ĐỨC PHẬT
THÍCH CA KHỔ HẠNH
Sáu năm khổ
hạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni gần như sắp chết nhờ bát sữa dê sống lại. Ngài thấy rõ tất cả giáo pháp của
ngoại đạo chỉ là lời nói suông. Vì thế,Ngài quyết định phải tự tìm ra sự thật của
cuộc đời. Cuối cùng,Ngài đã thành tựu viên mãn.
Lời nói đầu
Đường Về Xứ
Phật, từ tập một đến tập sáu, các bạn đã
được đọc
phần “Hỏi Đạo”. Càng đọc
các bạn càng thấy rõ,
đường lối tu tập của đạo
Phật không giống như đường
lối tu tập của ngoại đạo. Nhất là đối với
các pháp môn trong kinh sách phát
triển. Vì những pháp môn
trong kinh sách này không lấy giới luật làm nền tảng cho đời sống phạm
hạnh của những tu sĩ
và
cư sĩ, nên
kinh sách này
đã làm mất
chương trình
giáo dục và đạo tạo những bậc tu chứng quả A La Hán.
Càng đọc,
các bạn càng thấy rõ âm mưu thâm độc của Bà La Môn trong kinh sách phát triển,
quyết tâm diệt sạch Phật giáo trên hành
tinh này. Kinh sách phát triển này rất khéo léo, thay thế danh từ Bà La Môn
Giáo bằng những danh từ rất kêu và rất nổi bật như: xe nhỏ,
xe lớn, xe tối thượng, khiến cho tất cả tín đồ Phật giáo dễ lầm lạc,
họ cứ ngỡ kinh sách đó là của Phật
giáo chân chánh, là những lời đức Phật dạy. Nhất là kinh sách phát triển, khi bắt đầu vào bài
kinh nào cũng đều dùng những danh từ để xác định do
Phật thuyết rất hay, khiến mọi người dễ lầm lạc.
Đó là những câu: “Như
thị ngã văn nhất thời
Phật tại Xá
Vệ Quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô
Độc, viên dữ Kỳ Đà...”. Câu này có nghĩa khi ông A Nan kết
tập kinh Phật đọc trước 500 vị A La Hán như sau: “Một thời đức
Phật ở tại nước Xá Vệ trong tịnh xá Kỳ Hoàn của ông Cấp Cô Độc và
trong khu vườn của
thái tử Kỳ
Đà”. Khi nghe đọc câu này ai mà không tin rằng Phật thuyết. Và vì vậy, những kinh sách phát triển đó, các bạn dễ lầm tưởng là
kinh sách của đức Phật thuyết.
Cho nên, tín
đồ Phật giáo hiện giờ lầm lạc, tưởng kinh sách phát triển là kinh sách Phật giáo chân chánh, nhưng không
ngờ là kinh sách Phật giáo Bà La Môn. Đó là kinh sách mê tín, trừu tượng, ảo giác của Bà La Môn đã lừa đảo được tín đồ Phật
giáo một cách dễ dàng. Hơn hai ngàn năm
trăm năm, tất
cả tín đồ Phật giáo đều tin
đó là kinh
sách của đức Phật thật sự.
Vì thế, tín
đồ đến chùa thường cúng bái, tụng niệm và tọa
thiền, có người nghi ngờ, nhưng
không biết hỏi ai, lại có một số người chịu
khó nghiên cứu nên họ nhận xét Phật giáo hiện nay chỉ là một tôn
giáo mê tín, lý luận nhiều,
nhưng rỗng tuếch, huyền hoặc. Dường như
Phật giáo dạy những đạo đức mê tín, lạc hậu v.v.. còn đạo đức thật sự (giới luật)
thì bỏ qua, tu sĩ không còn ai tôn trọng gìn
giữ và sống đúng giới hạnh.
Khi đức Phật còn tại thế, ông A Nan quỳ xin đức
Phật cho
giới nữ xuất gia. Để
thành lập giáo
đoàn Ni chúng, Ngài đã xác định
và tuyên bố trước chúng Tỳ Kheo: “Nếu cho
người nữ xuất gia tu
tập thì
đạo Ta chỉ trụ thế
có năm trăm
năm, thay vì
phải trụ thế một ngàn năm”.
Đạo Phật là một tôn
giáo rất bình đẳng, đối xử từ
loài vật đến loài người với một lòng thương
yêu bình đẳng. Dưới đôi mắt nhân
quả của Ngài, được xem vạn vật là anh
em chung nhau
trong một nhà (Mọi vật đều từ
trong nhân quả tức là từ môi trường sống
sanh ra). Vì thế, Ngài xác định: “Ta là
Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Lời dạy này của đức Phật rất
bình đẳng. Cớ sao lại tuyên bố: “Nếu cho
giới nữ xuất gia thì đạo Ta chỉ còn truyền thừa
năm trăm năm”. Không lẽ cho giới nữ xuất gia thì giới nữ làm hư hoại Phật giáo sao? Không đúng. Giới nữ cũng
là một
con người như người nam, họ cũng được quyền sống như người nam, cũng được
quyền xuất gia tu hành như người nam; họ tu
hành cũng
chứng quả A La Hán
như người nam; họ cũng đầy đủ trí tuệ không thua gì người nam; họ cũng nhập được Tứ Thánh Định; họ
cũng đầy đủ Tam Minh Lục Thông. Cớ sao
đức Phật lại chế ra “Bát Kỉnh
Pháp” bắt họ phải quỳ đảnh lễ một nam tu sĩ mới xuất gia, thân tâm của vị này
chưa có chút gì gọi là thanh tịnh, mà buộc một người tu sĩ nữ chứng quả
A La Hán thân tâm đã thanh tịnh hoàn
toàn phải đảnh lễ. Người nữ này có thể là
một bậc Thầy của vị tu sĩ nam.
Trong các trường đại học chúng ta phải chấp nhận những nữ giáo sư có
tài, dạy rất hay đâu kém gì nam giáo sư.
Trong phòng thí nghiệm khoa học
có rất nhiều nữ bác học đang nghiên cứu và phục vụ cho nhân loại đâu thua gì
nam giới.
Đạo Phật có một nền đạo đức rất
bình đẳng,
“Đạo đức không làm khổ mình, khổ người và không làm khổ cả hai”.
Thế sao đức Phật là người đã tu chứng đạt chân lý, sao lại có lời nói khinh miệt giới nữ như vậy. Lại còn chế
Bát Kỉnh Giới để hạ giá trị người nữ tận
cùng. Lời nói này là lời nói của các nhà
phong kiến, của các tôn giáo chịu
ảnh hưởng phong kiến “Trọng nam khinh nữ” chứ không phải đức Phật nói những lời này và chế Bát Kỉnh Giới.
Như vậy Bát Kỉnh pháp ai chế ra đây…?
Đạo Phật ra
đời là san bằng những giai cấp trong xã
hội. Cho nên, trong đạo Ngài có đủ mọi từng
lớp giai cấp tu tập, không phân biệt sang
hay hèn, nam hay nữ
đều được xem bình đẳng như nhau.
Thế mà Bà La Môn dám đặt điều
nói Phật dạy:
“Nếu cho người nữ xuất gia đạo Ta chỉ còn trụ thế năm trăm năm” và chế ra Bát Kỉnh
Giới rồi cho là đức Phật chế, để Phật giáo cũng trọng nam khinh nữ như các tôn
giáo khác, thật là đau lòng.
Thầy Tổ của
chúng ta lầm, cứ tin theo kinh sách phát triển mà biến Phật giáo thành một tôn
giáo có giai cấp; một tôn giáo trọng nam khinh nữ; một tôn giáo không xứng đáng
cho con người ngưỡng mộ.
Năm trăm năm
đầu ấy, khi đức Phật nhập diệt xong, các
vị đại đệ tử của Người cũng lần lượt nhập
diệt hết, chỉ còn lại một số rất ít tỳ kheo ẩn bóng tu hành chơn chánh. Họ tránh
danh, tránh lợi, tránh chia phe, chia
nhóm, tránh chống trái, kích bác
nhau; tránh những tỳ kheo phạm giới, phá
giới, bẻ vụn giới v.v.. Lúc nào cũng giữ gìn
giới luật nghiêm chỉnh và còn tu tập theo đúng giáo pháp của Phật dạy, sống
đúng phạm hạnh, không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt. Còn bao nhiêu vị tỳ
kheo khác chạy theo danh, lợi,
chia manh, chia múm thành lập
20 bộ phái. Nếu họ không vì danh lợi,
chia ra bộ phái để làm gì? Phải không
các bạn?
Hai mươi bộ
phái chia ra để dễ bề tự do phá giới luật của Phật tận cùng. Giới luật các vị tỳ kheo không còn giữ gìn nghiêm túc như lúc đức Phật còn tại thế. Hiện giờ, chúng tỳ kheo
không còn giữ gìn giới luật nghiêm
túc nữa, nên được xem đạo Phật đã mất từ
khi chia ra bộ phái.
Khi đức
Phật còn tại thế, Ngài đã
xác định:
“Giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật
mất là đạo Phật mất”. Lời di chúc này
giúp cho chúng ta nhìn thấy tu sĩ hiện giờ phạm giới, phá giới
là chúng ta biết ngay là Phật giáo đã mất, chỉ còn lại là đạo Bà
La Môn, chuyên môn mang mõ chuông đi
cúng tế cầu siêu, cầu an v.v..
Đặc biệt,
thiền định của đạo Phật bắt buộc tu tập phải sống đúng giới luật và sống rất
nghiêm túc, thì mới mong thực hiện nhập được các loại chánh định. Các
loại thiền định đó là
Tứ thánh định. Có nhập được Tứ thánh định thì mới triển khai được trí tuệ của Phật. Trí tuệ
của Phật là trí tuệ tam minh.
Khi phá giới,
phạm giới mà tu thiền định, thì thiền đó là
tà thiền, thiền
tưởng.
Khi nhập thiền
tưởng thì triển khai tưởng
tuệ, chứ
không bao giờ triển khai trí tuệ Phật được. Cho nên, những người nói thiền định
mà phạm giới, phá giới là những người
nói láo gạt người về thiền định.
Những loại thiền
định và tưởng tuệ này chẳng có ích lợi
cho hành giả, mà còn có hại trên đường tu tập, có nghĩa là tu hành chẳng đi đến đâu cả, uổng công mất thì giờ vô ích.
Đối với
chúng tôi rất sẵn sàng trả lời cho các bạn, khi các bạn có nghi ngờ những điều
gì không đúng của Phật giáo. Muốn biết
đúng hay sai những giáo pháp của đạo Phật, thì các bạn cứ mạnh dạn hỏi
thẳng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng trả lời thẳng thắn những gì không đúng của đạo Phật
cho
các bạn rõ.
Những giáo pháp sai này là do
ngoại đạo lồng
vào kinh sách, rồi mạo danh là của Phật giáo.
Các bạn có
thưa hỏi thì chúng tôi mới trả lời, bằng không thưa hỏi, thì chúng tôi tùy nhân duyên của Phật pháp, chứ không đá động đến pháp môn của ai cả, ai tu sao cũng được, tu
được thì nhờ, tu không được thì chịu, chớ có ăn thua gì đến chúng tôi đâu. Cho nên đối với chúng
tôi, chúng tôi không có ý kiến gì về các pháp môn Đại Thừa,
Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông và những kiến giải của các nhà học giả.
Chúng tôi chỉ
tùy duyên của các bạn thưa hỏi. Hỏi, tức là
các bạn muốn tìm hiểu. Tìm hiểu để biết
rõ đâu là pháp môn của Phật, đâu
là pháp của ngoại đạo. Do tâm thành của các bạn, chúng tôi sẵn sàng
vạch rõ để các bạn suy ngẫm những
điều
chúng tôi
nói, chứ đừng vội tin ở chúng tôi.
Là một tu sĩ
Phật giáo sống thật, tu thật, không cầu danh lợi, không cầu cơm ăn áo mặc,
không cầu chùa to, tháp lớn, chỉ tìm cầu sự
giải thoát sanh, già, bệnh, chết nơi thân tâm của mình.
Vì thế, chúng tôi nói thật, nói thẳng, nói mạnh.
Khi về họp ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban
Tỉnh Hội đề nghị chúng tôi biên
soạn giáo án Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông.
Trong buổi họp hôm đó, chúng tôi đề nghị ý kiến và vạch rõ bốn Tông phái này
không phải của Phật giáo mà của Bà La Môn Giáo:
1- Tịnh Độ Tông là pháp môn mê tín,
lừa đảo giới
tín đồ bình dân, biến tu sĩ thành những ông “thầy tụng”, thầy cúng tế làm những
điều mê tín, phi đạo đức. Các vị thầy
này phá giới luật Phật tận cùng, có một lối sống giống như người thế tục, có vợ
con, làm tất cả các nghề nghiệp để sanh sống.
2- Mật Tông
là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ,
ham mê thần thông, biến ông thầy thành
thầy phù thủy, thầy bùa, thầy pháp, thầy
bói, đồng cốt v.v..
3- Pháp Hoa
Tông là pháp môn phi đạo đức, ngồi không
mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi, biến ông thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế
lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v.. Biến
đạo Phật thành thần giáo. Biến tín đồ mất sức
tự chủ, luôn luôn sống trong tha lực, tựa
nương vào thần
quyền, do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
4- Thiền
Tông là pháp môn ngã chấp, lý luận có logic, dễ lừa
đảo giới trí thức, biến Phật giáo vô ngã thành Phật
giáo hữu ngã trừu tượng, mơ hồ, biến thiền sư thành giảng sư, luận
sư ngôn ngữ vọng ngữ v.v..
Sau buổi họp đó các thầy trong Ban Tri Sự Tỉnh Hội báo cáo
về Giáo Hội Trung Ương và thầy chúng tôi, tức là Hòa Thượng Thanh Từ. Chúng
tôi biết
rất rõ điều đó, nhưng chúng
tôi không ngại, là vì chúng tôi xác định: “Những gì chúng tôi nói là sự thật,
vì sự thật thì còn mọi người để
suy ngẫm,
chứ sự thật mà dối gạt được ai
sao?”.
Từ khi ra thất
đến nay là 18 năm chúng tôi chẳng hề nói động ai hết, chỉ
có so sánh thiền của kinh sách phát triển
và Tứ thánh định của đạo Phật, cùng vạch
trần những sự phá giới, phạm giới của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử để cho thầy chúng tôi biết. Thầy chúng tôi là Hòa Thượng Thanh Từ.
Bản chất
chúng tôi hay nói thẳng, nói thật, nói
đúng, nói không sợ mất lòng ai hết,
chúng tôi không nói xấu, không
bài bác ai, không chỉ trích pháp môn của người nào cả. Nhưng pháp môn nào mượn
danh Phật giáo, làm điều mờ ám, lường gạt tín đồ, thì chúng tôi sẵn sàng vạch mặt pháp môn đó,
khi có
người hỏi đến
chúng tôi, còn nếu
không ai hỏi
thì thôi.
Bốn tông
phái này đã truyền thừa ở đất nước
Việt Nam, một thời gian rất dài trên hai ngàn năm, nó đã trở thành một truyền thống mê tín lâu đời. Với thời gian dài đó, cũng đủ để xác chứng các giáo pháp này đã đem lại cho tín đồ Phật giáo lợi ích được những gì? Hay chỉ là đem
lại sự mê tín, ngu si, lạc hậu cho một dân tộc. Chắc các bạn đã rõ hơn ai hết.
Và chúng tôi xin lặp lại:
1- Tịnh Độ Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ làm thầy
cúng, thợ tụng.
2- Mật
Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ làm thầy bùa, thầy ngải, thầy phù thủy, thầy pháp, thầy bói, đồng, bóng v.v..
3- Pháp Hoa Tông, làm mất sức tự
chủ của tín
đồ, ngày đêm chuyên tụng niệm cầu an, cầu
siêu, đó là những việc làm những điều
phi đạo đức nhân quả.
4- Thiền
Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ trở thành
những nhà thuyết giảng tưởng (giảng sư), những nhà lý luận tưởng (luận sư), biến thiền sư thành người nói dối, chuyên môn tranh luận,
cao thấp, hơn thua.
Nếu các bạn
đừng hỏi chúng tôi điều gì, thì chẳng bao
giờ chúng tôi nói ra cả, mặc dù
chúng tôi rất muốn chấn hưng Phật giáo, làm cho
tốt lại Phật giáo. Có nghĩa
là giúp cho tu sĩ sống đúng đời sống phạm hạnh, giới luật
nghiêm túc, để cho tín đồ và những người
không tôn giáo không còn nghi ngờ Phật
giáo nữa. Nhưng chúng tôi có nhận xét như sau:
1- Thấy nhân duyên chưa đủ.
2- Chúng
sanh chưa đủ phước thọ hưởng giáo pháp chân chánh của đức Phật nên còn nhiều kiến
chấp tà pháp ngoại đạo, chưa đủ trí
thông minh buông xuống, cuộc sống còn đầy
dẫy nhân quả thiện ác.
3- Chúng tôi
chưa đủ duyên với chúng sanh, cần phải
tạo duyên, nên phải mất rất nhiều thì giờ. Hiện giờ chúng tôi dạy một điều mà tu sĩ tu tập một ngả, (tu tập
không đúng theo lời dạy của Phật, của
chúng tôi, phần đông đều phạm giới và
phá giới, sống không đúng đời sống phạm hạnh độc cư.
4- Chúng
sanh hiện giờ, mang đầy ắp những kiến chấp của kinh
sách phát triển, nên rất khó dạy,
nhất là tu tập pháp môn ức
chế tâm của kinh sách phát triển đã thành
thói quen,
nên rất khó bỏ.
Vấn đạo
là nhân duyên, để làm
sáng tỏ lại Phật giáo, và cũng
là tạo duyên với chúng sanh. Trong những
giờ phút chúng tôi chưa tịch thì các bạn
còn hỏi tới, hỏi lui để tìm hiểu, một
mai chúng tôi đã mất đi rồi, thì các bạn
có muốn tìm hiểu Phật giáo, thì chẳng còn ai trả lời cho các bạn, dù họ có biết họ cũng chẳng dám nói thật, chỉ vì họ quá khiếp
đảm, trước một thế lực đông đảo của giáo pháp pháp triển Bà La Môn.
Ngày xưa, chỉ
có một mình đức Phật, Ngài dám đương đầu
với lục sư ngoại đạo, ngày nay chỉ có kinh sách phát triển theo Bà La Môn mà
chúng ta quá sợ hãi, rõ ràng chúng ta không bằng đức
Phật, chúng ta nhát gan hơn đức
Phật nhiều. Tuy trả lời
vấn đạo nhưng có chỗ chúng tôi chưa vạch rõ
ra hết,
mong các bạn cảm thông. Chỉ vì chúng
tôi trả lời theo
sự thưa hỏi của các bạn quá nhiều, không thể nói hết một
lúc được, nên cũng tùy câu hỏi của
các bạn, chúng tôi sẽ vạch rõ hơn, để các bạn suy tư.
Đến tập thứ
10 thì
chúng tôi xin tạm ngưng phần vấn
đạo, để soạn thảo giáo trình đạo đức
nhân quả, tức là đạo đức làm người của Phật giáo, để giúp cho tín đồ (cư sĩ và tu sĩ) tu
tập rèn luyện sống đúng đạo đức làm
người, không làm khổ mình, khổ
người. Thể hiện một cuộc sống hạnh phúc, an
lạc cho mình, cho người trên hành tinh này. Đến đây, chúng tôi xin các bạn cứ mạnh mẽ hỏi thẳng những điều mà
các bạn đang thao thức về Phật giáo, chúng tôi sẵn sàng giúp các bạn, nếu sự trả lời
của chúng tôi có điều gì
không vui lòng, xin các bạn cảm thông cho.
Bởi vì “lời thẳng mất lòng”.
Kính ghi
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc Tu Viện Chơn Như (Ngày 11- 2- 1999).
ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ
Câu hỏi của
Viên Hội
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Hiện nay con vẫn tiếp tục
theo dõi
hơi thở, an
trú hơi thở
vào phần dưới bụng, gom tâm và hơi thở ở một chỗ, thì hơi thở chậm lại và
các tâm hành dừng
hẳn, nếu tác ý muốn dừng hơi thở hoặc điều khiển hơi thở theo ý mình nhanh
hay chậm tùy
ý.
Nhưng con muốn
cho hơi thở lắng
sâu và dừng hẳn,
tác ý như vậy thì
hơi thở dừng, nhưng được một lúc hơi thở bị nén nên
thở ra dồn dập, vậy
con phải làm sao để
hơi thở và tâm
hành dừng hẳn.
Mong Thầy chỉ dạy cho con để con nương đó mà tiến tu?
Đáp: Sự
trình bày tu tập về hơi thở của con thì Thầy thấy con tu theo pháp môn
tùy tức của Lục Diệu Pháp Môn, cha đẻ pháp môn này là Trí Khải Đại
Sư. Con trụ tâm dưới bụng đó là cách trụ tâm của thiền Minh Sát Tuệ,
cha đẻ ra pháp này là thiền sư Miến Điện Mahasi.
Công phu tu
tập của con nương vào hơi thở tập tỉnh thức
theo cách tùy tức (tâm
yên lặng)
để tác
ý điều khiển hơi
thở chậm nhẹ và
dừng để đi vào trạng thái tĩnh lặng sâu hơn.
Ở đây, con là người tu không có thiện hữu tri
thức hướng dẫn, tự tu tập nên tập hợp lại
hai pháp của hai nhà học giả tưởng giải. Một là nhà học giả Trung
Quốc (Trí Khải); hai là nhà học
giả Miến Điện
(Mahasi). Nếu con tiếp
tục tu tập con sẽ là nạn nhân của những pháp môn
này.
1/ Ức chế
tâm để tâm
hành dừng hẳn vọng tưởng.
2/ Ức chế
hơi thở để thân
hành dừng hẳn các cảm thọ.
3/ Để lắng
sâu vào trạng thái tĩnh lặng để nhập định tưởng tức là Không vô biên xứ tưởng.
Muốn cho hơi
thở và tâm
hành dừng hẳn thì con hãy tu tập “Tứ Thánh
Định” còn con tu theo Lục Diệu Pháp
Môn và thiền
Minh Sát Tuệ thì không bao giờ tịnh
chỉ hơi thở được, tức là tịnh chỉ thân
hành. Tịnh chỉ thân hành chỉ có Tứ thiền,
ngoài Tứ thiền không có thiền nào tịnh chỉ đúng chánh định. Còn tịnh chỉ ý hành
thì chỉ có Nhị thiền diệt tầm tứ mới đúng là chánh định,
ngoài Nhị thiền
mà tịnh chỉ ý
hành là tà thiền tưởng định, thiền của kinh
sách phát triển
tập hợp giáo pháp
tà kiến, tưởng kiến của ngoại đạo
và những tư tưởng mê tín dị đoan dân gian.
Người tu thiền thời
nay, cái sai thứ nhất là ức chế tâm để hết vọng tưởng. Nếu hết
vọng tưởng có lợi ích gì cho quý vị đâu? Hết vọng tưởng có làm chủ sanh, già, bệnh,
chết hay không? Hết vọng
tưởng ngồi như
con cóc để làm gì? Khi xả ra thì
tâm tham, sân, si còn đủ, danh lợi không
từ, ăn uống phi thời không bỏ, thấy nữ sắc còn đắm chìm
say mê, thì tu như vậy có ích lợi gì? Có giải thoát cái gì?
Những loại
thiền ức chế
tâm, xưa Đức Phật
đã tu tập
và tìm trong các
thiền ức chế tâm
đó không có giải thoát,
chỉ là một sự tu tập
làm khổ thân tâm
của mình (thành bệnh), Ngài phải từ bỏ. Và
đã bao lần tập nín thở để đạt được giải thoát nhưng cuối cùng Ngài
chẳng tìm được chỗ nín
hơi thở có sự giải
thoát. Bây giờ, quý Thầy lại bắt
chước tu như vậy nữa hay
sao?
Mục đích của
con đi tu là tìm sự giải thoát làm chủ bốn sự
đau khổ: Sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi hay đi tìm chỗ hơi
thở để trụ tâm và dừng tâm hành?
Nếu
đi tìm hơi thở dừng
và tâm hành dừng thì Thầy không có kinh nghiệm.
Nhưng muốn tu tập làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết
thì nên trở về
tu tập và sống
đúng pháp môn của đức Phật đã dạy:
1- Giới luật phải nghiêm túc.
2- Tu tập Tứ Chánh Cần.
3- Tu tập chánh
niệm tỉnh giác
(thân hành niệm ngoại).
4- Định Vô Lậu trên Tứ Niệm Xứ.
5- Định Niệm
Hơi Thở (thân
hành niệm nội).
Phải dẹp bỏ
pháp môn Tùy Tức của Trí Khải Đại Sư và pháp môn Minh sát tuệ của Mahasi.
Bắt đầu
tu tập các loại định xả tâm
‚ly dục ly ác pháp‛,
không được tu tập các
pháp môn ức chế tâm và ức chế cơ.
Khi nào xả
tâm sạch, ly dục,
ly ác pháp, tâm không còn tham,
sân, si phiền não nữa thì lúc bấy giờ tâm thanh thản, an lạc thường quay
vào thân, không
có phóng dật ra
ngoài. Khi tâm không phóng dật ra ngoài
bây giờ tâm mới có Tứ Thần
Túc. Dùng Tứ Thần Túc
và nương hơi thở khéo tác ý,
nhưng phải nhớ không được
ức chế tâm để hết vọng tưởng
mà chỉ nhẹ nhàng khéo tác ý ‚tịnh chỉ tầm tứ nhập Nhị thiền‛. Chỗ này ức chế hết vọng
tưởng là sai, chỉ hướng tâm nhẹ nhàng để tự nhiên Định Thần Túc tầm tứ diệt.
Khi Định Thần Túc tầm tứ diệt xong là tâm nhập Nhị Thiền. Một lần nữa chỗ
này quý vị cần lưu ý: khi tâm
có Tứ Thần Túc
thì nên để tự
nhiên Định Thần Túc điều khiển nhập định, chứ quý vị không được
dụng công trong lúc Định Thần Túc điều khiển. Khi đã nhập Nhị Thiền thì không còn thấy hơi thở có
nghĩa là hơi thở còn thở, chứ ở đây chưa phải tịnh chỉ hơi thở, nhưng tự nó thở
chậm và nhẹ nhàng, ta
không nên dụng
cơ điều khiển nó. Nếu dụng cơ điều
khiển cho chậm nhẹ là
sai, đó là dùng cơ ức chế tâm thì tâm nhập vào một trạng
thái không tưởng,
từ “không tưởng” nơi
đây Thiền tông
cho ‚Vô tâm
còn cách một lớp
rào‛; nơi đây tưởng thức
hoạt động sinh ra 18 loại hỷ tưởng,
giống như người trong giấc mộng. Sau khi thọ
18 loại hỷ tưởng thì vượt
ra không tưởng nhập
vào thức vô
biên xứ tưởng mà các Tổ thiền
tông cho thức vô biên xứ là cái biết
phủ trùm vạn
hữu (Phật tánh). Thiền Tông tu tập đến đây là hết biết
đường tu tập nữa (Phản bổn hoàn nguyên).
Muốn nhập
Tam Thiền ta phải nương vào
hơi thở
khéo tác ý nhẹ nhàng
tịnh chỉ các trạng thái tưởng do Định Như Ý Túc điều
khiển để tâm ly các
trạng thái hỷ tưởng, có
nghĩa là không còn một trạng thái hỷ tưởng nào cả. Nói tóm lại
là phải ly sạch
18 loại tưởng cho thật sạch. Lúc bấy giờ mới nhập
Tam Thiền dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Muốn nhập Tứ
Thiền phải xuất khỏi trạng thái Tam Thiền
nương vào hơi thở, khéo tác
ý tịnh chỉ thọ, âm thanh và các hành trong thân, rồi sau đó
mới hướng tâm tịnh chỉ hơi
thở, tức là thân hành nội dừng hẳn, nhập Tứ Thiền.
Khi nhập Tứ Thiền xong
là lúc bấy giờ
tâm định trên thân, thân định trên tâm liền hướng tâm, tức là dẫn tâm đến Tam
Minh. Khi Tam Minh đã viên mãn thì ta đã
làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi, không
còn tái sanh
nữa.
Tu thiền
định ức chế
tâm chỉ một thời
gian tâm sẽ bộc
phát tham, sân, si, mạn, nghi rất
mạnh. Ức chế tâm dễ sanh chiêm bao.
Ức chế
thân dễ sanh rối
loạn cơ thể, rối loạn thần kinh, có thể sanh nhiều bệnh tật
khó trị.
Ức chế tâm, lắng sâu vào các trạng thái tĩnh lặng,
dễ rơi vào các trạng thái định tưởng (tà định).
Đó là những
loại định rất nguy hiểm cho người
tu không có thiện hữu
tri thức hướng
dẫn.
Về Định Niệm
Hơi Thở, thì phải
tu đúng như trong kinh Nguyên Thủy
mà đức Phật đã dạy: ‚Định Niệm Hơi Thở không phải ‚Sổ Tức Quán‛
không phải ‚Lục
Diệu Pháp Môn‛. Không nên tu
theo các pháp hơi thở do các Tổ biên soạn và ba hơi thở của thiền Yoga.
Pháp Định
Niệm Hơi Thở của Phật
là pháp xả tâm:
‚Quán ly tham tôi biết
tôi hít vô. Quán
ly tham tôi biết tôi thở ra‛, đó
là pháp môn hơi thở xả tâm, đừng lầm lạc, phải cảnh giác
các pháp môn
hơi thở của
tà giáo ngoại đạo
mà các Tổ
đã bị ảnh hưởng quá nặng, do các Tổ bị ảnh hưởng giáo pháp của
ngoại đạo, nên dần dần giáo pháp hơi thở của đức Phật bị che
khuất bởi chiếc
áo chắp vá kiến giải của ngoại đạo kinh sách phát triển,
đến độ người ta không còn biết đến giáo pháp của đức Phật là gì nữa.
Nên lưu
ý: ‚Tịnh chỉ
hơi thở‛ là một điều quan trọng, vì hơi thở là mạng sống
của chúng ta. Nếu hơi thở dừng thì mạng sống này không còn.
Cho nên, con đường tu
theo đạo Phật làm chủ được sự sống
chết, tức là làm chủ được hơi thở. Dừng hoặc phục hồi được
hơi thở là một sự điều
khiển phải có một đạo lực do tâm
ly dục, ly ác pháp;
phải có một cuộc sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm những lỗi
nhỏ nhặt nào, cũng không nên ăn uống, ngủ nghỉ phi thời; cũng không nên phá hạnh
độc cư vì phá hạnh độc cư tâm
sẽ phóng dật
mà tâm phóng dật
thì không bao giờ xả
tâm sạch. Xả tâm
không sạch thì ngũ
dục lạc phát
triển mạnh thì giới ăn, ngủ và độc cư sẽ vi phạm, và vi phạm thì con đường
tu không bao giờ
tới
đích.
Vì thế,
xưa đức Phật nhắm
vào ngũ dục lạc
dạy: ‚Thừa tự
pháp, chứ không
nên thừa tự thực
phẩm‛, tức là đức Phật
muốn dạy chúng ta không nên tham ăn, tham uống. Cho nên,
ăn uống phải
đúng pháp thì sự
tu hành mới làm chủ được hơi thở.
Muốn tịnh chỉ
hơi thở mà còn ăn uống phi thời,
tâm còn dục
và ác pháp
thì tịnh chỉ hơi thở sẽ đi vào cõi chết, nếu luyện tập tưởng
(thở
bằng lỗ chân
lông, thở bằng rốn thì
không chết) nhưng đó là những pháp không làm chủ được sự sống chết.
Vì tâm còn dục
nên thích ăn, uống, ngủ, nghỉ, danh lợi, tiền tài, vật chất, sắc đẹp và ác
pháp (tham, sân, si, mạn, nghi) thì hành động nội của cơ
thể còn
hoạt động rất mạnh nên lượng
oxy đòi hỏi phải được đầy đủ.
Con đã dùng pháp hướng tâm và điều
khiển hơi thở để tịnh chỉ nó,
nhưng hơi thở chỉ tịnh
chỉ được một lúc
mà không kéo
dài ra và không
dừng hẳn được, đó
là chứng tỏ
thân tâm con chưa thanh tịnh
(chưa ly dục, ly ác pháp sạch), cơ thể còn hoạt động như cơ thể người phàm
phu. Vì vậy, khi hơi
thở bị nén,
cơ thể muốn bảo toàn sự sống, nên phản ứng một cách rất tự
nhiên, hơi thở ra vô dồn dập để đủ khí
oxy trở
lại.
Ở Quy Nhơn,
có một bác
sĩ tu hơi thở và tịnh
chỉ hơi thở bằng cách cố nín thở để kéo
dài thời gian ra và ông đã chết một
cách đáng thương. Giải thoát
đâu không thấy
mà chết một cách oan uổng. May mắn
con viết thư thưa hỏi, nếu không hỏi kịp thời:
1- Cơ thể
sanh bệnh, đứt mạch máu mao phế quản, khạc ra máu như Minh Tông.
2- Chết
một cách thê thảm như ông bác sĩ ở Quy Nhơn.
Trong kinh
sách Nguyên Thủy gọi Bốn Thiền là ‚Tứ Thánh
Định‛, tức là thiền định của bậc Thánh. Chỉ
có bốn thiền này mới tịnh chỉ được
hơi thở nhưng
phải sống và
tu tập đúng theo
đường lối Giới,
Định, Tuệ, có
nghĩa
là:
1- Sống
như Thánh giới (Thánh
giới uẩn tức là giới luật phạm hạnh
đầy đủ).
2- Tu tập rèn luyện pháp hướng tâm ‚Tứ
Chánh Cần‛,
tức là ngăn ác và diệt ác pháp.
Các con chỉ
biết ngồi thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng
mà không thấy
‚Tứ Chánh Cần‛ là ‚Định Tư Cụ”
của đạo Phật để nhập các loại thiền và các loại định.
Muốn nhập định,
tịnh chỉ tâm hành và thân hành mà không tu tập ‚Tứ Chánh
Cần‛ thì không làm sao tịnh chỉ được hơi thở.
Muốn nhập định
làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà không tu ‚Tứ
Chánh Cần‛ thì không làm sao làm chủ được?
Ngoài pháp
môn ‚Tứ Chánh
Cần‛ mà tìm thiền định, thì thiền
định đó là tà thiền, tà định của ngoại đạo, của kinh sách
phát triển
thì không
thể làm chủ được sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân
hồi.
Thân tâm
chưa thanh tịnh mà muốn nhập định thì định đó
là định giết người
chưa chôn. Thiền định thời nay tu mãi biến thành pháp dưỡng sinh, ngừa bệnh
chẳng có ích lợi gì mà còn phí sức vô ích.
Muốn tu hành
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì con hãy
nghiên cứu lại kinh sách Nguyên Thủy, cách sống như thế nào?
cách tu tập như thế nào?
Pháp nào tu
trước, pháp nào tu sau. Khi thông suốt, chừng đó mới bắt đầu thực hành tu tập.
Nhưng con nên lưu ý ‚Giới
Luật‛ là pháp môn đầu tiên của
‚Tam Vô Lậu Học‛, phải áp dụng sống
cho đúng giới luật
thì con đường tu của con mới được
an ổn và đúng chánh pháp.
TƯỞNG ĐỊNH
Câu hỏi của Viên Hội
Hỏi:
Kính thưa Thầy! Có một lần
con
chứng nghiệm
một trạng thái
toàn thân như mất
hẳn, mình như
hòa trong tất cả,
lúc đó một tiếng
thằn lằn bên
vách tường kêu,
con cảm thấy như tiếng thằn lằn này từ trong tim con kêu, chứ không phải bên ngoài nữa,
tiếng thằn lằn và mình là một, như hòa
nhập không hai. Trạng thái này rất an lạc mà con chưa bao giờ gặp,
lúc đó con tác
ý để duy
trì trạng thái đó, thì hơi thở và
tâm hành trở lại trạng
thái cũ. Đây là trạng thái
gì? và làm sao an
trú trong trạng thái
này, xin Thầy
chỉ dạy giải thích
chỉ cho con
rõ về phương
pháp chỉ và quán của hơi thở?
Đáp: Đây
là trạng thái
‚Thức Vô Biên Xứ
Định‛ một trạng
thái định tưởng của bốn
loại định Vô Sắc.
Vị Tổ sư
viết và
soạn thảo kinh Duy Ma Cật gọi
đó là pháp
môn ‚Bất Nhị‛.
Khi đã nhập vào trạng thái định bất nhị này
thì mới có cảm nhận như vậy. Thiền Đông Độ do các vị
Tổ sư
thiền tu
tập đều nhập
vào được trạng thái định này nên có một cảm giác mình là vạn hữu, vạn hữu là mình, từ đó các Tổ dùng những danh từ rất kêu, gọi
nó là ‚phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu; pháp môn bất nhị; dễ dễ trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư; bản thể
vạn hữu v.v..‛, đó
là những danh từ chỉ cho trạng thái ‚Thức
Vô Biên Xứ tưởng‛ mà các
Tổ đã lầm
tưởng đó là Phật tánh.
Vì là định tưởng nên có một trạng
thái an lạc xuất hiện, đó là dục tưởng hỷ lạc.
Bây giờ
vô tình con ức chế
tâm hết vọng tưởng
vượt qua Không Vô
Biên Xứ. Con đã rơi vào
Thức Vô Biên Xứ. Vì
vô tình rơi vào
nên con chẳng biết cách nhập vào.
Con muốn nhập vào trạng thái đó con hãy nghiên cứu bài kinh Tiểu Không
trong kinh Trung Bộ tập 3 trang
291 thì con
sẽ biết cách vào.
Bốn loại định
vô sắc tưởng rất dễ tu, phần đông người tu thiền thời
nay, đều rơi
vào bốn loại định tưởng này mà
hai loại định dễ rơi vào nhất đó là
‚Không Vô Biên Xứ Tưởng‛
và
‚Thức Vô
Biên Xứ Tưởng‛.
Nhập vào
các định này,
các Tổ bị che
khuất lối đi, tưởng mình đại ngộ hay triệt
ngộ, từ đó xây dựng các thế giới
Niết Bàn có bốn
đức:
‚thường, lạc, ngã, tịnh‛
nhưng thật ra, đó là tưởng tri, chứ không phải liễu tri.
Con muốn rõ
phương pháp chỉ quán về hơi thở nên đọc lại sách chỉ quán của ngài Trí Khải Đại
Sư mà Thượng Tọa
Trí Quang đã dịch ra Việt ngữ vào năm 1965 - 1967 (lâu quá
Thầy không nhớ kỹ).
Xưa, Đức Thế Tôn nhập đến
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ mà còn
bỏ vì không ích lợi thiết thực cho đời sống con người, không giải thoát khổ
đau của kiếp làm
người, bây giờ
con đi tìm lại nó để làm
gì? Không lẽ con
bỏ dục lạc thế gian mà lại đi tìm thứ dục
lạc hư ảo hão huyền (rất an lạc) của loại định này sao?
Tu tập theo
Phật giáo mục đích là làm chủ thân tâm trước những đau khổ sanh, già, bệnh, chết
của kiếp người, chứ đâu phải đi tìm cái tưởng lạc đó có lợi gì cho kiếp sống hiện
tại của con đâu. Bỏ ô
này, mắc ô
khác, có nghĩa là
bỏ dục này tìm dục khác mà lại là dục tưởng thì có ích gì cho cuộc đời
vô thường, đau khổ của con.
Con không
nhớ trong Tứ
Thánh Định Phật dạy: nhập
Sơ Thiền ‚ly dục lạc,
ly dục khổ, ly dục bất lạc bất khổ‛.
Kế tiếp vào Định Tam
Thiền, đức Phật dạy:
ly hỷ tưởng cho sạch,
rồi sau đó mới xả
lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, xả sạch không còn gì để
xả thì mới nhập Tứ Thiền.
Bây giờ con lại đi tìm sự an lạc của định Thức Vô Biên Xứ để sống
với
nó thì phỏng chừng
có ích gì cho đời sống của con. Hãy dẹp bỏ mà đi về
con đường của Phật.
Nếu con có tâm
tha thiết tìm cầu sự giải thoát quyết tâm nhiệt tình ly
dục ly ác pháp bỏ sạch xuống, tâm chẳng còn tham, sân, si
(ác pháp) thì
con đường thiền
định không còn khó
khăn. Muốn tịnh chỉ tâm hành
và thân hành thì dễ dàng như trở bàn tay, chỉ cần ra lệnh thì tịnh chỉ được
ngay liền.
Nếu tâm
ham muốn và
ác pháp còn
thì con đường thiền
định tịnh chỉ
tâm hành và thân hành là một điều vạn nan.
Chìa khóa mở cửa thiền
định là giới
luật, nếu ai biết dùng giới luật thì mở cửa thiền định dễ dàng, làm chủ
sanh tử không còn khó khăn.
Cửa thiền
định không thể mở cho kẻ
phá giới đi vào.
Vì thế, tu
sĩ Phật giáo
thời nay phạm giới, phá giới nên
cánh cửa giải thoát của đạo Phật còn
đóng chặt, chờ
cho kẻ nào vượt qua cửa giới luật mới hé mở cho bước
vào. Tu danh, tu lợi,
tu chùa to, tháp lớn,
tu cấp bằng,
tu miệng, tu lưỡi, v.v..
thì cửa thiền định giải thoát của đạo
Phật muôn đời vẫn đóng kín
âm thầm và lặng lẽ, để chờ đón những người con Phật chân
chánh, sống đúng
phạm hạnh và giới luật nghiêm túc.
THIỀN XÂ TÂM
Câu hỏi của
Liễu Đức
Hỏi: Kính thưa
Thầy! Các pháp
hành con tu như trong thư
con đã gửi cho Thầy
có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Các
pháp này con tu đều đúng cả, nhưng
có một điều con nên quan tâm và
lưu ý, nếu tập sai một chút xíu,
tức là sai ly hào cũng trở thành thiền ức chế
tâm thì rơi vào
thiền của ngoại đạo không làm chủ sự sống chết và luân hồi, ngay cả tâm
tham, sân, si cũng không
hết.
Mục đích tu
thiền của Phật là xả tâm, không có ức chế tâm. Con nên lưu ý những câu kết hợp
‚Quán ly tham tôi biết tôi đang thở
ra. Quán ly sân tôi biết tôi đang thở ra. Quán
ly tham tôi
biết tôi đang
thở vô, quán ly
sân tôi biết
tôi đang thở
vô‛,
‚Quán ly
tham tôi biết tôi đi kinh hành. Quán ly
sân tôi
biết tôi đi kinh hành‛. Đó là cách thức tu thiền xả tâm.
Trong giờ phút nào tâm được yên lặng thì nhớ hướng
tâm nhắc. Muốn
biết chắc thiền định xả
tâm này của Phật thì con nên
đọc lại kinh Nguyên Thủy
Trung Bộ Kinh, tập 3 trang
249 Phật dạy
về Nhập Tức Xuất Tức, đầu tiên nhớ nhắc tâm:
1/ Vị ấy tập: ‚Chánh
niệm, vị ấy thở
vô; chánh niệm,
vị ấy thở ra‛.
2/ Vị ấy tập: ‚Thở
vô dài, vị ấy biết
‚tôi thở
vô dài‛. Hay thở
ra dài, vị ấy biết
‚tôi thở ra
dài‛. Hay thở vô ngắn, vị ấy
biết ‚tôi thở
vô ngắn‛. Hay thở
ra ngắn, vị ấy biết ‚tôi thở ra
ngắn‛.
3/ Vị ấy tập: ‚Cảm
giác toàn thân
tôi sẽ thở vô‛ vị ấy tập: ‚Cảm
giác toàn thân tôi sẽ thở ra‛.
4/ Vị ấy tập: ‚An tịnh
thân hành tôi sẽ
thở vô‛. Vị ấy tập:
‚An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra‛.
5/ Vị ấy tập:
‚Cảm giác hỷ thọ tôi sẽ
thở vô‛,
vị ấy tập:
‚Cảm giác hỷ thọ
tôi sẽ thở ra‛.
6/ Vị ấy tập:
‚Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở vô‛ vị ấy tập:
‚Cảm giác lạc thọ tôi sẽ
thở ra‛.
7/ Vị ấy tập: ‚Cảm
giác tâm hành
tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập: ‚Cảm
giác tâm hành tôi sẽ thở ra‛.
8/ Vị ấy tập:
‚An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập: ‚An tịnh
tâm hành tôi sẽ thở ra‛.
9/ Vị ấy tập: ‚Cảm
giác về tâm
tôi sẽ thở vô‛, vị ấy tập: ‚Cảm
giác về tâm
tôi sẽ thở ra‛.
10/Vị ấy tập:
‚Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập:
‚Với tâm hân
hoan tôi sẽ thở ra‛.
11/Vị ấy tập:
‚Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập: ‚Với
tâm định tỉnh
tôi sẽ thở ra‛.
12/Vị ấy tập: ‚Với
tâm giải thoát
tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập: ‚Với
tâm giải thoát tôi sẽ thở ra‛.
13/Vị ấy tập:
‚Quán vô thường
tôi sẽ thở vô‛.Vị
ấy tập: ‚Quán
vô thường tôi sẽ
thở ra‛.
14/Vị ấy tập: ‚Quán
ly tham tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập:
‚Quán ly tham tôi sẽ thở
ra‛.
15/Vị ấy tập: ‚Quán
đoạn diệt tâm tham
tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập: ‚Quán đoạn diệt tâm tham tôi sẽ thở ra‛.
16/Vị ấy tập: ‚Quán
từ bỏ tâm sân tôi sẽ thở
vô‛. Vị ấy tập: ‚Quán
từ bỏ tâm sân tôi sẽ thở ra‛.
Đọc qua đoạn
kinh Nhập Tức Xuất Tức, chúng ta thấy
rõ cách thức
tu tập Định Niệm Hơi Thở của Phật dạy xả tâm, chứ
không có ức chế tâm, còn pháp Sổ Tức Quan và Lục Diệu Pháp Môn đều là pháp ức
chế tâm.
Cho nên
‚Quán ly tham,
quán đoạn diệt, quán
ly sân v.v..‛.
Đó là các vấn đề chánh để xả tâm còn hơi thở là vấn đề phụ
chỉ giúp cho tâm được tỉnh thức để xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi cho rốt ráo.
Người tu Định Niệm
Hơi Thở phải
biết chia ra nhiều giai
đoạn tu tập, để làm
cho Tứ Niệm Xứ được sung mãn.
Từ biết hơi thở vô, hơi thở ra, đến an tịnh
thân hành, tôi sẽ thở ra, đó là tập chánh niệm tỉnh giác để chế ngự tham ưu ở đời.
Đấy là giai đoạn một ‚tỉnh giác là
hàng đầu‛ trên thân quán thân, thân hành nội, tức là
hơi thở ra, vô.
Từ cảm
giác hỷ thọ đến ‚an tịnh
tâm hành tôi sẽ thở ra‛. Đó
là trên thọ quán thọ để
giúp cho sức tỉnh giác
cao hơn luôn ở trong chánh niệm, khắc phục được thọ, mà khắc phục được thọ
thì chế ngự được
tâm tham ưu ở đời.
Mà các
cảm thọ, tức
là hơi thở
vô, hơi thở
ra, tức là tu tập xả thọ (thọ lạc, thọ khổ, thọ bất
lạc bất
khổ). Đây là
giai đoạn hai
tu tập hơi thở xả tâm tham ưu khắc phục thọ.
Từ ‚cảm giác
tâm tôi sẽ thở vô
đến với tâm giải
thoát tôi sẽ thở ra‛ đó
là trên tâm quán tâm
dùng sức tỉnh
giác chánh niệm để
chế ngự tham ưu ở đời.
Một người
khéo tu tập hơi thở như vậy thì không thể thất niệm, không thể không có tỉnh
giác. Đó là cách thức quán tâm trên tâm để xả tâm tham,
sân, si (tham
ưu). Đây là giai
đoạn thứ ba của người tu thiền đạo
Phật xả tâm. Từ
‚quán vô thường
tôi sẽ thở vô đến quán từ bỏ tôi sẽ thở ra‛ đó
là quán pháp
trên các pháp để xả tâm
xa lìa các
pháp, chế ngự và
khắc phục tham
ưu ở đời. Do nhờ
tu tập như vậy,
mới đoạn trừ
tham ưu với trí tuệ
khéo nhìn sự vật
(các pháp) với
tâm xả ly.
Đây là giai đoạn
thứ tư tu về Định Niệm
Hơi Thở xả ly tâm
dục và ác
pháp khiến cho bốn
niệm xứ được viên mãn.
Trong bốn loại
định:
1/ Định Chánh
Niệm Tỉnh Giác,
tu tập theo hành động của ngoại
thân đều câu hữu với pháp hướng xả
tâm như lý
tác ý để
phá hôn trầm thùy miên vô ký.
2/ Định Niệm Hơi Thở, tu tập theo hành động nội
của thân cũng đều câu hữu với pháp hướng xả tâm như lý tác ý.
3/ Định Vô Lậu, quán xét tư duy cho thấu triệt các
pháp nội và ngoại, rồi
dùng pháp hướng xả tâm như lý tác
ý.
4/ Định Sáng
Suốt, là một loại định vừa thư
giãn, vừa xả
tâm bằng pháp
hướng thư
giãn.
Đều là bốn
pháp định xả tâm (ly dục ly ác pháp). Con nên nhớ kỹ ‚thiền của Phật là thiền xả
tâm‛. Đọc bài
kinh Nhập Tức, Xuất Tức chắc con đã rõ, không phải chỉ có Thầy
dạy thiền xả tâm
mà chính đức Phật đã dạy như
vậy. Thầy chỉ là người dạy lại lời của đức Phật
mà thôi.
Còn các
thiền của ngoại
đạo đều dạy ức
chế tâm, con hãy cố gắng tu cho đúng lời Phật dạy thì kết
quả ngay liền
có sự giải
thoát cụ thể giải thoát không phải
tu nhiều đời nhiều kiếp.
CẬN TỬ NGHIỆP
Câu hỏi của
Liễu Đức
Hỏi: Kính
thưa Thầy! Con đọc cuốn “Sống Và Chết” của dịch giả Thích Quang Phú, giáo sư Phật
học trường Quốc học Huế
nói về cận tử nghiệp của người bệnh
sắp chết qua đời:
1/ Khi người
bệnh tắt hơi thở cuối cùng là lúc các
hành trong thân đang tan rã, đau
đớn, nếu động vào
thân như thay
quần áo v.v.. làm cho người đó đau đớn hơn, nên sanh
lòng sân hận, khiến cho nghiệp
lực người đó
chuyển từ từ sang ác,
do đó sẽ bị đọa vào
sáu nẻo luân hồi (mặc dù người đó là tỳ kheo vẫn bị đọa).
Đáp: Cuốn sách ‚Sống Và Chết‛ của dịch giả
Thích Quang Phú dịch là cuốn tiểu luận cận tử nghiệp của kinh sách phát triển
luận theo cận tử nghiệp của ngoại đạo (Bà La Môn) nên không đúng với ý nghĩa của đạo Phật.
Kinh sách phát triển xây dựng cận tử nghiệp theo tưởng giải của tà giáo
ngoại đạo, không đúng sự thật, chỉ có những người không biết thì tin, còn những người
thông suốt kinh
sách Nguyên Thủy thì không thể
nào tin được.
Bài kinh Nhập
Tức Xuất Tức trong kinh Trung Bộ tập 3
trang 249, đức Phật đã dạy
và xác định rất rõ
ràng: ‚hơi thở vô, ra
còn là thân, thọ, tâm và pháp của chúng
sanh còn; hơi thở ra, vô dừng là thân,
thọ, tâm, pháp của chúng sanh dừng‛. Người nhập Tứ Thiền hơi thở ngưng nghỉ mà
thân, thọ, tâm, pháp không hoại diệt là nhờ sức thiền định. Người bình
thường không nhập
được Tứ Thiền khi hơi
thở ra vô ngưng
nghỉ thì thân, thọ, tâm, pháp của người ấy cũng ngưng nghỉ.
Như trong
kinh Phật dạy: Hành
đã diệt thì lấy gì thân còn hoạt
động, tâm thức đã mất thì lấy gì
còn biết
đau, thọ đã diệt
thì lấy gì mà đau, hơi thở tức là
hành diệt, thọ diệt, tâm diệt thì
thân lúc
bấy giờ như cục đá, gốc cây
còn biết gì
đau nhức, giận hờn. Cho nên, kinh sách ‚Sống
Và Chết‛ chỉ là tưởng giải của các nhà học
giả kinh sách
phát triển. Giáo
sư Quang Phú là một nhà học giả giảng theo kinh sách như vậy,
chứ Ngài cũng
không biết đúng, sai. Ngài giống như một con chim học
nói, xưa các Tổ nói
sao thì bây giờ Ngài
giảng lại như
vậy.
Khi hơi thở
dừng thì các hành trong thân đều dừng, các
hành trong thân đều dừng
thì thọ và tâm thức cũng dừng, mà thọ và tâm thức dừng thì còn biết đau,
biết nhức chỗ nào nữa đâu. Như vậy
là một kiếp
người đã hết rồi,
không còn nữa. Cho nên, kinh Sống Và Chết là loại kinh mê tín, loại kinh lừa đảo
người, lừa đảo tín đồ.
Cận tử nghiệp
chỉ là sự tưởng tượng của Tịnh Độ Tông để hộ niệm cho người sắp lâm chung, để
giúp cho người sắp chết bình tỉnh giữ được niệm Phật Di Đà, niệm Phật A Di Đà,
đó là một thiện niệm tốt nhất của pháp môn này.
Gốc nghiệp
là do hằng
ngày chúng ta huân tập nhân ác hoặc thiện, tới giờ sắp
chết muốn cho toàn thiện
thì không thể được.
Nếu hàng ngày huân điều thiện thì thói
quen thiện sẽ thể hiện
trước giờ lâm
chung cận tử nghiệp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!