ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Từ 4:00 –
4:30 (Định Vô Lậu tu tập như lúc 9:00 – 9:30).
Từ 4:30 –
5:00 (Định Niệm Hơi Thở
câu hữu pháp hướng
Vô Lậu, tu tập như thời gian lúc 9:30 – 10:00).
Từ 5:00 –
6:00 (lao tác quét dọn). Từ 6:00 – 7:00 nghỉ ngơi.
--o0o--
BUỔI TỐI:
Từ 7:00 – 7:30
Từ 7:30 –
8:00
Từ 8:00 –
8:30
Từ 8:30 –
9:00
Từ 9:00 –
9:30
Từ 9:30 –
10:00
Tu tập như
buổi sáng.
Từ 10:00 –
2:00 ( tịnh chỉ).
--o0o--
BUỔI KHUYA:
Từ 2:00 -
2:30
Từ 2:30 –
3:00
Từ 3:00 –
3:30
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Từ 3:30 –
4:00
Từ 4:00 –
4:30
Từ 4:30 –
5:00
Tu tập như
buổi chiều. Từ 5:00 – 7:00 (lao tác).
Tuy thời
khoá tu tập đã thành lập xong, nhưng giờ giấc
còn phải tùy ở mọi
hoàn cảnh và đặc tướng của mọi người,
cần phải thay đổi
cho phù hợp với
hoàn cảnh và cơ
thể để
sự tu hành có kết quả tốt, đến
đây thời gian tu tập trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ được
chia ra là hết.
Xin quý vị
lưu ý: về Định Niệm Hơi Thở, nếu
quý vị đã từng tu tập về
hơi thở do sự
hướng dẫn sai, bị gom tâm ức chế quá nhiều
để ngăn vọng tưởng, gây căng thẳng thần kinh, nặng mặt,
nhức đầu, thì không
nên tu tập về
hơi thở
nữa, chỉ nên
tu tập thân
hành niệm ngoại và cố gắng xả tâm
“ly dục, ly ác pháp”.
Ø À Ù Ä Ä
THẤT NIỆM
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Ngoài thời tu tập
ra, con còn
bị thất niệm nhiều, vậy con phải tu như thế nào? Và cách thức nhiếp tâm như thế
nào, để vọng tưởng không xen vào được? Và muốn
kéo thời gian
dài ra từ một giờ, đến
hai ba giờ, con phải tu tập như thế nào,
xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được
rõ?
Đáp: Con nên
tu tập làm chủ trong thời khóa tu tập mà thôi, đừng để thất niệm trong giờ tu,
còn ngoài giờ tu, con hãy trả tâm con về trạng thái bình thường của nó đừng bắt
ép nó nhiều quá, mất tự nhiên.
Trong thời khóa tu tập mà còn thất niệm, như vậy do
con tu không đúng cách, theo các điều kiện như sau:
1- Tu tập quá sức của mình.
2- Ham tu nhiều, mà tu không đúng cách, ví dụ:
người mới tu nên đi kinh hành nhiều mà lại ngồi nhiều thì không đúng.
3- Lười biếng không đi kinh hành.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
4- Chưa tập
luyện ổn định hơi
thở bình thường.
5- Chưa tập hơi thở gom tâm.
6- Thay vì tu 5 hơi thở lại tu 10 hơi thở.
7- Không
phòng hộ sáu
căn, thường để tâm phóng dật.
8- Sống không đúng giới luật của Phật.
9- Không sống độc cư trọn vẹn, còn thích
vui.
10- Nên trực
tiếp với thiện
hữu tri thức
hướng dẫn.
Mười điều
trên đây cần phải lưu
ý trong khi tu tập Định Niệm Hơi
Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là phải hết sức nhiệt tâm, nếu thiếu nhiệt tâm
thì tu tập vẫn bị thất niệm. Bị thất niệm, tức là thiếu nhiệt tâm và tu tập quá
sức của mình.
Ø À Ù Ä Ä
HỒI HƯỚNG
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Hết mỗi giờ tu
con hồi hướng
cầu siêu, cầu an và phát nguyện như vậy có đúng không thưa Thầy? Trong kinh
sách Đại Thừa dạy, mỗi khi ăn cơm xong
cũng như ngồi tu thiền hoặc
niệm Phật, tụng kinh v.v.. đến khi xả ra đều hồi hướng
cho tất cả chúng sanh được sanh về
Tịnh Độ, chúng con đã
từng quen hồi
hướng như vậy
có đúng không xin Thầy chỉ bảo
cho chúng con được rõ?
Đáp: Tâm
con còn phàm phu, tham,
sân, si, mạn, nghi, còn ngăn che, thương, ghét, giận, hờn, phiền não,
v.v.. còn rất nhiều sự đau khổ, gặp duyên còn chướng ngại, chính hiện giờ, con
đang chung sống với chị em, thế mà con còn không tùy thuận được để mọi người
vui vẻ với nhau. Tâm con
chưa thanh tịnh,
chưa trong sạch, còn
ô nhiễm quá
nhiều, vậy con hồi
hướng cầu siêu, cầu an cho người khác, với tâm như vậy
thì phỏng có ích lợi gì được cho ai? Hay
chỉ là một
hình thức suông.
Sự hồi hướng như
vậy chẳng ích lợi gì
cho con mà
cũng
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
chẳng ích lợi
gì cho người khác, chỉ
nói lên sự không thành thật, sự dối trá của con mà
thôi.
Con đang tu
tập, tâm con chưa thanh tịnh mà con muốn hồi hướng cho người khác thì hồi hướng
tâm nào?
Tâm xấu hay tâm tốt, tâm tốt thì con chưa có, còn
đang tu tập, còn
tâm xấu thì không lẽ hồi hướng
cho họ sao?
Tâm con chưa
thanh tịnh, còn quá nhiều khổ đau mà hồi hướng cho người thì hóa ra con hồi hướng
sự bất tịnh,
uế nhiễm, sự khổ đau cho người khác, như vậy có đúng không?
Người tu
sĩ đạo Phật
làm thật, nói thật,
nghĩ thật, cớ đâu lại làm giả, nói giả, nghĩ giả. Con đừng
nghe theo kinh
sách phát triển, những
gì kinh sách phát triển
đều dạy chúng ta làm những hình thức từ bi, bác ái bên ngoài, đó là
làm giả, nghĩ
giả, nói giả để lừa đảo,
lường gạt người thiếu hiểu
biết, nên lầm tưởng làm như vậy
là trải tâm từ bi vô lượng, vô biên thương
xót khắp cùng
chúng sanh, để tỏ ra
mình là Bồ Tát thừa12độ13 nhiều
người, đó là
12 - Bồ Tát
thừa là xe lớn có nghĩa là chở nhiều người, hướng dẫn mọi người tu tập.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
một điều đi
ngược lại và phỉ nhổ vào Phật giáo Nguyên Thủy. Ý đồ của kinh sách phát triển
là dìm Phật giáo Nguyên Thủy xuống cho là ngoại đạo Tiểu Thừa (xe nhỏ) ích kỉ,
nhỏ hẹp chỉ chở một mình, không
độ ai hết,
không làm từ thiện, không thương xót ai cả, không dạy
người tu hành chỉ lo tu cho mình.
Chủ trương của
Phật giáo Nguyên Thủy là khi tu xong mới độ người, còn chưa tu xong thì không
dám độ ai. Vì độ như vậy là tự giết mình mà còn giết người khác, bằng chứng hiển
nhiên hiện giờ, các nhà
kinh sách phát triển
đã giết mình mà còn giết nhiều người khác nữa, không những
giết một đời người mà còn giết nhiều thế hệ con người.
Bởi sự lừa đảo
của kinh sách phát triển tự dối
mình, dối người
bằng những ngôn
ngữ lặp đi lặp lại của lời người
xưa, để rồi chịu chết trong sự đau khổ từ kiếp này sang kiếp
khác, không có làm chủ được sanh, già, bệnh, chết.
Sự hồi hướng
của kinh sách phát triển dạy là sự dối
trá, để kết
thúc câu trả lời này,
con
hãy đọc lại bài
kinh Ước Nguyện của Phật đã
13 - Độ là
chở, là dạy cho biết cách tu hành, là giúp đỡ mọi mặt (từ thiện).
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
dạy
trong kinh Trung Bộ:
‚Khi nào chúng ta giữ
gìn giới luật
nghiêm chỉnh thì sẽ
hồi hướng cho mình, cũng như cho
người khác sẽ có kết quả tốt đẹp‛. Đó chính là hồi hướng tâm thanh tịnh tốt của
chúng ta đến mọi người, còn giới luật
chưa nghiêm chỉnh thì xin
đừng hồi hướng cho ai hết.
Mười bảy điều
ước nguyện trong kinh Sa Môn Quả thuộc Trường Bộ kinh nên sống đúng giới luật đừng vi phạm
một lỗi nhỏ nhặt nào thì ước nguyện cho mình cho người đều có hiệu quả.
TIÊU CỰC
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy, con
muốn giữ
hạnh đi khất
thực ngày một bữa, nhưng
thân con bệnh thấp khớp,
tâm con còn yếu
chưa xả ly ghét bỏ được thân
này, vì vậy con cần
phải có thời gian
nhàn rỗi thư giãn, tu tập
sức tỉnh thức, gạn lọc lậu hoặc,
diệt ngã, xả tâm cho tốt và pháp hướng
phải có hiệu
quả, ngược lại ra
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
ngoài lao động
nhiều, mệt mỏi tu tập rất khó, sức tỉnh
thức mất dần, pháp hướng tâm
không được hiệu quả.
Con
thích tu hơn, dù miếng ăn có cực đơn điệu
mà tâm thanh thản hơn là ăn ngon, mà bị
bất an, khó tu.
Kính thưa
Thầy, những ý kiến trên đây là của
con có đúng không?
Xin Thầy mở
lòng từ bi chỉ dạy chỗ
sai quấy để con
sớm diệt
trừ, phát huy cái tốt, cái cần cho sự
tu tập ở ngày
nay cũng như ngày mai, con xin thành
kính tri
Đáp: Hạnh đi
xin ăn là đức hạnh cao quý và giải thoát
nhất của vị
tu sĩ đạo Phật, là Chánh Nghiệp của bậc thánh tăng, chứ không
phải những loại
người đi xin
ăn thường tình (xin tiền), nó có nhiều ý nghĩa trong đường
tu tập giải thoát
của đạo Phật.
Nhờ đức hạnh
đi xin này mà kết quả xả tâm ly
dục, ly ác pháp rất
dễ dàng, cụ thể
và rõ ràng, đi xin ăn ngày một bữa, không xin tiền
xin bạc, chỉ xin thực phẩm vừa đủ
ăn trong một bữa, đó
là thánh hạnh của bậc chơn tu Phật
giáo, chứ người thường tình thế gian
không thể sống
như vậy được. Hạnh đi xin ăn có
nhiều ý nghĩa của cuộc sống giải thoát như:
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
1- Giải thoát được thân, tâm không bận tâm lo đời
sống ăn uống hằng ngày như: nấu, nướng, trồng, trỉa, gặt, hái v.v..
2- Gieo duyên
lành với chúng
sanh, hay nói cách khác là tạo mối
liên hệ để dẫn dắt chúng sanh tu hành
giải thoát sau này,
gọi là hóa duyên độ chúng sanh.
3- Diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
4- Lập hạnh nhẫn nhục.
5- Lập hạnh tùy thuận.
6- Lập hạnh xả vật chất.
7- Lập hạnh
giải thoát tâm
phóng khoáng như hư không.
8- Lập hạnh phòng hộ sáu căn.
9- Lập hạnh thiểu dục tri túc.
10- Cuộc sống
trầm lặng và đơn giản giữa mọi người.
Đó là 10 điều
lợi ích của đức hạnh đi khất thực,
nó vừa trực
tiếp với các đối tượng
nhưng lại ngầm bên trong tâm gián tiếp lập đức hạnh thánh tăng của một
người tu sĩ đạo Phật,
có một đời sống,
bằng những hành động sống, thật sự đạo hạnh của người tu sĩ chân
chánh.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Theo như mọi người
tu thiền định
hiện giờ, họ tự nghĩ: phải sống nhập thất suốt ngày này qua ngày khác,
không làm việc gì cả, chỉ có chuyên ròng tu tập mà thôi. Với ý nghĩ này, không
đúng với tinh thần buông xả của đạo Phật.
Tại sao vậy? Tại
vì ở trong
thất tu tập như vậy, tức là ức chế tâm, trái ngược lại
đạo Phật là đạo xả tâm
(ly dục, ly ác
pháp), nên hạnh đi khất thực
là một hành động tu trực
tiếp đối với các pháp để xả tâm của mình, trừ trường hợp lúc nhập định mà thôi.
Thời đức Phật
còn tại thế, các vị tỳ kheo phải đi khất thực vào buổi sáng trước giờ ngọ, ngay
cả những
người già yếu
cũng phải đi xin
ăn, chính như đức Phật
đã già tám
mươi tuổi mà vẫn còn đi xin ăn hằng
ngày như những vị tỳ theo khác.
Đi khất thực
vào buổi sáng có tu tập được gì không? Có mất thời gian tu tập không?
Lấy thời
gian buổi sáng
đi khất thực
là phải nói rằng:
chính buổi sáng
là thời gian
tu tập nhiều nhất, nhất là giao
tiếp với các pháp, người tu
sĩ nhờ có
các đối tượng
để tu tập xả
tâm như:
1- Đi khất thực,
khi ra khỏi tu viện
các thầy tỳ kheo cần
phải phòng hộ sáu căn, mắt
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
nhìn xuống,
tai nghe sự hoạt động trong thân, ý
phải giữõ gìn
chánh niệm trong
hành động bước đi,
đó là ngăn
ác pháp (Tứ
Chánh Cần), khi tâm có khởi niệm
gì, đều phải quán vô
lậu quét sạch, tức là diệt ác pháp.
2- Giữ tâm trong chánh niệm tỉnh giác, (thân
hành niệm nội ngoại), hơi
thở hoặc bước đi.
3- Trải
tâm từ trên
bước đi, tránh
giậm đạp chúng sanh (Tứ Vô Lượng Tâm từ, bi, hỷ,
xả).
Trong một
ngày, một đêm
tu tập có ba
thời tu trong cảnh tịnh (chiều, tối, khuya) còn thời gian
buổi sáng tu
trong cảnh động
phòng hộ và xả tâm trong các đối tượng. Chiều, tối, khuya tu rất dễ, chỉ
có buổi sáng tu rất khó. Ba thời tu “tỉnh thức”, một thời tu “chánh niệm”. Nhờ
có chánh niệm mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.
Bởi vậy, cố tránh ngoại cảnh để tu, tức là trốn tâm
mình, trốn tâm
mình khó mà thực
hiện được chánh niệm, chánh niệm không thực hiện được thì tâm không bao giờ xả,
mà tâm không xả được
thì làm sao ly dục, ly ác
pháp được, mà không ly dục, ly ác pháp được thì làm sao nhập được Bất Động
Tâm và nhập được Sơ
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Thiền, nhập
Bất Động Tâm chẳng được thì làm sao nhập
Sơ Thiền được. Nhập Bất Động
Tâm chẳng được thì dù
có tu ngàn
kiếp cũng chẳng làm chủ được sanh tử luân hồi.
Hiện giờ,
trong đất nước chúng ta không thể thực hiện hạnh đi khất thực được, vì những bậc thầy tổ đã chịu nhiều ảnh hưởng
giáo lý kinh sách phát
triển Bà La
Môn, nên đã bỏ
hạnh đi khất thực từ lâu. Tu như các thầy theo kinh sách phát triển, giới luật
không nghiêm chỉnh, đức hạnh
không có, ai
mà cúng dường. Do đó, chỉ còn cách đi tụng niệm, cúng
bái làm ma chay, làm những điều
mê tín để mà sống.
Vì thế, trong chùa
phải tự tổ chức nấu ăn
như người thế tục và ăn ngày ba bữa, do ăn uống nhiều quá, nên phải tổ chức lao
động cày cấy, trồng trọt như tổ Bách Trượng đã dạy: ‚nhất nhựt bất tác, nhất nhựt
bất thực, có nghĩa là một ngày không làm là một ngày không ăn‛, đó là những
chùa ở nông thôn, còn những chùa ở thành thị không có cày cấy trồng trọt được, nên phải tổ chức lễ lộc cúng
bái làm những điều
mê tín dị đoan để
lừa đảo tín đồ nhẹ
dạ, lạc hậu,
phần nhiều là
phái nữ, lấy nghề
cúng bái, tụng niệm hoặc đi thuyết giảng lung tung mà mình
tu hành chẳng được những
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
gì, chỉ toàn
vọng ngữ hoặc đi hành hương chùa này,
chùa khác để kiếm lời
trong mỗi chuyến đi, để làm sự sống. Sự sống của tu sĩ
Phật giáo hiện giờ là một sự
trao đổi, bằng
cách buôn Phật, bán
pháp và khéo lừa đảo, bằng sự mê
tín không chơn chánh, phi đạo đức.
Thời đại hiện
giờ, nếu muốn giữ được Chánh Nghiệp của
Phật giáo thì phải khéo léo tổ
chức, nhờ các cư
sĩ có
nhiệt tâm với Phật
giáo để trợ duyên trong giai đoạn đầu cúng dường sớt
bát, giải quyết
về đời sống của
tu sĩ để họ còn giữ gìn hạnh đi xin ăn,
chính nhờ đó, mới thực hiện được đời sống giải thoát, có thực hiện được như vậy
thì tâm họ mới ly dục, ly ác pháp,
còn ngược lại,
không giữ được hạnh đi xin thì lần lượt sẽ phạm và phá các giới
luật, vì vậy, phạm hạnh của người tu sĩ không còn nữa.
Đồng thời vừa
đi xin ăn, cũng vừa phải tổ chức cho
tu sĩ
mỗi ngày có
năm mười phút
lao tác nhẹ như quét dọn vệ sinh chung quanh thất hoặc giảng
đường, để họ vừa tu
trong hành động lao tác và cũng để
cho chung đụng với các đối tượng bên ngoài, đó là thực hiện các pháp phòng hộ
tâm, tức là cách thức sống trầm lặng độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận và buông xả v.v.. Nhờ có những buổi
lao tác này,
tu sĩ mới thực
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
hiện chánh
niệm, xả tâm ly
dục, ly ác pháp, chính
vì những lối tu như vậy, người tu
sĩ mới thấy được sự giải thoát của
đạo Phật trong cuộc sống rất cụ
thể và rõ
ràng. Nếu không
có những buổi lao tác vệ sinh chung như vậy và không có
các đối tượng
để tu tập
chánh niệm xả tâm,
mà cứ an
nhiên ở trong
thất tu tập thiền
định thì bị ức chế tâm.
Và vì vậy, dù có
tu tập
suốt ngàn đời
muôn kiếp cũng
chẳng nhập được thiền định gì cả. Nếu cứ ở trong thất mà tu tập thiền
định, để được
nhất tâm bất loạn, thì đó là những loại thiền ức chế
tâm, chứ không phải thiền
xả tâm và
tu như vậy
thì chẳng bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, chỉ
đó là hình thức tu thiền để lừa đảo người
khác mà thôi,
chứ chẳng có ích lợi gì, phải nói rõ hơn, đó là một trò
lừa bịp bằng thần thông tưởng.
Mục đích và
đường lối tu tập của đạo Phật là diệt ngã xả tâm, ly dục
ly ác pháp, cho nên những
pháp tu
tập đều nhắm
vào ngăn ác diệt ác, sanh khởi
thiện, tăng trưởng thiện pháp khiến cho tâm được an vui và thanh thản hoàn
toàn, đó là tâm thanh tịnh, tâm giải thoát, tâm không còn tham, sân, si, mạn,
nghi che mờ nữa và không còn
có thất kiết sử trói
buộc, nó là
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tâm bất động
của đạo giải thoát, chính đó mới
là thiền định của đạo Phật.
Nếu con
không hiểu được vậy, mà cứ ở trong thất tu tập tỉnh thức trong cảnh tịnh,
thì tỉnh thức kia chỉ
là tỉnh thức
tưởng sẽ rơi
vào trạng thái tĩnh lặng tưởng,
thì không thể nào giải thoát tâm con được, mà còn có thể
đưa con đến con đường tà thiền tà định, như các thầy tổ của chúng
ta đã bị lạc đường
theo giáo pháp kinh sách phát triển từ xưa đến nay.
Con phải tỉnh thức
ngay trong các đối
tượng, thường sống chánh niệm, để
tâm con ly xả, từ bỏ và viễn ly
các ác pháp. Có như vậy, sự tu tập của con mới thực tế và cụ thể giải thoát, đừng
lầm lạc vào giáo
pháp phát triển, vì giáo pháp của
kinh sách phát triển
chỉ dạy cách thức tu tập không có pháp hành, thường
lý luận suông bằng những
danh từ, có
khi rất trừu tượng, mơ hồ, viễn vông thiếu thực tế,
phi đạo đức, khiến
cho người tu tưởng mình
đã giải thoát theo ngôn ngữ,
nhưng nào ngờ giải thoát đâu không
thấy, chỉ thấy bỏ công
lao tu tập đến
khi gặp việc gì thì tâm
nào cũng còn tật
nấy. Rốt
cuộc chỉ bị
kinh sách phát triển
lừa đảo bằng miệng lưỡi với những danh từ triết lý suông.
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
Lao tác của
người tu hành là lao tác trong tu tập, chứ
không phải lao
tác làm ra của
cải (kinh tế), cho nên
lao tác mà
không có mệt nhọc và không có lo lắng, còn lao tác mệt
nhọc và lao tác lo lắng là lao tác làm ra cơm gạo để sống (lao tác kinh tế),
nên sự lao tác đó phải có sự tư duy, suy nghĩ kỹ lưỡng, do sự lao tác như vậy, nên
tâm hồn không
được thanh thản,
an lạc và vô sự.
Lao tác để
tu tập chính
là nhờ vào sự lao tác hoạt động của thân thể, để nương vào
hành động đó mà tâm được tỉnh thức nên thường nhớ hướng tâm như lý
tác ý, ly dục ly ác
pháp, lao tác như vậy gọi là lao tác tu tập để xả tâm; lao tác như vậy là để thư
giãn tinh thần; lao
tác như vậy là để sống độc cư, trầm
lặng; lao tác như
vậy là để
phòng hộ sáu
căn; lao tác
như vậy là để tu tập Tứ Vô Lượng Tâm; lao tác như vậy là để tu tập tịnh
chỉ ngôn ngữ; lao tác như vậy là để
rèn luyện đức nhẫn nhục,
tùy thuận và bằng lòng.
Người tu
hành theo đạo Phật phải hiểu lý của đạo
cho rõ ràng, biết mục đích của đạo phải cụ
thể, không được
mơ hồ trừu
tượng và còn phải biết cách tu tập cho đúng, phải
nương theo mọi cảnh, mọi đối tượng,
mọi sự việc xảy ra,
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
phải biết giữ
gìn tâm, phòng hộ tâm, mà còn phải biết tu đức hạnh tùy thuận, nhẫn nhục, bằng lòng
trước các đối tượng, mọi
hoàn cảnh và mọi sự việc đều
phòng giữ tâm, xả tâm, diệt tâm, viễn ly và từ khước các ác pháp v.v..
Tu mà còn
thích cảnh này, cảnh kia, sống phải như thế này, sống phải
như thế kia, ăn như
thế này, ăn
như thế kia v.v..
Thích cảnh tịnh, sợ cảnh động,
thích nhập thất ở không, thích ngồi nhiều, thích khổ hạnh, thích giản dị, thích
tự do và tự tại theo ý muốn của mình
v.v.. Đó là cách tu theo lòng ham muốn của mình, tu như
vậy là tu
tránh né cảnh
và các pháp, không bao giờ có sự giải thoát.
Tu là
buông xả sự ưa
thích, ham muốn trước
cảnh, trước pháp,
trước mọi cảnh mọi
pháp nào tâm chúng ta phải đều buông xả cho được, đó
chính là tu tập thiền
định của đạo Phật,
còn không tu
hành đúng như vậy là tu
tập tà thiền ngoại đạo.
Con phải nhớ
lấy cảnh động vàø dùng pháp hướng tâm như lý tác ý, để giúp tâm con xa lìa ác pháp
và lòng ham muốn, nhờ
đó tâm được tịnh,
đó là giải
thoát ngay liền; đó
cũng chính là thiền định chơn chánh của đạo Phật, đừng nên tránh
né trốn cảnh
mà tu, đừng
nên lý
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
luận ‚tâm
còn yếu‛, để rồi tránh
cảnh thì tu ngàn kiếp cũng chẳng
ra gì!
Đừng nghĩ rằng,
tâm con còn yếu không dám đương đầu với nghịch cảnh, tu như vậy không đúng cách
của đạo Phật là hèn nhát con ạ! Tu là phải nhiệt
tâm, gan dạ, kiên trì, phải đầy đủ
nghị lực quyết chiến, quyết
thắng, phải đem hết sức lực của mình
ra chiến đấu đến tận cùng, để
tâm hồn mới được
thanh thản, an lạc và vô sự, chỉ những người có nhiệt tâm, nhiệt huyết
muốn ra khỏi cuộc đời đầy đau khổ thì việc tu tập này không còn khó khăn nữa.
Con nên nhớ,
người tu
sĩ đạo Phật là một dũng tướng như Triệu Tử Long ở trận Đương
Dương Trường Bản,
có như vậy
mới chiến thắng được nội tâm.
NHÂN DUYÊN
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con là người
có
đầy đủ
nhân duyên để thọ hưởng
pháp mầu của chư Phật mà Thầy đã triển khai
và ban
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
cho chúng
con, nhưng con cũng chưa đủ phước để được
ở gần bên Thầy trực tiếp chỉ dạy, con chỉ ước mơ một ngày nào đó được nhập
chúng ở tu viện.
Đáp: Hãy cố
gắng nỗ lực tu tập con ạ! Dù ở đâu có nhiệt tâm tu
hành, quyết xả cho được tâm ham muốn của mình và
các ác pháp
thì ở đó cũng có sự giải
thoát liền, đến
khi tâm xả được thì cũng
có ngày đủ
duyên sẽ được
tu tập thiền định dưới sự hướng của
Thầy để tiến sâu vào định, còn nếu chưa xả tâm mà tu hành bên Thầy thì kỷ
luật quá khắt
khe, e rằng
con không thể vượt qua được, rồi đây con sẽ lỡ dở đường tu hành, bỏ cuộc
giữa đường thì rất uổng phí một đời.
Giai đoạn đầu
là giai đoạn tu tập ly dục ly ác
pháp, giai đoạn
này tu tập
không nguy hiểm, chỉ cần có các đối
tượng để xả tâm, tức là tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, cũng như
bây giờ chưa có duyên được ở gần bên Thầy
thì hãy tập sống
đúng giới luật,
tức là sống đức hạnh làm người và
làm Thánh, kế đó hằng ngày con
hãy chuyên cần
tu tập Tứ
Chánh Cần thì sẽ
ly dục, ly ác pháp
được, khi ly được dục
và ác pháp
thì chừng đó sẽ được
gần Thầy.
Ø À Ù Ä Ä
TÁNH GIÁC
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Kinh Thủ
Lăng
Nghiêm dạy:
mỗi chúng sanh
đều có Phật Tánh, Phật Tánh tức là tánh giác, tánh
giác ấy ban đầu diệu dụng sáng suốt, không có vật gì sánh bằng,
như do niệm minh,
tánh sáng suốt đó, trở thành điên
đảo vô minh mà theo nghiệp báo luân hồi. Vậy
con không hiểu lý do
gì mà sự sáng suốt đó không còn hạn chế mà lại trở thành vô minh, xin Thầy
dạy rõ cho chúng con hiểu ý sâu mầu này?
Đáp: Kinh
Thủ Lăng Nghiêm
là kinh sách phát triển, do người
sau viết ra mạo nhận là Phật thuyết, nên lối lý luận thiếu chân thật, không
logic, thường mâu thuẫn v.v..
Kinh
này chỉ
dạy cho chúng ta thấy Phật tánh. Phật tánh là tánh biết thường hằng
sáng suốt từ vô thủy cho đến nay. Tất cả chúng sanh từ loài côn trùng, cầm thú
cho đến loài người đều có Phật
tánh, nhưng Phật
tánh là tánh biết
sáng suốt sao thường
chịu nhiều khổ từ
kiếp này
sang kiếp khác,
Phật tánh là
tánh
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
biết sáng
suốt mà còn chịu
nhiều khổ đau như vậy,
thà là chịu tối tăm
không sáng suốt
như loài cầm thú thì còn hơn có tánh Giác mà lại si mê để chịu mọi sự khổ
đau, thì mới thật
là buồn cười cho loại kinh sách dùng xảo ngôn lừa đảo người,
nhưng xét lại
kinh sách phát triển này cho cùng chúng ta thấy có rất nhiều
cái sai trong kinh này chứ không riêng về Phật tánh.
1- Tánh
nghe, tánh thấy, tánh biết, những tánh này thường hằng bất biến, thường nghe,
thường thấy, thường
biết, đó là
cái sai thứ nhất. Khi một người đang ngủ, cũng như một
bệnh nhân đang gây mê để giải phẫu
thì tánh nghe, tánh thấy, tánh biết có còn nghe, thấy, biết nữa
hay không? Hay
nó đã ngủ,
đã mê không còn biết như thân tứ
đại của nó vậy?
2- Phật Tánh
này đã có từ vô thủy diệu dụng sáng suốt không gì bằng, đó là cái
sai thứ hai. Tại sao sáng
suốt (tánh giác)
mà bây giờ lại
mê lầm để đến nỗi
sanh làm chúng
sanh, trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi chịu biết bao nhiêu trong sự khổ
đau sanh, già, bệnh, chết từ kiếp này đến kiếp khác. Đã nói là tánh giác thì
có cần
gì đến đức Phật Thích
Ca giảng dạy kinh Thủ
Lăng Nghiêm này, nó cũng vẫn phải
biết tánh thấy, tánh nghe, tánh biết của nó, vì
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
nó là
tánh giác. Cớ sao
phải đợi
đến đức Phật Thích
Ca Mâu Ni
thuyết kinh Thủ
Lăng Nghiêm thì chúng sanh mới
biết, thì như vậy, làm sao gọi là
tánh giác có từ
vô thủy cho đến nay. Vả lại, tất
cả chúng sanh đều có tánh giác nhưng sao
tánh giác lại
ngu si quá vậy, luôn luôn
làm khổ mình,
khổ người, tạo biết bao nhiêu
nhân ác, để rồi thọ biết bao nhiêu
quả khổ từ đời này, sang đời
khác, thế mà các nhà kinh sách phát
triển gọi là
tánh giác có từ
muôn đời ngàn kiếp, như vậy cái tánh giác này (Phật Tánh) có còn giác tánh hay
không?
Kinh Thủ
Lăng Nghiệm dạy:
‚Cái thể bản lai thanh tịnh bồ đề
Niết Bàn thì như hiện nay, cái tính bản
minh thức tỉnh của ông (A Nan) sinh ra cái duyên mà lại bị bỏ rơi. Do
các chúng sanh
bỏ rơi cái bản
minh ấy, nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự giác, oan uổng
vào trong lục đạo‛.
Đọc đoạn
kinh này, ta thấy hết sức vô lý
và mâu thuẫn, dù cho lời này là Phật Thích
Ca Mâu Ni nói, chúng
ta cũng không
chấp nhận mà tin được, huống là Tổ
nói. Người ta cứ nghĩ rằng cái gì của Phật, Tổ, Tiên, Thánh nói ra là đúng cả.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Đâu phải vậy,
đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã
dạy chúng ta: ‚Cái
gì Ta nói cũng đừng nên tin mà hãy suy ngẫm cho kỹ, cái đó
có mang đến sự
an vui chân
thật cho mình cho
người hay không
rồi mới tin’’.
Đó không phải đức Phật đã xác quyết
lòng tin của chúng ta, phải được ở
nơi trí tuệ sáng suốt
của mình, khi hành động của chúng
ta tiếp xúc với các pháp mà kết quả
đúng với đạo đức không làm
khổ mình, khổ
người thì mới chấp
nhận, còn ngược lại thì không chấp nhận.
Người tu
sĩ đạo Phật
nhờ tri kiến giải thoát, tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác chứ
không phải tri kiến giải thoát
là tánh giác như trong kinh sách phát triển đã dạy.
Tri kiến cái gì
ở đây
để được giải
thoát? Và giải thoát
cái gì? Tri kiến
giải thoát có hai
cách:
1- Thứ nhất là
‚Tri kiến‛ duyên “sanh”,
sanh tức
là các pháp,
tri kiến tức là biết rõ, nghĩa là
biết rõ các pháp “Vô thường, khổ, không,
vô ngã”, biết
rõ các pháp như
vậy, đồng thời
dùng sức tỉnh
thức để không bị
lôi cuốn, chìm đắm, dính mắc trong các
pháp. Do đó mới gọi là
vô lậu, giải
thoát,
ĐƯỜNG VỀ XỨ
PHẬT – TẬP VIII
mới gọi
là làm chủ được sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
2- Thứ
hai là tri kiến
‚luật nhân quả thiện ác‛ để ngăn ác, diệt ác pháp, khởi
thiện, tăng trưởng thiện pháp, do ngăn ác, diệt ác pháp, khởi thiện, tăng trưởng
thiện pháp, nên tâm ly dục, ly ác
pháp nhập Sơ Thiền;
tâm ly dục, ly
ác pháp, nhập
Sơ Thiền là
tâm đã thanh tịnh, tức là tâm
không phóng dật; tâm không phóng dật, tức là
tâm nhập bất động
tâm định; tâm nhập bất động tâm định là tâm vô lậu, người mà tâm vô lậu là người
có tri kiến giải thoát hoàn toàn.
Cho
nên, tri kiến giải
thoát của đạo Phật
là chánh niệm tỉnh thức trong bất động tâm định, do sự tu tập tỉnh
thức và huân tập
pháp như lý tác ý, để khắc phục tâm tham ưu mà có, chứ không
phải là tánh
giác như trong
kinh sách phát triển dạy.
Trong kinh sách phát triển dạy Tánh giác đã có sẵn từ vô thủy mà bây giờ lại mê lầm vô
minh, u mê tạo
nhiều nhân ác, thọ nhiều
sự khổ đau, chịu tái sanh luân hồi
muôn kiếp, thì có vô lý
hay không? Quý vị hãy
suy ngẫm về kinh này có
đáng tin thì quý vị
tin, còn bằng
không thì
quý vị đem đốt sạch, đừng để những loại kinh này chẳng ích lợi gì.
Ví dụ:
Có một người
đã thi đỗ tiến
sĩ và ông cũng
không bị một loại bệnh
thần kinh nào, nhưng
bỗng dưng bây giờ
ông ta lại quên
hết giống như một người chưa từng đi học, việc này như vậy có thể xảy ra
hay không? Chắc hẳn không bao giờ có, phải không quý vị?
Như chúng
tôi đã từng tu tập và học hỏi giáo
pháp của đức Phật. Ngài
đã dạy: từ vô
minh sanh hành,
hành sanh thức
và tiếp tục sanh
khởi các duyên,
do các duyên hành
thức tạo ra các pháp, từ các pháp sanh, diệt, vô thường đưa đến những sự
đau khổ, ưu bi, phiền não, sanh, già, bệnh, chết và tiếp tục tái sanh luân hồi.
Muốn chấm dứt
sự khổ đau của kiếp làm người thì phải đoạn
diệt vô minh
mà vô minh được
đoạn diệt, tức
là phải có
“minh”, minh ở đây tức là trí tuệ
tri kiến giải thoát, trí tuệ tri kiến giải thoát
là một sự
tu tập mà
có, chứ không phải tánh giác có sẵn.
Ngược lại,
trong kinh sách phát
triển cho tánh giác là có sẵn,
tánh giác đã có sẵn mà còn lại đi tìm tánh giác thì có vô lý hay không?
Một nhà bác
học đã học và thông suốt mọi điều,
bây giờ ông
ta còn cắp
sách đến học những điều ông đã thông suốt đó, thì đó có phải là một việc làm vô ích và
vô lý hay không? Xin quý vị vui lòng suy ngẫm, đừng vội nghe chúng tôi nói mà
tin.
Kinh Thập Nhị
Nhân Duyên dạy rất
rõ ràng: ‚con người sinh ra từ
vô minh, nên lầm chấp
dính mắc các pháp, tạo
ra một thế giới
đau khổ (mười hai nhân
duyên hợp lại thành
thế giới đau
khổ)‛, chứ không có một Phật
Tánh, một Tánh Giác, một Bản Lai Diện Mục
nào ngu si đến mức độ
không tưởng tượng được, nhằm chỗ bất tịnh, ô trược, bẩn thỉu, hôi thúi mà lại
chui vào để tái sanh luân hồi. Như vậy, kinh sách
phát triển gọi tất cả chúng sanh
đều có Phật Tánh, Tánh Giác từ vô
thủy thì chúng
ta có tin
được không?
Đạo Phật rất thực tế không
xây dựng thế giới siêu hình,
con người chết là mất hết không có
Linh Hồn, Thần Thức; không
có Bản Lai Diện Mục, Phật Tánh nào cả, chỉ còn lại
những hành động nhân
quả thiện ác
đã huân tập nhiều
năm, tháng, nên
đã trở thành
nghiệp lực, nghiệp lực ấy là
vô minh hoàn
toàn, cho
nên mọi người sanh ra trên trái đất
này, ngay cả đức Phật cũng đều là vô minh.
Xưa, đức
Phật đã làm
khổ mình, khổ những người thân của mình, một bằng chứng
hiển nhiên, khi Ngài bỏ ngai vàng, cha già, vợ trẻ, con thơ đã khiến cho những người này khổ đau vô cùng,
sáu năm khổ hạnh
không phải là Ngài đã tự làm khổ
mình sao?
Từ vô minh
sanh khởi các hành, các hành mới sanh ra thức, chứ không phải có cái thức
này từ
đâu mà đến
đây được, cũng không
phải nó có sẵn. Trong kinh A Hàm đức Phật đã dạy:
‚Nếu còn một chút
xíu thức như đất trong móng
tay Ta thì
con người không
giải thoát và đạo Ta không ra đời‛.
Kinh Thủ
Lăng Nghiêm đã lừa đảo mọi người, Tánh Biết, Tánh Thấy, Tánh Nghe, những tánh
này là thường, lạc, ngã, tịnh, nó luôn luôn có
trí tuệ diệu dụng, hằng giác, sáng suốt vô hạn, thế
mà lại chui
vào cái bao hôi thúi. Thiền Sư Triệu Châu trả lời cho
một thiền tăng hỏi đạo: ‚Biết mà cố phạm‛. Xưa, đức Phật cho những
luận thuyết này
là những loại luận thuyết trườn uốn như con lươn.
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm dạy câu
này thật là vô lý: ‚do các chúng
sanh bỏ rơi cái bản minh ấy,
nên tuy cả
ngày sống trong tánh bản minh mà
không tự giác’’. Xin hỏi cái tánh bản minh của chúng sanh với chúng sanh
là một
hay là hai? Nếu bảo rằng một
thì làm sao gọi là bỏ rơi? Nếu bảo rằng là hai, tức là có cái minh và
cái vô minh, nhưng cái minh đã có từ vô thủy thì làm sao cái
vô minh lại xen vào được. Đó
là một điều hết sức
vô lý của
kinh sách phát triển.
Theo đạo Phật, cái vô
minh đã có sẵn từ vô thủy vì nó là nghiệp lực, do sự tu tập
của chúng ta đúng
chánh pháp mới lần lần
vén sạch màn vô minh, tức là đập phá và diệt sạch nghiệp lực, nên gọi là
minh.
Trong Thập
Nhị Nhân Duyên, chúng ta không thấy đức Phật dạy
có duyên minh
bao giờ. Minh mà
có được là do
sự tu
tập, vì vậy Tánh giác không thể có từ vô thủy được.
Vô minh
và minh như
đêm và ngày,
cái này có thì cái kia không, cái này không thì cái kia có. Do đó
nói có sẵn
là không đúng,
cũng như người có học thì mới
biết chữ, không
học thì không biết.
Trong câu
kinh Thủ Lăng
Nghiêm này cũng cho chúng ta thấy
chúng sanh và Phật Tánh là hai,
chứ không phải một, do Phật
Tánh mê nên mới thành chúng sanh, nhưng Phật
Tánh sao lại mê được?
Đó là một sự mâu thuẫn rõ
ràng. Kinh này dạy Phật
Tánh hằng giác, hằng sáng suốt từ
vô thủy, lẽ đâu lại mê muội mà thành chúng sanh?
Kinh sách
phát triển còn dạy: ‚mê là chúng sanh,
giác là
Phật‛, câu này đã xác định rất rõ ràng
‚chúng sanh tánh có trước
Phật Tánh‛, vì chúng sanh mê muội nên phải
tu tập
lần lần giác
ngộ thành Phật,
cho nên Phật có sau chúng
sanh. Câu kinh này
đúng theo lời dạy của đức Phật đã dạy, còn kinh sách phát triển
lập luận không
nhất quán. Vì vậy,
xét ra chúng ta
không thể hoàn
toàn tin vào kinh sách phát triển
là Phật thuyết.
Vả lại,
chúng ta chưa từng chứng kiến một vị Tổ tu
theo kinh sách phát
triển mà thành tựu sự giải thoát sanh, già, bệnh, chết
chỉ có những câu chuyện
huyền thoại tự tại sanh tử
trong kinh sách phát triển mà thôi.
Đức Phật đã
từng dạy: ‚Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành‛. Từ chúng sanh tu
tập thành Phật, chứ không phải
Phật đã
có sẵn trong chúng sanh, nếu Phật
đã có sẵn trong
chúng sanh thì chúng
sanh đâu cần gì phải tu; nếu
vị Phật đó
đã có sẵn trong chúng sanh thì vị Phật đó quá vô
minh, sao gọi là tánh giác
được? Nếu vị Phật đó
đã có sẵn trong chúng sanh thì Thầy Tổ và chúng ta
hôm nay đâu cần gì ngồi thiền, niệm chú, bắt ấn, niệm Phật,
tụng kinh, bái
sám v.v.. Nếu vị
Phật đó
đã có sẵn
trong chúng sanh,
thì chắc thế gian này không có con người sanh ra đời, vì kinh Phật
đã dạy: ‚cảnh giới
Ta Bà khổ! Ta Bà khổ!
Tánh giác
này hay là
Phật Tánh thì không bao giờ có trong đạo Phật, đó chỉ
là một sự tưởng tượng
của các nhà
kinh sách phát triển, khi họ tu tập
lạc vào tưởng định, phát triển tưởng tuệ, nên tưởng giải ra Phật Tánh Tánh
Giác, Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Biết
v.v..
Từ đó mới có
những loại kinh sách tưởng, trước đức Phật
ra đời cũng đã
có những loại kinh sách này,
nhưng không giúp
ích gì cho loài người và còn làm cho người ta khổ
thêm, đức Phật ra đời,
bài
bác sáu mươi
hai luận thuyết của
ngoại đạo và đập phá
tan tành thế
giới siêu
hình, để giúp
cho con người thoát ra khỏi tà đạo bàng môn lừa đảo này.
HÔN TRẦM
Câu hỏi của
Từ Hạnh
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Con bị hôn trầm
nặng phải
dùng pháp gì đối trị?
Đáp: Bị
hôn trầm có nhiều nguyên
nhân xảy ra:
1- Lao động
nhiều mệt mỏi,
sanh ra hôn trầm (thân mệt).
2- Tu
tập quá nhiều
(tâm mệt) sanh
ra hôn trầm.
3- Tu tập quá ít,
sanh ra lười biếng nên bị hôn trầm.
4- Sống độc cư cô đơn, sanh ra hôn trầm.
5- Uống
thuốc chỉ thống,
sanh ra hôn trầm.
6- Khi thân bị bệnh sanh ra hôn trầm.
7- Bị ma chướng hôn trầm.
Muốn phá
hôn trầm tùy
theo mỗi thứ bệnh
mà phá:
1- Lao động nhiều,
thân mệt mỏi sanh ra hôn
trầm, do đó người
tu tập không
nên lao động quá sức, lao động quá
nhiều. Phải lao động
vừa với sức của mình,
chúng ta nên biết,
sự tu
tập là một sự lao động rất lớn bằng
trí mà còn phải
lao động cơ thể
quá nhiều thì không thể nào không bị hôn trầm, nên nhớ,
lao động để tu, chứ không
phải để lao động hết công việc.
2- Tu tập là
một sự lao động về tinh thần nên tu tập
nhiều, tinh thần sanh
ra mỏi mệt, do đó mới
có hôn trầm.
Hôn trầm do tu
tập sanh ra thì nên dựng lại thời khóa
tu tập cho hợp với sức của mình thì sẽ hết hôn trầm và càng tu càng thấy
thích thú hơn.
3- Tu ít sinh
ra lười biếng, nên
tu đúng theo thời khóa thì hết
hôn trầm. Vì tu ít, dư nhiều thì giờ rảnh rỗi, ở không sanh ra lười biếng, nên
bị hôn trầm tấn công.
4- Người mới sống độc
cư, cô đơn không nên ngồi nhiều, đừng nên ở không, phải
lao động vừa sức, nhẹ nhàng, thì hết hôn trầm.
5- Uống thuốc
chỉ thống sanh buồn ngủ, nên đi ngủ và thuốc tan hết là hết hôn trầm.
6- Thân bệnh
sanh ra hôn trầm, nên tịnh dưỡng trị bệnh, tu ít lại, xả nghỉ, thì hôn trầm sẽ
hết.
7- Bị
ma chướng hôn trầm thì đi
kinh hành, dùng pháp hướng và đem hết nghị lực chiến đấu, bằng cách liên
tục động thân, hoặc rửa mặt, đi tắm hoặc làm tất cả những hành động khác, mục
đích là giữ đúng giờ không đi ngủ trước. Còn một cách nữa là
trèo lên bồ đoàn ngồi kiết già lưng thẳng, mắt
nhìn xuống chóp mũi, tập trung
tâm tại nhân
trung, biết hơi thở ra, vô tại
đó, đồng thời hít vô chậm chậm cho hết sức hít vô, rồi lại thở ra, cũng chậm chậm
cho hết sức thở ra, tiếp tục thở như vậy,
cho đúng 10 hơi thở
thì sẽ hết hôn trầm,
nếu không hết, còn có một phương cách cuối cùng là thở hơi thở phát ra tiếng
kêu, nghĩa là thở mạnh có âm thanh, thở đến khi nào không còn bị hôn trầm thì mới
thôi.
NHÀ TU HÀNH
CÓ LÀM LỢI ÍCH GÌ CHO XÃ HỘI
Câu hỏi của
Chơn Thành
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Có một
nhà giáo hỏi: “Các
bác sĩ, kỹ sư,
nhà giáo, thợ
may, thợ mộc, thợ dệt,
thợ hồ, v.v.. họ
đang làm lợi
ích cho xã hội, còn
các nhà tu
hành ở chùa,
tụng kinh, gõ mõ,
thân thể ngày một mập
béo. Vậy họ làm lợi ích gì cho xã
hội?”. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được
rõ.
Đáp: Đừng
nhìn ở góc độ hạn hẹp của những tu sĩ Phật giáo phát triển hiện giờ mà đánh giá
trị đạo Phật, thì rất là oan uổng.
Những tu
sĩ hiện giờ
đang sống trong các chùa là những tu
sĩ bị thế tục hóa hoặc bị Bà
La Môn
hóa, họ dùng
những danh từ rất kêu
‚Phật Giáo
phát triển‛, chuyên
sống làm nghề cúng bái, tụng niệm
thuyết giảng và làm những việc mê
tín, kêu gọi Phật tử đóng
góp xây cất chùa
tháp hằng tỷ tỷ bạc
và còn kêu gọi Phật tử đóng góp tiền của thực phẩm để
tạo danh làm việc từ thiện cứu trợ xã hội, nhưng chính bản
thân của những tu sĩ này
cũng chưa
bỏ ra một xu
cứu trợ ai hết, làm từ thiện miệng nhưng
họ cũng sống
và tiêu phí tiền từ thiện
của người khác.
Nếu theo
đúng nghĩa của một tu sĩ Phật giáo thì
không nên làm những việc
này, vì chính bản thân của họ là
kẻ đi ăn xin của Phật tử, thì tiền đâu
mà cất chùa
to, xây tháp, đúc
chuông, tượng Phật lớn và tiền đâu cứu trợ đồng bào bất hạnh. Nếu
quý thầy có cơ sở làm kinh tế thì
quý Thầy
cứu trợ là phải, nhưng nếu quý Thầy có cơ sở làm kinh tế thì
quý thầy không phải là tu sĩ đạo Phật, vì Chánh Nghiệp của đạo Phật là hạnh đi
xin ăn để ly dục, ly ác pháp, tức là từ bỏ
và xa lìa danh, lợi và các ác pháp
thế gian. Người
tu sĩ Phật
giáo chân chánh luôn luôn chỉ biết
lấy một cuộc sống đạo đức Hiền Thánh
làm gương hạnh đạo đức để cho mọi người noi theo, nhờ thế mọi người
mới có đạo đức, nhờ sống có đạo đức, họ mới thấy được tâm hồn thanh thản, an
vui và mới xứng đáng làm người
không làm khổ
mình, khổ người.
Nhờ có
noi gương theo Thánh
hạnh đạo đức của những bậc
chân tu, con người
không còn làm khổ
cho nhau, họ luôn
luôn xây dựng tạo nên một xã hội lành mạnh, tốt đẹp,
có một
đời sống
tâm hồn cao thượng,
biết thương yêu và đùm bọc lẫn nhau.
Đạo đức của
đạo Phật không phải là một thứ đạo đức miệng, cũng không phải là một thứ đạo đức
anh hùng cá nhân gọi là
đạo đức quân tử, mà từ xưa đến giờ quý vị đã từng gặp những loại đạo đức này
trong kinh sách Khổng
giáo. Đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người, đó mới thật sự đạo đức của Phật giáo, đạo đức của mọi người. Hầu hết quý vị
chưa bao giờ biết đến thứ
đạo đức này,
nhưng quý vị đã
từng sống với
nó chút ít vì
lương tâm của
con người. Tại vì quý vị chưa biết rõ nó, nên chưa sống trọn vẹn mà
thôi.
Đạo Phật
hiện giờ là đạo Phật của Bà
La Môn Giáo, đạo Phật bị thế tục hóa, chứ
không phải là đạo Phật chơn
chánh Nguyên Thủy, nên
nó chuyên làm việc mê
tín, cúng bái, tán tụng,
ngồi thiền, niệm
Phật, niệm chú, yếm
bùa, trừ tà ma, tạo thần thông trị bệnh, lừa đảo người, bằng nhiều hình thức
khác nhau, nên thỉnh thoảng công an phát giác ra được truy tố tội ác của những
vị sư thầy này.
Họ chỉ biết
lừa đảo, gợi lòng tham của người Phật tử bằng những
danh từ phước
báo như: tụng kinh, niệm Phật,
trì chú được phước
báo thông minh; bố thí cúng dường được phước báo giàu
sang, hạnh phúc
v.v.. Đó là những
danh từ
lừa đảo lường
gạt của giáo
pháp này, để gợi lòng tham được
thông minh, tham được bệnh tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi và được giàu sang. Do
gợi đúng
lòng tham này,
người Phật tử mới
cúng dường nhiều
tiền của vàng bạc
châu báu để xây chùa to Phật lớn, nhờ đó quý Thầy mới làm danh, làm giàu với
thiên hạ, ai trông thấy cũng phải kính nể.
Sự thật
trong kinh Đức
Phật đã dạy:
‚Người cư sĩ
bố thí, cúng dường sẽ được phước
báo, nhưng không
bằng giữ giới luật
phước báo sẽ nhiều hơn‛. Lại
có một bài kinh khác đức Phật dạy: ‚Cúng dường
bố thí phải đúng chánh pháp, không đúng chánh pháp,
như đem hạt giống tốt
gieo trên đất cằn cỗi khô xấu‛. Rõ
ràng, ở đây ý của đức Phật
muốn dạy chúng
ta nên giữ
gìn đạo đức giới
luật sẽ được
phước báo nhiều
hơn là bố thí cúng dường đúng pháp. Bố thí cúng dường đúng pháp chỉ có
phước báo nhỏ, phước báo nhỏ đó là phước báo hữu lậu, tức là trong phước báo vẫn
có sự đau khổ, chứ không phải là phước báo lớn, phước báo vô lậu. Phước báo vô
lậu là
do biết giữ gìn đạo đức giới luật,
tức là
không làm khổ mình,
khổ người; không
làm khổ mình, khổ
người là một đạo đức
nhân bản của con người
chung sống trong
một xã hội, đem lại cho đời sống của mỗi con người,
một sự an vui, hạnh phúc, hòa hợp, đoàn kết, không còn người
này chà đạp
lên người kia, xâu
xé nhau vì miếng
cơm manh áo. Đó
là phước vô lậu như chúng tôi đã nói ở trên, phước vô
lậu là phước báo không có sự khổ đau. Người tu sĩ đạo Phật chỉ cần làm gương đạo
đức như vậy, tức là thực hiện phước vô lậu, thực
hiện phước vô lậu là làm lợi ích
cho xã hội rất lớn, thì thử hỏi bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, v.v.. có làm lợi ích
bằng những tu sĩ này hay không?
Còn cúng dường,
bố thí không đúng chánh pháp như: cúng đường xây chùa to đức Phật lớn hoặc đúc
chuông thì chẳng có phước báo nào cả, mà
còn phi công đức là
khác nữa. Lần lượt
chúng tôi sẽ lật ngược lại những trang sử thời Nhà Lý
và Nhà Trần ở nước
Việt Nam của chúng ta. Thời Nhà Lý và Nhà Trần, Phật
giáo rất hưng thịnh,
vua quan là tu
sĩ Phật giáo, nên xây dựng rất nhiều chùa to Phật lớn
và đúc chuông đồng vĩ đại làm hao tốn tiền của dân chúng biết bao, thế mà Nhà
Lý và Nhà Trần được những phước
báo gì? Hay
là một sự khổ
đau tranh
quyền tranh lợi, giết hại lẫn nhau và cuối cùng, cũng chỉ làm vua mấy triều đại
mà thôi và những
dòng họ này
cũng bị diệt mất.
Vậy mà
bảo rằng cúng
dường, bố thí xây
chùa to Phật lớn,
đúc chuông, tạc
tượng là được phước
báo vô lượng,
thì đây không phải
là sự lừa đảo hay sao?
Bây giờ
chúng ta hãy
nhìn xem những trang sử Phật giáo Trung Quốc, trong thời nhà Đường Phật giáo rất hưng
thịnh, Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh
Đông Độ, chùa to Phật lớn được nhà vua xây cất rất nhiều và độ biết bao
nhiêu Tăng chúng
tu hành, nhưng
phước báo của nhà Đường đâu
không thấy, chỉ thấy Võ Tắc
Thiên diệt nhà Đường lập
nhà Châu và cuối cùng Đường Minh Hoàng thấy Phật giáo
không có lợi ích mà hại dân hại nước, làm ô uế cửa Phật,
những người trốn
sưu lậu thuế, làm những
điều mê tín, dị
đoan, lừa đảo dân
gian, bằng đủ mọi hình thức và
các thủ đoạn gian ác, nên Đường Minh Hoàng bắt chư Tăng hoàn tục, các chùa
to đều xung
vào công quỷ làm kho
đụn.
Bởi người tu
sĩ của Phật giáo lấy giới luật đức hạnh
không làm khổ mình, khổ người mà làm
gương sống cho mọi người
soi. Muốn giữ
gìn đức hạnh
được như vậy, phải xả bỏ hết vật chất thế gian, chỉ còn ba y một bát, sống
không gia đình, không
nhà cửa, chứ
có đâu như tu
sĩ bây giờ, lại xây cất chùa to, Phật lớn như cung vàng điện ngọc của
vua chúa, của chánh phủ. Biến chỗ tu hành thành chỗ du lịch tham quan của mọi
người. Đó chỉ có những tu sĩ của Bà La Môn sống và làm như vậy, họ luôn làm hại
dân hại nước, bằng cách buôn Phật bán Pháp. Nhìn những tu
sĩ này, quý vị mới đặt ra những
câu hỏi trên: ‚Một kỹ
sư, một nhà bác học, một bác sĩ, một nhà giáo, một bác nông phu, một
chị thợ may, một anh thợ hồ v.v..‛. Với những
việc làm của họ, đều
có lợi ích
cho xã hội về vật chất, nhưng
cái lợi ích
đó không bằng một vị tu
sĩ có đạo đức, sống
không làm khổ mình,
khổ người, luôn luôn làm gương đạo đức cho mọi người, thì sự lợi ích rất
lớn cho xã hội về tinh thần.
Và nhờ đó,
con người sẽ không còn chà đạp và dày xéo lên nhau nữa vì miếng
cơm manh áo. Họ luôn
luôn thể hiện lòng thương yêu, san sẻ và tha thứ cho
nhau. Nhờ đó, gia
đình có hạnh
phúc, xã hội
có trật tự, đất nước phồn
vinh thịnh trị,
thế giới hòa bình không còn chiến tranh, cuộc sống người
người no ấm, an vui, thanh thản.
Quý vị đừng
nghĩ rằng kỹ sư, bác sĩ nhà giáo, v.v..
đều đang làm lợi
ích cho xã hội. Sự thật không phải vậy, như quý vị đã nghĩ, phần nhiều họ
đang làm lợi
ích cho cá
nhân bản thân và gia đình của họ, nhưng vì nghề nghiệp của họ có tương
quan và tương liên tốt trong cuộc sống chung của xã hội, chứ thực ra, họ chẳng có
tâm làm lợi
ích cho xã hội. Nếu thực ra, một bác sĩ làm lợi ích cho xã hội
thì không bao giờ nhận tiền
và quà biếu của bệnh
nhân, chỉ nhận tiền lương hằng tháng của mình mà thôi, còn nếu bệnh
nhân không quà biếu và tiền bạc
thì sự chăm sóc bệnh nhân của bác sĩ đối với họ chẳng ra gì. Cho nên hiện giờ,
bệnh nhân rất than
phiền về các
ông, bà bác
sĩ. Người nghèo thật là bất hạnh khi đi bệnh viện. Ngày xưa,
người ta gọi
bệnh viện là
nhà thương, còn bây giờ không gọi nhà thương nữa, vì nơi đó người ta
thương tiền thương quà biếu, chứ không thương bệnh nhân nghèo.
Đối với
lương tâm nghề
nghiệp của một bác
sĩ không cho phép làm
ngơ, mặc kệ trước sự chết, sống hoặc đau đớn nhức nhối của
bệnh nhân, như vậy mới làm lợi ích cho xã hội.
Một nhà giáo
cũng vậy, không quà biếu thì học
sinh giỏi cũng
thành dở; có
quà biếu thì
học sinh dở
cũng thành giỏi. Hiện giờ, đất nước chúng ta đang xây dựng kinh tế nên mọi nghề nghiệp đều nhắm vào cá nhân, chứ
không phải nhắm vào xã hội.
Nhìn vào cuộc sống của con người đều phải có sự
tương quan, tương liên với nhau để mà sống.
Nếu bảo rằng
bác sĩ, kỹ sư,
thầy giáo, v.v.. làm lợi ích
cho xã hội thì không
đúng. Người làm nghề
này, kẻ làm
nghề kia để trao đổi
cùng nhau trong
cuộc sống, chứ chẳng ai làm lợi ích cho ai cả. Họ làm ra được những
gì là đem đến
danh lợi cho họ,
chứ chẳng đem đến danh lợi cho ai hết. Nhiều khi chúng
ta lợi dụng nghề nghiệp bắt chẹt hoặc cắt cổ thiên hạ để làm giàu trên xương
máu của người khác.
Nghề bác sĩ
và nghề thầy giáo là hai cái nghề được mọi
người trong xã hội xem là
cao quý nhất mà họ còn
làm như vậy
thì thử hỏi, các nghề
khác họ phải
làm còn hơn nữa,
nhất là nghề thương
mại, thì làm sao gọi
các nghề làm ích lợi cho xã hội
được? Cho nên, các tu sĩ Phật giáo phát triển hiện giờ họ cũng lấy cái nghề làm
‚tôn giáo‛ để
làm ích lợi cho
bản thân cá nhân của họ, cũng như các nghề khác trong xã hội vậy.
Chính vì những sự việc này, mà
chúng ta biết đạo đức
trong xã hội
đang
xuống dốc tận cùng.
Bởi vậy, đạo đức là
trên hết, nếu có đạo đức
thì xã hội mới
có ích lợi thật sự, chứ không phải kỹ sư, bác sĩ,
nhà giáo, thợ mộc, thợ hồ, v.v..
làm lợi ích
cho xã hội được.
Các tôn giáo
cũng vậy, chỉ là một cái nghề làm tôn giáo để sống như mọi nghề khác, nếu người làm
tôn giáo không
có đạo đức
thì cũng chẳng lợi ích
gì cho xã hội
mà còn thêm lừa
đảo lường gạt
người khác. Người
làm tôn giáo có
đạo đức là làm
gương tốt cho mọi người
soi, có đạo đức
thì không có lừa đảo, đó
là người làm lợi ích cho xã hội,
các nghề khác cũng vậy, nếu người hành nghề nào mà có đạo đức là làm lợi ích
cho xã hội.
Nếu nói về
nghề nghiệp trong cuộc sống của
loài người, thì mỗi
người đều có một nghề riêng,
làm ra vật chất
và để trao đổi với
nhau để sống, chứ không phải làm lợi ích cho xã hội, người hiểu
các nghề nghiệp
sản xuất ra vật
chất là
làm lợi ích cho xã
hội thì không đúng. Cho nên, hiện
giờ nghề làm
tôn giáo cũng
chỉ là một nghề
như bao nhiêu nghề
nghiệp khác mà thôi.
Người có nghề
nghiệp làm ra vật chất là người
không ăn bám
xã hội, người
không ăn
bám xã hội mà cho
rằng họ làm lợi ích cho xã hội thì cũng không đúng. Chỉ
có những người sống có đạo đức không
làm khổ mình,
khổ người là những
người làm lợi
ích cho xã hội, còn hoàn toàn ngoài ra mọi người dù có
nghề nghiệp lương thiện,
họ còn chẳng
làm lợi ích cho họ huống là làm lợi ích cho ai.
Tại sao vậy?
Tại vì họ còn làm khổ
họ và khổ người khác. Lời nói của
chúng tôi ở đây xin quý vị suy ngẫm, đừng vội tin.
Trong thiên
niên kỷ thứ nhất và thứ hai, đạo đức phong
kiến của Nho
giáo và đạo đức
của các tôn giáo khác, đã đem lại sự lợi ích cho con người, nhưng nó chỉ giải
quyết cho những người trong giai cấp thượng lưu, quan, vua (giai cấp sĩ
phu) và Bà
La Môn giáo,
còn giai cấp bình
dân thì những đạo đức này
không phổ cập, chỉ
có thứ đạo đức mê tín
của các
tà giáo ngoại đạo mà hiện giờ
chúng ta vẫn còn thấy những tập tục truyền thống lâu đời trong dân gian. Hiện
giờ, biết những loại đạo đức này sai, không lợi ích nhưng rất khó bỏ.
Đạo đức
Nho giáo là một thứ đạo đức của
giai cấp
lãnh đạo, ‚tề
gia, trị nước,
bình thiên hạ‛; đạo đức Nho giáo còn gọi là đạo đức quân tử (đạo đức anh
hùng cá nhân).
Trên hành
tinh này, đã có thật sự một
nền đạo đức nhân bản, không làm khổ mình, khổ người, nhưng đã bị dìm mất, cho
nên tất cả mọi người đều đứng trong góc độ của các tôn giáo, cũng như trong các
góc độ nghề nghiệp cuộc sống ở đời, phần
nhiều người ta chỉ có hình
thức đạo đức miệng, đạo đức danh,
đạo đức lợi (vì danh lợi mà làm đạo đức).
Ai là người làm lợi
ích thật sự cho xã
hội và ai là người làm lợi ích thật
sự cho cá nhân của mình?
Thưa quý vị,
theo chúng tôi hiểu, hiện giờ trên
trái đất này,
chỉ có một ít
người làm lợi ích cho xã hội, còn hầu
hết chưa có ai và
cũng chưa có ai làm lợi ích
cho cá nhân của
mình. Tại sao vậy? Tại
vì mọi người
còn đang làm khổ
mình, khổ người. Và
đã còn đang làm khổ mình,
khổ người thì thử hỏi những việc làm đó, có lợi
ích gì cho ai, chỉ là đua
nhau theo một trò danh lợi hão mà thôi. Chúng tôi nói,
quý vị đừng vội tin mà
hãy suy ngẫm kỹ
có thật như vậy không, rồi mới tin.
Một kỹ sư nếu
không vì cuộc sống của ông ta thì chắc gì chiếc cầu ông làm, ông ta làm không
phải vì sự đi lại của mọi người quá khó khăn
nhọc nhằn khi qua sông.
Khi lãnh làm
một chiếc
cầu, ông kỹ sư
cầu cống
vẫn đòi hỏi giá
cả sòng phẳng
và đôi khi còn
đòi hỏi giá cao hơn
nữa, thì như vậy,
có phải ông
làm lợi ích cho xã hội không?
Một người
nông dân không phải vì cuộc sống của người
khác mà ông
ta lo cấy
cày, gặt hái quanh năm suốt
tháng, vất vả chân lấm tay bùn mà chính vì cuộc sống của ông ta.
Một bác sĩ,
khi con bệnh sắp chết đến nơi vì thiếu
máu, nhưng nếu không có
tiền thì bác sĩ cũng vẫn
làm ngơ trước
cái chết như chỉ
mành treo chuông.
Một bệnh
nhân trước khi đi mổ mà không biếu
cho người làm
công đẩy xe
năm ngàn, mười ngàn đồng thì chiếc
xe không bao giờ
được đẩy đi nhẹ nhàng, êm
ái và người
đẩy xe lại còn làm xe động mạnh hơn. Cho nên, một người bệnh nhân vào nằm trong bệnh viện mà không có tiền bạc, gặp bệnh
ngặt nghèo thì chỉ có chờ chết mà thôi. Đó có phải bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo,
nhà nông, lao công, v.v.. làm
lợi ích cho xã hội hay lợi ích
cho họ? Xin quý vị suy ngẫm.
Nếu không có
quà cáp cho bác sĩ, lao công thì bệnh
nhân phải chịu
thiệt thòi nhiều
mặt,
tức là không được
chăm sóc kỹ lưỡng,
đó là họ làm lợi ích cho xã hội phải
chăng?
Một nhà giáo
khi một học sinh nghèo học giỏi siêng năng nhưng cũng đành bỏ học, nhà giáo
cũng không thể giải quyết được, đó là làm lợi ích xã hội ư?
Đừng lấy những
danh từ nghề nghiệp cao quý và cao thượng như: bác sĩ, kỹ
sư, nhà giáo mà cho rằng họ làm lợi
ích cho xã hội, thật sự mọi vật, mọi thứ trên đời này chỉ có ‚tiền‛ là duy nhất, đó là thứ đạo đức nhất của con
người hiện giờ và cũng phi đạo đức.
Đứng về mặt Phật giáo, quý
Thầy làm lợi ích xã hội cũng
phải có tiền,
nhưng tiền móc túi
kẻ khác, chứ
quý Thầy chẳng
bỏ ra một đồng xu, một giọt mồ
hôi, nước mắt nào cả. Chỉ có những kẻ mơ
ước phước báo
hão huyền của kinh sách phát triển nên bị người khác lừa
đảo bằng những danh từ rất kêu, cúng dường bố thí, làm từ thiện v.v..
Phước báo
không phải từ chỗ cầu khẩn, cúng bái, tế lễ, cúng
dườøng xây chùa tháp, đúc chuông, đúc tượng Phật v.v.. Phước báo
cũng không phải từ chỗ bố
thí, tụng kinh,
niệm Phật, trì chú, ngồi
thiền v.v.. Phước
báo chỉ đến với con người, khi
con người sống đúng giới
luật đức hạnh làm
người không làm khổ
mình, khổ người. Điều
này, đức Phật
đã xác định trong bài kinh Ước Nguyện rõ ràng cụ thể,
phước báo từ đạo đức
mà đến với mọi người; đạo
đức thì không
tham lam trộm cắp của người, không lường gạt kẻ khác bằng mọi
thủ đoạn, không làm giàu sang trên xương máu, mồ hôi, nước mắt của
người khác, không
lừa đảo làm tiền bằng sự mê tín
bói khoa, xem ngày tốt xấu, cúng sao, giải
hạn, xin xăm, cầu
siêu, cầu an, v.v.. làm tiền bạc
một cách phi đạo đức và
vô nhân đạo.
Bố thí là
đem lòng thương yêu của mình đến với những người bất hạnh, an ủi và
xoa dịu vết thương đau của
họ, đó cũng
chỉ là một
góc độ làm người mà thôi, việc
làm bố
thí như vậy thì phước báo sẽ đến với
mình, mình sẽ được
lòng thương của mọi người, gặp lúc nạn tai, mọi người sẽ an ủi và giúp đỡ lại
mình, chứ không phải bố thí đem tiền bạc cho người là sẽ có phước báo lớn giàu sang, muốn gì được nấy thì như vậy Minh Phụng không có ở tù và
mang án tử hình. Minh
Phụng đã làm việc từ thiện bố thí biết bao nhiêu là tiền của cho những kẻ
bất hạnh trong xã hội, thế
mà phước đâu
không
thấy, vẫn phải chịu
khổ tù tội
và còn mất mạng.
Xả trừ
tâm ác và
lìa cả sự
ăn thịt chúng sanh thì tuổi thọ được kéo dài, đó là đạo
đức không làm khổ
mình, khổ chúng
sanh, chứ không phải phóng sanh để
được phước báo tuổi thọ lâu dài và ít bệnh tật khổ đau.
Xả trừ tâm
sân hận hoặc sợ hãi và tánh hung dữ chửi mắng người,
thì ít tai nạn khổ đau, chứ không phải ăn chay, niệm Phật, bố
thí thuốc thang cho kẻ khác là ít tai nạn hiểm nghèo.
Con người
sống trong xã hội này,
dù có tôn giáo hay không tôn
giáo, nếu thiếu đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ người thì không có
ai làm lợi
ích cho xã hội cả,
còn bảo họ làm lợi ích xã hội đó
chỉ là những danh từ suông, ngoài đầu môi chót lưỡi mà thôi.
Làm lợi ích
cho xã hội chỉ khi nào con người có đạo đức. Đừng đứng ở góc độ nghề nghiệp này chỉ trích
góc độ nghề
nghiệp khác là sai, tu sĩ của các
tôn giáo cũng là làm một nghề sống như
các nghề khác,
nói đến nghề, thì nghề nào
mà xã hội
còn cần thì nó
còn có người hành nghề
đó, chỉ khi nào xã hội không cần nó nữa thì người ta không hành nghề
đó.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!