Ví dụ: Người
ta còn mê tín thì có người hành nghề mê
tín, người ta không
còn mê tín thì người ta dẹp nghề mê tín; người ta cần
xây nhà tốt đẹp,
thì có người làm
nghề thợ mộc, thợ
hồ; người ta
không cần làm
nhà, xây nhà tốt đẹp thì thợ mộc, thợ hồ không có.
Tôn giáo
cũng vậy, người ta còn cần tôn giáo thì
có người
làm nghề tôn
giáo. Nghề tốt hay xấu đều do con người có đạo đức hay
không có đạo đức; nghề làm lợi ích cho xã hội hay không lợi ích cho xã hội cũng
đều do con người có đạo đức hay không có
đạo đức mà thôi.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo, mà là một nền đạo đức nhân bản của
loài người trên hành
tinh này, để quân
bình vật chất
và tinh thần đời sống của con người. Người ta không hiểu,
nên xây dựng
nó trở thành
một tôn giáo, nhưng
tại sao trên đầu Phật giáo lại
không có một đấng giáo chủ toàn năng như các tôn giáo khác?
Chính đức
Phật ngày xưa
khi tu chứng đạo, Ngài quỳ xuống
đảnh lễ giáo pháp chân chánh mà Ngài
đã tìm ra được, Ngài
tôn xưng nó là Thầy của mình và
sau này di chúc lại cho các đệ tử: ‚Hãy lấy giới luật của Ta làm Thầy, làm chỗ nương
tựa vững chắc
tu
hành, giới
luật còn là đạo Ta
còn, giới
luật mất là
đạo Ta mất‛.
Thưa quý vị! Giới luật
là gì? Giới
luật là đạo đức không làm khổ
mình, khổ người; không làm khổ
mình, khổ người
là giải thoát
không còn khổ đau nữa.
Xét như vậy,
chúng ta thấy đạo
Phật không phải
là một tôn
giáo, mà là một nền đạo đức của con người.
Do không hiểu
đạo Phật, nên người ta đã biến nó trở thành một tôn giáo, rồi từ đó, biến tôn
giáo trở thành nghề nghiệp sống như: nghề tụng niệm, cúng bái, nghề thuyết giảng,
nghề viết kinh sách, nghề ảo thuật
(thần thông), nghề làm
bùa yểm tà
ma, trị bệnh,
nghề bói khoa, nghề thầy thuốc,
nghề dưỡng sinh, nghề ngồi thiền ngừa bệnh và trị bệnh v.v..
Tại sao
chúng tôi dám nói như vậy? Chúng tôi
dám nói như vậy, là
vì chúng tôi
đã từng sống trong tôn giáo, cho
nên biết tôn giáo cũng chỉ là một cái nghề, tốt hay xấu là do người sử dụng cái
nghề đó.
Ví dụ: Một
ông bác sĩ đứng trước các con bệnh, ông đều tận tâm chữa trị dù người nghèo
cũng như
người giàu thì đó
là một ông
bác sĩ tốt, biết thương người (lương y như từ mẫu), có đạo đức,
đó là người
làm lợi ích
xã hội, còn
ngược lại,
người giàu có quyền thế thì ông chăm sóc
tận tụy, còn
người nghèo thì ông
trị bệnh sơ sài qua loa, sống chết
ông chẳng cần thì bác sĩ đó không
thể nào gọi
là người tốt,
có đạo đức, làm lợi ích cho xã hội,
cái nghề của ông ta tốt và cao quý nhưng
việc làm của ông ta không tốt, tức là không lợi ích cho xã hội.
Một vị
tu sĩ Phật
giáo cũng vậy, nếu ông ta giữ gìn giới luật nghiêm túc, sống đầy
đủ đức hạnh, không làm khổ mình, khổ người, tức là sống đời sống ly dục, ly ác
pháp, ông là một vị chân tu thật sự, làm
gương hạnh đạo đức
cho mọi người noi theo, không hề lừa đảo, dối trá, xảo quyệt lường gạt mọi
người bằng nhiều hình thức mê tín, dị đoan hay thuyết giảng những điều
mình chưa làm được, v.v.. thì ông là người
tốt, làm lợi ích cho xã hội, khiến cho mọi người không vì miếng cơm, manh áo mà
chà đạp giày xéo lên nhau
và cũng khiến
cho mọi người không còn hao tốn tiền bạc, của cải, tài
sản vì cái thế giới siêu hình mê
tín, lạc hậu và những luận thuyết suông v.v..
Ngược lại, một
vị tu sĩ Phật giáo mà sống không đúng giới luật đức hạnh, không ly dục, ly ác
pháp, bày đặt vẽ ra thế giới siêu hình,
dùng tưởng thức tạo ra
nhiều hình thức
linh thiêng,
huyền bí kỳ
lạ, khiến trí hữu hạn của con người không
thể hiểu và suy
luận, chứng minh được, nên tin rằng có thế giới
siêu hình thật sự. Lợi dụng
lòng tin này, bày ra
nhiều thứ mê tín
dị đoan để lừa đảo, lường gạt người khác, bằng cách dùng bùa chú, nước lã, tàn
hương trị bệnh, tụng kinh cầu siêu,
cầu an, xin
xăm, bói quẻ, lên đồng nhập xác, cầu cơ, xem ngày tốt
xấu, cúng sao giải hạn, cúng dường xây chùa, đúc tượng, đúc chuông để cầu được
phước báo giàu sang phú quý, bệnh tật tiêu
trừ, tai qua nạn khỏi
hoặc tạo ra nhiều
phương cách tập luyện gọi
là thiền này, định kia,
cũng như tưởng tượng ra, trạng thái này, trạng thái kia, gọi là Bản Thể Vạn Hữu, Phật
Tánh, Chơn Như, Đại Ngã, Tiểu
Ngã, Thiên Đàng, Địa Ngục, Cực Lạc Tây
Phương, Ngọc Hoàng
Thượng Đế, v.v.. khiến
cho con người
càng điên đảo lại càng điên
đảo hơn với những hình ảnh trừu
tượng, siêu hình này
và cũng từ
đó, con người bỏ phí
biết bao nhiêu công lực và tiền
bạc, nhưng khi hiểu lại,
mình chỉ là một người
ngu bị lừa đảo mà không biết.
Chúng tôi
nói đến đây, quý vị đừng tin chúng
tôi mà hãy
suy ngẫm và để ý những
người đang theo các tôn giáo tu hành, họ sẽ đạt
được những
gì và đạo đức của họ có hơn quý vị hay không?
Mình chưa có
đạo đức thì không
nên nói đạo đức với ai cả, vì
nói đạo đức tức là đạo đức miệng, nếu
người có đạo đức, dù
có kẻ khác chửi
mắng mình thì mình
đâu có giận hờn, vì có giận hờn như vậy là người không có đạo
đức, không có đạo đức với mình tức là
mình làm khổ mình. Cho nên Đức Phật dạy: ‚làm khổ mình, khổ người
là người không
có đạo đức‛.
Đó là chưa nói đến
khi chúng ta không
ngăn một điều làm ác của mình, như tức giận mắng chửi, nói nặng
nhẹ người khác,
khi mình có quyền thế và tiền của; mắng chửi nói nặng nhẹ
người khác là không
có đạo đức.
Có đạo đức
sao lại mắng chửi nói nặng nhẹ người khác được?
Làm lợi
ích cho xã hội,
không phải đem tiền của cho họ, mà chính đừng làm khổ mình, khổ người thì mới đem lại
lợi ích thiết thực cho xã hội. Dù chúng ta có mang đến cho họ sự giàu sang đầy
đủ mà cứ làm khổ họ thì sự giàu sang đó cũng chẳng có lợi ích gì cho họ.
Bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo,
v.v.. làm lợi
ích cho xã hội mà
la, hét, mắng,
rủa, chửi vợ
con, kẻ ăn người ở trong nhà, sân hận với kẻ khác trong xóm
làng, tức tối với tâm
mình, ăn ngủ
không yên,
còn có những
hành động như vậy
thì làm sao gọi là làm lợi ích cho xã hội.
Người làm những nghề
bác sĩ, kỹ sư,
nhà giáo là làm những nghề
cao quý nhưng không giận hờn và không làm đau khổ cho ai
thì mới thật sự là làm lợi ích cho xã hội, còn ngược lại, mà còn
giận hờn, tham
tiền bạc, làm
việc không hết lương tâm, làm đau khổ người khác, thì đó không làm
lợi ích cho xã hội,
mà chỉ vì làm lợi ích cho mình, nô lệ cho tiền bạc và vật chất v.v..
Cho nên
trong tôn giáo cũng vậy, các nhà tu ở chùa tụng kinh, gõ mõ làm điều mê tín lường gạt
tín đồ, ngồi mát
ăn bát vàng,
thân thể ngày càng mập béo,
đó là chỉ gạt được những người vô minh, tham đắm ảo huyền,
cầu phước báo một cách phi đạo đức v.v..
ĐÄO PHẬT YẾM
THẾ
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Người
ta cho đạo Phật là yếm thế, an phận, thủ thường, thấy ai làm việc ác thì
làm ngơ, vậy xin Thầy chỉ dạy?
Đáp: Người
ta bảo Phật
giáo yếm thế là
sai, hiện giờ và xưa kia Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông
đã và đang
xây dựng những ngôi
chùa đẹp
đẽ, nó trở
thành những kỳ
quan của thế giới như
chùa Đế Thiên
Đế Thích. Phật giáo
phát triển luôn
luôn đã và
đang tiếp tục làm việc từ thiện cứu
trợ đồng bào bất hạnh, thiên tai hỏa hoạn, bão lụt v.v.. như vậy gọi là yếm thế hay sao?
Không có người
tu sĩ Phật giáo nào bỏ đời trốn
trong núi rừng,
sống tiêu dao một
mình thì mới gọi là yếm thế?
Không lẽ, thấy
những người mới học Phật mới vào chùa tu hành chưa xong, còn đang ẩn bóng tu
hành mà cho Phật giáo là yếm thế thì lại còn sai quá.
Muốn làm một bác
sĩ để đem lại lợi
ích cho đời thì phải học, trong lúc đang học có làm
bác sĩ được
hay không? Trong lúc đang học mà ra trị bệnh
thì chỉ giết bệnh
nhân hơn là cứu
người.
Người
tu sĩ
Phật giáo cũng vậy, khi đang tu chưa
xong mà ra giảng
đạo dạy người
tu hành, ‚làm Bồ Tát Đạo, hành Bồ Tát Hạnh theo
kiểu Đại Thừa‛
là giết người,
không phải giết một người mà giết nhiều người; không phải giết
một đời người
mà giết nhiều
đời người; không phải
giết một thế hệ mà giết
nhiều thế hệ của con người v.v..
Hiện giờ,
người ta đang giết người bằng gươm lưỡi, miệng đao đó là giới tu sĩ Phật giáo
phát triển, tu hành chưa đến nơi, đến chốn chỉ nhai lại đờm dãi của người xưa
chẳng biết đúng sai, thuyết giảng
lung tung, giới
luật đạo đức thì sống
chẳng ra gì, chỉ dùng
ba tấc lưỡi lừa đảo những người khác, bằng cách lý luận
hoặc bằng mọi hình
thức mê tín,
dị đoan, v.v.. nhưng luôn luôn tự vỗ ngực xưng tên
mình là người tu hạnh Bồ
Tát vừa tu vừa độ
người như chiếc xe lớn (Đại Thừa),
chỉ có Bồ Tát Đạo mới có đại hùng,
đại lực, đại từ bi, mới có tâm
nguyện độ chúng
sanh rộng lớn
như vậy. Cứ như
kinh sách phát triển
dạy thì họ đâu phải là
kẻ yếm thế mà là đang nhập thế chứ.
Đó là
những tu
sĩ Phật giáo
phát triển đang
nhập thế, nhập thế để chạy theo danh lợi, vì vậy họ phải mập béo, cường
tráng để vào đời độ chúng sanh.
Hiện giờ quý vị chưa biết rõ
mặt thật của những tu sĩ Phật
giáo như thế nào, thì làm sao dám bảo là Phật giáo yếm thế? Khi đức Phật nhập
diệt, độ khoảng trăm năm sau, các bậc Thánh
Tăng đều nhập
diệt cả, chỉ
còn lại những tu
sĩ danh lợi chia phe
nhóm (20 bộ phái)
để tạo quyền
thế, chiếm giữ
danh lợi riêng tư, nên soạn viết
kinh sách theo kiến giải riêng của mình,
thường chạy theo dục lạc thế
gian, nên phải đẻ ra Bồ Tát Đạo, hành Bồ
Tát Hạnh, làm tấm bình phong để che mắt mọi người, khiến không ai biết
mình chạy theo dục lạc, những
tu sĩ này
thường dạy: “Phật
pháp bất ly thế
gian pháp”, nghĩa
là pháp Phật không lìa pháp thế gian, như vậy đâu thể
gọi rằng đạo Phật yếm thế.
Phật giáo ra
đời vì sự khổ đau của con người, ra đời để dẫn dắt mọi người thoát ra mọi sự khổ
đau của kiếp làm người thì sao gọi là bỏ đời
yếm thế? Phật giáo ra đời đem lại cho loài người một nền đạo đức nhân bản không
làm
khổ mình,
khổ người thì sao gọi
là Phật giáo yếm thế?
Những bậc
chơn tu của Phật giáo đang âm thầm triển khai đạo đức
nhân bản - nhân
quả để loài người
không còn tự
làm khổ đau cho nhau
nữa, để biến cảnh thế
gian này thành cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc và Niết Bàn
trong cuộc sống này, như vậy sao lại gọi là
đạo Phật yếm thế được?
Xin quý vị đừng
nhìn vào một số tu sĩ tiêu cực của Phật
giáo phát triển, dùng những thủ đoạn
mê tín, gian xảo, lừa đảo
người, để ngồi mát ăn bát vàng, mà cho Phật giáo là yếm
thế thì rất tội cho Phật giáo.
Một tôn giáo
như Phật giáo luôn luôn lúc nào cũng chỉ dùng sức tự lực để không làm khổ
mình, khổ người
thì không thể nào yếm thế cho được.
Chỉ có những tu
sĩ Phật giáo
phát triển thì cầu tha lực, luôn
luôn dựa vào Tam Bảo, chư Phật, chư Bồ Tát, gia hộ cứu khổ, cứu nạn, v.v.. thì
đó gọi là yếm thế thì chúng tôi cũng còn miễn cưỡng chấp nhận, chứ
nói Phật giáo yếm thế thì chúng tôi không đồng ý.
Xưa, đức Phật
đã dạy: ‚Thắng trăm trận không bằng thắng tâm mình, thắng tâm mình mới là chiến
công oanh liệt‛. Người chiến thắng tâm mình đâu phải là người yếm thế, phải từng
chung sống với mọi người mà không
làm khổ mình,
khổ người thì mới
là người chiến thắng tâm mình, đạo
Phật như vậy có giống như nhà thơ yếm thế Nguyễn Bỉnh Khiêm chăng?
“Một mai, một
cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù
ai vui thú nào. Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn
người đến chốn xôn xao”.
Tinh thần đạo Phật thì không phải là tinh thần yếm thế như vậy, nên
thường xông pha vào
thế tục, lấy
các đối tượng
của thế gian
mà tu tập tâm mình “ly dục,
ly ác pháp”.
Nếu bảo rằng, Phật giáo yếm thế
vào nơi thanh vắng để cho yên thân của
mình, tức là
tránh cảnh thì làm sao gọi là ly dục, ly ác pháp.
Vả lại, giới luật của đức Phật dạy đạo đức làm người rất rõ ràng và cụ thể.
Những hành động đạo đức gần gũi và thiết thực cho đời sống của con người thì
làm sao yếm thế mà dạy đạo đức này cho con người
như vậy được?
Một đạo
đức từng dạy
mọi người sống ‚không làm khổ
mình, khổ người‛,
thì làm sao gọi là yếm
thế?
Xin quý vị cứ
suy ngẫm, đừng vội vàng cho đạo Phật là yếm thế
thì đó là một sự suy tư chưa chín chắn còn nông cạn. Chúng tôi
xác quyết đạo Phật không
bao giờ yếm thế.
Người nào tu theo đạo Phật
không đi khất
thực, cứ ngồi ỳ
trong thất (nhập
thất), hoặc ở
trong rừng sâu núi thẳm không theo hạnh Phật ngày xưa là người tu sai đạo
Phật, là người yếm thế, chứ không phải đạo Phật yếm thế.
LỤC CĂN
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Những nguyên
nhân gì làm
cho lục căn dễ bị hư hoại, muốn lục căn không hư hoại thì người tu sĩ đạo Phật phải tu như thế nào?
Đáp: Lục căn
là những phần tiếp xúc với sáu trần của
thân tứ đại,
thân tứ đại do
đất nước gió lửa hợp thành, thì lục căn cũng do đất
nước gió lửa hợp
thành; thân tứ đại hoại
diệt thì lục căn cũng
hoại diệt, lục
căn hoại diệt trước là vì nó mỏng manh, yếu mềm v.v..
Người nhập Diệt
Thọ Tưởng Định thân tứ đại không
bị hoại diệt
thì lục căn cũng
không hoại diệt. Muốn lục căn không hoại diệt thì người tu sĩ phải nhập
Diệt Thọ Tưởng Định, vì chỉ có loại định
này mới
có một từ trường bảo vệ
thân tứ đại cứng chắc
như đồng sắt
nên không bị hư hoại.
Muốn nhập
Diệt Thọ Tưởng
Định thì người tu
sĩ phải có đạo lực điều khiển
ý hành tịnh chỉ, tức là ý
căn14 ngưng hoạt động.
Muốn ý hành tịnh chỉ, người tu sĩ
phải ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Muốn ly dục ly ác pháp, diệt
ngã xã tâm người tu sĩ phải sống đầy đủ
giới hạnh, đầy đủ giới bổn,
sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt,
chơn chánh lãnh thọ
và học tập các giới học.
Muốn sống đầy
đủ giới
hạnh, giới bổn
thì người tu sĩ phải
dùng pháp như lý tác ý,
muốn
14-ý căn là
bộ óc của con người
pháp như
lý tác ý
có hiệu quả
thì người tu sĩ phải sống thân tâm không phóng dật. Muốn
thân tâm không phóng dật thì người tu sĩ phải sống độc
cư, sống độc cư thì tâm
phải thích sống trầm lặng; tâm ưa
thích sống trầm lặng, đó là bước đầu khởi sự tâm vào thiền. Nếu tâm chưa ưa
thích sống trầm lặng thì phải tập sống trầm
lặng, bằng cách
thọ Bát Quan Trai
Giới, như đức Phật đã dạy trong các bộ kinh, bắt đầu chỉ giữ
gìn một ngày
đêm sống độc cư
trầm lặng, ăn ngày một bữa giống như đời sống của đức Phật ngày xưa, nếu một
ngày ăn một bữa, sống thấy ưa thích độc cư thì tăng lên hai ngày rồi ba ngày, bốn
ngày, năm ngày, v.v.. cho đến khi tâm
không phóng dật, tức là tâm định trên thân.
Khi tâm đã định
được trên thân thì hành giả chỉ
còn ra lệnh, tịnh
chỉ các hành
trong thân thì nhập các loại định, một cách dễ dàng, dù là Diệt Thọ Tưởng
Định cũng không còn khó khăn nữa.
HỶ LÄC DO LY
DỤC SANH CĨ PHÂI LÀ HỶ LÄC DO 18 LỘI TƯỞNG
KHƠNG?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Khi tu ly dục ly ác pháp
thì hỷ lạc sanh,
vậy hỷ lạc này
có ở trong 18 loại hỷ tưởng
không? Nếu nó ở trong
18 loại hỷ
tưởng thì tại sao không cho nó sanh
mà để
nó sanh rồi
khi tu đến
Tam thiền lại phải diệt nó? Xin Thầy chỉ
dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Loại hỷ lạc do ly
dục sanh không phải loại hỷ lạc
trong 18 loại hỷ tưởng. Vì 18 loại
hỷ tưởng này
là do dục tưởng, còn hỷ lạc do ly
dục, ly ác pháp
sanh thì không còn dục. Vì thế mà gọi là hỷ lạc do ly dục sanh,
còn 18 loại hỷ tưởng này sanh ra được là do sự tu tập theo giáo
pháp phát triển
nên ức chế
tâm, ý thức dục bị ngưng hoạt động,
ý thức dục không hoạt động được nên tưởngthức dục sanh hỷ lạc. Cho nên, trạng
thái an lạc mà
còn dục tưởng thì không có giải thoát
được. Ở đây, chúng
ta phải lưu ý, dù là hỷ lạc của
ý thức dục, hỷ lạc của tưởng
thức dục đều phải xả hết (xả hỷ, xả
lạc), duy chỉ có hỷ lạc của ly dục thì không xả, vì đó
là tâm thanh
tịnh của chúng
ta (không còn dục),
nó là một trạng thái
Niết Bàn, nên khi nhập sâu vào định thì nó cũng không mất.
Khi bước qua
giai đoạn tu Tứ Thánh Định, đức Phật đã tự gạn lọc chỗ này rất nhiều lần:
1- Hỷ lạc do
dục sanh
2- Hỷ lạc do
tưởng sanh
3- Hỷ lạc do
ly dục sanh
Khi có hỷ lạc
thì đức Phật rất sợ vì còn hỷ lạc
là còn đau khổ
nên đức Phật lặp
đi lặp lại chỗ
này nhiều lần để xác định:
‚hỷ lạc
do ly dục, chứ không
phải do dục‛, vì thế
hỷ lạc này phải
là nguồn giải
thoát của người
tu sĩ hay nói một cách
khác là kết quả trạng
thái giải thoát do sự tu tập đúng pháp.
Cho nên,
nhập Tam Thiền
là ly hỷ, hỷ này thuộc về hỷ dục tưởng thức, do tưởng dục
sanh. Chúng ta cũng nên nhớ, khi nhập Nhị Thiền tầm tứ bị diệt
nên định sanh hỷ
lạc, do tầm tứ diệt nên ý thức dục
ngưng, vì thế, trạng thái hỷ lạc của Nhị Thiền là do tưởng dục sanh, không phải
do ly dục sanh nên đến Tam Thiền thì Đức
Phật dạy xả hỷ tưởng này,
cho nên ly hỷ, trú xả, tức là lìa
18 loại hỷ tưởng, còn trạng
thái Sơ Thiền
do ly dục sanh hỷ lạc nên không có dục và dục tưởng,
vì thế hỷ lạc trong
Sơ Thiền không có xả mà chỉ xả hỷ lạc của Nhị Thiền mà thôi. Trạng thái
hỷ lạc của Sơ Thiền là một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự của tâm ly dục,
ly ác pháp.
Vì thế, hỷ lạc của
Sơ Thiền là loại hỷ lạc
của người giải
thoát dục lậu, hữu lậu
và vô minh lậu,
ba lậu hoặc này
không còn tác dụng được tâm của
người nhập Sơ Thiền, còn Nhị Thiền
do ức chế
ý thức, ý thức ngưng
hoạt động, tưởng thức thay thế hoạt động nên sanh ra hỷ lạc,
cũng giống như
người ngủ mới có
chiêm bao.
Tóm lại, hỷ lạc
do ly dục
sanh không giống mười
tám loại hỷ tưởng này,
hành giả nên lưu ý, đây là những
thứ thiền định của đạo Phật rất đặc biệt mà không có một pháp môn nào của ngoại
đạo mà có được.
Bởi thế đức
Phật dạy: ‚Được thân người là
khó mà gặp được Phật
pháp còn khó hơn‛, thế mà có người gặp được pháp chân
chánh của đức Phật lại
còn thờ ơ thì quá uổng cho kiếp
đời của họ. Một mai mất thân rồi
thì trăm muôn ngàn kiếp còn có gặp được chánh pháp hay không?
CÁC
PHÁP KHƠNG PHÂI CỦA TA
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Theo như
trong kinh dạy, chúng con biết:
thân, thọ, tâm, pháp cũng không
phải của chúng
ta, sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp và
nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý cũng
không phải của
chúng ta. Như vậy, thân này còn có ý nghĩa gì?
Đáp:
Trong kinh đức Phật dạy:
Thân này không phải của ta, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phải của ta, lục
căn, lục trần cũng không phải của ta,
cho nên nghiệp ác hay thiện cũng không phải của ta. Chỉ vì
không hiểu rõ (vô
minh) ta
mới lầm chấp
là của ta, do
sự lầm chấp này, chúng ta mới bảo vệ nó
tạo ra nhiều điều ác, khiến
cho chúng ta phải
thọ chịu khổ từ
kiếp này đến kiếp khác
không hề dứt,
trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
Nhờ giáo
pháp của đức Phật dạy, chúng ta mới hiểu rõ các pháp trong thế gian là do các
duyên hợp mà thành, chứ không có một vật gì thường hằng vĩnh cửu, đức Phật
nói: ‚Nếu còn có
một vật gì thường
hằng như một
chút
xíu đất
trong móng tay Ta thì con người không
thoát khổ và đạo Ta
cũng không xuất hiện ở đời‛.
Hiện giờ,
chúng ta đã ngộ được lý duyên khởi ấy, nhưng tu cho thân, thọ, tâm, pháp, lục
căn, lục trần, lục thức thật sự không phải là ta, của ta, thì phải tu hết sức
và còn phải siêng năng, chuyên cần,
tinh cần, tinh tấn và với
một nhiệt tâm
tha thiết tìm cầu
sự giải thoát. Nếu không nỗ lực tu hành thì tất cả những thứ này chúng ta đều cho là thật có, là
ta và của ta.
Khi muốn phá
thân kiết sử này, ta phải sống một đời sống giới hạnh đầy đủ, phải độc
cư trọn vẹn suốt 3 năm đến 5 năm, chứ không phải nói suông được với các pháp này. Hằng
ngày phải tu cho đúng pháp, đúng cách, đúng căn
cơ đặc tướng,
nếu tu không
đúng pháp, đúng cách, đúng đặc tướng
căn cơ thì sẽ hoài công vô ích. Tất cả
các pháp ấy vẫn bị
dính mắc đều là của ta, là ta. Nói thì rất dễ, nhưng bỏ cái ta và của ta rất là khó.
Tu cho đúng
pháp của đức Phật dạy thì nghiệp quả của
thân không còn ý nghĩa
gì cả, vì chuyển nghiệp quả khổ thành nghiẹâp quả phước báo, nên thảnh
thơi, an lạc và vô sự, còn tu sai thì muôn đời
nghìn kiếp nghiệp
thân cứ
tiếp tục mãi
tái sanh luân hồi và phải chịu thọ khổ vô lượng kiếp.
Nói các
pháp không phải
là ta, của ta
thì dễ, nhưng tu tập để đến chỗ
không còn là ta,
của ta thì không phải dễ như trên đã
nói. Chỗ này cái ta, của ta cần nên lưu ý: đây chỉ là một triết thuyết
lý luận chơi, chứ không thể thực hiện được cái
không ta của ta được.
Người ta gán nhận
cho đạo Phật là đạo vô
ngã, nhưng thực ra chúng ta
nghiên cứu kỹ lại đạo Phật thì đạo Phật là đạo “hữu
ngã thiện pháp”
và “vô ngã ác
pháp”. Do vậy đức Phật
đã xác định có hai lộ trình: ‚Có
hai đường đi, một là đường ác,
hai là đường thiện, người làm ác từ đường
ác đến chỗ khổ, người
làm lành dạo chơi đường lành đến chỗ vui‛. (Tăng Nhất A
Hàm tập
3 trang 498). Đã đi trên con đường thiện thì làm sao gọi là vô
ngã được? Thì làm sao gọi là
không ta, không
của ta được?
Do những điều trên đây, mà
chúng ta suy ngẫm và tư duy
biết rất
rõ các pháp của đức Phật
thực hiện được,
còn tất cả
các pháp của kinh sách
phát triển và Thiền Đông Độ chỉ là
những lý
thuyết suông như:
“Phật Tánh, vô
ngã, vô sở đắc,
ngã pháp đều không‛, đó là những điều không thể thực hiện
được.
QUÂ BÁO CĨ HAY
KHƠNG?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Kẻ tham
nhũng làm điều phi đạo lý
trong xã hội ngày một béo tốt nhiều
tiền lắm của, kẻ ăn cắp ngày một
giàu lên. Vậy họ đang tạo nghiệp
ác, đến bao giờ
họ phải trả
nghiệp ác này,
ít ra thì cũng phải trả
trong đời hiện tại
này để mọi
người thấy được. Còn họ trả nghiệp ác
này trong tương lai thì trừu tượng quá vậy? Xin Thầy dạy cho chúng con rõ.
Đáp: Phước đời
trước họ khéo tạo nên đời nay họ mới
sanh vào chỗ
làm dễ ra tiền.
Thế mà, vì lòng
tham không đáy
nên họ đã
làm tiền phi đạo lý như: tham nhũng, trộm cắp, hối lộ v.v..
Tuy hiện tại,
chúng ta chưa thấy
quả báo của họ, là vì phước báo của họ còn dư thừa chưa hết, nhưng
khi phước báo ấy
đã cạn hết thì thiên tai hỏa hoạn đến thì họ chỉ còn sống
trong màn trời chiếu
đất, thậm chí cơm không đủ ăn,
áo không có mặc. Các
con đừng nghĩ rằng nhân
quả trừu tượng,
nhân quả là một
định luật đạo đức công bằng và
công lý mà trong thế gian này không có một định luật
nào công bằng và công lý hơn nó được.
Nếu họ biết
dừng ngay những điều làm ra tiền phi đạo
lý của họ thì bây giờ họ cũng phải trả
quả trong hiện tại,
huống là họ chẳng biết dừng những
việc làm ác
đó thì họ sẽ phải trả quả ngay trong kiếp này, để cho mọi người
chứng kiến biết
rõ luật nhân
quả công minh khi phước họ đã cạn hết chứ không phải ở kiếp sau. Bằng chứng
các con có đọc báo Công An thành phố Hồ Chí Minh nhiều kẻ làm giàu phi đạo
lý sẽ
bị tù tội, tử
hình, tài sản và nhà cửa
đều bị
tịch thu như:
Minh Phụng, Trần
Đàm
v.v..
Nhân quả
không trừu tượng
như các con đã
hiểu, những phước báo của kẻ
tạo ra những điều phi đạo lý
chưa hết, nên họ
còn hưởng thêm một vài
ngày, nếu phước báo
kia vừa hết thì quả báo khổ đau sẽ đến với họ liền.
‚Phước bất
trùng lai họa vô đơn
chí‛, người xưa đã nói như vậy, tức là họ
đã có kinh nghiệm trong
cuộc sống nên
đã nhận ra được
luật nhân quả rõ ràng và
cụ thể ‚vay một
trả mười‛.
Nhân quả
không những phải trả ở
tương lai trong kiếp khác mà còn phải trả ngay trong kiếp hiện tại. Chỉ
khi nào người tạo quả
ác đã hết phước
thì họ phải trả
ngay liền, còn quả ở vị lai
thì nó đã trở
thành nghiệp lực, để tiếp tục tương ưng với nhân quả của người
khác mà tái sanh vào môi trường sống xấu hơn, nếu họ làm ác nhiều hoặc tốt hơn
nếu họ làm thiện nhiều.
Trước mặt
chúng ta đã thấy
bao nhiêu kẻ làm ác mà chẳng thấy
quả khổ của họ, nên mọi người đâm ra nghi
ngờ luật nhân
quả. Họ đâu biết rằng, luật nhân quả rất công bằng và
công lý, ai làm thiện thì hưởng phước, còn ai làm ác thì thọ chịu quả khổ,
không có một ai tránh khỏi, chỉ có phước thừa của họ chưa hết, nên họ làm ác vẫn còn thấy
được an vui, nhưng
sự an vui chưa thật sự
là an vui. Nếu
chúng ta nhìn kỹ cái vui của họ là tiếng khóc, cái
hãnh diện của họ là những ưu tư
da diết trong lòng,
chứ chưa phải là hạnh phúc đâu.
Trong thế
gian này, duy nhất
chỉ có một đạo luật
nhân quả là
công bằng và công
lý, đó là một đạo luật
do từ những hành động thiện
ác của con
người tạo ra để phân xử lấy họ, chứ không có ai hoặc một đấng sáng tạo nào đặt
ra cả. Từ hành động thiện
ác của loài
người, mà con người phải
chịu quả khổ
vui chính hành động của họ, chứ không phải quả khổ vui
tự nhiên mà có
hay có ai
xét xử phạt tội ban phước cho chúng ta.
Phật dạy: ‚Các
pháp trong thế gian là do duyên hợp mà thành, nhưng sự thành hoại đều do hành động nhân quả mà
có”. Nhân quả có lúc hiện rất rõ, lại có lúc thấy như không có nhân quả, nhưng
chúng ta phải biết nhân quả lúc nào cũng đang chi phối loài người theo mỗi
hành động của
con người. Và vì vậy, con người mới thấy có khổ, có vui, có
giận hờn, thương ghét, có buồn phiền đau khổ, có oan ức, có hận thù v.v..
Có lúc thấy
như không có nhân quả, do đó người
ta đã lầm
và mất lòng
tin nhân quả, nhưng nhân quả
lúc nào cũng có
mặt trong tất cả mọi con người,
nên không có người nào trốn tránh khỏi luật
này được, dù kẻ đó,
có nhiều tiền, nhiều
bạc, có quyền
cao, chức trọng cũng không
thoát khỏi luật
này phân xử, do
đó nó rất công bằng và công lý, mặc dù
chúng ta thấy có kẻ kia
làm ác mà vẫn không
thấy quả khổ
đến với họ,
đó là vì phước của kẻ kia chưa hết, như
chúng tôi đã
nói ở trên,
nên quả khổ
đau của họ chưa đến mà thôi.
TỐT ĐÄO ĐẸP ĐỜI
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Ở một
cơ quan xuất nhập khẩu,
đã nhập về những chất độc
hại chung ngoài
kế hoạch bán lấy tiền
chia nhau. Có một cư sĩ
cũng làm trong cơ quan đó được
chia tiền và đã từ chối không nhận, nhận thì
phạm pháp luật,
không nhận thì bị mọi người
ghen ghét thù oán rất khổ tâm. Vậy
nên giải quyết như thế nào, để tốt đạo đẹp đời và cuộc sống của mình
cũng được an
vui, thanh thản.
Đáp: Đồng
tiền làm ra bằng
sự gian trá, xảo quyệt, lừa đảo người khác, bằng những thủ đoạn gian lận, nếu đồng tiền
đó đem cúng dường
chư Phật, chư
Thánh Tăng đã
không được phước báo mà còn lại thêm nhiều tội và những tội
đó rất nặng,
vì đồng tiền
làm ra
TTrưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
bằng ác hạnh. Nếu
chư Phật và
chư Thánh Tăng thọ dụng xây chùa,
xây tháp hoặc đúc tượng, đúc chuông
và làm những
Phật sự khác thì những Phật sự đó sẽ là tà sự. Đồng
tiền ấy sẽ biến tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng thành đảng phái tà giáo
hơn là tôn giáo chân chánh, vì tôn
giáo phải lấy đạo đức
làm đầu. Nếu tôn giáo nào dùng đồng
tiền thiếu đạo đức để sử dụng làm
lợi ích cho đạo thì tôn giáo đó sẽ
sắp sửa đến
ngày tận diệt và những di tích làm ra bằng đồng tiền đó để lại cho đời sau là một sự nguyền rủa, khinh bỉ.
Đồng tiền
thiếu đạo đức mà đem làm việc từ thiện xã hội thì việc từ
thiện kia chỉ là một tấâm bình phong che đậy
cho những người làm ác, khiến cho họ càng làm ác hơn nữa. Họ
làm từ thiện với đồng tiền đó thì chẳng có từ thiện chút nào cả, những
kẻ nào thọ
dùng đồng tiền ác hại này cũng sẽ
gặp tai nạn khổ ách, như những kẻ làm ra đồng tiền ác đức kia.
Cùng làm
trong một cơ quan xuất nhập khẩu mà đã
có sự gian xảo như vậy, dù
chúng ta không nhận đồng tiền
ác đức đó
nhưng chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng
xấu đối
với pháp luật tuy ta không có tội.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Điều trước mắt
là trong cơ quan đó, có nhiều người họ
đã nhận lấy số tiền
chia nhau bất chánh đó và sẽ tiếp
tục làm những điều không tốt, nhưng
chúng ta lại ở trong
tập thể đó, không nhận tức là tạo
đối lập với họ thì họ không thể nào để
cho chúng ta yên được, bằng mọi cách họ sẽ loại trừ. Đó là một điều nguy hiểm
và tác hại rất lớn, nếu chúng ta không sáng suốt chắc chắn tai hoạ sẽ đến.
Cho nên, khi
nhận tiền bất chánh đó là một sự dại dột, sẽ tự giết
mình và sẽ tự mang hoạ đến cho mình. Điều giải quyết tốt nhất,
muốn an thân thì nên nhận tiền chứ đừng làm người anh hùng rơm, nhận tiền nhưng
đem làm việc từ thiện xã hội giúp kẻ bất hạnh. Nếu cơ quan này
làm những điều
phạm pháp có hại
cho dân cho nước thì ta nên khéo léo tố cáo để chặn đứng bọn ác quỷ đội lốt người,
làm giàu bằng sự đau khổ của kẻ khác.
Muốn cho tốt
đạo đẹp đời thì không nên làm chung với những người ác đó. Gần mực thì đen, gần đèn
thì sáng. Ta hãy chọn bạn lành, việc lành, người lành cùng làm và cùng
sống chung nhau thì sẽ tốt đạo đẹp
đời, tâm hồn sẽ được thanh thản,
an lạc.
û õ Â Ï
TU THIỀN NHƯ
THẾ NÀO KHƠNG GIẬM CHÂN TÄI CHỖ?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Người tu thiền
như thế
nào là có tiến bộ,
không tiến bộ và
giậm chân tại chỗ?
Phải khắc phục tu như
thế nào để có tiến bộ không bị giậm chân tại chỗ?
Đáp: Người
tu thiền, ngồi
nhiều hoặc dùng pháp ức chế tâm
để dừng vọng tưởng (tâm không niệm thiện,
niệm ác) thì sẽ
giậm chân tại chỗ, không có lối
tiến tới được nữa. Người tu thiền xả
tâm, tâm như đất, xả ít tiến bộ ít, xả nhiều tiến bộ nhiều,
xả hết tức
là ly dục ly ác pháp, tâm như đất trời thì tu xong việc.
Tu xong việc
tâm thường quay vào trong thân,
không chạy theo
các pháp trần,
không dính mắc các pháp ác, tức
là tâm không phóng dật theo các pháp bên ngoài, như vậy là tâm đã định vào
thân, tâm định vào thân là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ; tâm bất
động trước các pháp và các cảm thọ là tâm giải thoát hay là tâm Diệt Đế, tâm Diệt
Đế, tức là tâm Niết Bàn,
tâm Niết Bàn
là tâm đoạn dứt
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
lòng ham muốn
và các ác pháp, như vậy tức là tâm nhập vô tướng tâm định.
Muốn xả tâm
cho được rốt ráo thì phải sống độc cư, không
nên tiếp duyên
bên ngoài với ai hết, không
làm một việc
gì cả, thường quan
sát thấy tâm niệm khởi
phá độc cư thì phải
mau mau xả liền không
được duy trì, không
được nghe theo các niệm phá hạnh độc cư. Trong
lúc độc cư, nếu
có tất cả mọi niệm khởi
lên dù đúng,
sai, phải, trái,
những niệm đó đều
làm mất hạnh độc cư thì phải
mau xả xuống, không nên khởi
niệm, khởi niệm tức là phóng tâm, phóng tâm tức là theo niệm,
theo niệm tức là phóng dật
cho nên phá độc cư, tức là tâm phóng dật.
Quý vị
nên lưu ý, độc cư không
được đọc kinh sách,
không được làm
mọi công việc, không được nói chuyện dù chuyện đạo
chuyện đời, không được nghe băng nhạc, băng thuyết giảng, v.v.. mà duy nhất chỉ
có một việc làm là quán xét thân
tâm mình để xả các niệm, tâm ham
muốn và các
ác pháp, do đó
thì mới giữ gìn hạnh độc cư trọn
vẹn. Có giữ gìn hạnh độc cư trọn vẹn như vậy thì sự tu hành mới có tiến bộ, bằng
ngược lại thì giậm chân tại chỗ. Người tu thiền xả tâm mà giữ được hạnh độc cư
thì xả
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tâm rất dễ dàng,
còn giữ hạnh độc cư không được thì xả tâm không được nên tu
thiền không tiến bộ, nói đúng hơn
là không có kết quả giải thoát.
Tóm lại, người
tu thiền ức chế tâm là thường giậm chân tại chỗ, không tiến bộ, giống như các vị tổ sư
Thiền Tông tu
mãi chỉ có lý
luận nói nhiều, ngược lại tu thiền xả tâm thì có tiến bộ rất cụ thể, tiến bộ trong
từng phút, từng giây, từng giờ, từng
ngày, chúng ta nhận thấy tâm thanh
thản, an lạc
và vô sự rất rõ ràng.
Muốn tu
hành không giậm
chân tại chỗ thì phải giữ gìn hạnh độc cư, nếu giữ gìn
hạnh độc cư chẳng được thì tu hành chỉ uổng phí một đời tu mà chẳng ích lợi gì
cho mình cho người.
Ø À Ù Ä Ä
VỌNG TƯỞNG
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Ý thức có phải là tâm không? Vọng tưởng có phải
tâm tán loạn vọng động không? Xin Thầy dạy
cho chúng con được rõ.
Đáp: Ý thức là một thức
trong sáu thức của thân tứ đại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Nếu gọi ý thức là tâm
thì không đúng.
Chúng ta nên
đặt thành vấn đề, nếu gọi
ý thức là
tâm thì nhãn thức cũng có thể gọi
là tâm, như vậy nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức
cũng gọi là tâm. Nếu
sáu thức đều là tâm
thì tâm là sáu thức và
như vậy có cần
gì phải gọi sáu thức này để làm
chi. Cũng như tưởng thức, tự nó nghe, thấy, nếm, ngửi, cảm xúc
và phân biệt
mà không cần
sáu căn, còn sắc thức của
thân tứ đại
thì cần đến sáu căn,
muốn nghe thì phải
có nhĩ căn
và nhĩ thức, muốn
thấy phải có
nhãn căn và
nhãn thức, chứ không như tưởng thức được. Do đó ý thức không
phải là tâm thức, tâm thức là cái
biết để
thực hiện Tam
Minh, chứ không
phải như tưởng thức
và sắc thức.
Bởi khi đức Phật
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
sắp chứng
đạo hoàn toàn
Ngài dẫn tâm đến
Tam Minh, đó là Ngài dẫn tâm thức, chứ không có dẫn sắc thức và tưởng thức. Như
vậy, lúc bấy giờ đức Phật đã dùng tâm thức, chứ không phải dùng ý thức và tưởng
thức.
Nếu nói tâm
thức là vọng tưởng thì không đúng,
còn nếu bảo sắc thức
và tưởng thức
là vọng tưởng thì cũng không đúng. Người ta đã lầm, khi thấy
niệm lăng xăng
trong đầu (loạn tưởng)
cho đó là tâm thức, ý thức, tưởng
thức thì sai tất cả.
Những niệm
sanh khởi trong tâm của chúng ta là nghiệp nhân quả, do chúng ta huân tập lâu
ngày đã thành thói quen (tạp khí), nên thường lăng xăng trong đầu của chúng ta,
chỗ này có rất nhiều người đã hiểu lầm lạc, vì thế nên khi tu hành cứ lo ức chế
tâm cho hết vọng tưởng, ngồi thiền
nhiếp tâm trong
hơi thở, trong câu niệm Phật,
trong mỗi hành động đi, đứng, nằm, ngồi v.v.. Vì hiểu sai nên tu sai, muốn tâm
không phóng dật, tức là
không có vọng tưởng thì phải biết
gốc của vọng tưởng từ đâu mà có nó,
nó có từ
nhân quả thiện ác, cho nên
đức Phật dạy:
‚Ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện pháp‛, ngăn ác diệt ác
pháp, sanh thiện tăng
trưởng thiện
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
pháp tức là
tu tập như vậy sẽ không có vọng tưởng, không có vọng tưởng, tức là tâm không
phóng dật.
Muốn khắc
phục được vọng
tưởng thì không nên ức chế tướng vọng
tưởng trong tâm ta,
mà phải dùng
pháp Tứ Chánh
Cần xả ly tâm
tham, sân, si, mạn, nghi
và thất kiết sử
thì vọng tưởng sẽ hết, tức là tâm không
phóng dật; tâm không
phóng dật là
tâm định trên thân hay nói cách khác là tâm đã ly dục, ly ác pháp nhập Bất Động Định.
Sau khi Bất Động Tâm thì tâm có đủ Tứ Thần
Túc, nhờ Tứ Thần Túc mới nhập Sơ Thiền. Từ đó về sau chúng ta nhập các định
như: Nhị
Thiền, Tam Thiền
và Tứ Thiền như trở bàn
tay, không mấy
khó khăn và mệt nhọc.
û õ Â Ï
TÂM THỨC CỊN HAY
HỘI DIỆT KHI NGƯỜI ĐÃ CHẾT
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Khi xác thân hoại diệt thì
tâm thức thường hằng bất biến hay
đã hoại diệt hoàn toàn theo thân xác của nó?
Đáp: Đức Phật đã dạy: ‚nếu
thức còn một chút
xíu như đất
trong móng tay Ta thì con
người trong thế
gian này không thể
thoát khổ và Đạo Ta
cũng không xuất hiện ra đời‛.
Đây là lời dạy
chân thật, nếu
còn một chút xíu thức
tức là còn một vật
thường hằng, mà đã
còn một vật
thường hằng thì con người không thể thoát khổ. Do quán
xét thấu
suốt lý các pháp duyên hợp, nên đức Phật xác định, không có một vật gì
thường hằng bất biến, dù là
vật có hình sắc hay vô
hình trong thế
gian này. Và vì vậy, đạo Phật không chấp nhận thế giới siêu hình, thế giới siêu hình chỉ là một thế giới tưởng
của con người còn sống, nhưng
đến khi chết thì thế giới
này cũng tan biến theo mây khói mà thôi.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Kinh
sách phát triển
xây dựng thế giới
siêu hình có một vật
vĩnh hằng (Chơn
Tâm, Phật Tánh, Bản
Lai Diện Mục
v.v..) là giáo phái xây dựng thế giới ảo tưởng. Hiện giờ,
khoa học cũng đã xác định mọi vật đều do nhiều nguyên tố kết hợp lại, chứ không
có một vật gì độc lập riêng rẽ, cho nên thế giới thường hằng không có thật, đó chỉ là sự lừa đảo, lường
gạt đối với những người còn lạc hậu, chưa có kiến thức về
khoa học, những
người đang tu
theo Phật giáo phát
triển và Thiền
Đông Độ mà
thôi.
Ngày nào
khoa học tiến triển
sâu xa hơn và trình độ
kiến thức của con người được nâng cao sự hiểu biết thì ngày đó tất cả
các giáo phái trên hành tinh này
đã, đang và sẽ xây dựng
thế giới siêu hình thường hằng, bất biến
thì sẽ bị loại trừ ra
khỏi đời
sống của loài người. Chỉ vì hiện
giờ khoa học
chưa đủ sức chứng
minh thế giới vĩnh hằng có hay là không, vì do tưởng uẩn tạo
nhiều trò ảo thuật (siêu
hình) khiến cho khoa học không thể
chứng minh được, đành bó tay, nhưng đối với những người tu theo Phật giáo Nguyên
Thủy không rơi
vào thiền tưởng và những người đã nhập được Sơ Thiền đến Tứ Thiền và
Tam Minh thì không
thể lừa đảo họ
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
được, vì
chính bản thân họ đã thấy được
thế giới siêu hình đó từ đâu sanh
ra.
CÚNG DƯỜNG
TIỀN
CĨ PHƯỚC BÁO
KHƠNG?
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Có một sĩ quan quân đội hỏi
con, vào chùa lễ Phật, một người cúng dường
1000đ và một
người cúng dường
100.000đ
thì người nào có phước đức hơn?
Đáp: Trong
giới luật Phật, cấm các tu sĩ không được cất giữ tiền bạc. Người cất giữ tiền bạc
thì bị tội xả đọa (Ni tát kỳ ba dật đề).
Phật tử
vào chùa lạy Phật, cúng
tiền bạc dù một đồng cho đến hằng
tỷ đồng đã không có phước báo mà còn phi công đức như:
1- Khiến
cho chư tăng ham mê tiền bạc mà
quên giữ gìn
Thánh hạnh của
mình, đó là phi công đức thứ nhất.
2- Có tiền khiến
cho chư tăng
sa ngã chạy theo dục lạc thế gian,
sống hưởng thụ,
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
không giữ
gìn giới luật,
khiến cho người đời khinh chê Phật pháp và cũng vì vậy, khiến
cho Phật pháp suy đồi, đó là phi công đức thứ hai.
3- Có
tiền, khiến chư
tăng chạy theo danh lợi, quên hạnh thiểu dục tri túc,
phòng hộ sáu căn, đó là phi công đức thứ ba.
4- Có tiền,
khiến cho chư Tăng xây dựng chùa to Phật lớn, làm
cho dính mắc vật chất,
tâm không xả ly dục và ác pháp, đó là điều phi công đức thứ tư.
5- Có tiền cúng
dường của đàn
na, thí chủ đem về
nuôi giòng họ anh em con cháu và xây
mồ mả tổ
tiên, cất nhà
cao cửa rộng cho cha mẹ ở, đó là điều phi công đức thứ
năm.
6- Cúng dường tiền bạc cho bọn đầu trộm
đuôi cướp gian xảo lợi dụng chiếc
áo cà sa đi xin
(khất thực) tiền bạc bất
chánh, đó là điều
phi công đức thứ sáu.
Do sáu điều
phi công đức trên đây, người Phật tử cúng dường tiền bạc đã không được phước
báo mà lại còn thêm sáu tội rất nặng, đó là tội diệt Phật pháp.
Xưa, đức Phật
và chư Thánh Tăng đi khất thực tứ sự vừa đủ cho cuộc sống tu hành và thực phẩm, ngày
ăn một bữa,
không để dành
và
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
cũng không
có xin tiền bạc. Ngày nay, gặp tu sĩ đi
xin tiền bạc
thì đó là những
tu sĩ giả mạo,
chứ không phải là người tu chơn chánh.
Người Phật tử nào
cúng dường tiền bạc là người Phật tử đã bị kinh sách phát triển và Thiền
Tông lừa đảo lường gạt “phước báo” để
lấy tiền
làm giàu riêng
cho cá nhân, ngồi
mát hưởng bát vàng.
Do sự
cúng dường tiền bạc của Phật tử thiếu trách nhiệm và bổn phận đối với Phật
giáo, nên có một số người lợi dụng kẽ hở đó chui
vào Phật giáo, kinh doanh buôn Phật bán Pháp
lẫn trong chiếc
áo cà sa làm
việc tồi tệ, khiến
cho người đời
không kính trọng
Phật
giáo.
Tóm lại,
cúng dường chư
Phật và chư thánh tăng, dù một đồng hay một tỷ đồng
thì cũng không được
phước báo một
chút gì cả mà lại còn thêm tội. Phải nói người cúng một
đồng ít tội hơn người
cúng một tỷ đồng, vì
cúng dường nhiều, khiến
cho chư Tăng dễ sa ngã chạy
theo vật chất,
quên đường tu
hành nên phải tội nhiều hơn. Khi
cúng dường tiền bạc thì nên giao cho một
người cư sĩ nguyện
trọn đời mình lo cho đời sống chư Tăng thì được phước, vì
đó là cúng dường đúng chánh pháp.
Ø À Ù Ä Ä
ĐÄI HỘI LONG
HOA
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Hiện
nay ở miền Bắc nước
ta, có một số người nghe theo tuyên truyền
Đại Hội Long Hoa. Họ
cho rằng thời kỳ của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã
hết hạn ở thế gian.
Đến năm hai ngàn
là thời kỳ của đức Phật Di Lặc
ra đời thay thế cho đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Kính thưa Thầy như vậy có đúng không? Nếu không đúng thì hiểu như
thế nào để
không lạc vào con đường tà
giáo, ngoại đạo
và giúp cho mọi người ra khỏi con đường mê mờ này?
Có một số
người tu theo đạo Phật nhiều năm mà đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời vì phải
đi chùa này chùa nọ, làm công quả để tạo công đức này, công đức kia, bỏ cả
việc làm
ăn. Kính thưa Thầy, những người
tu như vậy sẽ có lợi ích gì cho đời sống của họ và xã hội?
Đáp: Phần
đông, các tu sĩ Phật
giáo hiện giờ đều là đệ tử của đức
Phật Di Lặc, họ tu theo giáo pháp phát triển, tức là giáo pháp của đức Phật Di Lặc,
chứ đâu còn là giáo pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Giáo pháp của đức
Phật
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Thích Ca
Mâu Ni, những
tu sĩ này gọi giáo pháp đó là giáo pháp Thanh Văn, Nhị Thừa,
Duyên Giác, ngoại đạo. Họ đã bỏ giáo pháp này từ lâu,
chứ đâu có đợi đến
ngày Đại Hội
Long Hoa, đức Phật
Di Lặc ra đời
rồi mới truyền giáo pháp này.
Họ tu theo
giáo pháp phát triển của đức Phật
Di Lặc từ khi
chúng tỳ
kheo chia ra làm hai bộ
phái: Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Trước khi chia
ra bộ phái, họ
đã triển khai kinh sách phát
triển vạch ra một
đường lối tu mới,
vì thế người
ta không còn
tu theo giáo pháp
của đức Phật
Thích Ca, chứ đâu phải đợi tới năm hai ngàn.
Chính lúc mới tám tuổi, khi xuất
gia học đạo, chúng tôi cũng đều
tu học theo giáo pháp của đức Phật
Di Lặc, nỗ lực tu
hành hơn 30 năm
trời, đời chẳng
ra đời, đạo chẳng
ra đạo, nên đành phải bỏ pháp môn đó, trở lại tu pháp môn Duyên
Giác, Thanh Văn,
Nhị Thừa của đức
Phật Thích Ca Mâu
Ni chúng tôi mới thấy pháp xả tâm
và giới luật của Thanh
Văn thật là hữu hiệu, nhờ
đó, trước tiên
chúng tôi nhận được mình là một tu sĩ có đời sống đạo hạnh và thân
tâm thường thanh thản, an lạc, vô sự tức
là chúng tôi đã nếm được mùi vị giải thoát thật
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
sự của đạo Phật, chừng ấy chúng tôi mới nhận thấy
rõ đạo là đạo, đời
là đời, không
thể đạo đời lẫn lộn như pháp môn
phát triển của đức Phật Di Lặc. Cách thức
sống của các tu sĩ hiện giờ, đạo đời lẫn lộn khiến cho mọi người không biết đâu
là đời sống đạo đúng
và đâu là đời
sống đạo
không đúng. Cách
thức sống của
các tu sĩ Phật
giáo hiện giờ
cũng chạy theo vật
chất thế
gian, như người
đời nên khó
phân biệt, chỉ có phân biệt được là chiếc áo tu sĩ mà
thôi.
Nếu muốn
không lầm lạc vào tà giáo ngoại đạo thì
quý vị
nên lấy giới
luật Phật quán
xét giới tu sĩ,
người tu sĩ
nào sống đúng
giới luật, có đầy đủ phạm hạnh là
người sống và tu đúng pháp chơn chánh của đạo Phật, còn người tu sĩ nào phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới, sống chạy theo vật chất dục lạc thế gian là tu theo pháp
phát triển và Thiền Đông Độ.
Người tu
sĩ Phật giáo lấy giới
luật làm Thầy như đức Phật
Thích Ca đã di chúc:
‚Sau khi Ta nhập diệt, các Thầy tỳ kheo hãy lấy giới luật của Ta
mà làm Thầy,
làm chỗ nương tựa tu hành vững chắc.
Giới luật Ta còn là đạo Ta còn, giới luật
Ta mất là đạo Ta mất‛.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Dựa theo lời di
chúc này, các vị tỳ
kheo nào phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới
là đệ tử của ngoại đạo, tà giáo. Quý
Phật tử không nên tu hành theo những
vị tu sĩ này, vì có tu hành theo họ thì cũng
chẳng tu đến
đâu, đời chẳng ra đời
và đạo cũng
chẳng ra đạo. Nếu
có tu cũng chỉ trở thành
là một ông thầy danh,
lợi mà thôi.
Nhờ cân nhắc về đức hạnh
giới luật mà quý Phật tử tìm được một bậc Thầy chơn
chánh và thoát khỏi những sự lừa đảo của những tà sư ngoại đạo, tu
lầm lạc vào
con đường mê mờ, u
tối, loanh quanh trong các định tưởng.
Tóm lại, đạo
Phật do đức Giáo Chủ Di Lặc hướng dẫn phần nhiều tu sĩ xem thường giới luật,
nên đều phạm giới. Chính hình ảnh đức Phật Di
Lặc là hình ảnh mất oai nghi tế hạnh
của một tu sĩ chân chánh, mặc áo hở bụng ngực một cách thô lỗ không đúng đức hạnh
của bậc thánh tăng.
Người tu sĩ
phạm giới là người không có đức hạnh làm một vị thánh tăng, nên chúng ta dễ nhận
xét con đường
nào là con đường
tu hành của Bà La Môn giáo và con đường nào là con đường tu hành theo Phật
giáo.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Trong thời đức Phật
còn tại thế, vấn đề làm
công quả thì gần
như không có. Vì là
một Du Tăng Khất Sĩ sống rày đây mai đó, không ở chỗ nào
quá lâu, nên vấn đề
công quả không cần
thiết. Mỗi tu
sĩ đến giờ
đi khất thực để
sống ngày một bữa, nên dồn tất cả các thời
gian rảnh rang vào tu tập và rèn luyện pháp hướng tâm.
Cho nên, một
số người hiện giờ làm công quả từ chùa
này đến chùa
khác để tìm cầu
sự giải thoát thì chắc chắn không bao giờ có được, chỉ uổng cho một đời
tu hành bị người khác lừa đảo, làm công
không cho họ mà họ không
tốn
tiền.
Làm công quả
để được phước báo, điều này chúng ta dễ bị lừa. Bởi phước báo của đạo Phật là
do chính mình ngăn ác, diệt ác pháp, hoặc
ly dục, ly ác pháp thì phước
báo sẽ đến với mình ngay liền tức khắc, còn
làm công quả
thì thân thể mệt nhọc,
tâm sanh ra buồn
ngủ; cơ thể mệt nhọc, tâm sanh buồn
ngủ là trạng thái mất tỉnh thức, mất tỉnh
thức tức
là vô minh mà
vô minh thì làm sao có phước báo được.
Người làm
công quả thì không
bao giờ tu hành được, nếu suốt đời
làm công quả thì chỉ là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
một người
làm công cho kẻ khác, chẳng ích lợi gì
cho mình, chỉ là một người ngu mà thôi.
Khi bước vào
đạo Phật còn chiếc áo của người cư sĩ, nghĩa là
chưa thọ Giới luật
thì lúc bây giờ chúng ta làm được những gì để giúp cho chư Tăng yên
tâm tu
hành, đó là gieo
nhân tu hành cho chúng ta ở ngày mai, chứ không phải làm công quả để cầu
phước báo đó là sai.
THÅN THƯỜNG
BỊ BỆNH
Câu hỏi của
một Phật tử ở Mỹ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Thân thường bị bệnh là nghiệp gì? Phải làm sao thân không bệnh?
Đáp: Đã
sinh làm người,
làm loài động vật
là đã mang thân
nghiệp. Thân nghiệp
tức là thân nhân
quả. Thân nhân
quả tùy theo nhân quả thiện ác mà thọ chịu quả khổ
đau phiền não, giận hờn thương ghét v.v.. nặng nhẹ hoặc thọ hưởng sự phước báo yên vui, an ổn, ít bệnh tật,
ít tai nạn v.v..
chứ không ai
mang
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
thân nhân
quả nghiệp báo
mà không đau khổ, mà không có an vui bao giờ.
Thân thường
bị bệnh là
do nghiệp sát sanh tức là nguyên nhân giết hại và ăn thịt
chúng sanh. Người có thân thường hay bị bệnh từ lúc mới sinh ra cho đến già sắp
bỏ thân này là do kiếp trước giết hại và ăn thịt chúng sanh quá nhiều nên phải
chịu trả quả báo thọ thân bệnh khổ đau liên miên như vậy.
Muốn thoát
ra thân bệnh tật khổ đau và những tai nạn thì phải thọ Tam Quy Ngũ Giới. Thọ
Tam Quy Ngũ Giới là phải giữ gìn đúng những lời Phật dạy thì mới có kết quả
thân không còn bệnh tật và
tai nạn nữa. Vậy Thọ Tam Quy Ngũ giới là gì? Và thọ bằng cách
nào?
Thọ Tam
Quy tức là
nương theo Phật, Pháp, Tăng. Nương theo Phật là phải sống
như Phật; nương theo Pháp là phải sống
đúng theo lời dạy của Phật; nương theo Tăng là phải thân cận thiện hữu tri thức
thường thưa hỏi và sống theo gương hạnh hòa hợp của những vị Tăng để hằng ngày
sống trọn vẹn đạo đức nhân bản – nhân quả tự
không làm khổ
mình, khổ người và
khổ tất cả
chúng sinh. Đó
là Quy Y Tam Bảo, con nên ghi nhớ.
Thọ ngũ giới
là gì?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Thọ ngũ giới
là chấp nhận sốngï năm đức hạnh nhân bản - nhân quả tự không làm khổ mình, khổ
người và khổ tất cả
chúng sanh. Năm giới đức hạnh đó
là:
1- Giới
thứ nhất không
giết hại và ăn
thịt chúng sanh, đó là đức hiếu sinh tức là lòng thương yêu sự sống trên hành tinh
này vậy.
2- Giới
thứ hai không
tham lam trộâm cắp,
cướp giựt, không
lấy của không
cho, từ bỏ lấy của
không cho, đó
là đức buông
xả, đức thiểu dục
tri túc tức là xả ly lòng
không tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn,
từ bỏ lấy của không cho.
3- Giới
thứ ba không tà
dâm tức là đức
chung thủy. Đức chung thủy là lòng thương yêu một vợ một chồng, không lang chạ
với người khác. Đức chung
thủy tạo nên một gia
đình đầm ấm, hạnh
phúc chồng thương
vợ, vợ thương chồng
với một lòng
thương yêu chân thật,
một tình nghĩa
keo sơn gắn
bó. Sống đồng tịch đồng sàng,
thác đồng quan đồng quách. Đây là một đạo đức gia
đình mà mọi người
trên thế gian
này cần phải học và sống
cho đúng để không
làm khổ những
người thân thương đầu áp tay gối
của mình.
4- Giới thứ tư không nói dối tức là đức
thành thật. Đức
thành thật là một đức hạnh
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
tạo cho
mình có đầy đủ lòng tin đối với mọi người.
Vì thế chuyện thấy nói thấy, chuyện không thấy nói không thấy; chuyện có nghe
nói có nghe, chuyện không nghe nói chuyện
không nghe, chứ thấy nói không thấy, chứ nghe nói không nghe
là nói dối.
Người không có đức
hạnh thành thật thường đem chuyện của người này nói cho người
khác nghe hoặc đem chuyện người khác
nói cho người này
nghe hoặc nói thêu dệt, nói lật lọng đều là những người
thiếu đức thành thật
và đức tôn trọng mình
tôn trọng người.
5- Giới
thứ năm không
uống rượu, uống cà
phê, không hút
thuốc lá thuốc
lào, thuốc phiện v.v.. đó là đức
minh mẫn. Đức minh mẫn là một đức hạnh sáng
suốt. Đức minh mẫn
sáng suốt là tự biết mình,
làm chủ mình
mình không để mình
nghiện ngập rượu,
thuốc lá, thuốc lào, cà phê,
thuốc phiện v.v..
Vì những loại xa xỉ
này đem tai hại và khổ đau cho bản thân mình
và gia đình
mình như cha, mẹ,
vợ,
con.
Trong năm đức này
người có thân bệnh
cần phải
giữ gìn cho trọn
vẹn đừng vi phạm một
lỗi nhỏ nhặt
nào trong năm giới này
thì ước nguyện thân bệnh tật sẽ được
chuyển hóa
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
và tiêu
trừ. Khi giữ gìn
năm giới trọn vẹn thì phải tu tập các pháp Thân Hành Niệm, Định
Niệm Hơi Thở bằng cách dùng cánh tay đưa ra đưa vào và tác ý câu: ‚An tịnh thân
hành tôi biết tôi
đưa tay ra, an
tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô‛ tác ý xong liền đưa
tay ra vô năm lần rồi
tiếp tục tác
ý như câu trên. Tu tập
như vậy đúng
30’ xả nghỉ
30’ rồi lại tiếp tu tập lại nữa chừng nào hết bệnh mới thôi.
Nếu người có
duyên với hơi thở thì nên tu tập theo hơi thở và tác ý câu: ‚An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân
hành tôi biết tôi thở ra‛.
Nương theo hơi thở mà
tu tập
như vậy một thời gian thì bệnh sẽ được đẩy lui.
Trước khi tu tập
hơi thở như vậy thì nên tác ý câu: “Thọ là vô thường cái bệnh
nhức đầu (bệnh gì thì nên nói rõ tên bệnh ấy) này phải chấm dứt, phải rời khỏi
thân
ta‛.
Đó là một
phương pháp chuyển nghiệp nhân quả tuyệt
vời, nếu con tin tưởng
thì hãy tu tập theo đúng lời dạy trên đây thì kết quả sẽ được như ước
nguyện.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Đạo Phật tu
tập không những làm chủ bệnh tật mà còn làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người,
đó là làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
TUỔI
GIÀ HAY
CAU CĨ LA RỈY
Câu hỏi của
một phật tử ở Mỹ
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Cho
phép con được hỏi: Mẹ
con từ nhỏ cho đến lớn tính tình hiền hòa không có tính
cau có khó chịu nhưng đến nay tuổi
đã già yếu
người sinh tật
cau có bực dọc thường
la hét chửi mắng con
cháu, nhất là hay quên. Như vậy, mẹ con tạo
nghiệp gì mà phải thọ khổ như vậy. Xin
Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu. Chúng con thành kính biết ơn Thầy.
Đáp: Cứ theo
nhân quả hiện tại mà suy ra nhân quả quá khứ và vị lai.
Đó là nhìn
quả hiện tại mà biết nhân
quá khứ. Ví dụ: Một người có thân thường bị bệnh đau uống thuốc
mãi không hết, đó là nhân quá khứ giết hại và ăn thịt chúng sanh. Còn nhìn nhân hiện tại mà biết quả vi
lai. Ví
dụ: Một người
tham lam ăn
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
trộm cắp của
người khác là vị lai sẽ bị bắt, bị đánh và bị
tù tội giam cầm. Còn ở đây câu hỏi của
con chỉ hỏi về
nhân quả hiện tại của mẹ
con, lấy cuộc sống hiện tại của mẹ con ăn lành ở hiền trong tuổi trẻ mà nay sao trở
về già lại sinh ra ác pháp, sống trong ác pháp thay
vì nhân quả trong tuổi trẻ ăn hiền ở lành thì quả về già phải ăn hiền ở
lành hơn, cớ sao
nhân quả đi ngược lại, chỉ trong một kiếp người nhân ăn hiền ở lành trong thời
tuổi trẻ mà quả mang đến cho tuổi già thì không được an vui hạnh phúc.
Con đứng ở
nhân quả hiện tại mà suy luận về nhân quả hiện tại thì phải suy luận như thế
này: “Nhân quả
trong thời tuổi trẻ của mẹ con
ăn hiền ở lành nên hạnh phúc gia đình rất rõ ràng. Ba của
con và anh chị em
của con đều được sống trong vòng tay người
mẹ ăn hiền ở lành. Đó là
nhân và quả của thời
tuổi trẻ mẹ của con. Nhân lành quả lành trong tuổi trẻ
mà các con đều nhận thấy rõ ở người mẹ. Có đúng như vậy không các con?
Đến khi mẹ
con tuổi già sức yếu không còn làm việc bảo bọc gia đình
như xưa nữa, vì các con đều lớn hết đứa nào cũng có công
ăn việc làm, bà chỉ
còn có công
việc ngồi không
trông
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!