Vậy chúng
ta hãy đọc: “TÌM HÀI CỐT LIỆT
SĨ, MỘT
HÀNH TRÌNH ĐẦY BÍ ẨN” của Giáo sư
Trần Phương
viết.
“Tôi có cô
em gái, kém tôi hai tuổi (sanh
năm 1929),
tên là Vũ Thị Kính, thuở nhỏ gọi
tránh là
Cánh. Từ hồi kháng chiến chống Pháp
được biết
đến cái bí danh Trần Thị Khang. Cô
tham gia
cách mạng 16 tuổi, tỏ ra là một giao
liên gan
dạ, một cán bộ phụ vận có uy tín.
Năm 1950 cô
là Huyện Ủy viên của Đảng bộ
Phù Cừ
(ĐCSVN), Bí thư phụ nữ cứu quốc
Huyện,
người tổ chức chỉ huy đội nữ du kích
Hoàng Ngân
trong Huyện. Tháng 6 năm đó ,
địch bắt
được cô từ hầm bí mật, đưa về bót La
Tiến (bót
đóng ngay trên bến đò La Tiến), là
một bót
khét tiếng tàn ác, một đồn binh lớn án
ngữ phía
Nam tỉnh Hưng Yên, phía Bắc tỉnh
Thái Bình
và phía Tây tỉnh Hải Dương. Chúng
biết cô là
ai, vì vậy đã dùng mọi cực hình tra
tấn, hòng
buộc cô khai báo và đầu hàng. Trước
khí tiết
không lay chuyển của cô, chúng đã giết
chết cô và
vất xác cô xuống sông Luộc. Sau
ngày cô hy
sinh, đội nữ du kích Hoàng Ngân
của Huyện
đã phát động: “Tuần lễ giết giặc, trả
thù cho
chị Khang”. Chánh phủ đã truy tặng cô
Huân chương
kháng chiến hạng nhì. Huyện Ủy và đội du kích Hoàng Ngân đã
tổ chức đi
tìm xác cô, nhưng không thấy. Đây
là nỗi ray
rứt xót xa của gia đình tôi suốt mấy
chục năm.
Mặc dù vẫn biết rằng người chết thì
mọi nỗi đau
cũng chấm dứt. Mẹ tôi hồi còn
sống,
thỉnh thoảng lại hỏi tôi: “có tìm thấy xác
em không?”.
Tôi đành tìm lời an ủi: “Bao giờ
chiến tranh
hết, con sẽ tổ chức việc tìm kiếm,
chắc là
được mẹ ạ!”. Nói thế mà lòng tôi muốn
khóc, vì
biết mình bất lực trước nỗi đau của
mẹ. Cả
một dòng sông Luộc mênh mông như
thế trôi ra
biển cả, biết tìm kiếm nơi đâu?
Mươi năm
lại đây, nghe tin nhiều người
tìm được
hài cốt người thân, bằng gọi hồn,
bằng ngoại
cảm, bằng thấu thị. Tóm lại là
bằng những
phương pháp, được xem là thần bí,
chưa ai lý
giải được. Tôi vốn được đào tạo theo
tinh thần
khoa học thực nghiệm, cái gì chứng
minh được
mới tin là có, cái gì chưa chứng
minh được
thì dứt khoát không tin. Trong đời,
tôi chưa bao
giờ tin có linh hồn, Thần, Thánh,
ma, quỷ.
Ngay những ngày giỗ bố mẹ, tôi cũng
không làm
cơm cúng, không thắp hương, chỉ
sửa một
lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy
mà khi nghe
những tin trên, trong lòng tôi hé
lên một
niềm hy vọng mong manh: biết đâu đấy? Nếu bằng phương pháp thần bí mà
tìm
được hài
cốt em tôi thì có gì phải câu nệ? Miễn
là có cái
gì đó để nhận biết hài cốt ấy đúng là
của em tôi.
Và điều này mới chính là điều khó
nhất. Sau
hơn năm chục năm trôi dạt, hài cốt
có còn gì
không để nhận ra em tôi? Nếu còn thì
may ra là
còn được hàm răng không nhuộm
đen. Nhưng
thời đó, thiếu gì con gái không
nhuộm răng
đen? Đã có lần bạn bè mách bảo
tôi một bộ
hài cốt vô thừa nhận mà đặc biệt là
hàm răng
không nhuộm đen. Lúc đó, chính tôi
đã phân
vân: nhận một hài cốt mà trong lòng
nghi hoặc,
mỗi khi tưởng niệm thì có ý nghĩa
gì? Còn
khám nghiệm AND ? Đó là chuyện xa
vời. Trong
tình cảnh bất lực của chính mình và
của khoa
học thực nghiệm thì bất cứ phương
pháp nào
giải tỏa được nỗi ray rứt trong tôi và
gia đình
tôi đều phải được xem trọng. Nghĩ thế
tôi bèn
tìm cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có
tiếng tăm.
Một số thông tin báo rằng hài cốt
vẫn còn,
nhưng chưa có ai chỉ rõ được nơi chôn
cất.
Giữa lúc
ấy thì tôi gặp chị Tuyết Nga là
người đã
nhờ ông Liên tìm được mộ bà mẹ bị
giặc sát
hại từ những năm 60. Chị khuyên tôi
nên tìm
đến bạn chị là anh Nguyễn Văn Nhã, một người nổi tiếng ở miền Nam,
vì đã tìm
thấy nhiều
mộ liệt sĩ. Chị gọi điện cho anh
Nhã, và
ngay chiều hôm đó anh bay ra Hà Nội.
Sớm ngày
hôm sau, ngày 25.7.1999, tôi
gặp anh
Nhã, anh chưa đến 50 tuổi, là một kỹ
sư Hóa,
Đảng viên, nhiều năm làm công tác ở
đoàn viên
thanh niên Cộng Sản thành phố Hồ
Chí Minh.
Theo anh nói thì anh mới có khả
năng đặc
biệt này từ trước Tết và không được
ai huấn
luyện cả. Anh đã vẽ hơn sáu trăm ngôi
mộ, tỷ lệ
trúng đạt sáu chục phần trăm. Có
những
trường hợp trúng đến mức chính anh
cũng phải
kinh ngạc. “Thông tin” đến với anh
như thế
nào thì anh vẽ như thế ấy. Còn thông
tin từ đâu
đến, trúng hay trật, đối với chính
anh cũng
là điều bí ẩn.
Trong căn
phòng làm việc của tôi, không
có hương
khói gì cả, anh hỏi tôi và vợ tôi mấy
thông tin
đơn giản: Cô em tên là gì? Sinh năm
nào? Hy
sinh ngày tháng nào? Ở đâu? Người đi
tìm tên là
gì? Anh lại hỏi bến đò La Tiến thuộc
xã nào?
Huyện Phù Cứ thuộc tỉnh nào? Bến đò
ấy có cây
cầu không? (chứng tỏ anh không biết
gì về
vùng đất đó cả). Rồi anh lấy một tờ giấy
to và mấy
cây bút màu ra vẽ bản đồ, vẽ một cách thư thả, lưu loát, không gạch
xóa gì cả.
Mọi việc
chỉ diễn ra trong vòng mười phút.
Nhìn vào bản
đồ, tôi thấy anh vẽ con sông
uốn lượn
đường to đường nhỏ giao nhau, rồi
ghi: từ
bến đò La Tiến đi về hướng Đông Nam
thấy một
trường học đi chừng 1 km6 thì đến
một ngã
tư, phía trái ngã tư thấy một quán tạp
hóa có
cửa màu xanh dương, lúc đó rẽ tay phải,
thấy một
cái đình, đi chừng một km thì rẽ trái
vào một
con đường nhỏ, đi chừng 60 mét thì rẽ
phải, đi
chừng 45 mét nữa thì đến mộ. Mộ nằm
trên đất cô
Nhường 47 tuổi đối diện với mộ về
hướng Tây
là quán ông An 56 tuổi. Mộ chôn về
hướng Tây,
cách một gốc cây độ 4 mét, trên mộ
có một
khúc cây dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu
nâu đỏ và
năm cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt.
Rồi anh
hỏi tôi: Bao giờ thì đi tìm mộ?
Tôi trả
lời: Để chuẩn bị thì cũng phải 2 tuần
nữa. Anh
nói chậm quá, nên đi sớm. Tôi quyết
định: 3
ngày nữa thì đi. Anh nói: tôi phải cho
anh một
tín hiệu để dễ tìm. Hai con bướm nhé?
Tôi nói:
Hai con bướm thì sợ khó tìm. Anh
ngẫm nghĩ
mấy giây rồi nói: Vậy thì một bé gái
nhé? Rồi
anh ghi tiếp vào tấm bản đồ 13h30
ngày thứ
tư 28 tháng 7 sẽ có một bé gái chừng
11 tuổi,
mặc áo hoa xanh đến gần mộ (Tôi thật không hiểu anh làm cách nào mà
điều được cho
tôi một cô
bé đến vào ngày đó, giờ đó) rồi anh
dặn: Nếu
anh đến sớm thì năm cây cỏ dại có 10
bông hoa
tím, nếu anh đến muộn thì chỉ còn 5
bông.
Ngạc nhiên
quá tôi hỏi anh: Anh không
biết gì
về vùng đất đó cả, vậy dựa vào cái gì
mà anh vẽ
ra tấm bản đồ chi tiết như vậy?
Anh nói:
Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra
như thế
nào thì tôi vẽ như thế nấy tôi cũng
chẳng hiểu
nữa.
Tôi lại
hỏi: Còn những tên người kia? Tại
sao gọi là
đất cô Nhường, là quán ông An?
Anh nói:
Tôi thấy trong tai tôi như có âm
thanh ấy
có thể là Nhương, Nhường, Nhượng gì
đó, cũng
có thể là 47 tuổi hay 87 tuổi, còn An
thì cũng
có thể là Am. Anh còn dặn thêm: Có
thể phải
xem cái bản đồ này từ âm bản. Lời
dặn này,
lúc ấy tôi không để ý lắm.
Vẽ bản đồ
trao đổi trong vòng nửa tiếng
xong, anh
Nhã chia tay tôi, để vội vã bay về
thành phố Hồ
Chí Minh, nơi anh đang phải
điều hành
một công ty tư vấn. Về phần tôi, tin hay không tin thì vẫn
phải làm
theo chỉ dẫn của anh. Còn có cách
nào khác
đâu?
Tìm mộ
ngày thứ nhất.
Đúng hẹn
ngày 28 tháng 7 cả gia đình tôi
phóng về
bến đò La Tiến, cách Hà Nội chừng
100 km.
Chúng tôi chia nhau làm nhiều ngả,
đối chiếu
với bản đồ mà tìm. Tất cả các ngả
đều không
tìm được những dấu hiệu khớp với
bản đồ,
trừ một ngả hướng thẳng vào giữa làng
La Tiến,
hướng này do anh Đạt, một cán bộ về
hưu có cái
quán giải khát ở bến đò, chỉ dẫn.
Khi xem bản
đồ, cụ Yến, cũng đang ngồi ở
quán giải
khát nói: Cái bản đồ này vẽ theo
đường ngày
xưa, ang áng như bây giờ thôi, có
mấy đoạn
đã được nắn lại. Tuy nhiên, đường
từ bến đò
đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn,
chỉ bằng
một phần ba cự ly ghi trong bản đồ.
Tôi dùng
điện thoại di động hỏi anh Nhã, anh
trả lời:
miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi,
nhất là 4
dấu hiệu nơi phần mộ, còn cự ly thì
có thể là
do anh ước lượng không chính xác.
Lần theo
hướng ghi trên bản đồ và các
dấu hiệu
trên đường (trường học, đình, quán
tạp hóa
có cửa màu xanh nước biển, đến ngã tư
rẽ phải,
rồi rẽ trái, rồi lại rẽ phải tất cả đều đúng) chúng tôi đến đất
nhà anh Điển, một
nông dân
kiêm thợ nề trên 60 tuổi. Cả hai vợ
chồng đều
gầy gò ốm yếu nhưng tốt bụng. Ông
bà sẵn
sàng cho chúng tôi tìm bới hài cốt liệt
sĩ, mặc
dù không tin rằng đất trong đê lại có
thể có
hài cốt liệt sĩ. Ông bà Điển cũng như
nhiều
người khác đều chỉ chúng tôi ra dải đất
bãi phía
ngoài đê, cạnh vụng Quạ (gọi thế là vì
có nhiều
quạ bay tới vụng để ăn xác chết bị
cuốn vào
vụng) mà từ nhà ông Điển nhìn ra thì
về hướng
Đông, chưa đến nửa cây số cạnh vụng
quạ, vẫn
còn ba cái mộ vô thừa nhận. Chúng
tôi đến đó
xem xét rất kỹ, nhưng không thấy
một dấu
hiệu nào như anh Nhã đã cho, đành
quay về
nhà ông Điển, theo đúng bản đồ.
Giữa mảnh
đất rộng chừng hai sào, có một
ngôi nhà
gạch hướng Đông Nam, trước nhà là
sân gạch
tường hoa, một dải vườn đẹp lơ thơ
mấy vạt
dây lang rồi đến một cái ao to. Tiếp đó
là đường
làng, một cái đầm sen mênh mông,
rồi đến
con đê sông Luộc chạy dài từ Tây sang
Đông. Sau
nhà là một vườn chuối được dọn
sạch sẽ,
không một ngọn cỏ. Đầu hồi phía Đông
là đường
vào ngôi nhà. Vậy chỉ còn tìm kiếm ở
đầu hồi
phía Tây. Vườn ở phía này rộng, trồng
táo và
mít um tùm, dưới gốc đầy cỏ dại, toàn một loại có hoa bằng hạt
thóc, màu tím nhạt.
Tìm một
ngàn cây thì được, chứ tìm 5 cây thì
biết chọn
cây nào? Còn cành cây khô và mảnh
gạch vỡ
thì bừa bãi, đâu cũng có. Sục tìm một
hồi lâu,
chúng tôi đành thất vọng quay ra.
Đứng trước
cửa nhà, nhìn về chân đê sông
Luộc,
chệch về phía Tây, là ngôi nhà của anh
An, 45 tuổi
nhà xây bằng gạch để ở, chứ không
bày biện
như một quán hàng. Anh cho biết vợ
anh có một
gian quán bán lòng lợn ở chợ La
Tiến, hàng
ngày gánh hàng đến đó, nhưng có
ai cần mua
tại nhà thì vẫn dành lại để bán.
Như vậy
thì nhà anh có đáng gọi là một quán
hàng không?
Tôi phân vân như cứ tạm cho là
được đi.
Còn đất
bà Nhường? Cả làng không có ai
tên là
Nhường hay Nhượng. Chỉ có một bà tên
là Nhương,
khoảng 70 tuổi. Bà này thì tôi biết
vì cùng
hoạt động với em gái tôi. Chính Bà
mấy năm
trước, thông qua Bà Tiến, đã nhắn
tôi về
nhận một bộ hài cốt vô thừa nhận mà
căn cứ vào
hàm răng trắng, Bà cho là hài cốt
của cô
Khang.
Dấu hiệu
dẫn đến ngôi mộ thì có đủ,
nhưng dấu
hiệu của chính ngôi mộ thì không
thấy. Tôi
đành chờ đến 13h30. Vào giờ này, giữa trưa hè oi ả, giữa cái làng
hẻo lánh giáp
đê sông
Luộc này thì kiếm đâu ra một bé gái
mặc áo hoa
xanh? Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn
chia nhau
đón các ngả đường dẫn đến nhà ông
Điển.
Đường sá vắng tanh. Cả vùng như ngừng
thở với
ánh nắng chói chang.
Quá 10
phút rồi 15 phút. Bỗng một tốp
thiếu niên
ồn ào đạp xe từ cuối làng tới. Nhưng
tất cả
đều là con trai. Mấy phút sau, có một tốp
con gái
cũng từ cuối làng đi bộ tới. Chúng tôi
giữ các em
lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà
Nhương ở
gần ngã tư, sau cái đình. Ba em
hăng hái
dẫn chú em tôi tới đó, còn một em
không muốn
mà đứng lại. Em mặc áo màu
xanh lá
cây, có hai bông hoa to in trước ngực
em khai
tuổi 15, nhưng vóc người thì nhỏ hơn
tuổi. Hỏi
về những ngôi mộ vô thừa nhận, em
chỉ mấy
ngôi ở vườn chùa ngay cạnh đó đây là
mộ của
những người chết đói năm 45. Em lại
chỉ 3 ngôi
mộ ở phía ngoài đê, cạnh vụng quạ.
Chúng tôi
đã đến đó vào sáng nay. Em đứ ng
lại với
chúng tôi chừng nửa tiếng bên bờ cái ao
to trước
nhà ông Điển mà không có mục đích gì
cả, phải
chăng đó là tín hiệu mà ông Nhã điều
cho tôi?
Nhưng khai thác được gì ở em thì
không được
gì cả. Xế chiều gần như mất phương hướng, tôi
lại gọi
điện cho anh Nhã. Anh hỏi: Có thấy cái
lạch nước
không? Có thấy cái cống không?
(dường như
từ Sài Gòn, anh nhìn thấy những
cái đó!)
rồi anh bảo tôi đi tìm ngôi nhà mà 4
mặt đều
sơn màu trắng lốp, trước nhà đầy hoa
đỏ.
Cái cống
lớn xây bằng gạch cạnh đất
chùa, kế
nhà ông Điển, thì chính tôi đã ngồi
trên đó để
hỏi chuyện bé gái. Còn cái lạch
nước, hỏi
ông Điển hồi lâu mới biết: ba chục
năm trước
đây, chính cái đầm sen là một vùng
ruộng
trũng ở giữa có một con đường bờ vùng
chạy song
song với một con lạch, dẫn nước qua
cống của
chùa vào vùng ruộng mạ mà nay là
đất ở của
ông và mấy nhà chung quanh. Cuối
những năm
60, để lấy đất bồi đắp con đê sông
Luộc,
người ta đã biến vùng ruộng trũng thành
cái đầm
sen bây giờ, nó chạy dài gần một cây
số ven đê
và ruộng vài trăm mét. Con đường và
cái lạch
nước cũng biến mất trong lòng cái đầm
sen ấy.
Chúng tôi
ngó nghiêng khắp làng để tìm
“ngôi nhà
mà 4 mặt đều sơn màu trắng lốp”.
Chẳng có
cái nào cả, mọi nhà đều quét vôi
vàng hoặc
xám. Bỗng anh Tân Cương (một cộng sự của tôi đã từng nhiều lần đi
tìm mộ)
chỉ vào
cái quán bên đường, hay là cái này? Đó
là cái
quán nước mà chúng tôi vẫn qua lại từ
sáng đến
giờ. Quán nhỏ và thấp lè tè, xây bằng
gạch, đủ
kê một cái giường và một cái chõng
bày bán
mấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt.
Quán mới
xây, cả bốn mặt đều quét vôi trắng
xóa. Một
cái quán nhỏ cũng có thể xem là một
cái nhà
được chứ? Tạm cho là như vậy. Nhưng
còn hoa
đỏ? Tìm tòi hồi lâu, anh Tân Cương
chỉ cho tôi
cái đầm sen trước mặt. Giữa mùa
hè, đầm
sen là cả một biển hoa đỏ có thể là
như vậy
chăng?
Chủ quán
là một bà lão hom hem. Nhà cụ
giáp nhà
ông Điển, về phía Tây, cụ xây cái
quán ngay
cạnh đường làng, lối đi vào nhà cụ
mà cũng
là một cái bờ ao nhà ông Điển. Hỏi
tên tuổi
thì cụ cho biết tên là Mân đó là tên
chồng, còn
tên thật của cụ là Nguyễn Thị Nhờ,
năm nay 81
tuổi.
Sục sạo
đến tối mịt, chúng tôi đành quay
về Hà
Nội. Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo
tìm được
cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Cự
ly so với
bến đò có gần hơn, không sao. Có
trường
học, có ngã tư, có quán màu xanh
dương, có
cái đình rồi. Có cái cống không? (tôi báo cáo cho anh biết kết quả
điều tra được).
Anh động
viên: nên tìm kiếm liên tục. Hôm nay
chưa thấy
thì ngày mai lại đi. “Chỉnh mộä là
một quá
trình vất vả lắm đấy, không thể một
lần mà
trúng ngay được”.
Rồi anh
chỉ dẫn cho tôi ngày mai làm gì ?
Tám giờ
sáng phải có mặt ở cái quán
trắng. Tôi
hoặc con tôi (phải là người ruột thịt
của cô
Khang) thắp 20 nén hương ở lối đi bên
cạnh.
Khoảng 8 giờ rưỡi, có một con chó vàng
nâu đến
cách đó chừng 10 mét, nó nhìn mình
xem mình
có đi theo nó không, hãy đi theo nó,
giữ một
khoảng cách. Nó sẽ đi hơn 100 mét, rồi
dừng lại,
ngửi và bới. Nhớ lấy chỗ đó, rồi quan
sát, tìm
những dấu hiệu phần mộ như đã ghi
trên bản
đồ.
Nếu tín
hiệu trên không xuất hiện thì chờ
đến 8 giờ
30 - 9giờ tìm kiếm quanh vùng sẽ
thấy một
con chó vàng nằm một chỗ như ốm.
Đánh dấu
lấy chỗ đó mà đào. Đào thấy thì con
chó sẽ
hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì gọi
điện lại
để anh chỉ dẫn tiếp.
Tìm mộ ngày
thứ hai.
Chúng tôi
lại đến làng La Tiến, làm đúng
những việc
mà anh Nhã dặn. Chúng tôi chia nhau đi các ngả để xem có con chó vàng
nâu
nào tiến
về phía quán trắng không. Quá 8 giờ
30 mà không
thấy tín hiệu thứ nhất xuất hiện,
chúng tôi
bèn chia nhau đến các nhà quanh
vùng. Nhà
nào cũng nuôi chó vàng, thấy người
lạ vào là
chúng nhảy ra sủa inh ỏi, không có
con nào
nằm một chỗ như ốm. Cô em tôi mấy
lần vào ra
nhà cụ Nhờ, ngó nghiêng mọi xó
xỉnh cuối
cùng, cô phát hiện thấy phía sâu bên
trong gian
nhà phụ, dưới gậm giường, có một
con chó
vàng nằm ệp. Chúng tôi lần lượt vào
ngó, nhưng
nó vẫn nằm im, chỉ ngước nhìn mà
không sủa.
Hỏi chủ nhà thì biết nó chửa, chê
cơm mấy hôm
nay. Tôi liền điện cho anh Nhã.
Anh bảo:
Tìm kiếm trong vòng bán kính 10
mét xem có
những dấu hiệu phần mộ không.
Từ chỗ con
chó nằm, tôi vạch một vòng
tròn có
bán kính 10 mét. Hầu hết vòng tròn bao
lấy nhà
và sân gạch của cụ Nhờ, chỉ một mẩu
nhỏ lấn
sang dải vườn hẹp trước tường hoa nhà
ông Điển.
Dải vườn này, hôm trước chúng tôi
đã đi qua
mà không thèm để ý đến mấy vạt rau
lang. Hôm
nay tập trung vào một diện tích hẹp,
anh Tân
Cương là người đầu tiên phát hiện ra
một gốc
cây đổ vùi lấp dưới lớp dây lang, gốc
cây to bằng
bắp chân, dài hơn gang tay, nằm sát đất, trên thân cây lơ thơ mấy cái
chồi cằn
cỗi. Ông
Điển cho biết đó là cây nhót mà ông
đã chặt đi
năm ngoái, nhưng chưa kịp đánh
gốc. Cách
gốc cây nhót về hướng Đông chừng
hai mét,
chúng tôi thấy ngay nửa viên gạch vỡ
màu nâu đỏ
nằm cạnh một cành cây khô to
bằng cổ
tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về hướng
Đông chừng
3 mét nữa, dưới tán cây cam thấp
lùn, chúng
tôi reo lên khi thấy cả một dãy cây
hoa màu
tím nhạt vượt lên đám rau lang, đếm
được đúng
5 gốc mỗi gốc mang hai bông hoa to
và dài
bằng ngón tay. Cây hoa mọc theo một
đường
thẳng dài 3 mét từ tường hoa ra phía bờ
ao. Ông
Điển cho biết mấy năm trước ông trồng
làm cảnh,
sau chán, vất ra vườn.
Sau khi
soát xét lại kỹ càng, tôi gọ i điện
cho anh
Nhã. Anh bảo: Từ gốc cây đổ đến dãy
hoa tím,
vẽ thành hình tam giác, rồi đứng vào
giữa, đánh
dấu lại. Lấy một chiếc đũa cắm vào
chỗ đó,
rồi tự tay tôi (phải là người ruột thịt)
đặt một
quả trứng lên đỉnh chiếc đũa, nếu quả
trứng nằm
im là đúng. Nếu quả trứng không
nằm im thì
cắm chiếc đũa lùi ra nửa mét.
Bà Điển
vội vã rút từ ống đũa cho tôi một
chiếc, rồi
chạy vào ổ gà lấy quả trứng mới đẻ.
Nhìn chiếc
đũa tre còn mới, tôi thầm nghĩ: Nghèo quá, đến chiếc đũa tre cũng
khẳng khiu!
Với chiếc
đũa này, lão Nhã đánh đố mình đây.
Rồi tôi suy
luận: Chẳng lẽ xác cô em mình lại
có sức
hút mạnh hơn trọng lực trái đất ư ? Vấn
đề chỉ là
ở chỗ ngắm cho thật cân và không
được xúc
động!
Tôi loay
hoay mãi với quả trứng. Ngắm
nghía thật
lâu rồi mới đặt xuống nhiều lần như
vậy. Đặt
nằm rồi lại đặt đứng. Nó vẫn lăn bo
xuống đất.
Người tôi vã mồ hôi. Mấy chục
người chung
quanh dán mắt vào quả trứng như
nín thở,
tôi nghĩ chỉ tại cái đũa chết tiệt ! Tiết
diện nhỏ
quá mà lại không phẳng, tài gì mà
đặt được
quả trứng cho cân!
Tôi bèn
lùi lại nửa mét, mặt vẫn hướng
vào tường
hoa. Cắm chiếc đũa thật thẳng rồi
nhẹ nhàng
đặt quả trứng xuống như mọi lần.
Kỳ lạ
quá, nó nằm im trên đầu đũa, tựa như có
chất keo
gắn vào đầu đũa. Tôi không tin có sự
can thiệp
của cô em tôi (vì làm gì có linh hồn
mà can
thiệp? Mà nếu có thì linh hồn đâu phải
là một
lực tác động vật chất?) nhưng vẫn thở
phào nhẹ
nhõm vì nếu không qua được thử
thách này
thì không thể đi tiếp bước sau.
Tôi gọi
điện cho anh Nhã. Anh bảo: Lấy
quả trứng
làm tâm, vẽ một hình chữ nhật dài 2 mét, rộng 1 mét 2 rồi đào sâu
xuống 1 mét 5
cho đến
lớp cát đen. Hài cốt không nằm sâu
hơn lớp
cát đen đó.
Lúc ấy đã
gần trưa. Chúng tôi tạm nghỉ,
ra bến đò
La Tiến ăn cơm hà ng. Trời đang
nắng gắt
bỗng ập xuống một cơn mưa như trút
nước kèm
theo gió to kéo dài gần một tiếng.
Chúng tôi
bảo nhau phen này thì đền quả
trứng của
bà Điển thì cái chắc. Khi quay về thì
lạ quá,
quả trứng vẫn yên vị trên đầu chiếc đũa
chẳng lẽ
khi mưa, bao giờ cũng có hai giọt nước
rơi cân
bằng xuống hai đầu quả trứng? Còn gió
to nữa,
chẳng lẽ nó không tác động gì đến quả
trứng?
Để chuẩn
bị cho thợ đào đất, tôi gỡ quả
trứng ra
khỏi chiếc đũa hai tay tôi cảm nhận
thấy một
sức hút nhẹ. Phải chăng nước mưa đã
làm giãn
hở vỏ trứng và chiếc đũa tre, khiến
cho quả
trứng gắn chặt vào đầu đũa?
Hai tốp
thợ thay nhau đào. Sâu 1,2 mét
thì hết
lớp đất màu nâu là lớp “vượt thổ”, đến
lớp bùn
đen pha cát, vừa đào, chúng tôi vừa
soát xét
từng xẻng đất đào lên xem có hài cốt
không? đến
độ sâu 1,5 mét vẫn không thấy gì
cả. Tôi
gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Phát
triển về
hướng Nam và đào sâu thêm 4 tấc nữa.
Chiều rộng
của cái hố được mở thêm nửa mét
ra phía bờ
ao và đến tối mịt thì chiều sâu đạt
tới 2,8
mét. Vẫn không thấy gì cả. Chúng tôi
quay về Hà
Nội.
Tôi gọi điện
cho anh Nhã. Anh bảo: Thử
đào sâu
thêm vài tấc nữa. Thực ra thì cái hố
đã được
đào sâu quá mức ấy rồi. Tôi cảm thấy
“thầy” đã
hết phép. Mặc dù vậy, tôi vẫn quyết
định ngày
mai đi tiếp.
Tìm mộ
ngày thứ ba.
Qua hai
ngày, dậy từ bốn giờ sáng, mãi 11
giờ khuya
mới về đến nhà, cái tuổi 72 của tôi
đã cảm
thấy đuối sức. Tôi ủy nhiệm cho các
con cùng
bà chị tôi và anh Tân Cương đi tiếp.
Tôi dặn:
Không đào sâu thêm nữa làm gì, chỉ
soát lại
đống cát đen đào xới lên, họa may tìm
thấy mảnh
hài cốt nào thì đem về, nếu không
thì thu
dọn chiến trường mà về. Họ làm đúng
như thế.
Thấy chúng
tôi không thu được kết quả gì,
nhiều cụ
già, nhất là các cụ về hưu, xúm lại bài
bác: Đã
bảo mà! Tìm ở ngoài đê, quanh cái
vụng Quạ
thì không lại đi tìm ở trong đê! Làm
gì có xác
trôi sông vượt qua được con đê để vào tận trong đồng! Chị Tiến và chị
Nhương cũng
có mặt,
hai chị khuyên chúng tôi nhận lấy bộ
hài cốt
răng trắng chôn ở góc đa phía trên bến
đò.
Duy có anh
Thìn, con cụ Giám, hiện là
Hiệu
Trưởng trường cấp hai, thì nói: bố anh
hồi ấy có
vớt được ba cái xác hai nữ một nam-
kéo qua đê,
rồi chôn ở cánh đồng nà y. Cụ
Giám, theo
dân làng nói, là người rất nghèo
(làm nghề
đơm đó và đánh dậm) nhưng bạo
gan, nhà ai
có việc đào huyệt, bốc mộ thì đều
nhờ đến
cụ, cả những cháu bé bị chết, cụ cũng
sẵn sàng
vác lên vai đem đi chôn giúp. Từ hồi
kháng
chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi
lên ở vụng
Quạ, làng cũng giao cho cụ vớt lên
chôn cất.
Cụ Yến xác nhận rằng cụ Giám được
làng phụ
cấp để làm việc đó, nếu có xác chết
chôn ở đây
thì chỉ là nhờ tay cụ Giám thôi. Cụ
Trọng thì
nhất quyết bài bác: làm gì có chuyện
đó! Anh
Thìn đưa ra thông tin trên là đưa vào
tiết lộ
của cụ Giám, nhưng cụ Giám thì mất
cách đây 18
năm. Hồi còn sống, cụ đã được
tặng bằng
khen vì những thành tích trong
kháng
chiến chống Pháp.
Tôi gọi
điện cho anh Nhã. Anh nói: Nghe
gia đình
đã báo cáo tìm thấy đủ các dấu hiệu thì tôi cũng tin, tuy rằng cự
ly có phần không
đúng. Bây
giờ thì phải lật cái bản đồ mà xem
từ âm bản.
Tôi hỏi: Như vậy có nghĩa là phần
mộ sẽ nằm
ở bên kia sông, tức là trên đất Thái
Bình? Anh
nói: Phải vậy đó. Rồi anh dặn tiếp:
Phải tìm
đến một cái vụng xoáy, “một cái vụng
do nước
xoáy vào bãi sông mà tạo thành” ở đó
có một
xóm mới, dân mới ra ở đó khoảng hai
chục năm,
trong đó có cô Nhường, có ông An.
Mộ nằm
trên đất cô Nhường, trên mộ vẫn
những dấu
hiệu như đã chỉ.
Tìm mộ
ngày thứ tư và thứ năm.
Các con
tôi, vốn đã không tin vào phương
pháp thần
bí, đều không muốn đi tiếp. Các lão
già (chị
và các em tôi) thì đều đã mệt mỏi. Chỉ
có anh Tân
Cương là vẫn vững lòng tin, vì
chính anh
đã nhờ vào các nhà ngoại cảm mà
tìm được
mồ mả gia tiên. Anh nhận giúp tôi
tìm kiếm
tiếp. Anh cùng anh Đạt vượt bến đò
La Tiến
sang đất Thái Bình, đi dọc sông để
tìm cái
vụng xoáy, chốc chốc lại gọi điện thoại
di động
về. Xế chiều, cách bến đò La Tiến
chừng 8 cây
số, một cụ già bảo anh: phía Thái
Bình không
có vụng xoáy đâu. Vì nước sông ở
đoạn này
quật sang đất Hưng Yên. Cụ chỉ sang
vụng bà
Khán Mỹ bên kia sông. Gọi thế là vì bà Khán Mỹ nhiều năm sinh sống
trên vụng đó
bằng
thuyền đánh cá. Vậy là lại phải qua sông
để trở về
đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán
Mỹ. Trên
đất bãi có một xóm mới, trong đó có
một chị
tên là Nhường, có một anh tên là An có
mấy ngôi
mộ vô thừa nhận, nhưng chẳng có
dấu hiệu
nào khớp với bản đồ mà anh Nhã đã
cho.
Anh Tân
Cương đi tiếp một ngày nữa, từ
vụng bà
Khán Mỹ ngược lên vụng Quạ. Nơi nào
có mộ vô
thừa nhận là anh đến. Nhưng chẳng
đâu tìm
thấy đủ những dấu hiệu mà anh Nhã
cho.
Cuộc tìm
kiếm theo đủ mọi hướng đến đây
xem như tắc
tị. Cái tính hoài nghi khoa học
vốn có
của tôi trỗi dậy: Tôi nghĩ: Lão Nhã này,
hắn đánh
đố mình! Hắn bày ra cả một “trận đồ
bát quái”,
nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người
và tên
đất, rồi bảo mình phải đi tìm cho đủ.
Lục tìm
cả cái đất nước này, chưa chắc đã có
nơi nào
khớp được với cái trận đồ bát quái của
hắn!
Nghĩ thế
rồi tự trách mình là vô lý. Đã
chấp nhận
đi theo “thầy Nhã mà tỷ lệ trúng mộ
chỉ đạt
60% thì lý gì lại thắc mắc khi trường
hợp của
mình rơi vào 40% kia?”. Đã chấp nhận tìm đến con đường thần bí như
nguồn hy vọng
cuối cùng
thì lý gì lại đòi hỏi phải lý giải cái
“Trận đồ
bát quái kia?”
GỌI HỒN
Theo đuổi
hai nhà ngoại cảm nổi tiếng
đã vẽ
trúng hàng trăm ngôi mộ liệt sĩ, nhưng
đến lượt
mình thì không có duyên, tôi bàn với
anh Tân
Cương chỉ còn cách là tìm đến những
người có
khả năng gọi hồn. Theo tin của anh
thì cô Phan
Thị Bích Hằng đã mất năng lực đó
vài năm nay
rồi, anh đang giúp tôi liên hệ với
một bà ở
Cẩm Giang và một bà ở Hải Phòng.
Chị Tuyết
Nga cũng khuyên tôi tìm kiếm theo
hướng đó.
Chị cho tôi một địa chỉ điện thoại
mà điều
tra ra thì đó chính là địa chỉ của cô
Bích Hằng.
Trong quá trình tìm mộ, tôi thường
hay kể lại
với bạn bè khi rảnh rỗi. Tình cờ một
hôm, anh
Trần Công Bảy biết tôi có ý định gọi
hồn, liền
nhận giúp tôi liên hệ với cô Bích
Hằng. Cô
nhận giúp tôi vào chiều ngày
9.8.1999.
Ngày
9.8.1999 tiếp xúc với linh hồn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!