giới luật, có
đạo hạnh thì mới cúng dường bố thí.
Đức Phật dạy tiếp: ‚Nếu cúng
dường bố thí không đúng cách thì
cũng giống như đem hạt giống tốt gieo trồng trên đất chai, khô cằn
thì hạt giống sẽ bị hư thối‛.
Chữ “hư, thối” ở đây
có nghĩa
là không được
phước mà còn tổn phước.
Biết một vị
tu sĩ phá giới luật, phạm giới không
có đạo hạnh,
ăn uống phi
thời, sống phóng dật, mà cứ cúng
dường cho những tu sĩ này, để họ tiếp tục
phá đạo Phật thì có tội rất lớn. Cũng như
biết kẻ trộm cướp giết người mà che giấu, chứa nuôi trong nhà, thì đồng tội với kẻ trộm cướp giết người đó (tội rất nặng).
Nếu tất cả tín đồ
Phật giáo ý thức biết điều này, tức là biết những tu sĩ phá giới,
phạm giới luật Phật, thì chẳng ai cúng dường, bố thí, trai Tăng
thì những người tu
danh, tu lợi
làm sao sống được, mà phá Phật giáo.
Biết họ
tu sai, mà cứ luôn
nuôi dưỡng họ. Họ
bày ra những điều
mê tín thì lại tin theo, làm theo khiến cho giáo pháp của Phật
càng ngày càng sai lệch. Bây giờ
nhìn lại giáo pháp của Phật không
còn thực tế, cụ thể nữa, toàn là thứ
giáo pháp trừu
tượng, mơ hồ,
mê tín, dị đoan, lạc hậu v.v..
Cho
nên, cúng dường
không đúng đối tượng
khiến cho Phật pháp
suy đồi, tà
pháp hưng thịnh, đạo đức con người chẳng còn. Tuy rằng, thời đại của
chúng ta là thời đại
văn minh khoa học cơ giới, điện tử, tin học đã phục vụ đời sống con người
rất tiện nghi,
nhưng lại khổ đau về tinh thần,
khiếm khuyết về đạo đức quá lớn. Nên khắp
trên thế giới không lúc nào ngơi nghỉ,
ngơi chiến tranh, không
phút nào con người ngưng chà đạp
lên con người.
Sự lầm lạc phục vụ cho tà
giáo ngoại đạo của
kinh sách phát triển
đã gây bao thế
hệ trầm luân đau khổ.
Mà đến giờ
này con người chưa thức tỉnh,
luôn luôn nối giáo cho giặc cướp nước, cướp nhà.
Người Phật tử
phải sáng suốt cúng dường, bố thí cho
đúng chánh pháp.
Đừng nghĩ rằng, ai
làm tội nấy chịu, mà phải thấy
mình có trọng trách
với mình, với mọi người,
với tôn giáo mình
đang theo, nó tốt hay xấu đều do
chính mình. Mình
theo tôn giáo đó,
mà không làm đúng lời
dạy của tôn giáo đó, lại làm theo tôn
giáo khác, tức
là mình phỉ
báng tôn giáo mình
đang theo.
Tôn giáo đưa
ra những giáo lý dạy con người sống thiện
làm thiện, giúp
con người có
đạo đức, luôn sống trong
những hành động thiện,
chứ không có
tôn giáo nào
dạy làm những điều
ác. Mà chính
người theo tôn
giáo lợi dụng tôn giáo, biến giáo pháp
sai lệch theo ý đồ của mình, biến dần tôn giáo thành tà giáo, ác pháp, biến
tôn giáo thành đế quốc, bắt con người làm nô lệ cho những kẻ độc tài.
Bởi vậy, tôn
giáo ra đời cũng do con người, làm
sai cũng do con người,
làm đúng cũng
do con người. Biết những tu sĩ phạm giới, phá giới sống không đúng phạm
hạnh, sống phi đạo đức mà cứ cúng dường
cho họ sống. Đó là sự cúng dường giúp cho những Ma vương phá đạo Phật, thì sự cúng
dường ấy không
có phước báo mà
còn tiếp tay cho Ma vương phá Phật pháp. Tội phá Phật pháp là tội rất lớn với
nhân lọai, vì Phật pháp là đạo đức nhân bản của con người.
Cho nên, những
hành động cúng dường không đúng chánh pháp, vì thế hiện giờ con người được
xem như gần mất đi nền đạo đức
nhân bản
chân chánh của Phật giáo.
Chỉ còn lại tà pháp vô đạo đức của
Ma vương, nên người tu thời nay dở chết,
dở sống mà ‚đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời‛.
Quý Phật tử
là đệ tử của Phật, phải chấm dứt
ngay hành động
cúng dường phi
pháp, để
Phật
giáo còn có một chút
hơi tàn, một
chút ánh sáng mang lại cho loài người.
Nếu nói Phật tử tạo nghiệp
cho quý thầy thì không đúng,
vì quý thầy
là Ma vương, mà đã Ma vương thì nó là ác pháp, lúc
nào nó cũng muốn diệt chánh
pháp của Phật.
Chỉ có chúng ta
lầm lạc Phật
và Ma vương mà
thôi. Nhưng quý Phật tử sẽ
không lầm lạc
Ma vương và Phật.
Vì Phật thì giới
luật nghiêm chỉnh,
còn Ma vương thì phá giới.
Biết Ma
vương mà lại cúng dường cho Ma vương,
đó là đang
sống trong nhà
của Ma vương thì đừng than khổ,
đừng kêu ca ‚Tại sao chúng ta sanh
làm người? Rồi
làm người lại làm khổ người
quá vậy? Hỡi
quý thầy tu theo kinh sách phát
triển?‛.
Theo Ma
Vương không những
làm khổ mình, khổ người mà còn
làm khổ cho tất cả chúng sanh. Phật pháp càng ngày càng suy đồi, chánh
pháp càng ngày càng biến mất, tà pháp
càng ngày càng hưng thịnh. Thật là đau lòng phải không quý Phật tử?
Ma Vương đội
lốt tu sĩ Phật giáo nơi nơi, đâu đâu cũng thấy, cũng có những hình ảnh chướng tai,
gai mắt phạm
giới, phá giới đầy
dẫy, không
đâu là không
thấy trong các
tu sĩ phạm giới, phá giới, bẻ vụn
giới hiện giờ.
HÛY HỌAI CƠ
THỂ HOẶC MỘT PHẦN CƠ THỂ
ĐỂ CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT CẦU VÔ THƯỢNG PHÁP
Câu hỏi của
Mật Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Trong
Thiền Tông có câu
chuyện Huệ Khả chặt cánh
tay dâng lên cúng
dường Bồ Đề Đạt Ma để cầu pháp an tâm (Phật Tánh), như vậy đức Phật
có dạy điều này
không? Xin Thầy
giải rõ cho chúng con được hiểu.
Gần đây có một
số quý Thầy đốt, chặt một lóng ngón tay trỏ để cúng dường chư Phật.
Chặt đốt,
ngón tay cúng
dường chư Phật có ích lợi gì cho
bản thân? Xin Thầy chỉ rõ cho chúng con
được hiểu. Những người chặt, đốt ngón
tay cúng dường
chư Phật tu
hành có chứng quả hay không?
Đáp: Hủy hoại cơ thể hoặc một phần cơ thể để
cúng dường chư Phật, mà
trong kinh sách phát triển
đã có dạy, như trong kinh Diệu Pháp Liên
Hoa phẩm tựa có những câu dạy:
‚Lại thấy có
Bồ Tát1
Bố thí cả vợ
con
Thêm thịt
cùng tay chân
Để cầu vô
thượng đạo
--o0o--
‚Lại thấy có
Bồ Tát Đầu mắt và thân thể Đều ưa vui thí cho Để cầu trí tuệ Phật"
Đọc qua đoạn
kinh này chúng ta quán xét
thấy kinh
sách phát triển lừa đảo và lường gạt dạy tín đồ bằng cách bố thí cúng dường của
cải, tài sản, vợ con cho đến thân mạng.
Thứ nhất, lừa
gạt để cướp đoạt tiền bạc, châu báu ngọc ngà. Lấy đạo vô thượng, hay là Phật
tánh để trao đổi bằng vàng bạc, ngọc ngà châu
báu. Ở đây,
có nghĩa là
cúng dường chư
Phật.
1 Bồ Tát là
một người cư sĩ đang tu tập
‚Dùng các món nhân duyên
Mà cầu chứng
Phật đạo‛.
Muốn cầu chứng được đạo quả
giải thoát thì nên trao đổi bằng:
‚1- Vàng bạc,
ngọc ngà, san hô, trân châu, ngọc như ý,
ngọc xà cừ, mã não, kim cương và các trân bảo khác cùng tôi tớ, xe cộ, kiệu
cáng làm bằng
châu báu, vui vẻ đem
cúng dường, đừng
tiếc rẻ để cầu
chứng đạo quả‛.
Đọc đoạn
kinh này chúng ta nhân xét đạo quả giải thoát của đạo Phật chẳng có giá trị gì,
nó cũng
như những vật tầm thường
của thế gian này, vì thế đem vàng
bạc ngọc ngà, châu báu trao đổi
mua bán. Và
như vậy đạo giải
thoát của Phật
giáo rất tầm
thường. Phải không quý Phật tử?
Kinh sách
phát triển dám đem đạo giải thoát của Phật giáo trao đổi với vàng bạc châu
báu thế
gian thì chúng ta
không còn chỗ
nào phê phán kinh sách này nữa. Một loại kinh phỉ báng Phật pháp ghê gớm.
Vậy mà quý Phật tử làm ngơ mà hằng
ngày còn tụng
niệm trì chú thì chúng tôi không
biết nói làm sao hết. Thật là xót xa đau lòng lắm quý vị?
đây:
Xin quý vị đọc
đoạn hai của câu kinh dưới
2-
‚Cúng dường cả vợ và con
cho chư
Phật,
cho người khác để cầu chứng đạo quả
giải thoát‛. Đọc đoạn kinh này chúng tôi quá sợ hãi, khiếp
đảm. Một người đi tìm cầu sự giải thoát của Phật giáo mà đem cả vợ con cúng dường chư Phật hay
người khác thì thử
hỏi người ấy đạo đức của con người ở đâu?
Vợ con là những
người thân thương và gần gũi nhất của đời người,
thế mà nỡ nhẫn tâm đem cúng
dường cho chư Phật, cho người
khác để cầu chứng
đạo giải thoát
thì đạo giải thoát ấy
là đạo gì?
Có phải đây
là đạo giải
thoát vô đạo đức không?
Kinh
sách dạy đạo giải thoát
phi đạo đức như vậy có xứng đáng cho chúng ta theo tu
học không?
Làm chồng mà
đem vợ con mình cúng dường chư Phật thì người chồng ấy là người chồng gì?
Chư Phật nào
dám nhận vợ con
người khác. Dám nhận vợ con
người khác thì chư Phật đó có xứng đáng làm chư Phật
không? Như quý bạn đã biết giới luật cấm không cho tu sĩ nhận
cúng đường tiền bạc, trâu
bò, heo dê
cái, phụ nữ và trẻ con. Cho nên, tiền bạc chư
Phật còn không dám nhận huống là cúng dường trâu bò, heo dê cái và phụ nữ đàn
bà con nít.
Thưa
quý bạn,
kinh dạy như vậy có
đúng không? Một loại
kinh phi đạo đức cần
phải ném bỏ.
Xin quý vị đọc đoạn ba của câu
kinh dưới đây: ‚3- Đoạn
thân mạng, tay
chân, đầu mắt của thân thể cúng
dường cầu đạo vô thượng‛.
Đọc qua những
đoạn kinh trên
trong bộ kinh phát triển
Diệu Pháp Liên
Hoa, mà được mọi người
từ thầy Tổ,
cho đến ngày nay người ta
đã tốn biết
bao nhiêu giấy mực, để luận
và giảng về bộ
kinh nổi tiếng nhất
trong kinh sách phát triển: ‚Diệu
pháp Liên Hoa kinh‛. Một bộ kinh mà
được các thầy Tổ và tất cả Phật tử xem là một vật quý báu nhất trong
các kinh phát triển, thường ca ngợi và truyền tụng. Do bộ kinh này
mà có nhiều
người, đã thành lập
đạo tràng lấy
tên kinh làm tên
chùa, tên đạo tràng
của mình (Chùa
Pháp Hoa, Đạo Tràng Pháp Hoa).
Một bộ kinh
dạy người hủy hoại cơ thể để cầu đạo giải thoát.
Xưa tổ Huệ Khả đã hủy hoại một cánh tay dâng
lên Tổ Bồ Đề Đạt Ma để cầu pháp giải thoát.
Sư Trừng Quán chặt
ngón tay cúng dường chư Phật để cầu chứng
Phật Tánh. Gần
đây trong hàng huynh đệ của chúng tôi, khi vào tu viện Chân Không cũng có một sư đệ lúc bấy
giờ thầy ấy chỉ
là một chú Sa
Di mà
rất gan dạ, đốt một lóng ngón tay
để cầu pháp (Thầy P.T). Khi chúng
tôi vào tu viện thì vị
thầy đó vẫn còn băng bó vết thương.
Gần đây
chúng tôi có đọc một tờ báo Công
An TP.Hồ
Chí Minh năm thứ XXIII Bộ
mới số
776 ngày 21
tháng 9 năm 1999 có đăng tin, tựa đề: ‚Sao lại tin những lời tà đạo?”
“Tháng 6 năm
1999, qua nguồn tin quần chúng. Công An huyện Củ Chi phát hiện tại
xã Tân Phú Trung có hai người một nam, một nữ tụ họp thêm một vài
người dân đến
nhà nghe giảng đạo. Đều là
hai người này
cùng bị mất một đốt ngón tay trỏ bên trái. Công An Củ
Chi đã khám phá
và ngăn chặn kịp thời
nhóm tà đạo thuyết
pháp những điều
nhảm nhí, mê hoặc người nhẹ dạ cả tin, hủy hoại thân thể, bỏ vợ, bỏ chồng để đi tu
v.v..”.
Bài báo viết tiếp: “Vào đạo phải chặt đứt
ngón tay và
làm công quả”.
Đúng vậy, Phật giáo phát triển thường nhận những người
làm công quả là những người
chuẩn bị để cho
xuất gia sau này. Những
người này trong
chùa gọi họ là tịnh nhân.
Nếu những tịnh nhân nào tự
phát nguyện chặt ngón
tay cúng dường
chư Phật, để cầu
pháp vô
thượng thì những tịnh
nhân ấy được xem
là những pháp
khí của kinh sách
phát triển. Được thầy Tổ lưu ý giúp đỡ và đào tạo họ trở thành những bậc
lãnh đạo Phật giáo phát triển. Trong giới
tín đồ Phật giáo cho rằng: “Ít ra những
người này cũng
là những bậc đại
thượng trí thức”.
Qua bài kinh tựa
của bộ kinh Pháp
Hoa tuy không ép
người khác hủy
hoại cơ thể, nhưng
cũng có ý đề cao khuyến
khích sự hủy hoại
cơ thể để cầu
pháp giải thoát
Tối Thượng Thừa.
Những lời dạy
trong kinh Pháp Hoa này, đi ngược lại lời dạy của đức Phật,
trong toàn bộ kinh sách Nguyên Thủy.
Đạo Phật
chủ trương không
làm khổ mình, khổ
người, thế mà ở đây chặt, đốt
ngón tay, hoặc chặt
cánh tay dâng
lên cúng dường,
thì rõ ràng là
đã tự làm khổ mình.
Từ cha mẹ sanh ra không tật nguyền,
bây giờ theo Phật giáo phát triển trở thành người tật nguyền, cụt tay, tàn tật. Vậy mà các
thiền sư vô minh
ca ngợi vị Tổ thứ hai Huệ Khả là bậc Đại Thừa pháp khí.
Chỉ có một lời ca ngợi
suông trong kinh sách phát triển
mà đã biến vị Tổ thứ hai của
Thiền Tông thành
một người tàn tật, thật là ngu si chạy theo danh mà tự hại mình.
Trong kinh
Phật Báo Ân của kinh sách phát triển có
câu chuyện tiền
thân Đức Phật:
‚Xưa có một
nhà vua chạy
giặc, gặp lúc đói khát ăn thịt con để sống”. Người mới
đọc qua câu chuyện tiền thân này nghe rất hay. Nhưng suy
nghĩ lại, chúng
ta mới thấy bản
chất của
loài thú vật hiện lên rất rõ
ràng. Người ăn thịt người, cũng chẳng khác nào loài thú vật ăn thịt
nhau, thì làm sao gọi là đạo đức làm người được.
Kinh sách
phát triển nói
qua sự tưởng tượng
của mình, một
ngày cắt ba cân
thịt ăn mà đứa con vẫn
còn đi đứng
được. Thì thử hỏi
quý vị nghĩ sao? Người ta bị chừng một vết thương, mà còn nằm bệnh viện cả tuần lễ điều trị. Thế mà mỗi
ngày cắt ba cân thịt mà còn đi
được, thì kinh
đó có vọng
ngữ hay không?
Có lừa đảo dối gạt người không?
Chúng ta nên
đọc tiếp bài báo: “Chuyện tưởng như đùa, nhưng
hoàn toàn có thật xảy ra ngay tại
vùng ngoại thành
của thành phố Hồ
Chí Minh.
Chị N.T.N
ở Tân Phú
Trung, Củ Chi. Theo
chồng về sống ở xã
Tân Thới Nhì, Hốc
Môn, cuộc sống gia đình rất hạnh phúc với
bốn mặt con. Năm 1987, một
lần đi chợ Hốc
Môn thì N gặp bà Tân, trước đây
là giáo viên dạy N học ở Tân
Phú Trung. Bà Tân
cho N biết, bà đang tu ở chùa Vạn Đức hay còn gọi là chùa
Ba mẹ, ở thị trấn Hốc Môn. Từ đó N thường xuyên lui tới chùa để nghe thuyết
pháp. Năm 1988, đứa con thứ năm chào đời được vài tháng
thì N bỗng dưng bệnh tâm thần, bỏ chồng
con vào chùa ở luôn không về nhà nữa. Một mình anh N.Đ.T chồng
N phải gồng gánh
nuôi năm đứa con thơ hết sức cực nhọc, nhất là bé mới
sanh.
N đến
làm công quả tại chùa,
ban ngày làm mọi việc lặt vặt, tối
nghe thuyết pháp. Ít lâu sau N được đưa lên chánh điện cầu nguyện
để quên chồng con, vứt bỏ mọi vướng
bận trần thế, ăn chay trường và sống kiếp tu hành. Nguyện xong
N dùng dao chặt đứt một đốt
ngón
tay trỏ bên
trái, rồi cầm
tay đang chảy máu ròng chạy lên chánh điện hiến dâng một
đốt ngón
tay để tỏ sự
thành kính và một lòng theo đạo. N được bà Thiện
băng bó vết thương
lại.
Nghe
tin vợ chặt tay, anh T có mặt ngay
chùa để
hỏi rõ sự việc, thì được một phụ nữ trong chùa
giải thích ngắn gọn
“cúng dường”. Anh T kịch liệt phản đối vì việc làm kỳ cục và hết
sức dã man này. Nhiều lần T đến chùa năn nỉ
vợ, kể cả
la lối, đòi
kêu C.A bắt, nhưng
N vẫn kiên quyết không về nhà.
Sau đó, bà
Thiện đưa N về chùa ở An Phú Đông để sống
chung với bà.
N phải nhổ cỏ,
chăm sóc vườn
cây ăn trái
của con gái
bà Thiện. Có một lần N
thèm mặn nên
đã lỡ ăn một
miếng bánh mì kẹp thịt,
khi ăn xong N
giựt mình, vì đã vi phạm lời
nguyện. Để chuộc lỗi lầm này,
N. dùng dao phay chặt
thêm một đốt ngón tay út bên phải.
Chính bà Thiện cũng băng bó vết thương
cho N. C.A Hốc Môn phát hiện sự việc
này, làm việc với N và
không cho N ở chùa nữa. Tuy vậy,
từ đó đến nay N cũng không sống chung với chồng con.
Đến năm 1998 N.V.V
ngụ tại xã Tân
Phú
Trung, Củ
Chi bỗng dưng lại bị bệnh nhức
đầu, thay vì
đến bệnh viện thì V lại đi hết chùa này
đến chùa khác ở Củ
Chi, Bình Dương, Đồng Nai để trị bệnh, nhưng không có kết quả. Nghe đồn ở thị trấn Hốc Môn
có chùa Vạn Đức trị bệnh rất
hay nên V
nhanh chân tìm đến
nhờ giúp
đỡ, hy vọng sẽ nhanh
chóng khỏi bệnh.
V kể lại thuốc
chữa bệnh của chùa là chén nước lạnh. Trị bệnh xong, V ở chùa làm công quả, từ
Củ Chi đến Hốc Môn khá xa, sáng đi chiều
về rất mệt,
nhưng V quyết tâm vượt qua để được đóng góp chút ít công sức cho
chùa.
Ngày 16- 2-
1999 (mùng một Tết), vì đến làm
công quả như
thường lệ thì được
bà Tâm trụ trì
chùa khuyên bảo:
“Phải về nhà
tu tâm, ăn hiền ở lành
và chịu khó nghe kinh
thuyết pháp của chùa”.
Lúc 11 giờ
ngày 3- 3- 1999, sau khi đi cắt lúa về
nhà, V đứng trước tượng Phật Thích
Ca được đặt tại nhà đọc lời nguyện sẽ đi tu, không sống chung với vợ con
nữa. Liền sau đó, V đã dùng dao chặt dứt hai đốt ngón
tay trỏ bên trái, chặt xong V tự băng bó vết thương.
Hiện V đang sống chung
với mẹ ruột,
bỏ vợ cùng
hai đứa con thơ”.
Như trên, những bài kinh của kinh Diệu Pháp
Liên Hoa đã tác động rất mạnh vào lòng
tin của con người. Họ
dám chặt tay, đốt ngón tay
hoặc chặt một
lóng ngón tay
cúng dường chư Phật để cầu pháp
giải thoát.
Giải thoát
đâu không thấy,
chỉ thấy toàn là
sự đau khổ, một sự ngu dại
làm khổ mình, làm
khổ vợ con, làm
khổ những người thân và còn làm công không cho người khác, bị
lừa đảo mà không biết.
Đối với tà
giáo ngoại đạo, nếu chúng ta không đủ trí sáng suốt, minh mẫn thì sẽ bị những lời
đường mật lừa đảo trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa như câu kinh này:
‚Đầu mắt và
thân thể
Đều ưa vui
thí cho
Để cầu trí
tuệ Phật‛.
Muốn đạt được trí tuệ
giải thoát của đạo
Phật, thì phải bố thí hay cúng dường thân thể hoặc một phần của
thân thể, thì sẽ được trí tuệ giải thoát.
Do lời dạy
này và những câu chuyện tiền thân đức Phật hay những chuyện cổ tích về đạo Phật
như: Khi đức Phật còn là Bồ Tát tu hạnh
bố thí, Ngài đã thí
thân cho cọp ăn.
Thí thân
cho cha mẹ
ăn, như Thái tử Tu
Xà Đề. Lấy thân làm một ngàn ngọn đèn thắp sáng để cầu
pháp, như Chuyển
Luân Thánh Vương
trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo ân. Chuyện cổ Phật giáo như Diệu Thiện
còn gọi là nàng công chúa Ba, bố thí mắt,
tay để làm thuốc
cho cha gọi là báo hiếu của Phật giáo phát triển.
Nhưng gương
bố thí thân mạng để cầu pháp, để
báo hiếu, đối với knh
sách phát triển thì rất là tốt đẹp và cao
thượng, nhưng lại xa
rời thực
tế và vô đạo đức
làm người của Phật
giáo Nguyên Thủy.
Nhất là giáo
pháp phát triển không
có đôi mắt
nhân quả, nên
thường tỏ ra những hành động một anh hùng cá nhân vô minh, vô đạo đức với
mình (tự làm khổ mình vì người).
Đạo Phật
không chấp nhận những điều này, chủ trương của đạo Phật là không làm khổ
mình, khổ người.
Thế mà tin theo
lời dạy của kinh sách phát
triển, đã tự chặt tay,
khoét mắt, đốt tay để cúng dường cầu pháp giải thoát: Giải thoát đâu
không thấy chỉ thấy một sự khổ đau của mình.
Đó là tự
gieo ác pháp
cho mình và còn làm khổ cho những người thân thương của mình vợ con cha mẹ.
Ngày xưa, ông Vô Não nghe một vị Bà La
Môn dạy: Chặt được một ngàn
ngón tay người thì chứng được đạo giải thoát. Tin lời dạy
này, ông đã trở
thành một hung
thần, một ác quỷ
giết người không gớm tay. Chặt tay người, xỏ xâu thành
chuỗi, chờ ngày
giết cho đủ một
ngàn người để chứng đạo. Đó là pháp môn ác đức làm khổ người, mạng sống con người
trong kinh sách phát triển
được xem như một chiếc
áo, muốn ném bỏ lúc nào cũng được (chiếc thân huyễn mộng).
Cái nhìn như vậy, tức
là Phật giáo bị đồng hóa pháp môn
ngoại đạo, nên làm khổ mình mà
không biết còn gọi là cầu chứng trí tuệ giải thoát. Vậy trí tuệ giải
thoát, sao ta lại ngu si để chuốc
lấy sự đau khổ
cho thân này, biến thân thể mình
thành người tàn tật?
Trong thời
gian tu hành tại tu viện Chân Không,
chúng tôi cũng
có một vài
huynh đệ chặt hoặc
đốt ngón tay để cúng
dường cầu pháp. Nhưng đến nay
đã 30 năm
chúng tôi nhìn lại những huynh
đệ đó đã
không có sự giải
thoát, mà lại cơ
thể nay đau, mai ốm, mà
lại đau ốm những bệnh tật nan y. Cuộc đời của họ vì tin giáo pháp của kinh sách
phát triển và quyết tâm tìm đường giải thoát cho nên không tiếc thân mạng. Dám đốt ngón
tay, dám chặt
ngón
tay như cô
N.T.N và anh
N.V.V v.v.. và còn
rất nhiều người
nữa, thật là
có tâm cầu pháp giải thoát điên dại.
Những pháp
môn gì mà đưa con người đến chỗ tật nguyền, cụt tay, cụt chân. Cha mẹ sanh ra
không tật nguyền, đến giờ theo Phật giáo phát
triển, người có quyết chí tu
hành cầu giải thoát, thì giải
thoát đâu không
thấy, chỉ thấy mình
bị tàn tật. Thật là đau lòng!
Bởi tin theo
lời Phật dạy như vậy,
không ngờ đó là những lời của tà sư ngoại đạo, mạo nhận là lời Phật dạy
để dễ bề lừa gạt người khác.
Những người
không biết về
kinh sách phát triển
như các chú
C.A thì cho đó tà giáo ngoại đạo, còn những người có nghiên cứu
kinh sách Diệu Pháp Liên Hoa thì không thể lầm là tà giáo
ngoại đạo. Họ biết rất
rõ trong kinh sách phát triển dạy rất nhiều điều
phi đạo đức, lừa đảo,
lường gạt người;
dạy những điều
mê tín và hủy hoại một phần
cơ thể, cúng dường chư Phật để cầu pháp tối Thượng Thừa.
Từ ngày có
Phật giáo truyền vào đất nước
chúng ta, sự mê tín dân gian không bớt mà lại còn thêm những sự
mê tín khác nữa
và những sự hy sinh vô nhân đạo đối
với bản thân mình.
Vô nhân
đạo đối với mình,
là tự hủy hoại cơ thể mình,
người vô đạo đức nhân
quả là tự làm
khổ mình. Xưa kia Tổ Huệ Khả chặt
cánh tay, Sư Trừng Quán chặt
ngón tay, gần
đây có các Thầy như thầy
P.T - P.D, v.v.. Và gần đây nhất
là báo Công An đã đăng tin, có một số người
ở chùa Vạn Đức Hốc
Môn đã chặt
ngón
tay.
Hủy hoại
cơ thể để được
những gì hay đã tự làm khổ mình.
Và sự tu tập như vậy đã đi ngược lại với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương có mục đích hẳn hoi.
Khi vào đạo là
không làm khổ mình,
khổ người, tức
là giải thoát.
Cớ sao đi tu lại làm khổ gia
đình, vợ, con hay là chồng con, mà gọi
là đi theo
Phật? Đi theo
Phật sao làm khổ
mình, khổ người,
mà lại chính
làm khổ những người
thân thương của
mình, thì Phật nào chấp nhận
cho quí vị tu
hành như
vậy.
Chỉ có
kinh sách phát triển
dạy người tu hành để
được phước báo
giải thoát, nhưng phước
báo giải thoát
đâu không thấy
mà chỉ thấy sự
đau khổ cho mình,
cho những người thân thương của
mình, như trong bài báo chúng ta đã đọc ở
trên.
Hiện giờ trong đất nước chúng ta, thỉnh thoảng nghe
báo chí đăng
tin vị giáo chủ
này đến vị giáo
chủ kia dạy
nhiều loại pháp
mê hoặc và lừa đảo người khác, như giáo chủ xứ Sương Mù, giáo
chủ Pháp Hoa, giáo
chủ Long Hoa Hội, giáo chủ
Chân Không, Sư bán Khoai, Sư bán Chiếu, Sư mỏ Cày v.v..
Xét lại các
giáo phái này, chịu ảnh hưởng kinh sách phát triển mà sinh ra.
Các giáo
phái tà đạo của kinh sách phát triển dạy
tu hành
một cách kỳ lạ khiến
chặt, đốt một ngón
tay hoặc một phần trong
thân thể của mình để cúng dường chư Phật để cầu pháp giải
thoát, thì kinh sách phát
triển ca ngợi gọi những người dám
cúng dường được như vậy gọi là
PHÁP KHÍ ĐẠI THỪA.
Những người này được xem là BẬC ĐẠI BỒ TÁT.
Vì những danh từ ca ngợi
rất cám dỗ của
kinh sách phát triển, nên khiến cho người ta dám chịu đau khổ, hy sinh thân mạng
và bỏ cả vợ con hoặc chồng con. Họ làm như vậy, họ không thấy rằng họ
là những người
không có đạo đức, không có đạo đức
với họ với những người thân, họ là những người vô minh, mù quáng đã tự làm khổ
mình, khổ người. Người tu hành như vậy không
thể gọi là người tu
theo
đạo Phật. Đạo Phật là đạo TỪ BI. Từ bi sao lại
làm khổ
thân mình và
làm khổ những
người thân của mình (cha mẹ, vợ
con hay chồng con). Và như vậy gọi là cầu giải thoát thì xin thưa cùng quý vị giải
thoát chỗ nào?
Hay là giải chết? Xin quý vị trả lời.
Đọc qua các
kinh sách phát
triển, chúng ta thấy rất rõ ràng.
Đây chỉ là một giáo pháp hỗn tạp, góp nhặt và lượm
lặt những tưởng tri của loài người từ
Đông sang Tây làm giáo pháp của mình. Tưởng là hòa đồng hay là tổng hợp giáo
pháp của ngoại đạo như vậy là cao siêu, là cao thượng. Nhưng
nào ngờ giáo
pháp ấy là một
thứ bã mía, giáo
pháp ấy giống
như chiếc áo vá nhiều thứ vải. Cho nên, kinh sách phát triển tự xưng
giáo pháp mình có 84 ngàn pháp môn, tự
xưng mình là TỐI THƯỢNG THỪA.
Khi đức Phật
ra đời tu chứng
và truyền đạo, Ngài đã căn
dặn chúng ta: ‚Chớ có
tin... chớ có tin... v.v..
Mà hãy tin những
gì có lợi ích cho mình cho người, mà hãy tin những gì đừng làm khổ mình,
khổ người‛. Đây là lời cảnh giác của đức
Phật xin quý vị lưu ý để tránh
những tà giáo
ngọai đạo đang ẩn
núp trong Phật
giáo với nhiều
hình thức khác
nhau khiến
cho loài người vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.
MỜI ƠNG BÀ
ĐÃ CHẾT VỀ ĂN TẾT
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Hằng năm cứ đến ngày giỗ và sắp đến
ngày Tết, người
còn sống ra mồ mả mời ông bà, cha
mẹ đã chết có từ 60,
70 năm nay,
về ăn Tết với con cháu, như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Câu hỏi này
có hai cách
trả lời để xác định:
1- Mê tín
2- Chánh tín
Câu hỏi này
mê tín như thế nào?
Như trong các kinh phát triển dạy:
‚Người chết
còn thần thức nên nghiệp dẫn thần thức
đi luân hồi.
Đó là hiện
tượng thế giới siêu
hình của tưởng tri‛. Nếu
còn có thần thức,
tức là linh hồn
đi luân hồi
tái sanh thì đến ngày Tết, ngày
giỗ ra mộ mời
những người
như ông bà,
cha mẹ đã chết
lâu rồi, về ăn Tết với
con cháu, mà đã đi
đầu thai rồi còn đâu về ăn Tết với con
cháu, đó là sự mê tín của kinh sách phát triển. Đối với Phật giáo Nguyên Thủy
thì con người do các duyên
hợp lại mà thành,
nên không có
linh hồn và thần thức.
Trong kinh Ngũ
Uẩn đã dạy:
‚Thân người gồm có
5 duyên: sắc,
thọ, tưởng, hành, thức. Khi một
người chết thì năm duyên này đều tan rã sạch, không còn sót một chút
xíu nào cả.
Cái còn lại đi
tái sanh luân hồi là ‚Nghiệp‛.
Nghiệp là những hành động thiện, ác của con người hằng ngày huân tập mà
thành. Vì thế, khi chết con người chẳng
còn sót cái gì
cả, thì làm sao về
ăn Tết với con cháu được. Còn
nghiệp là hành động thiện ác huân tập mà
thành, thì nghiệp làm sao về
ăn Tết với những người
thân được. Vì thế, mời ông bà, cha mẹ về ăn Tết với con
cháu là mê tín không
đúng tính cách ‚Chánh
Tín‛ của đạo Phật.
Kinh
sách phát triển
cho người chết còn có thần thức nên có cầu siêu: làm tuần 7
ngày,
21 ngày, 49
ngày, 100 ngày, giáp năm, ba năm v.v..
Đó là lối
mê tín lạc hậu của kinh
sách phát triển, trong
khi Phật Giáo Nguyên
Thủy
xác định: không
có thế giới
siêu hình, thế giới
siêu hình chỉ là thế giới tưởng tri.
Mê tín dân
gian cho rằng, người chết là đàn ông có 3 hồn 7 vía (tam hồn thất phách), đàn
bà có 3 hồn 9 vía (tam hồn cửu phách).
Khi người chết
chỉ còn một hồn một vía sống tại mồ mả, còn tất cả
các hồn vía
khác đều xuống dưới địa ngục
âm ty để thọ tội, và tiếp tục đi tái sanh luân hồi. Do mê tín
này, trở thành một tục lệ đến ngày giỗ, ngày Tết con cháu ra mộ mời ông bà cha
mẹ đã quá cố lâu xa về ăn Tết với con cháu.
Từ mê tín
của kinh
sách phát triển
đến mê tín của dân gian đều đi ngược lại đường lối của đạo Phật.
Mê tín của kinh sách phát triển là
tạo ra nghề nghiệp
tụng niệm, cầu
siêu để kiếm miếng
sống như các
nghề nghiệp khác
ngòai đời. Nhưng quý vị phải
biết nghề tụng
niệm cầu siêu là nghề lừa đảo lường
gạt người, lấy hình
thức báo hiếu cho những linh hồn ông bà, cha mẹ được siêu thoát về miền
Cực Lạc Tây Phương.
Kinh sách
phát triển là loại giáo pháp mê tín có sách vở, có bài bản nên khó ai thấy được.
Vì thế, mọi
người đều sa lưới bẫy của giáo pháp này.
Nghề này đã
trở thành một nghề cắt họng thiên hạ, tụng một ngọ có giá cả hẳn hòi không
có mặc
cả được. Trên
đây trả lời câu hỏi về tà
tín. Còn câu hỏi này về ‚Chánh
Tín‛ như thế
nào?
Hằng năm nhớ
lại ngày mất cha, mất mẹ, mất những người thân. Hoặc những ngày tư, ngày Tết cả gia
đình cười đùa, vui
chơi, thì họ lại nhớ đến
công ơn của những
người quá cố, nên đến nơi an nghỉ cuối cùng của những
người thân thương này, tức là thăm mồ mả. Khi thấy mồ mả của những người thân,
con cháu tưởng chừng những người khuất mặt
đang ở đâu đây, nên mới mời những người
đó về vui
chơi Tết với con cháu.
Đó là lòng
tưởng nhớ của những
người còn sống,
chứ người chết rồi, còn những
gì mà về ăn Tết vui chơi với con cháu.
Khi làm một
việc gì mà không biết, không rõ cứ theo
phong tục thói
quen xưa bày
nay làm; hoặc tin theo
các tôn giáo
chỉ dạy, chẳng cần
suy tư tìm hiểu gì cả
thì sẽ mang ý nghĩa mê tín lạc hậu. Chính vì làm mà không thấu rõ là mê
tín. Còn ngược lại,
khi làm việc gì, thì phải
hiểu rõ, biết
rõ việc mình
đang làm,
không
bị ảnh hưởng
phong tục, tập
quán, không bị tôn giáo lừa đảo, đầy đủ ý nghĩa đạo đức làm người thì việc
ấy là ‚Chánh Tín‛.
CẦU XINH PHÚC LỘC
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa
Thầy, đầu năm đi chùa để
lễ bái cầu
phúc, cầu lợi, có lợi lạc gì
không thưa Thầy? Nhất là ngày rằm tháng giêng thì chùa nào cũng đông nghẹt, từ
sáng sớm đến khuya, vì người
ta nghĩ “Đi lễ quanh
năm, không bằng đi ngày rằm tháng
giêng!”.
Chúng con
cúi xin
Thầy từ bi chỉ dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Đó
là phong tục mê tín từ lâu
trong các chùa do kinh sách phát triển dạy cầu phúc, cầu lợi
như vậy để lừa đảo tín
đồ Phật
giáo, đem phúc lợi cho những
tu sĩ ngồi
trong mát, ăn bát vàng hơn là
phúc lợi cho tín đồ. Đi chùa để nghe pháp, nhớ lời Phật dạy về đạo đức làm người để sống
toàn thiện. Nếu một người
nghe lời Phật dạy,
luôn luôn sống
toàn thiện, thì
phước
lộc đầy đủ, cần gì phải đi
chùa cầu phước, cầu lợi? Nếu đi
chùa quanh năm, hoặc nhân ngày rằm
tháng giêng đến lễ Phật,
cầu chư Phật ban phúc ban lộc mà chẳng làm một điều lành, luôn luôn làm khổ
mình, khổ người, không
hề tu tập nhẫn nhục,
tùy thuận, vui lòng,
lúc nào cũng
có phiền não
sân hận, bất toại nguyện v.v.. thì có ích lợi gì? Có
Phật nào ban cho phúc lộc hay không? Đụng
việc gì cũng làm to ra, la lối om xòm, chửi làng, mắng xóm, cuộc sống lúc
nào cũng bỏn xẻn, ích kỷ,
không hề giúp đỡ người bất hạnh thì dù
có lạy Phật đến sói đầu, cầu phước, cầu lộc cũng chẳng
có được chút nào.
Đó là một việc làm
mê tín, mơ hồ, phi đạo đức,
không có thánh
thần, chư Phật, chư Bồ
Tát nào ban phước,
ban lộc cho quý vị ấy được, vì những việc ban phước
ban lộc như vậy, không
đúng đạo đức
công bằng và công lý.
Cầu phúc cầu lợi
không bằng sống
đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì cuộc
sống sẽ có phước
báo đầy đủ; đó chính là hành động
đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng với mọi người.
Cầu phúc cầu
lợi là một việc làm mê tín trừu tượng, ảo
mộng. Vì chẳng có ai ban phước ban lộc cho mình,
mà chỉ có
chính mình làm được những hành động thiện thân, miệng, ý
không làm khổ mình, khổ người đó sẽ là sự
ban phước, ban lộc cho mình
cụ thể, thiết
thực và rõ ràng.
Đi chùa cầu phước,
cầu lộc là việc làm thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta làm ác, bỏn xẻn,
ích kỷ, thì thử hỏi có ai dám đem phước lộc đến chúng ta chăng?
Phước lộc không phải
tự dưng mà đến với chúng
ta. Nó đến với chúng
ta bằng tâm niệm
tốt của chúng ta, do chúng ta biết thương người, biết giúp đỡ người
trong cảnh bất hạnh tai ương, biết ban phúc ban lộc cho người gặp
cảnh khó khăn.
Phước lộc đến
với chúng ta phải đến với sự công bằng và công lý. Nếu ta làm xấu ác, chẳng
giúp người trong cảnh khổ nạn thì khi chúng ta gặp khổ nạn chẳng có thần thánh
hay ai giúp chúng ta được,
và chẳng bao giờ
có phước lộc đến
với chúng ta. Nếu chúng
ta có ban phước lộc
cho người thì phước lộc mới đến với chúng ta. Cho nên, chẳng cần cầu khẩn ai
ban phước lộc cho mình. Phước
lộc đều do nơi
mình. Thế
nên đức Phật
đứng trong góc độ đạo đức nhân bản - nhân quả mà dạy chúng ta tu hành thiện
pháp. Đầu năm
đi chùa, lễ
bái, cầu phúc, xin lộc chẳng được phước lộc mà còn bị kẻ khác
lừa đảo, lường gạt, tiền mất tật mang. Đầu năm đi chùa lễ bái cầu phúc xin lộc
để rồi trở thành những tín đồ Phật
Giáo mê tín dị
đoan, lạc hậu, bị người đời cười
chê là những Phật tử ngu si, mê muội.
Đầu năm đến
chùa xin được đảnh lễ bậc chân tu giới đức, để học hỏi những đức hạnh
của người thì đó là phước là lộc. Người chân tu hướng dẫn và chỉ dạy cho
mình những hành động sống để được
phúc lộc an vui
thanh thản và hạnh
phúc. Đầu năm
đi chùa cầu
phúc xin lộc như vậy mới là chân
chánh vì ích lợi thiết thực cho mình,
cho người, cho xã hội và cho đất nước quê hương.
Tóm lại, đi
chùa lễ bái cầu phúc xin lộc là hành động mê tín dị đoan, thiếu đạo đức, thiếu
trí tuệ, là ngu
si mê mờ.
Đi chùa lễ
bái bậc chân tu, xin dạy đạo đức
làm người không làm khổ mình, khổ người là chân chánh, không mê tín lạc hậu.
Đó là người cư sĩ đệ tử Phật thông minh
và trí tuệ, tìm học
những điều phúc lộc
chân chánh,
cụ thể, thực tế, không mơ hồ, trừu tượng...
KINH SÁCH
PHÁT TRIỂN
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con
có mấy quyển kinh
như: Lương Hoàng
Sám, kinh Phương Quảng,
kinh Địa Tạng Vương,
kinh Dược Sư, kinh Diệu Pháp Liên
Hoa v.v.. Những quyển kinh này
chùa nào cũng
có lịch tụng niệm hằng năm theo
khóa lễ. Vậy những quyển kinh này có phải là
kinh của đức Phật hay không?
Xin Thầy chỉ dạy cho chúng
con được
rõ. Đáp: Những
kinh sách mà con đã hỏi không phải do Phật
thuyết, mà do các Tổ soạn viết ra sau
này, theo kiến
giải của từng bộ
phái. Mỗi bộ
phái khi được thành
lập và trọn quyền
nắm giữ bộ
phái của mình,
thì các Tổ biên soạn viết kinh
sách theo sự vay mượn của giáo pháp ngoại
đạo. Trong lúc đức Phật
còn tại thế thì Ngài
đã rống lên tiếng
rống con sư
tử, đập sạch
các hệ tư tưởng lường gạt người bằng
sáu mươi hai
lý luận, làm chấn động cả
đất trời (toàn thế giới).
Sau khi đức Phật tịch, không
ai còn nắm được
giềng mối, và quyền lãnh đạo Tăng
đoàn thì đã bị các Tổ sư ngoại
đạo vì danh,
vì lợi nên phân chia Phật giáo
làm 20 bộ phái. Mỗi người chiếm lĩnh một nơi, rồi soạn viết kinh sách theo sáu mươi
hai lập luận của ngoại đạo. Vì thế, kinh
sách phát triển
mà con đã kể ở
trên, không phải
là kinh sách của Phật
mà là kinh sách của Bà La Môn, bị
ngoại đạo phân hóa. Kinh sách ngoại đạo phân hóa ngày nay không còn mang tánh
chất Phật giáo Nguyên Thủy, chỉ còn một số
danh từ do đức Phật dạy
mà thôi, nội dung toàn là của ngoại đạo.
Cho nên, từ
khi Phật giáo chia ra làm nhiều bộ phái
thì sự tu tập
và đời sống đức
hạnh của người tu sĩ không còn thấy nữa. Chỉ toàn là
tu sĩ danh lợi, chạy
theo thế giới
siêu hình, cúng bái tụng niệm
như trong các
chùa, có lịch tụng
niệm các kinh
này hằng năm tháng
để cầu an, cầu siêu
cho tai qua, nạn
khỏi... Đó là
kinh sách của
ngoại đạo phát triển
đã dạy mê tín không
đúng đạo đức
nhân quả, dạy những điều
phi đạo đức.
Các con hãy
giữ lại, để làm kỷ niệm một thời vàng son của loại kinh
sách này. Nó
đã dẫn dắt
bao nhiêu thế hệ người tu hành đi trên lộ trình mê tín và kết quả chỉ uổng một
đời tu mà
thôi, chẳng có gì. Phật giáo
chỉ còn là
cái tên, thực
chất chẳng có gì là của Phật giáo cả.
HÌNH ÂNH QUAN THẾ
ÂM BỒ TÁT
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa
Thầy, gia đình
con có thờ hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát. Khi nghe Thầy giảng trong băng Bồ
Tát Quan Thế Âm không có thật,
mà chỉ là sự tưởng
tượng của con người. Trước kia,
con chưa được biết, nên được sư ở chùa
cho về thờ gần
hai năm nay. Bây
giờ con rất áy
náy trong lương
tâm, điều này nên để thờ hay thay
bằng tranh Phật khác? Xin Thầy hoan hỷ
chỉ dạy cho con được rõ.
Đáp: Bồ Tát
Quan Thế Âm là một vị Bồ Tát tưởng tượng
của kinh sách phát
triển, chứ không có một Bồ Tát
trong lịch sử loài người. Cũng như Bồ Tát Di Lặc cũng
chỉ là một Bồ
Tát tưởng
tượng. Khi thấy ai
hay cười hề hề
đều cho đó là Bồ Tát
Di Lặc. Gần
đây, có một số nhà học giả dạy người tu hành luôn
luôn tập một nụ cười.
Vì thế, có
nhà học giả dạy: ‚Hít vô
tôi mỉm miệng
cười, thở ra tôi
mỉm miệng cười‛.
Cách thức cười
như vậy, cũng giống như người Hoa kiều buôn bán ở Chợ Lớn, luôn lúc nào cũng cười hề
hề, làm vui lòng khách hàng. Nhiều
người tập vui cười ngoài mặt, nhưng bên trong thì tham, sân, si còn hơn những
người không tu. Đạo Phật chỉ
duy nhất có một đức Phật lịch sử trong loài người, đó là đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã
tự tìm ra một giáo pháp tu hành,
để đi đến giải thoát, sự đau khổ của kiếp người.
Là đệ tử của đức Phật, các con nên
thờ một vị Phật duy nhất, để tỏ
lòng biết ơn, đó là thờ đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Muốn thay đổi hình
tượng thờ phụng
trong nhà thì hình
ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát
con nên đem gửi lại chùa, hoặc
đem thiêu đốt.
Nên thỉnh
hình ảnh đức Phật Thích
Ca đang ngồi thiền tại cội bồ đề, bên dòng sông Ni Liên dưới ánh trăng
đêm khuya, về thờ phượng thì mới đúng tư cách
là tín đồ Phật giáo.
BA HỒN BÂY VÍA, BA HỒN CHÍN VÍA
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Người chết mới
tắt thở, có tục lệ, nếu đàn ông thì cho
7 hạt gạo nếp cộng 7 hạt
muối trắng vào miệng, đàn bà
thì 9. Làm như vậy có đúng không thưa Thầy? Xin
Thầy dạy cho chúng
con được rõ. Người nào tín
đồ Phật giáo thì cho một quyển
kinh kỳ cầu nhỏ bằng bao thuốc lá để vào
túi áo cho người chết mang đi, để quỷ sứ
biết là đệ tử của Phật, không tra khảo buộc tội.
Người nào được
làm lễ quy y Tam Bảo thì được phát cho
hai tờ điệp. Khi chết, một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro than đem đi bỏ xuống giếng hoặc
mang ra sông bỏ, 1
tờ xếp
nhỏ để vào lòng bàn tay người chết
mang đi. Làm như vậy có đúng không thưa
Thầy?
Đáp: Sau khi
đọc lại những sách nói về phong tục dân gian trong ba miền Nam, Trung, Bắc ta thấy
dù lý luận kiểu nào, các tập tục đó cũng chỉ là mê tín mà thôi.
Đối với đạo Phật,
thân tứ đại
này khi rã tan thì đất, nước,
gió, lửa phải trả về đất, nước,
gió, lửa, có còn gì đâu mà phải bỏ gạo muối
vào miệng để đem
theo ăn uống
như người còn sống. Thường tục lệ dân gian người ta
cúng cô hồn, tức là những vong hồn người chết
oan ức, chết tức tối, không đi đầu thai được, họ cúng bằng gạo và muối.
Do đó suy
ra, chúng ta cũng nhận ra được người
nam chết cho bảy
hạt gạo và bảy hạt muối vào miệng, để nhờ đó mà linh hồn và
phách vía không còn đói khát trong lúc chưa đi đầu thai. Từ chỗ tưởng tri, người
ta suy tưởng thế giới siêu
hình và cho rằng
người chết là chết thân tứ đại, còn riêng linh hồn thì bất
tử, bất biến, không
thay đổi và
không bao giờ
chết.
Bảy hạt gạo
và bảy hạt muối hay chín hạt gạo và chín hạt muối,
đó là sự tưởng tri của tình cảm con người đối với người thân
đã chết. Họ nghĩ rằng số gạo và muối như
vậy, đủ dùng trong thời gian
tiếp tục đi
tái sanh mà không bị đói.
Người ta
không hiểu rằng khi một người chết, bỏ cái
xác thân cằn cỗi này
thì tiếp tục ngay với cái xác
thân mới trong bào thai, giống như ngọn đuốc
này vừa tắt
thì được mồi sang ngọn
đuốc khác, cây đuốc cũ
đã thành cát bụi
không còn một vật gì lưu lại. Vì không còn một
vật gì lưu lại
nên chẳng có đi đâu và chẳng
có thời gian chờ đợi xuống địa ngục hay lên Thiên đàng hoặc đi tái sanh.
Cây đuốc
cũ và cây đuốc mới
thì có khác nhau, nó có vô số
hình tướng khác nhau nhưng lửa thì như
nhau, dù lửa than và lửa ngọn, hoặc ngọn
lửa lớn hoặc
nhỏ, tánh lửa vẫn là một
(tánh nóng, ấm) chứ không hai ba được.
Cây đuốc
dụ cho thân
nghiệp của con người,
nó có nhiều
hình thức khác
nhau, như làm thân
người, đàn ông,
đàn bà, hoặc
làm thân trâu, bò, heo, dê, cọp, chó, gà vịt, mèo chuột, cá tôm, chim,
côn trùng, sâu bọ, rắn rít, ong bướm,
v.v.. Tất cả đều là
thân tứ đại, nhưng hình dáng không giống nhau, dù rất nhỏ như vi
trùng cũng là thân tứ đại mà có, lớn như chim
đại bàng bay
che mát nửa bầu trời thì cũng là thân tứ đại.
Lửa dụ cho
nghiệp của chúng sanh, nghiệp thì
di chuyển linh động
trong thiện và
ác liên tục không có kẽ hở. Vậy nghiệp
luôn luôn vận hành không gián đoạn phút giây nào cả.
Thân thì có
tiếp nối thân
này thân khác (thân người, thân chúng sanh), còn nghiệp
thì liên tục dù thay đổi bao nhiêu thân, thì nghiệp
liên tục mượn
thân này, thân nọ mà hoạt động thành nhân quả thiện ác. Nghiệp thiện ác nối tiếp từ
thân này, thân
khác và cứ
mãi hoạt động như vậy nên đức Phật
gọi là tái sanh luân hồi mãi mãi.
Tín ngưỡng mê
tín, cho rằng con người có hồn và
vía, đàn ông có 3 hồn 7 vía, đàn bà có 3 hồn
9 vía. Người ta tưởng tri,
khi một người chết 3 hồn đi xuống
địa ngục bị hành tội, khi mãn tội thì đi đầu thai; còn 7 vía đàn ông, và 9
vía đàn
bà thì ở lại
dương gian vất
vơ, vất vưởng đói khát. Cho nên
khi chết, người ta cho vào miệng hoặc 7 hạt nếp hoặc 9 hạt nếp để 7 vía hoặc
9 vía đó,
có mà sống
không có đói khát, hoặc lấy trong miệng mà tiêu phí.
Đó là sự mê
tín, nhưng cũng nói
lên được tình thân thương của
người sống đối với người đã
chết. Nhưng vì sự mê tín lạc
hậu đó mới có những kẻ trộm hay
quật mồ, cạy quan tài lấy vàng bạc, của
báu đã được
chôn theo người chết. Một việc làm mê
tín lạc hậu cũng đã
đưa đến nhiều điều tai hại, nhất là khi quật mồ người chết, mùi hôi thối
của tử thi bay ra làm ô nhiễm một vùng.
Người chết
là hết, không còn ăn uống và tiêu
xài vàng bạc tiền của
như lúc còn sống.
Người
chết chỉ còn
nghiệp tiếp tục
tái sanh luân hồi, tức là hành động
thiện ác nối tiếp sự sống. Người chết là đang tiếp tục sống và người sống đang
tiếp tục đi dần đến sự chết. Nếu hiểu được như vậy thì chúng ta không còn mê
tín lạc hậu, không còn
làm hao tài tốn của một
cách vô lý. Chết là hết một kiếp thân nhân quả, còn có gì đâu mà xài tiền
bạc và mặc quần áo?
Vì mê tín
người ta
tưởng rằng người
chết cũng như người đang sống ở trên dương gian (dương gian
âm phủ đồng
nhất lý). Hiểu
như vậy là cái hiểu của
tưởng tri (hiểu bằng tưởng) không đúng,
không thực tế, là hiểu mơ hồ trừu tượng.
Cái hiểu đó
đã khiến cho người
ta hao tốn tiền của rất nhiều bằng
cách mua giấy tiền vàng mã, rồi
đem đốt. Thật là
lãng phí, nhảm nhí,
chẳng có linh hồn
nào sử dụng
quần áo giấy và tiền bạc giả đó,
nó chẳng ích lợi cho người sống cũng như người chết.
Tóm lại,
mê tín là sự ngu
si dại
dột của những con người
còn lạc hậu
trong những thời kỳ bộ lạc xa xưa, khi loài người
còn ăn lông ở
lỗ.
KINH CỈU KỲ
VÀ ĐIỆP PHÁI
Câu hỏi của
Liễu Nghĩa
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Người tín đồ Phật giáo nào hay đi chùa được cho một quyển kinh kỳ cầu nhỏ bằng
bao thuốc lá để
khi chết bỏ vào
túi áo mang
theo. Khi gặp quỷ sứ tra xét đưa cuốn kinh
này ra, quỷ sứ biết đó
là đệ tử của
Phật không tra
xét và không
buộc tội. Người nào đến chùa
được làm lễ
quy y Tam Bảo thì
được phát cho hai tờ điệp. Khi chết một tờ đem thiêu đốt cháy thành tro
than đem bỏ xuống giếng hoặc mang ra
sông bỏ, một tờ xếp nhỏ
để vào lòng
bàn tay người
chết mang đi. Làm như vậy có đúng không thưa Thầy? Mong Thầy chỉ dạy cho chúng con được
rõ.
Đáp: Điệp
phái quy y Tam Bảo là do Phật giáo bị phân chia ra làm nhiều bộ phái, các Tổ muốn
biết số người theo Phật giáo bao nhiêu nên lập ra điệp phái.
Khi truyền giáo từ Trung
Quốc rồi sang Việt Nam, các Tổ của kinh sách phát triển
biến tờ điệp phái thành loại giấy thông hành cho người chết.
Khi xuống địa ngục, nhờ những tờ
điệp phái này mà vua Diêm Vương cùng quỷ sứ giảm khinh
tội trạng và sớm được đầu thai. Nếu ai không có giấy này thì không được
giảm tội, và có thể ở
tù chung thân không
được đi đầu thai. Đây cũng là một
sự lừa đảo, lường gạt của các nhà sư
phát triển, lôi cuốn người
khác theo tôn giáo mình. Cũng như trong thời Pháp thuộc, ở Việt
Nam, người dân bản xứ
nào được giấy tờ giặc Pháp cấp nhập quốc tịch Pháp, thì hưởng mọi quyền lợi và không bị bắt bớ tù tội. Cũng giống
như vậy, người nào được làm lễ Quy Y
Tam Bảo là được ‚nhập
quốc tịch Thích Ca‛
và như vậy,
quỷ sứ, vua
Diêm Vương không hành phạt.
Thật là một điều bất công,
phi đạo lý. Sống trên dương gian chuyên làm điều ác,
chỉ cần có giấy điệp phái của các kinh sách phát triển, thay
Phật cấp cho là
khỏi bị tù tội! Còn những
người khác không
quy y Tam Bảo thì sao?
Họ bị hành hạ và bỏ tù
chung thân suốt đời, không cho đi
đầu thai thì thật là bất công, không còn công lý chút nào cả như trên chúng tôi đã
nói. Các kinh
sách phát triển
đã biến Phật giáo
thành một tôn
giáo mê tín, chuyên lừa đảo, lường gạt người khác, bằng
những điều mê tín, lạc hậu,
phi đạo đức.
Trong khi đức
Phật xác định kẻ nào giết hại chúng
sanh, trộm cắp, tà
dâm, vọng ngữ, uống rượu sẽ bị đọa địa ngục. Thế mà các kinh sách phát
triển dạy ngược lại lời dạy của đức Phật, làm một
điều gian xảo, lừa dối,
chỉ cần có giấy chứng điệp là thoát tội địa ngục!
Các kinh
sách phát triển lại còn dạy rằng: Khi trẻ con mới sanh đem vào chùa quy y Phật,
sẽ không bị tà ma quỷ quái bắt làm cho đau bệnh, hay hoặc trẻ mới sanh đem đến
chùa quy y Phật sẽ được mạnh giỏi và không bị đau ốm, nhờ chư Phật
phù hộ cho mạnh
giỏi. Trên đây là những điều mê
tín mà quý Thầy trong các chùa thường dạy tín đồ như vậy, để thu hút tín đồ thường đến chùa cúng bái, để các Thầy ngồi không mà thọ hưởng. Chẳng
tu hành gì cả, chỉ cần dạy bảo những điều mê tín đó là ngồi mát, ăn bát vàng.
Gần đây, khoảng
mười năm nay có xuất hiện một loại
kinh nhỏ bằng gói
thuốc hút có tên là kinh Kỳ Cầu, do một vị thầy Bà La
Môn tưởng ra biên soạn. Trong kinh Kỳ Cầu đã dạy: “nếu có quỷ sứ
hay vua Diêm
Vương tra hỏi thì đưa
kinh Kỳ Cầu
ra, liền không bị tra
hỏi và được đi tái sanh không sa địa ngục”.
Kinh viết:
‚Mạng chung
số thác
Quỷ sứ hỏi
câu
Đã có Kỳ Cầu
Diêm Vương
tra hỏi
Đứng lại mà
nói
Đã có Kỳ Cầu‛
(trang 2,
3).
Đó là một loại
kinh mê tín, phi đạo đức,
một lối lừa đảo của những tà sư ngoại đạo. Nếu làm tội lỗi tức
là làm ác,
thì chỉ có làm việc
thiện mới chuyển hóa được thoát cảnh khổ hay là cảnh địa ngục, chứ không phải
có kinh Kỳ Cầu là tiêu
tai thoát nạn.
Thật là những
tà giáo Đại Thừa bày ra nhiều điều phi đạo đức!
Kinh Kỳ Cầu là một loại
kinh tà giáo ngoại đạo mượn danh Phật pháp, để lừa đảo
tín đồ Phật giáo làm việc mê hoặc, đánh lạc hướng chân chánh của Phật giáo.
Kinh Kỳ Cầu giống như giấy thông hành của giặc Pháp cấp cho những người dân bản
xứ trong vùng chúng đã kiểm soát trong thời chiến tranh. Trong kinh này còn dạy:
“Nếu ai
có kinh này thì chư
Phật mới biết mà cứu độ”.
‚Chẳng có Kỳ
Cầu
Phật mới biết
đâu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!